Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Nâng cao khả năng hội nhập cho nền Kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.68 KB, 13 trang )

lời mở đầu
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong
những xu thế khách quan của sự phát triển kinh tế thế giới. Sự phát triển mạnh
mẽ về khoa học, công nghệ cùng với sự ra đời của các thể chế toàn cầu và khu
vực đã góp phần thúc đẩy quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới.
Quá trình toàn cầu hoá không chỉ trong lĩnh vực thơng mại mà còn cả
trong lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, tài chính, đầu t cũng nh các lĩnh vực văn hoá, xã
hội, môi trờng với các hình thức đa dạng và mức độ khác nhau.
Toàn cầu hoá kinh tế đã và đang mở ra những cơ hội và tạo điều kiện cho
các dân tộc trên thế giới khai thác tối đa những lợi thế so sánh của mình để tăng
trởng kinh tế và phát triển xã hội. Đồng thời quá trình toàn cầu hoá kinh tế cũng
đặt mỗi quốc gia, dân tộc trớc sức ép cạnh tranh và những thách thức gay gắt,
nhất là đối với các nớc đang phát triển. Vì thế để không bị gạt ra ngoài lề của sự
phát triển, các nớc đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung đó và tăng cờng
sức cạnh tranh kinh tế .
Hơn lúc nào hết quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế không
chỉ là sự quan tâm của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức mà còn đối với mỗi cá nhân
chúng ta. Chúng ta đã trải qua 17 năm thực hiện đờng lối mở cửa, đổi mới và hội
nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Với phơng châm "đa dạng hoá, đa ph-
ơng hoá quan hệ" và "sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nớc trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Việt Nam đã
thiết lập các quan hệ thơng mại, đầu t, dịch vụ và khoa học kỹ thuật với tất cả
các nớc, tích cực tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực.
Vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế nớc ta hiện nay đang
là vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng.
Có rất nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu và các chuyên gia đầu ngành
trong nớc và ngoài nớc đề cập đến vấn đề này. Đây là vấn đề rộng lớn và phức
tạp, có cả những nhận thức và quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Thông qua những tài liệu tham khảo cùng với những kiến thức đã đợc lĩnh
hội trong nhà trờng, trong khuôn khổ báo cáo của mình, em xin phép đợc trình
bày tóm tắt về đề tài: "Nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế Việt Nam


trong xu thế toàn cầu hoá". Nội dung của báo cáo đợc trình bày trong 3 chơng
Chơng I: Khái quát về toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Những kinh
nghiệm thực tiễn về nâng cao khả năng hội nhập của một số n-
ớc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1
Chơng II: Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Những vấn đề
đặt ra.
Chơng III: Mục tiêu, phơng hớng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế Việt Nam.
2
chơng i
khái quát về toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và kinh
nghiệm thực tiễn về nâng cao khả năng hội nhập của một
số nớc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
I. nhận thức về toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
1. Nhận thức chung về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế .
a) Toàn cầu hoá.
Ngày nay toàn cầu hoá mà trớc hết và về thực chất là toàn cầu hoá kinh tế
đang trở thành một xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế hiện đại. Hiện nay tuy có
rất nhiều những quan niệm không giống nhau về toàn cầu hoá kinh tế nhng có
thể thấy nét chung nhất là thừa nhận mối quan hệ qua lại của các hoạt động kinh
tế hiện nay đã bao trùm gần nh tất cả các nớc, mang tính toàn cầu. Có thể hiểu
toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát triển kinh tế của các nớc trên thế giới vợt
qua khỏi biên giới quốc gia, hớng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực lợng sản
xuất cũng nh trình độ khoa học kỹ thuật mạnh mẽ và sự phân công hợp tác quốc
tế ngày càng sâu rộng, tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày càng tăng.
Mặc dù vậy, toàn cầu hoá kinh tế vẫn ở trong giai đoạn đầu. Lĩnh vực the
chốt hợp tác toàn cầu hoá kinh tế vẫn chỉ là mậu dịch, tự do lu thông nguồn vốn
và sức lao động còn là vấn đề trong tơng lai.
b) Hội nhập quốc tế.

Hiện nay ngời ta đều thấy rằng nhận thức về hội nhập vẫn là một vấn đề
thời sự. Các nớc đều khẳng định cần xây dựng nhận thức thống nhất trong nội bộ
rằng hội nhập là cần thiêts, phù hợp với xu thế chung, nhất là tham gia WTO sẽ
tạo thuận lợi cho sự phát triển của đất nớc.
- Hội nhập là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là
mở cửa kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nớc và quốc tế,
mở rộng không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong
quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu nội
tại của sự phát triển kinh tế mỗi nớc.
- Các nớc đều không thể né tránh việc hội nhập mà vấn đề then chốt là
phải đề ra đợc những chính sách, biện pháp đúng để hạn chế trả giá ở mức thấp
nhất và tranh thủ cao nhất những cơ hội phát triển.
- Hội nhập thực chất là tham gia cạnh tranh trên quốc tế và ngay trong thị
trờng nội địa. Để hội nhập có hiệu quả phải ra sức tăng cờng nội lực, cải cách
3
và điều chỉnh cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế
trong nớc để phù hợp với "luật chơi chung" của quốc tế.
Chính sách hội nhập phải dựa và gắn chặt với chiến lợc phát triển của đất
nớc, đồng thời cải cách kinh tế, hành chính phải gắn chặt với yêu cầu của quá
trình hội nhập. Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả hội nhập,
đồng thời hội nhập sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải cách trong nớc, qua đó
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế .
- Hội nhập không phải để đợc hởng u đãi, nhân nhợng đặc biệt mà nhằm
mở rộng các cơ hội kinh doanh , thâm nhập thị trờng, có môi trờng pháp lý và
kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập, không bị
phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính trị hay những lý do khác cản trở
việc giao lu hàng hoá, dịch vụ và đầu t. Các nớc có thể sử dụng những luật lệ,
quy định, cơ chế giải quyết tranh chấp của các thể chế hội nhập để bảo vệ lợi
ích chính đáng của mình.
- Tăng cờng thông tin, tuyên truyền, giải thích để giới kinh doanh nhận

thức sâu sắc và ủng hộ hội nhập, chuẩn bị tốt mọi mặt để chủ động hội nhập
từng bớc, tận dụng những lợi thế so sánh của mỗi nớc để cạnh tranh chiếm lĩnh
thị trờng.
Nhận thức đúng về hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế đối với các nớc có ý
nghĩa quan trọng trong việc hoạch định đờng lối, chủ trơng, chính sách và giải
pháp để chủ động hội nhập và tham gia giải quyết các vấn đề mang tính toàn
cầu nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội.
2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, thời cơ và thách thức.
a) Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những lợi ích.
Toàn cầu hoá là xu hớng tất yếu của quá trình tập trung, chuyên môn sản
xuất và phân công lao động quốc tế. Khi nền kinh tế thế giới phát triển thành
một thị trờng thống nhất thì không một quốc gia nào có thể đứng ngoài tiến
trình này mà có thể tồn tại và phát triển đợc.
Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy rất mạnh, nhanh sự phát triển và xã hội
hoá lực lợng sản xuất, đa tốc độ tăng trởng kinh tế cao. Toàn cầu hoá kinh tế
góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt làm tăng mạnh tỷ
trọng hàng chế tác (chiếm 21,4%) và các dịch vụ (62,4%) trong cơ cấu kinh tế
thế giới.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đợc thể hiện rõ trong sự hình thành và gia
tăng rất nhanh trao đổi quốc tế về hàng hoá, dịch vụ, tài chính và các yếu tố sản
4
xuất, đợc thể hiện qua sự hình thành và củng cố của các tổ chức kinh tế quốc tế
và khu vực.
Toàn cầu hoá làm tăng thêm sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau giữa các
nền kinh tế các nớc. Toàn cầu hoá kinh tế làm cho kinh tế ở mỗi nớc có thể trở
thành bộ phận của các tổng thể, hình thành cục diện kinh tế thế giới mới. Toàn
cầu hoá kinh tế cũng làm giảm thiểu các chớng ngại trong việc lu chuyển vốn,
hàng hoá, dịch vụ, nguồn nhân lực giữa các nền kinh tế các nớc, làm tăng vai
trò kinh tế đối ngoại, mậu dịch và đầu t nớc ngoài đối với sự phát triển kinh tế
mỗi nớc.

Toàn cầu hoá truyền bá và chuyển giao trên quy mô càng lớn những
thành quả mới về khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lý, về sản xuất
kinh doanh dọn đờng cho công nghệ hoá, hiện đại hoá.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau và
cùng nhằm mục tiêu thúc đẩy trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động. Liên
kết khu vực vừa củng cố quá trình toàn cầu hoá, vừa giúp các nớc trong từng
khu vực bảo vệ lợi ích của mình. Mặt khác, toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng làm
cho sự cạnh tranh giữa các thực thể kinh tế trở nên gay gắt cha từng có.
Toàn cầu hoá đã và đang mang lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế
thế giới và cho mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập:
- Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy
việc tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ đợc lợi ích của việc
phân bổ nguồn tài lực hợp lý trên bình diện quốc tế để từ đó phát huy cao độ
nhân tố sản xuất hữu dụng của từng quốc gia.
- Tự do luân chuyển hàng hoá, dịch vụ và vốn với việc giảm hoặc xoá bỏ
hàng rào thuế quan, đơn giản hoá thủ tục, cắt giảm kiểm soát hành chính sẽ góp
phần giảm chi phí sản xuất, giảm thất nghiệp và tăng thêm lợi ích cho ngời tiêu
dùng.
- Tạo ra nhiều cơ hội đầu t mới, tăng nhanh vòng quay vốn và tạo điều
kiện để đa dạng hoá các loại hình đầu t, nâng cao hiệu quả, hạn chế rủi ro đầu
t.
- Thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, chuyển giao vốn, kỹ năng
quản lý, qua đó mở rộng địa bàn đầu t cho các nớc, đồng thời giúp các nớc tiếp
nhận đầu t có thêm nhiều cơ hội phát triển.
b) Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những thách thức.
5
- Sự bất ổn định của thị trờng tài chính quốc tế. Nguồn tài chính đợc
phân bố không đồng đều, tập trung vào một số trung tâm tài chính lớn là các n-
ớc công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới . Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá
càng làm cho dòng vốn chảy mạnh hơn và tất yếu rủi ro sẽ lớn hơn.

- Khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, các nớc nhất là các nớc
đang phát triển phải giảm dần thuế quan và bỏ hàng rào phi thuế quan, nghĩa là
bỏ hàng rào mậu dịch, thì các hàng hoá dịch vụ nớc ngoài sẽ ồ ạt đổ vào, bóp
chết hoạt động sản xuất kinh doanh trong nớc.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển đã làm tan vỡ các hàng rào bảo hộ của
các quốc gia. Do vậy các quốc gia không chỉ chịu tác động tích cực của quá
trình này mà còn phải chịu cả những chấn động của hệ thống kinh tế toàn cầu
trong các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, nguyên nhiên liệu Các nớc càng yếu kém,
các chính sách kinh tế vĩ mô càng không đủ thông thoáng phù hợp với các định
chế quốc tế, hệ thống ngân hàng - tài chính càng lạc hậu thì càng chịu tác
động nặng nề hơn.
- Nguy cơ tụt hậu của một số quốc gia. Trong quá trình hội nhập một số
quốc gia tranh thủ đợc lợi ích của hội nhập mậu dịch quốc tế và thị trờng tài
chính quốc tế, phát huy đợc lợi thế so sánh, nhờ đó thúc đẩy tăng trởng mở
rộng thơng mại, thu hẹp dần khoảng cách với các nớc phát triển thì một số nớc
khác lại không có khả năng hội nhập vào quá trình phát triển thơng mại, thu hút
vốn đầu t tất yếu sẽ bị đẩy lùi xa hơn nữa về phía sau.
- Mối đe doạ của quá trình toàn cầu hoá là xu hớng hình thành thế độc
quyền, tập trung quyền lực vào một số tập đoàn đầu sỏ quốc tế.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển không chỉ có các lực lợng kinh tế tiến
bộ tham gia vào quá trình này mà còn có cả các thế lực phản động, các tổ chức
khủng bố Chính sách đúng đắn là phải ngăn chặn, chống lại mọi hoạt động
phá hoại. Nhng không thể vì nó mà đóng cửa đất nớc hay hạn chế sự hội nhập
của đất nớc vào quá trình toàn cầu hoá.
Ngoài ra còn có những mặt tiêu cực khác nữa nh sự chênh lệch về trình
độ giữa nớc giàu và nớc nghèo có thể tăng lên, sự xung đột giữa các nền văn
học
Quá trình toàn cầuhoá và hội nhập kinh tế quốc tế đem đến cho các nớc
những cơ hội thuận lợi lớn đồng thời cũng đứng trớc những khó khăn thách
thức nghiêm trọng. Song những tác động tiêu cực này có thể lớn nhỏ đến đâu

điều đó lại tuỳ thuộc vào chính sách hội nhập quốc tế của các quốc gia. Một
6
chính sách hội nhập quốc tế đúng đắn và thích hợp thì tác động của quá trình
này sẽ bị hạn chế và ngợc lại.
II. kinh nghiệm hội nhập của các nớc đang phát triển.
1. Về vấn đề cải cách cơ chế.
Phần lớn các nớc khi hội nhập đều đã có cơ chế kinh tế thị trờng và hiện
nay chú trọng hoàn thiện nó cho phù hợp hơn với luật lệ và thực tiễn của các
thể chế hội nhập. Giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của Nhà nớc vào lĩnh vực kinh
doanh để tập trung vào việc tạo môi trờng chính sách, pháp lý và hệ thống kinh
tế vĩ mô nhằm đảm bảo cho sản xuất, kinh doanh thông thoáng và hiệu quả.
Đối với các nớc đang chuyển sang kinh tế thị trờng thì càng phải đẩy mạnh quá
trình này để bắt kịp xu thế của thế giới và hội nhập có hiệu quả.
Việc cải cách và hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành kinh tế trong bối
cảnh toàn cầu hoá, tự do hoá cũng đợc các nớc hết sức quan tâm mặc dù họ đều
đã có quá trình xây dựng và điều chỉnh cơ chế trong nhiều năm cùng với quá
trình tham gia các khuôn khổ hội nhập. Trong khi thúc đẩy sự vận động của các
lực lợng thị trờng, đẩy mạnh tự do hoá và thuận lợi hoá thơng mại, dịch vụ và
đầu t, các nớc vẫn quan tâm đến việc hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành
nền kinh tế, cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, quản lý ngoại hối
Cuộc khủng hoảng tiền tệ 1997 vừa qua cho thấy trong bối cảnh toàn cầu
hoá, tự do hoá, vấn đề quản lý, điều hành quá trình hội nhập càng đợc chú ý
hoàn thiện hơn, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ là nơi dễ phát sinh
những biến động và những nhân tố gây mất ổn định kinh tế.
2. Về vấn đề cải cách chính sách và hệ thống kinh tế vĩ mô.
Đây là vấn đề nớc nào cũng phải giải quyết nhất là đối với các nớc mới
bắt đầu vào quá trình hội nhập và đang chuyển sang kinh tế thị trờng.
Trong nội bộ các nớc đều có cuộc đấu tranh gay gắt về chính sách giữa
xu hớng bảo hộ với xu hớng hội nhạap, giữa lợi ích của ngời sản xuất và ngời
tiêu dùng, giữa yêu cầu tăng nguồn thu ngân sách qua thuế nhập khẩu và xu h -

ớng tự do hoá, thuận lợi hoá mậu dịch.
Theo kinh nghiệm các nớc, cuộc đấu tranh nội bộ thờng khá gay gắt vì
phải dàn xếp các vấn đề thuộc lợi ích cục bộ và sự phối hợp giữa các ngành
trong nớc thờng rất khó khăn. Do đó để có đợc sự cải cách, điều chỉnh chính
sách và các vấn đề kinh tế vĩ mô nh giá cả, thuế suất, tỷ giá hối đoái cũng cần
phải có quyết tâm chính trị.
7
Mỗi thể chế hội nhập đều có chơng trình, mục tiêu riêng đòi hỏi các
thành viên phải điều chỉnh chính sách để thực hiện chúng. AFTA đề ra mục tiêu
thực hiện thơng mại tự do vào năm 2003. WTO cũng có những thời biểu riêng
thực hiện giảm thuế quan và loại bỏ các biện pháp phi thuế quan
Phải triệt để tận dụng những u đãi tơng tự mà các thể chế hội nhập quy
định để có thể từng bớc điều chỉnh chính sách và các vấn đề kinh tế vĩ mô cho
phù hợp và hiệu quả, tránh gây khó khăn hoặc làm mất ổn định nền kinh tế.
Về phơng tiện vĩ mô cần phải đảm bảo sự cân bằng hài hoà về 3 mối
quan hệ: giữa quyền lợi và nghĩa vụ của một nớc trong các thể chế hội nhập;
giữa mục tiêu kinh tế - xã hội trong nớc với những yêu cầu và đòi hỏi của bên
ngoài; giữa các vấn đề kinh tế và thơng mại với các lĩnh vực khác để quá trình
hội nhập diễn ra thuận lợi và hiệu quả.
3. Về vấn đề cải cách luật lệ, quy chế.
Cải cách về luật pháp, quy chế, quy định đều đợc các nớc, kể cả các nớc
phát triển coi là một trong những lĩnh vực khó khăn, phức tạp và cần rất nhiều
thời gian, công sức.
Đối với những nớc đang chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, khép
kín và tự cung tự cấp sang cơ chế thị trờng, mở cửa và hội nhập thì khoảng cách
giữa luật lệ của những nớc này với luật lệ quốc tế càng lớn và việc điều chỉnh
cho phù hợp với luật quốc tế và quy định của các thể chế hội nhập mà họ tham
gia càng là đòi hỏi to lớn và cấp bách.
Một vấn đề quan trọng của tự do hoá, thuận lợi hoá thơng mại là loạibỏ
hàng rào phi thuế quan. Các nớc thờng áp dụng một số biện pháp phi thuế quan

nhất là các nớc đang phát triển nhằm bảo vệ một số ngành sản xuất trong nớc bị
tác động mạnh trong quá trình hội nhập. Một số biện pháp đợc áp dụng mà
không trái với luật quốc tế: thủ tục giám định hàng hoá nhập khẩu, áp dụng chế
độ cấp giấy phép đặc biệt.
Ngoài ra, đối với những ngành bị ảnh hởng lớn do quá trình mở cửa, tự
do hoá các nớc có thể quy định các biện háp trợ cấp hoặc hỗ trợ tạm thời, kể cả
bằng biện pháp cấp tín dụng u đãi để giúp họ tiếp tục sản xuất, kinh doanh.
4. Về vấn đề cải cách thực tiễn, tập quán sản xuất kinh doanh.
Cải cách thực tiễn và tập quán hoạt động kinh tế, kinh doanh của các nớc
phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế cũng nh các thể chế mà mình tham
gia là một trong những yêu cầu quan trọng của quá trình hội nhập. Các nớc
8
phải tiến hành rà soát lại hàng loạt biện pháp, tập quán hiện hành và điều chỉnh,
đổi mới chúng cho phù hợp.
Kinh nghiệm một số nớc đang phát triển và đang chuyển đổi kinh tế cho
thấy việc đạt đợc thay đổi t duy nhanh chóng theo hớng mở cửa, tự do hoá là rất
khó khăn. Trong giai đoạn chuyển tiếp, Chính phủ các nớc đó thờng có những
chính sách và biện pháp hỗ trợ các ngành và các doanh nghiệp bị ảnh hởng lớn,
giúp cho quá trình thay đổi diễn ra từng bớc, nhẹ nhàng. Trong quá trình hội
nhập, một số ngành và doanh nghiệp có thể sẽ chịu thua thiệt thất bại, nh ng
cũng có nhiều ngành và doanh nghiệp khác sẽ tăng cờng đợc năng lực để có thể
cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển chung của toàn nền kinh tế.
Đồng thời, cần làm cho giới doanh nghiệp nhận rõ và chuyển từ thói
quen sản xuất những gì mình có thể sản xuất sang sản xuất những gì mà thị
trờng cần. Các nớc đều nhận thức rõ là thị trờng trong nớc rất hạn chế, do đó
cần vơn ra thị trờng quốc tế, sản xuất các mặt hàng có nhu cầu lớn trên thị tr-
ờng và phải tạo mọi điều kiện để chiếm lĩnh thị trờng, vì điều đó sẽ quyết định
sự tồn tại của chính mình.
5. Về vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Mỗi nớc đều tác động để mở cửa thị trờng nớc khác cho hàng hoá, dịch

vụ và đầu t của mình, đồng thời chịu sức ép mở cửa thị trờng nội địa. Điều này
ảnh hởng trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các nớc thờng gắn
kết chiến lợc phát triển và bớc đi của mình với các mục tiêu và lộ trình của các
khuôn khổ hợp tác kinh tế tay đôi, tiểu khu vực, liên châu lục và toàn cầu, sao
cho các cam kết, thoả thuận trong các khuôn khổ hợp tác đó hài hoà, không
mâu thuẫn với nhau.
Xây dựng một cơ cấu kinh tế phù hợp, năng động và hiệu quả nhất có
thể, với khả năng thích ứng cao và đứng vững trong cạnh tranh toàn cầu là vấn
đề cốt yếu mà các nớc phải phấn đấu trong quá trình hội nhập.
Trong những cố gắng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các nớc đều phải cân
nhắc lựa chọn những ngành mình có thế mạnh để mở cửa tham gia cạnh tranh ,
đồng thời xác định những ngành và lĩnh vực cần tập trung củng cố để có thể
cạnh tranh đợc trong tơng lai; đồng thời cũng thực hiện những biện pháp bảo hộ
hợp pháp và tạm thời đối với những ngành hiện cha có khả năng cạnh tranh.
Đối với các nớc do khu vực kinh tế Nhà nớc tơng đối lớn và đang chuyển
sang cơ chế kinh tế thị trờng, quá trình hội nhập sẽ tác động mạnh đến các đơn
9
vị kinh tế quốc doanh, đặt nó trớc những thách thức to lớn. Vấn đề ở đây là làm
sao tăng cờng đợc nội lực và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nớc.
6. Về vấn đề đào tạo cán bộ.
Nội dung tham gia của các nớc trong các thể chế hội nhập là rất phong
phú, sâu rộng và phức tạp, trong đó có những nội dung đã đợc các nớc thơng l-
ợng hoặc thực hiện hàng chục năm qua và cũng có nhiều vấn đề đợc đa ra để
thơng lợng trong thời gian tới. Mặt khác, những khác biệt trong cơ chế, chính
sách, luật lệ, thực tiễn kinh tế của phần lớn các nớc so với luật pháp và thực tế
quốc tế đòi hỏi các nớc phải giải quyết những công việc rất lớn. Vì vậy mà đào
tạo đội ngũ cán bộ có đủ số lợng và năng lực, bố trí hợp lý tại các cơ quan quản
lý trong nớc cũng nh tham gia các đoàn đàm phán là một đòi hỏi gấp rút đều
với tất cả các nớc, nhất là các nớc đang phát triển.
Trong việc đào tạo cán bộ cần tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật của các nớc,

các tổ chức quốc tế nh UNCTAD, ESCAP, ban th ký của các thể chế hội nhập
nhất là WTO, ASEAN, APEC.
7. Kinh nghiệm của các nớc đang phát triển trong đàm phán gia
nhập WTO.
- Vận dung khéo léo các quy chế, quy định của WTO dành cho các nớc
đang phát triển để đạt đợc những điều kiện thuận lợi nhất trong việc tham gia
WTO.
- Nên tính thật kỹ để đa vào đàm phán những lĩnh vực mạnh và quan tâm
nhất của mình, đồng thời cân nhắc về mức độ cam kết, hạn chế cam kết mở cửa
quá những lĩnh vực mà mình còn yếu hoặc nhạy cảm. Đây là một trong những
vấn đề hệ trọng nhất vì nó tác động rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của nhiều
ngành sản xuất và hàng loạt doanh nghiệp trong nớc, ảnh hởng đến đời sống
nhân dân và an toàn xã hội.
- Trong đàm phán song phơng với các nớc phát triển, các nớc đang phát
triển nên có quan điểm toàn cục, có thể linh hoạt nhân nhợng ở những lĩnh vực
không thật thiết yếu để đạt đợc lợi ích tổng thể. Phải có sự chuẩn bị và phối hợp
tốt giữa các ngành trong nớc để thống nhất lập trờng trớc khi đàm phán. Đồng
thời, cần tham khảo rộng ý kiến giới doanh nghiệp trong nớc về những cam kết,
lộ trình sẽ đa ra đàm phán và thực hiện trong các thể chế hội nhập.
- Cần có sự phối hợp hài hoà về nội dung và mức độ của những cam kết
của một nớc khi nớc đó tham gia những thể chế hội nhập khác nhau.
10
- Nớc nhỏ nên tranh thủ các tổ chức mà mình tham gia để tăng khả năng
và vị thế của mình trong đàm phán.
- Tranh thủ sự đào tạo cán bộ chuyên trách về hội nhập và sự hỗ trợ kỹ
thuật của ban th ký WTO cũng nh các thành viên quan trọng của tổ chức này.
8. Đối với Việt Nam, hội nhập là một việc còn mới và có nhiều khó
khăn, phức tạp. Việc tham khảo kinh nghiệm các nớc cần đợc xem xét, tính
toán kỹ lỡng, phải xuất phát từ trình độ phát triển và điều kiện của Việt Nam là
một nớc đang phát triển có thu nhập đầu ngời rất thấp, đang chuyển sang cơ

chế kinh tế thị trờng và bớc đầu hội nhập. Cần tận dụng mọi u đãi mà các thể
chế hội nhập dành cho một nớc có trình độ phát triển và điều kiện tơng tự nh ta
để đảm bảo sự an toàn và những cơ hội cho phát triển kinh tế. Đồng thời dựa
vào những yêu cầu và nội dung hoạt động của các thể chế hội nhập cũng nh
luật háp và thực tiễn quốc tế để vơn mạnh lên, rút ngắn dần khoảng cách về
phát triển giữa nớc ta với các nớc khác.
11
chơng ii
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam:
những vấn đề đặt ra
I. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
1. Yêu cầu hội nhập quốc tế.
Việt Nam chúng ta thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc trùng
với thời điểm trên thế giới đang diễn ra những thay đổi to lớn về chính trị và
kinh tế. Hoà bình, hợp tác, phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của
các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Các nớc đều u tiên phát triển kinh tế, cần
có môi trờng hoà bình, ổn định và thực hiện chính sách mở cửa.
Không một quốc gia nào có thể phát triển trong một thế giới ngày càng
đợc toàn cầu hoá mà không lỗ lực hội nhập vào xu thế chung, điều chỉnh chính
sách, giảm dần hàng rào thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, làm cho
việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động, công nghệ và kỹ thuật trên
phạm vi thế giới ngày càng thông thoáng hơn. Việt Nam cũng không phải là
ngoại lệ. Vấn đề là phải hội nhập nh thế nào và tiến trình hội nhập ra sao cho
phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện phát triển của mình. Ngay từ đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đã khởi xớng công cuộc đổi mới mà
quan trọng là mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế. Đại hội VII (1992), đại hội
(1990) tiếp tục đờng lối đa dạng hoá, đa phơng hoá các mối quan hệ. Đại hội
IX (2000) Đảng và Nhà nớc càng nhấn mạnh tinh thần: Việt Nam sẵn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy của các nớc trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển.

Chủ trơng này đã tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của
ta, đẩy mạnh quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực
vào đời sống của cộng đồng quốc tế.
Chúng ta cũng nhận thức rõ hội nhập kinh tế quốc tế là việc một quốc gia
thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia vào các định chế tài chính, kinh tế,
thơng mại quốc tế, mở rộng hợp tác kinh tế với bên ngoài, thực hiện tự do hoá
và thuận lợi hoá thơng mại, đầu t. Tham gia hội nhập quốc tế thực chất là tham
gia cuộc đấu tranh phc tạp để góp phần phát triển kinh tế và củng cố an ninh,
chính trị, độc lập kinh tế và bản sắc dân tộc của mỗi nớc thông qua việc thiết
lập các mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau, đan xen, nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc
với các quốc gia khác.
12
Chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nớc, phục
vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, thực hiện dân giàu, nớc
mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
2. Các bớc tiến hành.
Chính sách hội nhập quốc tế từng bớc đợc hình thành trong quá trình
triển khai đờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phơng hoá, đa dạng hoá của đại
hội đại biểu toàn quốc VII (1992) giữ vững và phát huy tinh thần độc lập, tự
chủ, xây dựng một nền kinh tế mở và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới.
Nguyên tắc hội nhập của Đảng ta là trên cơ sở phát huy nội lực, thực
hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài, tích cực và
chủ động thâm nhập và mở rộng thị trờng quốc tế, khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi cho xuất khẩu. Hội nhập nhng phải giữ độc lập,tự chủ, tự lực tự
cờng, bảo đảm an ninh quốc gia, ổn định chính trị - xã hội, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc và định hớng xã hội chủ nghĩa.
13

×