Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận môn Tài chính quốc tế đề tài THỐNG NHẤT TIỀN TỆ CHÂU Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.49 KB, 17 trang )

CHƯƠNG I. MỤC ĐÍCH THỐNG NHẤT TIỀN TỆ CHÂU Á
I. Mục đích
1. Các yếu tố sản xuất được phân bổ hiệu quả.
Các yếu tố sản xuất của một nền kinh tế bao gồm có : vốn, lao động, tài
nguyên và khoa học công nghệ, trong đó 2 yếu tố quan trọng nhất là vốn và lao
động. Việc sử dụng hiệu quả hai yếu tố sản xuất này sẽ thúc đẩy và làm gia tăng
năng lực sản xuất của mỗi quốc gia nói riêng và toàn bộ khu vực nói chung.
Khi sử dụng chung một đồng tiền và đi cùng đó là một chính sách tiền tệ
thống nhất, các biện pháp kiểm soát chu chuyển vốn và phân biệt đối xử vốn tài
chính giữa các quốc gia sẽ được hạn chế, đồng thời các biện pháp kiểm soát tỷ giá
cũng như sự biến động tỷ giá bị xóa bỏ. Nhờ vậy mà nguồn vốn sẽ được phân bổ
hiệu quả hơn nhiều trong nội bộ các nước.
Đồng thời, khi lương và thu nhập được tính bằng đồng tiền chung, lao động
cũng được phân bổ hiệu quả hơn vì có thể tự do di chuyển từ khu vực có năng suất
lao động thấp đến khu vực có năng suất lao động cao.
2 . Thiết lập một đồng tiền chung giúp ổn định tỷ giá và nhu cầu dự trữ ngoại
hối được cải thiện
Ổn định tỷ giá để ổn định giá cả, phát triển kinh tế. Nếu nỗ lực ổn định một
mình cần dự trữ ngoại tệ nhiều, có thể gặp nhiều khó khăn trong quá trình điều tiết.
Khi thống nhất tiền tệ các nước với nhau thì công việc này có cả các nước khác
cùng tham gia nên sẽ dễ dàng hơn.
Mặt khác, nó cũng khắc phục được những hạn chế của chế độ tỷ giá cố định
hay thả nổi mà các nước Đông Nam Á hiện nay đang sử dụng. Chế độ tỷ giá cố định
giúp cho các nước ổn định giá cả, tránh rủi ro tỷ giá nên thu hút vốn đầu tư nước
ngoài nhưng nó cũng có thể làm giảm sức cạnh tranh với các nước khác trong thị
trường xuất khẩu.Cố định tỷ giá bằng đô la, khi đô la tăng giá làm đồng tiền của
mình bị đánh giá cao hơn giá trị thực tế (đồng tiền mình cũng tăng giá) thì bị giảm
xuất khẩu, tăng thâm hụt tài khoản vãng lai. Chế độ thả nổi giúp đánh giá đúng giá
trị đồng tiền theo qui luật cung cầu nhưng tỷ giá dao động mạnh, dễ biến động theo
nhiều yếu tố gây khó khăn trong việc kiểm soát giá cả, có thể gặp nhiều bất lợi. Khi
sử dụng đồng tiền chung, không cần thiết phải neo giá theo đồng tiền theo đồng tiền


lớn khác mà sử dụng trực tiếp đồng tiền chung này, các nước cùng nhau điều hành
chính sách tỷ giá nên khắc phục được hạn chế hai chế độ tỷ giá kia
Bên cạnh đó, khi đồng tiền chung ra đời các nước thực hiện thống nhất tiền tệ
sẽ cắt giảm giảm được số dự trữ ngoại hối dùng để giao dịch. Hơn nữa so với các
đồng tiền có mức hoạt động riêng lẻ thì đồng tiền chung có xu hướng biến động ít
hơn do trung bình của nền kinh tế được tính chung bằng một đồng tiền thường ổn
định hơn so với từng nền kinh tế đơn lẻ đối với đồng tiền riêng của mình, vì vậy nhu
cầu dự trữ ngoại hối đối với các nước sử dụng đồng tiền chung giảm xuống.
3. Không còn việc đấu tranh thương mại giữa các nước trong khu vực, các
nước cùng hỗ trợ, giúp đỡ nhau vì lợi ích chung của khu vực.
Nếu không có sự hợp tác tiền tệ:
• Khủng hoảng dễ lây lan ra các nước trong khu vực.
Khủng hoảng kinh tế ở Thái lan 1997 là ví dụ điển hình cho vấn đề này. Khi
khủng hoảng kinh tế xảy ra, nhanh chóng lây lan sang các nước khác trong khu vực
và do đó ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh tế của khu vực. Do đó mục đích
của hợp tác tiền tệ giúp các quốc gia trong khu vuẹc cùng bắt tay và xây dựng chính
sách phòng ngừa và hạn chế khủng hoảng kinh tế.
• Cạnh tranh kinh tế giữa các nước có thể gây khó khăn cho sự phát triển ổn
định của từng nước cũng như khu vực.
Gần đây các nước ASEAN tăng tỷ lệ thương mại nội bộ và cũng do các sản
phẩm xuất khẩu của họ thường cạnh tranh với nhau trên các thị trường thứ ba. Điều
này khiến cho một số nước có động cơ để phá giá nhằm tăng khả năng cạnh tranh.
Do đó thay vì phá giá để tăng khả năng cạnh tranh cho riêng hàng hoá nước mình,
một cơ chế phối hợp tỷ giá hối đoái trong khu vực có thể sẽ mang lại thế cân bằng
hợp tác tốt hơn và đem lại lợi ích cho cả hai bên
• Khó tiếp cận với nguồn vốn các nước khác khi gặp khó khăn.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 đã cho thấy rằng các cơ chế quốc tế để
hỗ trợ tài chính hiện có (do IMF phối hợp) là không đủ đối với các nước. Các nguồn
vốn do IMF nỗ lực cung cấp chưa đủ về quy mô, tốc độ giải ngân quá chậm và
thường đi kèm với những điều kiện kinh tế vĩ mô không phù hợp với hoàn cảnh cụ

thể của các quốc gia bị khủng hoảng. Sau cuộc khủng hoảng, một số nước ASEAN
đã chuẩn bị để đối phó với các cuộc tấn công của giới đầu cơ trong tương lai bằng
cách tích luỹ các nguồn dự trữ ngoại tệ lớn. Nhưng việc tích luỹ dự trữ như vậy là
một việc làm rất tốn kém và các nước ASEAN cho rằng tốt hơn là họ nên tiết kiệm
các nguồn vốn đó bằng cách kết hợp các quỹ dự trữ của các nước trong khu vực với
nhau.
Như vậy mục đích của việc thống nhất tiền tệ là các nước trong khu vực cùng sử
dụng một đồng tiền chung, giúp ổn định tỷ giá, các luồng vốn di chuyển một cách
hiệu quả, hạn chế sự cạnh tranh về thương mại và tăng tính đoàn kết nội bộ trong
khu vực Asean.
II. Lộ trình tiến tới thống nhất tiền tệ Đông Nam Á
1.Giai đoạn 1 từ năm 1967-đến 1991
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (tiếng Anh: Association of Southeast Asian
Nations, viết tắt là ASEAN) là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội
của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8
tháng 8 năm 1967 với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia,
Singapore, và Philippines, để tỏ rõ tình đoàn kết giữa các nước trong cùng khu vực
với nhau, đồng thời hợp tác chống tình trạng bạo động và bất ổn tại những nước
thành viên.
Sau Hội nghị Bali năm 1976, tổ chức này bắt đầu chương trình cộng tác kinh tế,
nhưng các hợp tác bị thất bại vào giữa thập niên 1980. Hợp tác kinh tế chỉ thành
công lại khi Thái Lan đề nghị khu vực thương mại tự do năm 1991. Hàng năm, các
nước thành viên đều luân phiên tổ chức các cuộc hội họp chính thức để trao đổi hợp
tác. Đến năm 1999, ASEAN gồm 10 thành viên ( Đông Timo chưa kết nạp).
Năm 1992 thành lập khu vực thương mại tự do Asean (viết tắt là AFTA) với việc
cam kết xóa bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tạo khối thị trường thống
nhất.
2.Giai đoạn 2 từ năm 1992-đến năm 2005
Cuộc khủng hoảng năm 1997-1998 đã ảnh hưởng nặng nề đến các nước trong khu
vực Đông Nam Á.

Năm 2001 sáng kiến Chiang Mai ( Thái Lan) ra đời đã tạo nên những hướng đi mới,
sáng kiến gồm hai nội dung chính :
Thứ nhất là thành lập mạng lưới hỗ trợ tài chính giữa các nước ASEAN
Thứ hai là xây dựng hệ thống giúp đỡ lẫn nhau mang tính song phương, giữa mỗi
quốc gia Asean và ba nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Từ năm 1999 đến 2005 các nước trong khu vực tiếp tục lộ trình cắt giảm hàng rào
thuế quan và phi thuế quan.
3.Giai đoạn 2005-2011
Ra đời của khu vực đầu tư ASEAN (AIA) sẽ thúc đẩy hơn nữa tiến trình hợp nhất
kinh tế giữa các quốc gia thành viên bằng cách đẩy mạnh đầu tư trực tiếp, tạo thuận
lợi cho luồng vốn đầu tư, công nghệ và chuyên gia trong khu vực.
Cuối năm 2009, 3 quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đã cùng với các
nước ASEAN ký thỏa thuận xây dựng quỹ tiền tệ Châu Á (AMF) theo mô hình quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF) với mục đích hỗ trợ lần nhau về khả năng thanh toán bằng
USD trong trường hợp xảy ra khủng hoảng hoặc thị trường biến động bất thường.
trong trường hợp 1 thành viên đề nghị được hỗ trợ, ngân hàng trung ương của các
nước thành viên khác sẽ cung cấp USD để đổi lấy tiền nội tệ của quốc gia được hỗ
trợ. Tới ngày 23/3/2010, AMF đã chính thức được thành lập với tổng số vốn trị giá
120 tỷ USD.
CHƯƠNG II. KHẢ NĂNG THỐNG NHẤT TIỀN TỆ CHÂU Á
I. Lợi thế của ASEAN trong việc thống nhất tiền tệ
Trong số các tổ chức nhỏ trên thế giới, chỉ có ASEAN là phát huy hiệu quả nhất mối
quan hệ hợp tác. Chính ASEAN đang dần đóng vai trò định hướng hợp tác của các
nước lớn khác trên thế giới.
ASEAN là một sự may mắn, bởi lẽ tất cả các tổ chức khu vực trên thế giới khác đều
phát triển nhưng không có được vị thế như ASEAN (trừ EU). Còn lại, tổ chức các
nước châu Mỹ, châu Phi, Nam á… đều có ý tưởng to tát nhưng lại không thể thực
hiện được. Trong khi ASEAN mặc dù từ ý tưởng nhỏ (thành lập năm 1967 chỉ với
mục đích là không đánh nhau), nhưng tổ chức này lại đạt được những thành quả lớn
hơn cả mong đợi ban đầu.

Với hơn 600 triệu dân, mức tăng trưởng kinh tế vào khoảng 5,7-6,4% trong năm nay
và tổng GDP đạt gần 1.500 tỷ USD, ASEAN đang đóng vai trò là một động lực tăng
trưởng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, thậm chí là trên toàn cầu. ASEAN hiện
đang là đối thủ thực sự của các nền kinh tế như Trung Quốc, Mỹ và EU
Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng nợ toàn cầu, ASEAN được kỳ vọng sẽ nâng cao
được vị thế của mình do khối này tương đối "miễn dịch" trước cuộc khủng hoảng
này với mức tăng trưởng kinh tế đáng kể và mối liên kết chặt chẽ giữa các quốc gia
thành viên sẽ giúp họ ít bị phụ thuộc hơn vào các quốc gia phát triển.
Năm 2009, tăng trưởng kinh tế của ASEAN giảm xuống chỉ còn 1,6% song đã
nhanh chóng tăng lên mức 7,4% trong năm 2010. Thành công của ASEAN trong
việc đối phó với tác động của các cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2008-2009 khiến
giới chức lãnh đạo ở khu vực lạc quan tin rằng khối này có thể chống chọi được tác
động của các cuộc khủng hoảng đang diễn ra tại các quốc gia phát triển.
Cơ chế thuế quan thấp hơn và khả năng tiếp cận các thị trường lớn hơn sau khi thực
thi Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) giữa ASEAN và các đối tác đối thoại như
Australia, Trung Quốc, Hàn Quốc và New Zealand đang góp phần tích cực vào đà
tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thành viên ASEAN.
Bên cạnh đó sự chênh lệch về thu nhập của các quốc gia trong khu vực như hiện nay
cũng sẽ là động lực để thôi thúc các quốc gia ngồi lại với nhau, và tìm cho mình một
hướng đi chung để có lợi cho tất cả các quốc gia. Đó cũng là xu hướng chung của xu
hướng phát triển của thế giới hiện nay, đó là sự hội nhập, hợp tác cùng phát triển, sự
rút ngắn khoảng cách giữa các quốc gia.
II. Cơ hội khi thống nhất tiền tệ Đông Nam Á
Đối với các quốc gia Đông Nam Á, điều quan trọng trước hết mà các quốc gia
quan tâm là họ được gì hay mất gì khi tham gia hợp tác tiền tệ.
Hợp tác tiền tệ Đông Nam Á có thể có nhiều tác động tích cực và hứa hẹn
mang lại nhiều cơ hội cho các quốc gia trong khu vực. Các cơ hội này thể hiện cụ
thể trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, hợp tác tiền tệ Đông Nam Á sẽ giúp thúc đẩy thương mại trong khu
vực. Lý do cơ bản của việc hình thành thoả thuận thương mại khu vực là dỡ bỏ các

rào cản tăng cường thương mại trong nội bộ và thịnh vượng cho các nước thành
viên. Để có thể tối đa hoá lợi ích thương mại giữa các thành viên, cần thiết phải có
sự hợp tác tiền tệ và ổn định tỷ giá trong khu vực. Tỷ giá hối đoái biến động sẽ cản
trở các dòng thương mại do tăng rủi ro cho các nhà xuất nhập khẩu. Các hoạt động
phòng ngừa rủi ro sẽ làm tăng thêm chi phí cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại mỗi
quốc gia. Do đó, hợp tác tiền tệ sẽ giúp giảm các chi phí giao dịch giữa các quốc
gia, thúc đẩy phát triển thương mại và qua đó tạo ra tăng trưởng cao hơn ở các nước
Đông Nam Á.
Thứ hai, hợp tác tiền tệ khu vực giúp tăng cường khả năng chống lại các cuộc
tấn cộng tiền tệ và phá giá cạnh tranh. Hợp tác tiền tệ Đông Nam Á cho phép khu
vực tự bảo vệ chống lại các tấn công tiền tệ trong tương lai và ngăn chặn khủng
hoảng tài chính như đã diễn ra vào những năm 1997-1998. Với cơ chế hiện hành,
vấn đề rủi ro đạo đức có thể tạo ra những thông lệ xấu là các nước trong khu vực với
những điều kiện lỏng lẻo hơn sẽ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô thiếu thận
trọng. Do đó, tăng cường hợp tác tiền tệ với sự minh bạch và kỷ luật kinh tế sẽ là
cách tốt hơn để chống lại tấn công tiền tệ. Hơn nữa, ổn định về tỷ giá cũng giúp các
quốc gia tránh được tác động lây lan của khủng hoảng tiền tệ trong khu vực. Hình
thành liên minh tiền tệ và theo đó là hệ thống tỷ giá cố định giữa các quốc gia thành
viên sẽ xoá bỏ mối đe doạ phá giá cạnh tranh giữa các nước trong khu vực.
Thứ ba, hợp tác tiền tệ Đông Nam Á với sự hình thành một liên minh tiền tệ
như là một đích đến cuối cùng sẽ tạo ra sợi dây liên kết chặt chẽ với tài chính - tiền
tệ giữa các nước thành viên trong khu vực với nhau. Các nước thành viên có thể
giúp nhau để bảo vệ hệ thống tỷ giá cố định trong khu vực, qua đó, tạo lập lòng tin
về hệ thống tỷ giá hiện hành. Hơn nữa, cố định tỷ giá với các thành viên khác đòi
hỏi lạm phát phải được duy trì ở mức độ thấp. Vì vậy, một quốc gia với chính sách
tiền tệ yếu kém có thể kiềm chế được lạm phát và ổn định giá cả bằng việc tham gia
liên minh tiền tệ với quốc gia duy trì lạm phát thấp. Hợp tác tiền tệ với thể chế một
đồng tiền cũng sẽ giúp người tiêu dùng và doanh nghiệp được hưởng lợi do minh
bạch về giá cả. Khi tất cả các hàng hoá đều được niêm yết dưới cùng một đơn vị tiền
tệ thì việc so sánh trở nên dễ dàng hơn, các nhà sản xuất khó có thể duy trì được

mức giá chênh lệch quá mức giữa các thị trường. Điều đó sẽ làm cạnh tranh trong
khu vực, tạo sức ép giảm giá và đem lại lợi ích cho người tiêu dùng.
Thứ tư, Hợp tác tiền tệ tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất
khẩu và trong tương lai - với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta -
mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ
mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì
điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
Thứ năm, Với việc hợp tác tiền tệ sẽ giúp các Quốc gia Đông Nam Á hoàn
thiện hệ thống pháp luật kinh tế, môi trường kinh doanh của các nước ta ngày càng
được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng
kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn,
công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo
ra công ăn việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút
ngắn khoảng cách phát triển giữa các quốc gia.
Thứ sáu: việc hợp tác tiền tệ sẽ nâng cao vị thế khu vực Đông Nam Á trên trường
quốc tế, tạo điều kiện cho khu vực triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại.
Thấy được những lợi ích trước mắt nhưng liệu cơ hội đã đến cho việc thống nhất
đồng tiền chung Đông Nam Á?
Cơ hội được hiểu là bất cứ một yếu tố nào đó của môi trưởng bên ngoài có thể tạo ra
các điều kiện mang lại lợi thế cho một quốc gia, một khu vực. Cơ hội thống nhất
đồng tiền chung Đông Nam Á đã mở ra trước mắt khi ngày 07/04/2010 Hội nghị
Thống đốc ngân hàng trung ương ASEAN khai mạc tại Nha Trang, dưới sự chủ trì
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Giàu. Tham dự hội
nghị có Thống đốc và đại diện Ngân hàng Trung ương của 10 nước thành viên
ASEAN.
Những vấn đề nổi bật trên bàn nghị sự tại hội nghị lần này là tiến trình hội nhập tài
chính tiền tệ ASEAN; hợp tác giữa Ngân hàng Trung ương các nền kinh tế thành
viên với nỗ lực nâng cao việc sử dụng đồng bản tệ để thanh toán thương mại trong
khu vực; hợp tác tài chính ngân hàng trong ASEAN+3.
Đại diện các ngân hàng trung ương khu vực đều đánh giá việc sử dụng đồng tiền nội

khối trong thanh toán thương mại sẽ mang lại nhiều lợi ích như: thúc đẩy quan hệ
thương mại và đầu tư nội khối, giảm rủi ro gắn liền với sự biến động của các đồng
tiền thanh toán phổ biến đang sử dụng. Đồng tiền chung cũng giúp giảm chi phí giao
dịch, thúc đẩy sự phát triển và khuyến khích đầu tư dự trữ vào thị trường tài chính
khu vực.
Tuy nhiên để đưa đồng tiền nội khối vào hoạt động đòi hỏi sự cân nhắc, xem xét
nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế vĩ mô, hạ tầng thanh toán, khuôn khổ pháp lý về
quản lý ngoại hối, tính chuyển đổi của đồng tiền… Trong thời gian tới các nước sẽ
tiếp tục nghiên cứu, trao đổi về những mô hình thanh toán nói trên để đưa ra một mô
hình có tính khả thi cao nhất, đảm bảo mục tiêu hình thành cộng đồng kinh tế
ASEAN vào năm 2015.
Nội dung hợp tác tài chính ASEAN+3 được hội nghị đề cập đến với kết quả hợp tác
tài chính khu vực cùng ba nước Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Các nước đều
cam kết đóng góp 120 tỷ USD (trong đó Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản đóng
góp 96 tỷ USD; các nước ASEAN đóng góp 24 tỷ USD) nhằm hỗ trợ cho các ngân
hàng trung ương các nước thành viên Sáng kiến ChiangMai(CMIM) giải quyết khó
khăn khẩn cấp trong cán cân thanh toán, thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ và kinh
tế vĩ mô ở mỗi quốc gia.
Năm 2010, với vai trò Chủ tịch ASEAN, Việt Nam tiếp tục cùng với Trung Quốc
đồng chủ trì tiến trình CMIM, nhằm triển khai và vận hành CMIM trong thời gian
nhanh nhất, đạt được các mục tiêu đã đề ra, sau khi thỏa thuận này có hiệu lực từ
ngày 24/3.
Khó khăn kinh tế thế giới sẽ thúc đẩy công cuộc hợp nhất kinh tế khu vực Đông
Nam Á, vì vậy cơ hôị hợp nhất đồng tiền đang gần hơn bao giờ hết. Trước khủng
hoảng tài chính toàn cầu đang diễn ra, các nước đều mong muốn có 1 sự liên minh
về kinh tế để vượt qua những thử thách trước mắt. Khi các nước có 1 đồng tiền
chung, việc giữ giá trị đồng tiền không còn là việc riêng của bất cứ quốc gia nào mà
đã trở thành vận mệnh của quốc gia. Trước những khó khăn của quốc gia sử dụng
chung đồng tiền, các nước còn lại sẽ chung tay giúp sức, thành lập các quỹ bình ổn
tỷ giá, đối phó với những diễn biến thị trường phức tạp. Do vậy, khả năng ứng phó

với khủng hoảng của các nước sẽ tăng lên.
III. Thách thức khi thống nhất tiền tệ Đông Nam Á
Hợp tác tiền tệ Đông Nam Á đem đến rất nhiều cơ hội tốt cho sự phát triển kinh tế-
xã hội của các quốc gia nhưng cũng đem đến nhiều thách thức.
Thứ nhất: Chính là sự đa dạng về chính trị- xã hội cũng như sự phát triển
kinh tế, tài chính của các quốc gia khác nhau. chẳng hạn như thu nhập bình quân
đầu người, các giai đoạn phát triển thị trường tài chính và kinh tế, quy mô và phạm
vi kiểm soát về vốn, năng lực con người và thể chế, các điều kiện xã hội…. Sự khác
biệt và đa dạng về hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội sẽ dẫn tới tốc độ tự do hoá tài
chính, thương mại, đầu tư và mở cửa thị trường giữa các quốc gia có sự khác nhau.
Các quốc gia có thu nhập thấp sẽ chậm trễ trong tự do hoá tài chính và mở cửa thị
trường, và vì vậy, các quốc gia này sẽ gặp khó khăn khi tự hội nhập với các nước
khác trong khu vực có tốc độ hội nhập nhanh hơn. Tính đa dạng về kinh tế, chính trị
giữa các quốc gia Đông Nam Á cũng hình thành nhiều cấp độ phát triển kinh tế khác
nhau, tạo nên khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển như: các nước mới công
nghiệp hoá NICs, các nước đang phát triển… Chênh lệch về trình độ phát triển kinh
tế dẫn đến việc xác định lợi ích khác nhau, xác định thứ bậc các vấn đề được ưu tiên
khác nhau, kéo theo sự bất đồng trong việc hoạch định các mục tiêu, chính sách và
biện pháp thực hiện. Khoảng cách chênh lệch cũng tạo bất lợi đối với các nước kém
phát triển trong phân công lao động quốc tế do các nước lớn có lợi thế hơn về vốn,
công nghệ và khả năng cạnh tranh.
Ví dụ như: Mức thu nhập bình quân đầu người (tính theo ngang giá) năm 2009 của
Brunie, Singapore đạt xấp xỉ 50 nghìn USD. Ðây là nhóm nước có mức thu nhập
bình quân đầu người không chỉ cao nhất trong khu vực, mà còn có thể so sánh với
một số quốc gia phát triển hàng đầu trên thế giới. Mức thu nhập này cao gấp 17 lần
so với Việt Nam (2.900 USD), và gấp 50 lần so với Myanma (1.100 USD) - nước
nghèo nhất khu vực. Malaysia, Thái-lan có mức thu nhập cao hơn nhiều so với
CLMV (Campuchia, Lao, Myanma, Vietnam) nhưng cũng chỉ bằng một phần ba
của Xin-ga-po hay Brunie Về thương mại, Singapore là nước có tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu lớn nhất trong số 10 nước thành viên ASEAN với trị giá 516 tỷ USD

- chiếm 33,5% tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của ASEAN. Tiếp đến là Thái
lan chiếm 18,6%, Malaixia chiếm 18,3%. Trong khi đó, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu của ba nước Lào, Myanma, Cam-pu-chia chỉ đạt 2,2%.
Quy mô thị trường và cấu trúc của các ngành kinh tế trong các nước ASEAN cũng
có sự khác biệt và chênh lệch rất lớn. Trong khi Tổng GDP của Indonesia đạt 546 tỷ
USD, của Thái lan, Malaysia, Singapore cũng đạt trên dưới 200 tỷ USD thì những
nền kinh tế như Lào, Myanma, Campuchia chỉ đạt từ 5 đến 18 tỷ USD, thấp hơn 80
- 90 lần so với các thành viên khác.
Thứ hai: Các quốc gia Đông Nam Á phải đối mặt với nguy cơ mâu thuẫn,
chia rẽ xuất phát từ cơ cấu xuất khẩu có nhiều điểm tương đồng.
Các nước Đông Nam Á đều thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Do tính tương đồng về cơ cấu kinh tế của các nền kinh tế
thấp tạo nên tính cạnh tranh gay gắt giữa các nước trong khu vực, không chỉ ở
những nước có cùng mặt hàng xuất khẩu, mà còn giữa các nước có trình độ phát
triển khác nhau như Thái Lan, Việt Nam,….
Kết quả khảo sát (2009) do trường Đại học Thương mại Thái Lan công bố
mới đây cho rằng, Việt Nam đang giành nhiều thị phần hơn so với Thái Lan tại các
thị trường Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và Nhật Bản. Theo kết quả khảo sát trên,
Việt Nam đang chiếm 11% thị trường Mỹ, 13,6% thị trường EU và 13,9% thị
trường Nhật Bản, trong khi thị phần của Thái Lan tại các thị trường trên lần lượt là
11%, 11% và 10%. Nhiều chuyên gia công nghiệp ở Bangkok cảnh báo rằng các
thương gia và nhà chế tạo Thái Lan đang đứng trước nguy cơ mất dần khả năng
cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu trong bối cảnh Mỹ có kế hoạch sớm thiết lập
Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) với Australia,
New Zealand, Chile, Singapore, Brunei và Việt Nam. Phó Chủ tịch Hiệp hội tàu
thủy quốc gia Thái Lan (NTSA) Vallop Vitanakorn cho rằng nhiều ngành công
nghiệp của nước này sẽ mất dần sức cạnh tranh trước Việt Nam, trong đó có dệt
may, nông sản, điện tử và chế biến thực phẩm.
Thứ ba: Sự tác động của các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng nhiều đến xu
hướng hợp tác nội khối của các nước Đông Nam Á.

Tiến trình hợp tác đa phương trong khu vực ngày càng hiện thực nhưng chỉ là
những bước khởi đầu và diễn biến chậm do những nguyên nhân nội tại của từng
nước, khu vực, cũng như những tác động từ bên ngoài. Các nước Đông Nam Á vẫn
lệ thuộc rất lớn vào thị trường Mỹ và EU. Tỷ trọng mậu dịch nội vùng mặc dù có
tăng lên đáng kể nhưng vẫn thấp hơn so với trao đổi thương mại ngoại vùng.
Quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư giữa ASEAN và EU đang phát triển
mạnh mẽ trong những năm vừa qua. EU đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai
của ASEAN với tổng thương mại hai chiều năm 2009 là gần 172 tỷ đô la Mỹ, chiếm
11,6% tổng thương mại giá trị thương mại của ASEAN. EU cũng là nguồn cung ứng
đầu tư FDI lớn vào ASEAN với lượng vốn đầu tư chiếm gần 20% tổng mức đầu tư
ASEAN nhận được. EU là đối tác đầu tư FDI hàng đầu vào Việt Nam với tổng vốn
đăng ký đạt khoảng 31 tỷ đô la. Các nhà đầu tư EU đã có mặt tại hầu hết các ngành
kinh tế quan trọng của Việt Nam nhưng tập trung nhiều nhất vào công nghiệp và
xây dựng (chiếm 50,1 % số dự án và 50,6 % tổng vốn đầu tư), trong đó công nghiệp
nặng có 180 dự án với tổng vốn đầu tư gần 4,2 tỷ đô la, tiếp theo là khai thác dầu
khí 19 dự án với 2,5 tỷ đô la. EU đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ khoảng 40 % số dự án
và 42 % tổng vốn đầu tư).
Theo cục Đầu tư nước ngoài (bộ Kế hoạch và Đầu tư), thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) cả nước từ đầu năm tới ngày 20.10.2011 ước đạt gần 11,3 tỷ USD,
bằng 78% so với cùng kỳ. Hong Kong hiện chiếm tỷ lệ cao nhất 26,4% tổng vốn
đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư là 2,98 tỷ USD, Singapore đứng vị trí thứ
hai với 1,55 tỷ USD vốn đầu tư cả cấp mới và tăng thêm, chiếm 13,8 % tổng vốn
đầu tư; Nhật Bản đứng vị trí thứ ba với tổng vốn 1,31 tỷ USD, chiếm 11,6% Các
nước và vùng lãnh thổ dẫn đầu về vốn FDI vào các dự án du lịch là Singapore với
20 dự án và tổng vốn đăng ký gần 1,3 tỷ USD; Ðài Loan có 15 dự án với 784 triệu
USD; Hồng Kông có 41 dự án với 642 triệu USD; tiếp đến là Hàn Quốc, Malaysia,
Pháp, Nhật Bản. Về vốn ODA theo báo quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, từ khi
nối lại quan hệ với các định chế tài chính quốc tê, gần 50 nhà tài trợ đa phương và
song phương cùng 350 tổ chức chính phủ với 1.500 chương trình, dự án dành cho
Việt Nam. Đứng đầu trong các quốc gia và tổ chức trên là Nhật Bản, Ngân hàng Thế

giới, Ngân hàng Phát triển châu Á với số vốn cam kết chiếm 70 - 80% tổng nguồn
vốn ODA hằng năm mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam. Kể từ đó đến nay, đã có
tới 22 tỉ USD được giải ngân trong tổng số 42,5 tỉ USD vốn ODA cam kết. Cho đến
gần đây, Việt Nam luôn được coi là một trong những quốc gia sử dụng hiệu quả vốn
ODA nhất trên thế giới, đưa tỷ lệ đói nghèo giảm từ khoảng 58% năm 1992 xuống
khoảng 15% năm 2007.
Có thể thấy rất rõ rang rằng các nguồn vốn giúp phát triển cơ sở hạ tầng kinh
tế xã hội đầu tư vào Việt Nam phần lớn vẫn từ các nước phát triển trên thế giới.
Thương mại nội vùng Đông Nam Á vẫn thấp chưa đạt đến điều kiện tốt để hợp tác
tiền tệ.
Mặc dù các khuôn khổ toàn cầu về tự do hoá thương mại/đầu tư (WTO) và
quản trị tài chính quốc tế (IMF) vẫn còn quan trọng nhưng các khuôn khổ hợp tác
trong khu vực vẫn đóng một vai trò bổ trợ. Trong lĩnh vực thương mại và đầu tư,
nước Mỹ không còn là đối tác kinh tế thống trị cao nhất đối với nhiều nền kinh tế
châu Á nữa, và các thị trường cho các sản phẩm cuối cùng của khu vực cũng đang
được mở rộng. Một tỷ trọng lớn dòng chảy FDI vào các nước Đông Nam Á hiện bắt
nguồn từ các nước trong khu vực. Đông Nam Á đang tập trung vào các cải cách về
cơ cấu trong nước, tăng năng suất và tăng trưởng kinh tế, vì vậy giảm thiểu được
những ảnh hưởng sai lệch thương mại. Do đó, điều quan trọng là các quốc gia Đông
Nam Á cần tham khảo và học hỏi kinh nghiệm hợp tác tiền tệ của các nhóm nước đi
trước, tăng cường cơ hội và hạ chế rủi ro tiềm tàng để hướng tới một khu vực hội
nhập tiền tệ sâu rộng và thống nhất.
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC CÁC THÁCH THỨC VÀ
TIẾN TỚI THỐNG NHẤT TIỀN TỆ ĐÔNG NAM Á
1. Thúc đẩy hợp tác kinh tế trong khu vực ASEAN:
1.1 Thực thi việc cắt giảm và xóa bỏ các hạn chế đầu tư trong ASEAN.
Để tiến tới lộ trình thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á thì các quốc gia
trong khu vực cần phải cắt giảm dần và xóa bỏ các hạn chế đầu tư trong khu vực.
Các quy hoạch ngành sẽ phải được rà soát, điều chỉnh theo hướng xóa bỏ hạn chế và
phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện cho khu vực

đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, vùng lãnh thổ. Các
quốc gia phải nhìn nhận rõ những tác động tiêu cực của hạn chế trong đầu tư trong
bối cảnh hiện tại để từ đó thấy được nên hay không nên và hạn chế đầu tư ở mức độ
nào là hợp lý, để tránh tác động xấu đến việc thu hút đầu tư của nước ngoài, giảm
mức độ hội nhập kinh tế trong khu vực.
Đối với Việt Nam: hiện nay, vẫn tồn tại nhiều rào cản đầu tư khi doanh
nghiệp nước ngoài tìm cơ hội đầu tư vào Việt Nam, những ưu đãi đầu tư lại trở nên
kém hấp dẫn hơn trước. Đánh giá về môi trường đầu tư tại Việt Nam ông Shigeru
Takayama, cố vấn cao cấp Tổ chức Thúc đẩy Ngoại thương Nhật Bản nhận định:
“Việt Nam vẫn là một trong những lựa chọn hàng đầu tại khu vực Đông Nam Á của
các nhà đầu tư Nhật Bản nhưng rõ ràng tình hình lạc quan này không thể được duy
trì mãi nếu để một số cản ngại tồn tại kéo dài”. Ông này phân tích rằng ngành công
nghiệp hỗ trợ (supporting industry) của Việt Nam hầu như là con số 0. Không có
nguồn cung ứng (suppliers) tại chỗ buộc các nhà đầu tư phải nhập linh kiện, khiến
giá thành cao, sức cạnh tranh giảm. Ví dụ như trong ngành lĩnh vực ô tô – xe máy,
Việt Nam chỉ có 11 đơn vị hỗ trợ – cung ứng và công nghệ mới chỉ dừng lại ở khả
năng lắp ráp một vài công đoạn. Trong khi ở Thái Lan, con số này nhiều gấp 10 lần
và họ chủ động đi tìm nhà đầu tư để tự tiếp thị nhờ đó thị trường tiêu thụ bùng nổ,
dòng FDI chảy vào ồ ạt. Đây thực sự là một rào cản đầu tư của Việt Nam, buộc
chính phủ Việt Nam phải có những chính sách tạo điều kiện phát triển các ngành
công nghiệp lắp ráp, ngành công nghệ cao.
Ngoài ra quy mô của thị trường vốn VN hiện nay có lẽ là một quan ngại được
đặt lên hàng đầu, nhất là với những PE đầu tư thứ cấp khiến cho các nhà đầu tư
nước ngại khá dè dặt trong quyết định đầu tư tại Việt Nam.Một sự thực mà các quỹ
khảo sát thị trường VN đều đưa ra là sau hơn 10 năm thành lập, TTCK VN vẫn chưa
có một những loại hàng hóa cao cấp, hấp dẫn, với hàng loạt thương hiệu lớn như
Vinamilk, Hoàng Anh Gia Lai, Masan Nhà đầu tư có lẽ sẽ phải mất thêm thời gian
để đón đợi những loại "hàng hóa" từ các đại Cty, DN đang xếp hàng chờ IPO hoặc
cổ phần hóa. Một vấn đề khác, cũng là vấn đề nội tại của TTCK, là hiện tại VN
đang có quá ít các định chế tài chính trung gian, các Cty quản lý quỹ đủ lớn mạnh và

"đủ sức chống đỡ, ứng phó với những biến động của thị trường". Điều đó khiến các
PE gặp khó khăn khi có nhu cầu rót vốn lẫn thoái vốn. Đây có thể cũng là một
nguyên do quan trọng khiến từ năm 2004 đến nay, mặc dù Chính phủ đã rất nỗ lực
trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và các nguồn lực tư nhân vào tham gia xây
dựng, cải thiện cơ sở hạ tầng, nhưng vẫn chưa đạt được như kỳ vọng. Dựa trên
những nhận định về rào cản đầu tư như trên Việt Nam cần có các giải pháp tích cực
dần xóa bỏ những hạn chế về đầu tư như: tăng cường đầu tư mở rộng các ngành
công nghiệp hỗ trợ, chú trọng phát triển các ngành cung ứng dịch vụ tài chính, các
ngân hàng, tổ chức tài chính…
1.2 ASEAN cần tổ chức nhiều hơn các Hội chợ thương mại lớn trong khu vực
ASEAN cần tổ chức nhiều hơn nữa các Hội chợ thương mại khu vực bởi đây
là nơi giới thiệu các sản phẩm thế mạnh của mỗi quốc gia cho nước bạn, tạo điều
kiện thuận lợi cho thúc đẩy xuất khẩu. Đồng thời là cơ hội giới thiệu tiềm năng, thế
mạnh của các doanh nghiệp trong nước, và tạo cơ hội giới thiệu môi trường đầu tư
kinh doanh và đầu tư, thu hút đầu tư nước ngoài.Như trong tháng 10 vừa qua Hội
chợ Trung Quốc – Asean lần thứ 8 đã được tổ chức,thu hút hơn 3000 doanh nghiệp
đến từ các nước Asean, Trung Quốc, một số quốc gia và vùng lãnh thổ đã tham dự .
Với quy mô lớn nhất trong các nước Asean, Việt Nam có 120 doanh nghiệp với 192
gian hàng thuộc các ngành hàng như nông sản, thực phẩm chế biến, đồ gỗ, thủ công
mỹ nghệ, hàng tiêu dùng, du lịch và đầu tư, dịch vụ thương mại. Nhiều doanh
nghiệp có đến 5 hoặc 6 gian hàng giới thiệu sản phẩm như Vinacafe, Biti’s, Bita’s…
Việt Nam đã tham gia với chủ đề “Việt Nam – Cơ hội thương mại, đầu tư rộng
mở”, giới thiệu về hoạt động kinh tế thương mại, đầu tư và du lịch của Việt Nam.
Đoàn Việt Nam với 110 doanh nghiệp đến từ 24 tỉnh, thành phố trên cả nước trưng
bày các sản phẩm tại các gian hàng trên diện tích 3.000 m2 của Trung tâm Triển lãm
và Hội nghị quốc tế Nam Ninh. Đoàn doanh nghiệp Việt Nam là đoàn lớn nhất trong
10 nước ASEAN. Các ngành hàng trưng bày của Việt Nam thuộc các lĩnh vực nông
sản, thực phẩm chế biến, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ, dệt may, du lịch và đầu tư…Đối
với Việt Nam đây là cơ hội để Việt Nam giao lưu kinh tế, giới thiệu các doanh
nghiệp tiềm năng trong nước đến nước bạn và đồng thời giới thiệu môi trường đầu

tư lành mạnh để khuyến khích thu hút các nước đầu tư vào Việt Nam. Như vậy
những hội chợ thương mại khu vưc là hoạt động thiết thực có ý nghĩa trong việc
giao lưu, mở cửa và hội nhập giữa các nền kinh tế trong khu vực.
2. Xây dựng các giải pháp phát triển khu vực tam giác vàng 3 nước Lào, Việt
Nam, Campuchia nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực
2.1. Giải pháp tạo nguồn vốn đầu tư
Đặc điểm nổi bật của vùng Tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Namlà
sự thiếu hụt về kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và thương mại.
Tỷ lệ dân số trong Vùng sống bằng nông nghiệp cao, nhiều nơi vẫn còn giữ
phương thức sản xuất tự cấp tự túc, sản xuất hàng hoá chưa phát triển, do vậy nguồn
vốn trong dân không đáng kể. Các doanh nghiệp tư nhân hạn chế về số lượng, chủ
yếu ở qui mô vừa và nhỏ.
Trong Tam giác phát triển, các dự án nước ngoài (ODA và FDI) hạn chế về số
lượng và qui mô do nhiều nguyên nhân; ODA chủ yếu cho xoá đói giảm nghèo và
một số hoạt động về môi trường; FDI chưa có môi trường thu hút hấp dẫn.
Thực tế trên cho thấy, giải pháp vốn đầu tư rất quan trọng, quyết định sự hình
thành và và phát triển nhanh hay chậm của Tam giác phát triển. Trước mắt cần:
- Huy động nhiều nguồn vốn tập trung đầu tư hỗ trợ chủ yếu vào các lĩnh vực
hạ tầng then chốt trong phát triển kinh tế là giao thông, thủy lợi, điện Lồng ghép
các chương trình, dự án trên từng địa bàn để quản lí và sử dụng có hiệu quả các
nguồn vốn.
- Tăng thêm nguồn vốn cho chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình
giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn, nhất là các hộ nghèo thuộc đồng bào dân
tộc thiểu số vay vốn để phát triển sản xuất.
- Khuyến khích các thành phần kinh tế thực hiện ký kết hợp đồng với nông
dân về tiêu thụ sản phẩm và làm dịch vụ vốn, vật tư phục vụ sản xuất, xây dựng
phương thức thống nhất về tổ chức từ sản xuất nguyên liệu - chế biến - tiêu thụ
trong quá trình phát triển sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường.
- Khuyến khích các hình thức huy động nguồn vốn trong dân, vốn từ các
doanh nghiệp để đầu tư tăng năng lực sản xuất, đầu tư phát triển các doanh nghiệp

vừa và nhỏ và tổ hợp tác, trang trại và quy mô hộ gia đình.
2.2. Cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt
Giữa Việt Nam và Lào, giữa Campuchia và Việt Nam đã có những thoả thuận
về cơ chế, chính sách hợp tác song phương trên nhiều lĩnh vực, những cơ chế chính
sách này ngày càng được hoàn thiện trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của các bên, tiến
tới hội nhập khu vực. Thông qua các cuộc gặp cấp chuyên viên của ba nước và cuộc
gặp cấp tỉnh cho thấy nhiều vấn đề về cơ chế, chính sách đã thống nhất ở cấp trung
ương song khi thực hiện vẫn gặp khó khăn ở các địa phương do thông tin không kịp
thời, do nhiều cách hiểu khác nhau giữa trung ương và địa phương, do sơ suất về
phân cấp.
Từ mục tiêu xây dựng Tam giác phát triển có thể thấy, hình thức hợp tác này
có thể coi như bước đầu tiên thử nghiệm cho hợp tác rộng rãi, cho hội nhập khu vực,
do vậy những vấn đề đã được thoả thuận song phương giữa các nước vẫn được thực
hiện ở đây, song cần bổ những cơ chế chính sách có sự thoả thuận của ba bên với độ
ưu tiên cao hơn.
(1)- Ở cấp Trung ương
- Phối hợp kế hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng của ba nước để hỗ trợ trực tiếp
và gián tiếp cho các hoạt động kinh tế then chốt trong Tam giác phát triển. áp dụng
những điểm ưu đãi nhất của luật về đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài của mỗi
nước. Có cơ chế khuyến khích nhất để kêu gọi đầu tư cho các công trình lớn, then
chốt: như xây dựng đường giao thông và các công trình hạ tầng khác cho khu vực
này,…
- Tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại: xem xét cách tiếp cận để nâng cao
hiệu quả và hiệu lực của các thủ tục thương mại, các loại giấy tờ được hài hoà, một
hệ thống phân loại hàng hoá nhất quán; xem xét lộ trình cắt giảm giảm thuế, phá bỏ
hàng rào phi thuế quan, thực hiện sớm các quy định của AFTA tại khu vực Tam
giác phát triển; tiến tới thiết lập các tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu đối với nông
sản. Đối với các khu kinh tế cửa khẩu xem xét việc hình thành các khu công nghiệp
tạm nhập-chế biến-tái xuất nhằm tận dụng lợi thế về lao động, vùng nguyên liệu,
thuế suất ưu tiên hàng xuất khẩu cho những nước nghèo của WTO.

- Ba Chính phủ có cơ chế, chính sách tài chính (ưu tiên cao nhất về thuế, hỗ
trợ vốn, ưu đãi tín dụng…) để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng. Có chính sách tín
dụng ưu đãi đặc biệt đối với các nhà đầu tư làm ăn tại Tam giác phát triển.
(2)- Đối với các địa phương
- Phát triển các hợp tác thương mại mậu biên: Một trong những lợi thế của
Tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Namlà hai tuyến hành lang Đông Tây
sẽ hình thành và chạy xuyên qua ra các cảng biển của Việt Nam. Như vậy xu thế
chung các cửa khẩu quốc gia giữa Cămpuchia và Việt Nam có nhiều khả năng được
nâng cấp thành các cửa khẩu quốc tế. Việc hình thành các cặp cửa khẩu biên giới sẽ
tác động trước tiên đến các thương mại vùng biên. Do vậy các địa phương cần phối
hợp, tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích các doanh nghiệp hợp tác phát triển
thương mại biên mậu giữa các tỉnh của khu vực Tam giác.
- Phối hợp lợi thế so sánh phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ: Trong Tam
giác phát triển, tuy các doanh nghiệp của địa phương có qui mô nhỏ, song qua một
số năm hoạt động các doanh nghiệp này cũng đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm
trong việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư và tìm kiếm đối tác. Việc phân bố lao động
trong các tỉnh cho thấy khả năng bù trừ sự khan hiếm về lao động có tay nghề từ các
tỉnh của Việt Nam cho các tỉnh của hai nước bạn. Hiện nay đã có một số doanh
nghiệp Việt Nam đã triển khai hợp tác ở các tỉnh của Campuchia và Lào, do vậy các
địa phương cần khuyến khích các doanh nghiệp hợp tác đầu tư sản xuất, kinh doanh
và chuyển giao công nghệ.
- Phối hợp đào tạo nguồn nhân lực: Từ các nguồn kinh phí của các tổ chức
quốc tế, kinh phí xoá đói giảm nghèo, kinh phí hỗ trợ của các Phân ban Lào – Việt
Nam, Campuchia – Việt Nam xây dựng dựng các chương trình phát triển nguồn
nhân lực xuyên biên giới dành cho nông dân, giáo viên, cán bộ y tế, doanh nhân, cán
bộ quản lý nhằm nâng cao năng lực, hiểu biết về kỹ thuật và ngoại ngữ
- Chủ động, năng động trong hợp tác phát triển: Tiến độ thực hiện bản qui
hoạch phụ thuộc nhiều vào việc phân cấp giữa trung ương và địa phương của các
nước và sự chủ động, năng động của các địa phương. Các địa phương cần tận dụng
mối quan hệ láng giềng đã có đề ra nội dung hợp tác. Thông qua hoạt động hợp tác

sẽ nẩy sinh các vướng mắc về các vấn đề cơ chế, chính sách mà chỉ cấp trung ương
mới giải quyết được, khi đó chủ động trao đổi với nhóm Công tác hoặc đề đạt lên
các cấp có thẩm quyền xem xét. Các đề đạt giải quyết các vấn đề cụ thể trong hợp
tác song phải hướng tới xu thế hội nhập.
3. Tăng cường công tác nghiên cứu, chuyển giao khoa học kỹ thuật
Hướng phát triển nông lâm nghiệp trọng tâm của khu vực là đảm bảo ổn định
sản xuất lương thực và chuyển hướng mạnh mẽ sang sản xuất sản phẩm hàng hoá.
Do vậy để tăng nhanh sản lượng lương thực đảm bảo an ninh lương thực và nâng
cao khối lượng, chất lượng sản phẩm hàng hoá cho công nghiệp chế biến xuất khẩu
đủ sức cạnh tranh trên thị trường, công tác nghiên cứu chuyển giao khoa học kỹ
thuật có ý nghĩa quan trọng đầu tiên là cải tiến khâu giống. Các cơ sở nghiên cứu ở
Trung ương và các tỉnh cần tập trung đầu tư cho các dự án phát triển về giống cây
trồng, vật nuôi có năng suất cao, phẩm chất tốt. Tăng cường công tác khuyến nông,
khuyến lâm, xây dựng mô hình trình diễn để hướng dẫn chuyển giao kỹ thuật, công
nghệ vào sản xuất, nhất là đối với đồng bào vùng sâu vùng xa.
4. Giải pháp thị trường
Các tỉnh trong khu vực cần xúc tiến mở rộng quan hệ trao đổi hàng hoá với
các trung tâm kinh tế của mỗi nước và giữa các tỉnh trong khu vực với nhau. Từng
bước xúc tiến nghiên cứu phát triển thị trường ổn định, cung cấp đầy đủ kịp thời
thông tin thị trường để nông dân ổn định sản xuất và nâng cao thu nhập. Mặt khác
triển khai các biện pháp nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, cải tiến công
tác tiếp cận thị trường để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
5. Giải pháp về định canh định cư
Trong những năm gần đây, các tỉnh trong khu vực đã triển khai công tác định
canh định cư nhằm ổn định cuộc sống cho đồng bào các dân tộc, hạn chế phá rừng
bảo vệ môi trường sinh thái. Tuy nhiên tình trạng du canh du cư và định cư du canh
vẫn còn diễn ra chưa chấm dứt được, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó
khăn. Vì vậy cần có những giải pháp hữu hiệu để hoàn thành công tác định canh
định cư, ổn định và nâng cao đời sống cho nhân dân.
Ngoài ra ASEAN cũng cần kêu gọi 6 nước thành viên ban đầu cần tăng cường

hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực cho 4 thành viên mới gồm Lào, Campuchia,
Việt Nam và Myanmar nhằm giúp những nước này đáp ứng nhu cầu phát triển trong
tương lai và giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các thành viên trong khối.

×