Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Khả năng thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ việc nghiên cứu quá trình thống nhất tiền tệ của Cộng đồng Châu Âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.89 KB, 70 trang )

trêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
khoa ng©n hµng tµi chÝnh –
------
BµI TËP NHãM
TµI CHÝNH QuèC TÕ
§Ò tµi:
Khả năng thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ việc nghiên
cứu quá trình thống nhất tiền tệ của Cộng đồng Châu Âu
Danh sách nhóm: 1 CQ502313 Phạm Khắc Thanh
2 CQ501774 Nguyễn Hải Nam
3 CQ502536 Phạm Bá Thuyết
4. CQ502384 Trần Hương Thảo
5 CQ501237 Nguyễn Thị Minh Hưng
6 CQ503575 Nguyễn Đức Toàn
7 CQ500292 Nguyễn Hưng Công
8 CQ503542 Nguyễn Đình Thiên
9 CQ502799 Đặng Minh Trang
10 CQ506002 Nuôn khăm VI LUONG LAY
1
2
MỤC LỤC
3
CHƯƠNG I :
LỢI ÍCH VÀ CHI PHÍ CỦA VIỆC LIÊN MINH
VÀ THỐNG NHẤT TIỀN TỆ KHU VỰC.
1. Lợi ích từ việc thống nhất tiền tệ
1.1.Kích thích phát triển thương mại trong nội bộ khối :
Khi một khu vực tiến tới liên minh về tiền tệ và sử dụng một đồng tiền
chung thì đi cùng với nó là quá trình tự do hóa thương mại và dỡ bỏ các hàng
rào thuế quan. Điều này sẽ đem lại lợi ích là cắt giảm được các khoản chi phí
giao ch, chi phí chuyển đổi tiền tệ (bao gồm chi phí thời gian và chi phí hoa


hồng trả cho ngân hàng) cũng như tạo thuận lợi cho trao đổi buôn bán giữa
các quốc gia trong khu vực, qua đó, kích thích phát triển thương mại trong
nội bộ khối.
1.2.Các yếu tố sản xuất được phân bổ hiệu quả.
Các yếu tố sản xuất của một nền kinh tế bao gồm có : vốn, lao động, tài
nguyên và khoa học công nghệ, trong đó 2 yếu tố quan trọng nhất là vốn và
lao động. Việc sử dụng hiệu quả hai yếu tố sản xuất này sẽ thúc đẩy và làm
gia tăng năng lực sản xuất của mỗi quốc gia nói riêng và toàn bộ khu vực nói
chung.
Khi sử dụng chung một đồng tiền và đi cùng đó là một chính sách tiền
tệ thống nhất, các biện pháp kiểm soát chu chuyển vốn và phân biệt đối xử
vốn tài chính giữa các quốc gia sẽ được hạn chế, đồng thời các biện pháp
kiểm soát tỷ giá cũng như sự biến động tỷ giá bị xóa bỏ. Nhờ vậy mà nguồn
vốn sẽ được phân bổ hiệu quả hơn nhiều trong nội bộ các nước.
Đồng thời, khi lương và thu nhập được tính bằng đồng tiền chung, lao
động cũng được phân bổ hiệu quả hơn vì có thể tự do di chuyển từ khu vực có
năng suất lao động thấp đến khu vực có năng suất lao động cao.
4
1.3.Tiết kiệm dự trữ ngoại hối và lợi ích từ việc phát hành tiền:
Khi đồng tiền chung ra đời các nước thực hiện thống nhất tiền tệ sẽ cắt
giảm giảm được số dự trữ ngoại hối dùng để giao dịch. Hơn nữa so với các
đồng tiền có mức hoạt động riêng lẻ thì đồng tiền chung có xu hướng biến
động ít hơn do trung bình của nền kinh tế được tính chung bằng một đồng tiền
thường ổn định hơn so với từng nền kinh tế đơn lẻ đối với đồng tiền riêng của
mình, vì vậy nhu cầu dự trữ ngoại hối đối với các nước sử dụng đồng tiền
chung giảm xuống.
Hơn nữa đồng tiền chung khu vực nếu trở thành một ngoại tệ mạnh
đồng nghĩa với đó là tăng thành phần của nó trong dự trữ ngoại hối các quốc
gia bên ngoài và các quốc gia trong khối sẽ thu được lợi từ việc phát hành tiền
1.4. Tiết kiệm chi phí hành chính trong kinh doanh:

Khi các nước sử dụng các đồng tiền khác nhau, chi phí hành chính
trong kinh doanh (liên quan tới quản lý rủi ro ngoại hối) có nghĩa là các công
ty phải sử dụng nguồn lực của mình để kiểm soát rủi ro ngoại hối, biến động
tỷ giá và kiểm tra chiến lược giá cả trên các thị trường khác nhau.
Bằng cách chuyển đổi sang đồng đồng tiền chung, các quốc gia thành
viên thành viên sẽ cắt giảm được một lượng chi phí khá lớn từ tiết kiệm khoản
mục này.
1.5. Tăng cường thanh khoản và hợp lý hóa thị trường tài chính:
Thị trường tài chính có thành phần chính là thị trường trái phiếu chính
phủ và thị trường cổ phiếu công ty.
Mọi khoản vay của chính phủ thành viên đểu được thực hiện bằng đồng
tiền chung làm cho thị trường trái phiếu chính phủ trở nên linh hoạt hơn, giảm
chi phí giao dịch. Thị trường cổ phiếu công ty hợp lý hóa hơn khi tất cả chính
phủ của công ty đều được niêm yết bằng một đồng tiền chung khiến giao dịch
5
trên thị trường cổ phiếu được hiệu quả, kích thích doanh số giao dịch trên thị
trường.
Do đó, thị trường tài chính hoạt động hiệu quả hơn, chính phủ và công
ty giảm được chi phí tiếp cận nguồn vốn trên thị trường tài chính.
1.6.Giá cả trở nên trung thực rõ ràng và ổn định hơn:
Khi tất cả hàng hóa và dịch vụ trong khu vực đều được yết giá bằng
một đồng tiền, các nhà sản xuất sẽ không thể duy trì chênh lệch giá giữa các
thị trường khác nhau. Đồng thời, quy luật canh tranh buộc các công ty đa
quốc gia phải áp dụng chính sách định giá hàng hóa thống nhất trên cơ sở
mức giá thấp nhất trong khu vực tiêu thụ. Do đó, người tiêu dùng sẽ được lợi
trong khi đó các công ty đa quốc gia giảm lợi nhuận.
1.7. Lợi ích riêng nếu thực hiện liên minh tiền tệ Đông Nam Á:
Những lợi ích trên có thể dễ dàng nhận thấy khi tiến hành liên minh
tiền tệ và hình thành sử dụng một đồng tiền chung ở một khu vực. Tuy nhiên,
xét trong điều kiện cụ thể của Đông Nam Á, việc hợp tác về tiền tệ còn có thể

thu được một số lợi ích khác.
Thứ nhất, khi có sự thống nhất về tiền tệ đồng nghĩa với đó là việc các
quốc gia sẽ quan tâm hơn đến chính sách vĩ mô của các quốc gia khác và có
thể đạt được sự hợp tác nhất định. Điều này có tác dụng ngăn ngừa, kiểm soát
và hạn chế tác hại khi khủng hoảng xảy ra tại một quốc gia.
Thứ hai, gần đây các nước ASEAN tăng tỷ lệ thương mại nội bộ và
cũng do các sản phẩm xuất khẩu của họ thường cạnh tranh với nhau trên các
thị trường thứ ba. Điều này khiến cho một số nước có động cơ để phá giá
nhằm tăng khả năng cạnh tranh. Do đó thay vì phá giá để tăng khả năng cạnh
tranh cho riêng hàng hoá nước mình, một cơ chế phối hợp tỷ giá hối đoái
trong khu vực có thể sẽ mang lại thế cân bằng hợp tác tốt hơn và đem lại lợi
ích cho cả các bên.
6
Thứ ba, thống nhất tiền tệ sẽ hỗ trợ các quốc gia trong việc tiếp cận
nguồn vốn từ các nước khác khi gặp khó khăn. Cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ 1997 đã cho thấy rằng các cơ chế quốc tế để hỗ trợ tài chính hiện có
(do IMF phối hợp) là không đủ đối với các nước. Các nguồn vốn do IMF nỗ
lực cung cấp chưa đủ về quy mô, tốc độ giải ngân quá chậm và thường đi kèm
với những điều kiện kinh tế vĩ mô không phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của
các quốc gia bị khủng hoảng. Do đó, thay vì tích luỹ các nguồn dự trữ ngoại
tệ lớn - một việc làm rất tốn kém, các nước ASEAN có thể tiết kiệm các
nguồn vốn đó bằng cách kết hợp các quỹ dự trữ của các nước trong khu vực
với nhau.
Bên cạnh đó, liên minh tiền tệ cũng khắc phục được những hạn chế
của chế độ tỷ giá cố định hay thả nổi mà các nước Đông Nam Á hiện nay
đang sử dụng. Đó là chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi. Khi sử
dụng đồng tiền chung, không cần thiết phải neo giá theo đồng tiền theo đồng
tiền lớn khác mà sử dụng trực tiếp đồng tiền chung này, các nước cùng nhau
điều hành chính sách tỷ giá nên khắc phục được hạn chế hai chế độ tỷ giá kia:
không bị ảnh hưởng khi đồng tiền yết giá biến động, vừa có thể ổn định và

kiểm soát được giá cả, đánh giá đúng giá trị đồng tiền theo quy luật cung cầu
2.Chi phí của việc thống nhất tiền tệ:
2.1. Mất quyền tự chủ trong hoạch định chính sách tiền tệ
Tại một thời điểm thì mỗi quốc gia có một tình trạng phát triển của nền
kinh tế khác nhau: Ở giai đoạn tăng trưởng nóng và có nguy cơ lạm phát cao,
NHTW muốn tăng lãi suất ngắn hạn để kìm hãm tốc độ phát triển kinh tế
lại.Còn ngược lại,ở giai đoạn suy thoái, NHTW lại muốn hạ lãi suất ngắn hạn
để kích thích kinh tế.
Nhưng khi có đồng tiền chung với một hệ thống tỷ giá cố định không
điều chỉnh và không hạn chế trong chu chuyển vốn sẽ dẫn đến hình thành
7
mức lãi suất ngắn hạn thống nhất giữa các thành viên. Các nước trong liên
minh trở nên gắn chặt với nhau trong một chính sách tiền tệ thống nhất và
NHTW các nước không thể tác động vào để đảm bảo lợi ích tối ưu cho quốc
gia mình trong từng giai đoạn cụ thể. Điều đó gây ra tình trạng mất tự chủ
trong chính sách tiền tệ của các quốc gia thành viên.
2.2.Mất tự chủ trong chính sách kinh tế vĩ mô
Các quốc gia có lựa chọn về mức độ lạm phát - công ăn việc làm khác
nhau .Có những nước chấp nhận mức lạm phát cao để giải quyết vấn đề việc
làm, cũng có nước muốn kìm hãm mức lạm phát ở mức vừa phải và chấp
nhận đánh đổi bằng tỷ lệ thất nghiệp cao hơn.Khi tham gia liên minh tiền tệ
một trong những yêu cầu đối với các thành viên là phải áp dụng một chính
sách kinh tễ vĩ mô nhằm bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động kinh tế.
Điều này gây ra sự mất tự chủ của các nước thành viên khi nền kinh tế rơi vào
tình trạng lạm phát và thất nghiệp ở ngoài tầm kiểm soát.
2.3.Bất bình đẳng khu vực
Việc hình thành Liên minh tiền tệ có thể khiến cho một số quốc gia thu
được lợi ích nhiều, một số quốc gia thu được lợi ích ít hơn. Nó kích thích vốn
và lao động di chuyển từ khu vực có năng suất lao động thấp đến nơi có năng
suất lao động cao. Điều này có thể tạo ra hậu quả xã hội khá nghiêm trọng là

gây thiếu hụt lực lượng lao động chính ở một số khu vực.
2. 4.Chi phí thời kỳ quá độ
Khi quyết định sử dụng đồng tiền chung các quốc gia thành viên phải
chịu chi phí gọi là chi phí thời kì quá độ bao gồm chi phí thu hồi đồng bạc
hiện hành, in đồng bạc chung, thay đổi hệ thống thông tin phù hợp với đồng
tiền chung
8
CHƯƠNG II
THỐNG NHẤT TIỀN TỆ CHÂU ÂU.
1. Tổng quan về sự ra đời và quá trình thành lập của liên minh tiền tệ
Châu Âu.
1.1. Tiến trình thống nhất tiền tệ Châu Âu.
1.1.1.Ý tưởng về một đồng tiền chung
Ngày 1/1/1999 đồng tiền chung châu Âu (đồng Euro) chính thức ra mắt
và trở thành một sự kiện lịch sử đối với quá trình nhất thể hoá châu Âu và với
sự phát triển của hệ thống tiền tệ thế giới. Tham gia đồng Euro đợt đầu có 11
nước thành viên của Liên minh châu Âu EU: Đức, Pháp, Italia, Tây Ban Nha,
Hà Lan, Áo, Bỉ, Luxemburg, Bồ Đào Nha, Phần Lan và Ailen. Ba nước Anh,
Thuỵ Điển và Đan Mạch chưa tham gia đợt này, còn Hy Lạp chưa đáp ứng đủ
các tiêu chuẩn để trở thành thành viên. Tuy nhiên ý đồ cho ra đời đồng Euro
đã xuất hiện từ rất sớm và là mục tiêu phấn đấu bền bỉ trong một thời gian dài
của EU. Vào năm 1970 lần đầu tiên ý tưởng về một liên minh tiền tệ châu Âu
được cụ thể hóa với một kế hoạch đầy tham vọng gọi là kế hoạch Werner (tên
của thủ tướng Luxemburg) nhằm lập ra một liên minh kinh tế và tiền tệ trong
vòng 10 năm. Sau thời hạn đó, cộng đồng châu Âu sẽ có một thực thể tiền tệ
riêng biệt trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Tuy nhiên hàng loạt các biến cố xảy
ra đã làm tiêu tan kế hoạch đầy tham vọng này (sự tan vỡ của hệ thống tiền tệ
Bretton Woods năm 1971, sự suy thoái kinh tế toàn cầu, khủng hoảng dầu mỏ
năm 1973...). Thay vào đó Liên minh Tỷ giá hối đoái châu Âu được thành lập
vào năm 1972 và sau đó là Hệ thống Tiền tệ châu Âu vào năm 1979. Hệ thống

tiền tệ châu Âu có nhiệm vụ tạo ra một khu vực ổn định tiền tệ ở châu Âu
tránh các dao động lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế các nước thành
9
viên xích lại gần nhau hơn. Hệ thống tiền tệ châu Âu đã vận hành khá tốt, tạo
ra một vùng tiền tệ ổn định và giảm được các rủi ro gây ra do sự biến động
tiêu cực của đồng USD và đồng Yên Nhật. Đơn vị Tiền tệ châu Âu (tiếng
Anh: European Currency Unit – ECU), một đơn vị thanh toán, ra đời vì mục
đích này và có thể xem như là tiền thân của đồng Euro.
1.1.2.Các giai đoạn thực hiện
Năm 1988 một ủy ban xem xét về lien minh kinh tế và tiền tệ dưới sự
lãnh đạo của chủ tịch Ủy ban châu Âu Jacques Delors đã soạn thảo báo cáo
Delors dự định thành lập liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu. Liên minh
này được ghi trong chương II của Hiệp ước Maastricht vào năm 1992. Tiến
trình thành lập được triển khai theo 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1( 1990 – 1993): Tạo tiền đề
Giai đoạn này bắt đầu từ 1/7/1990 và kết thúc ngày 31/12/1993 với nội
dung chủ yếu là tăng cường sự phối hợp chính sách tiền tệ quốc gia và rút
ngắn sự cách biệt về nền kinh tế của các nước thành viên. Theo lịch trình của
giai đoạn, từ 1/7/1990 tư bản được tự do lưu thông trong các nước thành viên
của EU và từ ngày 1/1/1993 thị trường nội địa bắt đầu vận hành.
Đặc biệt trong giai đoạn tạo tiền đề này là việc thực hiện Hiệp ước
Maastricht (ký ngày 7/12/1991 tại Hà Lan), với hai mục đích: kinh tế và chính
trị. Về kinh tế, hướng đến thành lập một liên minh kinh tế và tiền tệ vào cuối
thập niên 1990 với một đơn vị tiền tệ chung và một NHTW độc lập nhằm hạn
chế sự biến động của tỷ giá thực tế giữa các nước thành viên EMU và tránh
khả năng một số nước thi hành chính sách tài khoá lỏng, dẫn đến áp lực lạm
phát trong toàn bộ liên minh, thực hiện ổn định giá hoàn thành thị trường
chung thống nhất. Về chính trị: thành lập được một liên minh chính trị bao
gồm việc thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung, tăng cường
hợp tác kinh tế.

10
Như vậy sau giai đoạn này, việc lưu chuyển vốn được tự do hóa giữa
các nước trong EU.
Giai đoạn 2( 1994 – 1999): Giai đoạn chuẩn bị
Giai đoạn này bắt đầu từ ngày 1/1/1994 và kéo dài đến ngày
31/12/1998; nội dung chủ yếu là các bước tiếp tục chuẩn bị cho các nước
thành viên áp dụng đồng tiền chung như:
- Tăng cường triển khai chiến lược hội tụ về chính sách kinh tế và thị
trường giữa các nước thành viên nhằm ổn định giá.
- Hoàn chỉnh các công tác về mặt thể chế cho đồng Euro ra đời: xây
dựng bộ máy và cơ chế vận hành của NHTW Châu Âu (ECB)
- Quyết định tỷ giá chuyển đồi, tên các đơn vị tiền tệ, căn cứ vào các
tiêu chuẩn xét các nước đủ tiêu chuẩn tham gia đồng Euro đợt đầu.
Một điều đáng lưu ý trong giai đoạn này là sự ra đời cơ quan tiền thân
của ECB là Viện Tiền tệ châu Âu (EMI) với nhiệm vụ: cụ thể hóa các khuôn
khổ pháp lý,thực hiện các công việc tổ chức và hậu cần cần thiết để ECB thực
hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình trong giai đoạn thứ 3,đồng thời
chịu trách nhiệm củng cố sự phối hợp các chính sách tiền tệ trước khi hình
thành liên minh kinh tế và tiền tệ và tư vấn cho các ngân hàng quốc gia thành
viên về mặt này.
Ngày 2/5/1998, một Hội đồng họp mặt với sự tham gia của các nguyên
thủ quốc gia, bỏ phiếu quyết định việc thành viên nào sẽ áp dụng đồng Euro
bắt đầu từ giai đoạn 3. Theo đó, đến ngày 09/05/1998 Nghị viện châu Âu phê
chuẩn 11 nước đủ tiêu chuẩn và sẽ tham gia EURO lần đầu là Đức, Pháp,
Ailen, áo, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan, ý, Lucxembourg và Phần Lan. Đồng thời
ECB cũng chính thức được thành lập (1/7/1998) và bắt đầu chuẩn bị cho việc
hoạch định và thi hành một chính sách tiền tệ chung.
11
Giai đoạn 3(1/1/1999-30/6/2002): Đồng Euro chính thức đi vào lưu thông.
Từ ngày 1/1/1999, đồng Euro chính thức ra đời thay thế cho đồng ECU

và đi vào lưu thông từ song song tồn tại đến thay thế hoàn toàn các đồng bản
tệ, trở thành đồng tiền theo đúng nghĩa của nó với tỷ lệ chuyển đổi giữa đồng
tiền quốc gia của các nước thành viên với đồng Euro được ấn định không thay
đổi.
Bên cạnh đó, một cơ chế tỷ giá mới - gọi là cơ chế tỷ giá 2, ERM2 -
gắn đồng tiền các nước chưa đủ điều kiện gia nhập với đồng Euro cũng sẽ đi
vào hoạt động nhằm thúc đẩy sự hội nhập của các nước chưa đủ điều kiện với
các điều kiện kinh tế vĩ mô của khu vực đồng Euro, đồng thời giúp đảm bảo
sự ổn định của tỷ giá trong Liên minh Châu Âu nói chung.
Một số mốc thời gian đáng chú ý là : 1/1/2002, tiền giấy và tiền xu
Euro chính thức được đưa vào lưu thông, tiền giấy và tiền xu nội tệ bắt đầu
rút lui khỏi lưu thông. Ngày 28/1/2002, Hà Lan là nước đầu tiên hoàn thành
việc thay thế toàn bộ đồng tiền quốc gia cũ bằng đồng tiền chung. Ailen và
Pháp cũng kết thúc giai đoạn tồn tại song song của hai đồng tiền vào ngày 9/2
và 17/2/2002. Với 9 nước còn lại, thời kỳ này đồng loạt chính thức kết thúc
vào ngày 28/2.
1.2. Điều kiện hình thành một liên minh tiền tệ rút ra từ quá trình thống
nhất tiền tệ Châu Âu .
1.2.1.Hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa, vốn và sức lao động:
Để hình thành một khu vực tiền tệ thống nhất Liên minh tiền tệ Châu
Âu (EMU) đã tuần tự trải qua các giai đoạn phát triển từ thấp đến cao trước
khi đạt tới trình độ của một liên minh kinh tế và tiền tệ. Các giai đoạn đó là:
khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, giai đoạn
hài hoà và phối hợp chính sách kinh tế và cuối cùng là một liên minh kinh tế
hoàn chỉnh với một số chính sách kinh tế được hoạch định ở cấp độ khu vực.
12
Hoàn thành ba giai đoạn đầu chính là đã hình thành được một thị trường
thống nhất về hàng hoá, vốn và sức lao động.
Cụ thể trong trường hợp của châu Âu, hai giai đoạn đầu: khu vực
thương mại tự do và liên minh thuế quan được hoàn thành một cách nhanh

chóng.
Khoảng năm 1960, các nước đã cam kết cắt giảm, xóa bỏ hàng rào thuế
quan, phi thuế quan với nhau. Kết quả tính đến ngày 1/7/1968, tất cả các hàng
rào thuế quan về số lượng đối với hàng hoá và dịch vụ xuất và nhập khẩu đã
được dỡ bỏ. Tuy nhiên, việc xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan như các tiêu
chuẩn về y tế, vệ sinh, an toàn, kỹ thuật thì gặp nhiều khó khăn hơn do đó, dỡ
bỏ các hàng rào này đòi hỏi phải phối hợp nhiều chính sách và luật lệ chứ
không chỉ đơn giản là cắt giảm thuế như trường hợp các hàng rào thuế quan.
Phải đến giữa những năm 1980, Cộng đồng châu Âu mới đạt được những tiến
bộ quan trọng trong lĩnh vực này.
Giai đoạn thứ ba "thị trường chung" (ngoài việc tự do hóa thương mại,
tự do hóa dịch vụ, bảo hộ đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử, liên minh thuế
quan còn cộng thêm các yếu tố như tự do di chuyển các yếu tố sản xuất như :
vốn, lao động…giữa các nước thành viên) được coi là chính thức hoàn thành
ngày 31/12/1992. Tuy nhiên, kể cả cho tới ngày hôm nay, vẫn còn nhiều lĩnh
vực như dịch vụ tài chính, năng lượng, viễn thông... cần được tiếp tục cải cách
để thị trường của Liên minh châu Âu thực sự là một thị trường chung.
1.2.2. Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo tiêu chí
thống nhất
Cụ thể Hiệp ước Masstricht năm 1991 đã đề ra thời gian biểu chi tiết và
những điều kiện để các nước tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình hội
nhập tiền tệ châu Âu. Nội dung của Hiệp ước như sau :
13
- Đạt được mức độ ổn định cao về giá cả, thể hiện ở tỷ lệ lạm phát
(trong 12 tháng trước đó) không quá 1,5% so với tỷ lệ lạm phát của 3 nước
thành viên có tỷ lệ lạm phát thấp nhất.
- Duy trì tỷ lệ lãi suất dài hạn ổn định sao cho trung bình của thời kỳ
mười hai tháng trước đó không quá 2% so với mức trung bình của ba nước
thành viên có giá cả ổn định nhất khu vực.
- Tuân thủ biên độ dao động bình thường mà cơ chế tỷ giá hối đoái của

EMS cho phép cụ thể là một nước thành viên không được chủ ý phá giá đồng
tiền của mình so với tỷ giá trung tâm với một đồng tiền của một nước khác.
- Duy trì tình hình tài chính của chính phủ ổn định, ngân sách chính
phủ thâm hụt không quá 3% GDP và tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP không vượt
quá 60%.
Có thể thấy hai nội dung đầu tiên của Hiệp ước Masstricht nhằm hạn
chế sự biến động của tỷ giá thực tế khi tỷ giá danh nghĩa đã được biến động.
Nội dung thứ ba đã buộc các nước thành viên tương lai khi hoạch định chính
sách tiền tệ phải cân nhắc đến lợi ích của cả khối mà không chỉ là lợi ích của
nước mình. Nội dung cuối cùng là để tránh sự mất cân đối của một nước
thành viên ảnh hưởng tiêu cực đến một nước thành viên khác thông qua áp
lực thực hiện chính sách tiền tệ lỏng quá mức hay thậm chí là cho vay để cứu
nguy cho chính phủ nước đó. Bên cạnh đó các điều kiện này còn nhằm tạo ra
một môi trường ổn định giá cả và dần dần chuyển các chính sách kinh tế vĩ
mô từ phục vụ lợi ích của từng nước sang phục vụ lợi ích của cả liên minh.
Như vậy, điều chỉnh kinh tế để hội nhập là một tiền đề quan trọng để tránh sự
bất ổn định về kinh tế vĩ mô và do đó, là một yêu cầu quan trọng trong giai
đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của một đồng tiền chung.
14
1.2.3. Thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá
Trước khi đồng Euro ra đời và cùng với nó là một cơ chế liên kết tỷ giá
chặt chẽ và hiệu quả, cộng đồng Châu Âu cũng đã từng xuất hiện nhiều cơ
chế liên kết tỷ giá để hỗ trợ cho việc phát triển kinh tế của các nước thành
viên:
Giai đoạn đầu tiên là từ khi bắt đầu thành lập Cộng đồng vào năm 1957
cho đến khi thiết lập Hệ thống tiền tệ châu Âu năm 1979. Sự phối hợp trên
lĩnh vực tỷ giá hối đoái ở giai đoạn này nhìn chung còn lỏng lẻo. Sau khi hệ
thống Bretton Woods sụp đổ và cuộc khủng hoảng dầu lửa lần thứ nhất nổ ra
năm 1973, các nước đã không thể thống nhất được về một biện pháp đối phó
chung. Mỗi nước tự đưa ra chính sách tài khoá và tiền tệ riêng của mình để

đối phó và tỷ giá hối đoái càng trở nên bất ổn định. Cuối cùng, các nước áp
dụng chính sách kinh tế vĩ mô lỏng đã buộc phải thả nổi đồng tiền của mình.
Giai đoạn thứ hai đánh dấu bằng sự ra đời của Hệ thống tiền tệ châu Âu
(ECU) và kéo dài đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng cơ chế tỷ giá ERM vào
năm 1992-1993. Trong giai đoạn này, các nước châu Âu đã đạt được một mức
độ phối hợp đáng kể trong lĩnh vực chính sách tài chính, tiền tệ. Giai đoạn
đầu của Hệ thống tiền tệ châu Âu gặp phải những vấn đề khó khăn, các nước
thành viên liên tục phải điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Dần dần, với một ngân
hàng trung ương độc lập và chính sách tiền tệ theo đuổi mục tiêu ổn định giá
cả, đồng Mark Đức đã trở thành nước neo giá danh nghĩa cho đồng tiền các
nước trong hệ thống.Thời kỳ cuối của giai đoạn này đã chứng kiến một cuộc
khủng hoảng tỷ giá, Italia và Anh rời bỏ cơ chế tỷ giá còn biên độ dao động
của các nước còn lại được mở rộng tới ±15%.
Giai đoạn thứ ba bắt đầu từ năm 1993 và kéo dài cho tới nay. Đây là
giai đoạn phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô thành công với các mục tiêu
chung về các chính sách tài khoá, tiền tệ, và tỷ giá hối đoái theo Hiệp ước
15
Masstrict. Việc biên độ dao động được mở rộng tới ±15% vào tháng 8/1993
đã cho phép các nước có được một sự linh hoạt nào đó trong vấn đề tỷ giá,
giảm bớt sự căng thẳng của thị trường ngoại hối và nguy cơ các cuộc tấn công
đầu cơ. Giai đoạn này đem lại một bài học bổ ích cho bất cứ nhóm nước nào
xem xét việc thành lập một liên minh tiền tệ trong tương lai
1.2.4.Tạo lập một đồng tiền khu vực và hình thành một ngân hàng trung ương
độc lập với chính sách tiền tệ thống nhất.
Một liên minh tiền tệ không thể tồn tại nếu thiếu một đồng tiền chung.
Cũng như vậy, ở liên minh tiền tệ châu Âu, đồng tiền chung với tên gọi đồng
Euro đã được phát triển từ đơn vị kế toán của châu Âu lên thành đơn vị tiền tệ
châu Âu, đồng Euro không chỉ được sử dụng để tính toán mà còn được sử
dụng làm giá trị trung tâm của cơ chế tiền tệ châu Âu, làm phương tiện thanh
toán trong các giao dịch giữa các NHTW trong Cộng đồng.

Đồng thời ra đời NHTW Châu Âu ECB với mục tiêu quan trọng nhất là
duy trì sự ổn định giá cả của toàn khu vực đồng Euro, qua đó, tạo ra một môi
trường ổn định để khuyến khích các hoạt động kinh tế, tạo công ăn việc làm,
và nói một cách tổng quát là tăng phúc lợi xã hội, do đó, sẽ góp phần đạt được
các mục tiêu chung của Cộng đồng.
Bên cạnh đó ngân hàng trung ương của liên minh và hệ thống các ngân
hàng trung ương quốc gia phải đảm bảo sự độc lập trong quá trình hoạch định
và thực thi các nhiệm vụ về chính sách tiền tệ của mình để có thể thực hiện
mục tiêu ổn định giá cả một cách hiệu quả.
1.3. Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ của liên minh tiền tệ Châu Âu
1.3.1. Bộ máy hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ của liên minh tiền tệ
châu Âu
Một trong những mục tiêu trọng tâm của các nước thành viên khi xây
dựng liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu (EMU) chính là tạo ra một đồng
16
tiền chung và một chính sách tiền tệ thống nhất. Do đó, kể từ ngày 1/1/1999,
khi đồng EURO chính thức được ra đời và đưa vào lưu hành, đi kèm với nó là
hoạt động quản lí và vận hành chính sách tiền tệ để tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển ổn định của đồng tiền chung. Công việc này được thực hiện
thông qua hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu (ESCB).
ESCB – European System of Central Banks là hệ thống bao gồm có
ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) và các ngân hàng trung ương (NCBs)
của 27 quốc gia thành viên của EMU trong đó ECB đóng vai trò đầu não tối
quan trọng trong việc ra các quyết định đối với các chính sách tiền tệ.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng không phải tất cả các quốc gia EU đều đã gia
nhập đồng EURO, do đó, ESCB không thể được sử dụng như là cơ quan tiền
tệ của khi vực đồng Euro. Vì lí do này mà Eurosystem (không bao gồm các
NCBs chưa sử dụng Euro như là loại tiền tệ duy nhất chính thức) đã trở thành
tổ chức phụ trách những nhiệm vụ mà về nguyên tắc phải được quản lý bởi
ESCB. Hiện nay bộ máy Eurosystem bao gồm có ECB chịu trách nhiệm xây

dựng chính sách tiền tệ và các ngân hàng trung ương quốc gia chịu trách
nhiệm thực thi các chính sách đó. Cơ chế vận hành của Eurosystem có thể
tóm tắt qua bảng sau:
17
Theo quy định của hiệp ước thành lập liên minh châu Âu và Điều lệ của
ESCB cùng với ECB thì mục tiêu chính của Eurosystem là duy trì ổn định giá
cả (nói cách khác là kiểm soát lạm phát) trong khu vực các nước thành viên
sử dụng đồng Euro, đồng thời, có trách nhiệm hỗ trợ thực hiện các chính sách
kinh tế chung trong cộng đồng, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải
quyết việc làm. Các nhiệm vụ cơ bản của Eurosystem là:
- Quyết định và thi hành các chính sách tiền tệ khu vực đồng Euro.
- Tiến hành các hoạt động ngoại hối.
- Quản lý chính thức nguồn dự trữ ngoại hối của các nước thành viên.
- Thúc đẩy hoạt động của hệ thống thanh toán thông suốt.
Các chức năng tiền tệ và hoạt động cụ thể là:
- Mở tài khoản của ECB và các ngân hàng trung ương quốc gia tại các
tổ chức tín dụng, các tổ chức công cộng và các tổ chức tham gia thị trường
khác.
NHTƯ châu Âu (ECB)
Hội đồng quản trị
- Xây dựng CSTT chung
Đại hội đồng:
- Tư vấn cho ECB
- Thu thập thông tin thống kê.
Ban chấp hành
- Thực thi các CSTT
Các thống đốc của các
NHTƯ quốc gia.
Các NHTƯ quốc
gia thành viên.

18
- Mở cửa thị trường và hoạt động tín dụng.
- Yêu cầu thiết lập tổ chức tín dụng tại các nước thành viên để nắm giữ
dự trữ tối thiểu.
- Quan hệ với các chủ thể công cộng.
- Đưa ra các quy định đảm bảo hiệu quả và tính vững chắc cho hệ thống
thanh toán bù trừ.
- Hợp tác với ngân hàng trung ương và tổ chức tín dụng của các nước
thứ ba và các tổ chức quốc tế.
Ngoài ra, Eurosystem góp phần vào việc tiến hành các chính sách liên
quan đến việc giám sát các tổ chức tín dụng và ổn định hệ thống tài chính.
Quá trình ra quyết định trong Eurosystem là tập trung thông qua các cơ
quan ra quyết định của ECB, cụ thể là Hội đồng quản trị, Ban chấp hành và
Đại hội đồng.
Hội đồng quản trị là cơ quan ra quyết định cao nhất, bao gồm sáu thành
viên của Ban chấp hành và tất cả thống đốc các ngân hàng trung ương các
nước trong khu vực đồng Euro. Trách nhiệm chính của Hội đồng quản trị bao
gồm:
- Thông qua các nguyên tắc chỉ đạo và đưa ra quyết định cần thiết cho
hoạt động của Eurosystem
- Xây dựng các chính sách tiền tệ của khu vực đồng Euro bao gồm các
quyết định liên quan đến các mục tiêu trung gian tiền tệ, đến lãi suất chủ chốt
và vấn đề cung cấp dự trữ trong Eurosystem và thiết lập các hướng dẫn thi
hành.
Theo đó, Hội đồng quản trị có thể thiết lập mức lãi suất mà các ngân
hàng thương mại có thể vay tiền từ ngân hàng trung ương của họ thông qua
đó có tác động gián tiếp đến lãi suất trong cả khu vực kinh tế sử dụng đồng
Euro.
19
Ban chấp hành bao gồm Chủ tịch và Phó chủ tịch của ECB và bốn

thành viên khác được chính phủ các nước tham gia khu vực đồng Euro chỉ
định. Ban chấp hành thực hiện chính sách tiền tệ theo quyết định của Hội
đồng quản và cung cấp các hướng dẫn cần thiết cho các ngân hàng trung ương
quốc gia.
Đại hội đồng là cơ quan ra quyết định thứ ba của Eurosystem. Nó bao
hồm chủ tịch và Phó chủ tịch của ECB và thống đốc ngân hàng trung ương
của tất cả các thành viên EU. Trách nhiệm của Đại hội đồng là thực hiện tư
vấn cho ECB, thu thập thông tin thống kê cho hoạt động báo cáo của ECB,
thiết lập các quy tắc cần thiết cho việc chuẩn hóa quy trình kế toán và báo cáo
thực hiện cho các NCBs…
Eurosystem là một tổ chức độc lập với ủy ban châu Âu trong hoạch
định chính sách tiền tệ. Khi thực hiện nhiệm vụ, tất cả các bộ phận từ ECB
đến các ngân hàng trung ương quốc gia đều không thể bị ảnh hưởng bởi các
quyết định bên ngoài. Điều lệ của ESCB cung cấp cho họ các biện pháp
để đảm bảo an ninh cho nhiệm kỳ của các thống đốc ngân hàng trung
ương quốc gia và các thành viên của ban chấp hành. Ví dụ như: không
thể bãi miễn chức thống đốc ECB trừ trường hợp không đủ năng lực
hoặc có hành vi sai trái nghiêm trọng, nhiệm kỳ tối thiểu của thống đốc
các NCBs là 5 năm và nhiệm kỳ thực hiện cho các thành viên của Ban
chấp hành tối thiểu là 8 năm…. Điều này ngăn ngừa hữu hiệu việc lạm
dụng tiền tệ để tài trợ cho các mục tiêu quân sự, chính trị, là nguồn gốc
của lạm phát và bất ổn tiền tệ.
Về hoạt động của ECB, ngân hàng trung ương châu Âu có số vốn
vào khoảng 5000000000 €. Các NCBs là chủ thể đóng góp và là chủ sở hữu
vốn của ECB. Sự đóng góp về vốn được dựa trên cơ sở là tỷ trọng GDP và
dân số của các quốc gia. Các ngân hàng trung ương nước ngoài tham gia phải
20
trả đến 7% số vốn đóng góp như một sự chi trả cho chi phí hoạt động. Ngoài
ra, NCBs của các nước thành viên tham gia trong khu vực đồng euro đã cung
cấp cho ECB một khoản tài sản dự trữ nước ngoài lên đến 40000000000 €.

Các khoản đóng góp của mỗi NCB được cố định theo tỷ lệ vốn cổ phần của
mình đăng ký trong ECB.
Trong quá trình hoạt động của mình, về mặt nghiệp vụ, ECB phải xác
định các mục tiêu trung gian mang tính kỹ thuật như: khối lượng tiền phát
hành, tỷ giá, lãi suất…và các mục tiêu này được xác định hoàn toàn độc lập.
Các công cụ củ yếu được ECB sử dụng để đạt được mục tiêu là nghiệp vụ thị
trường mở, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ cho vay để bù đắp thâm hụt thường
xuyên…
Bên cạnh đó, các nhà hoạch định chính sách tiền tệ châu Âu đã thiết kế
khá đầy đủ các cơ chế, quy định để thực thi chính sách tiền tệ chung thống
nhất và đưa EMU vận hành như: cơ chế đổi tiền, cơ chế thanh toán, cơ chế tỷ
giá với các nước trong EU chưa tham gia vào EMR II, cơ chế giám sát tài
chính công và ngân sách lành mạnh, cơ chế báo động, cơ chế phạt….
1.3.2. Các quy định cơ bản trong thời kỳ chuyển đổi.
1.3.2.1 Tỷ giá chuyển đổi:
Từ ngày 31/12/1998 tỷ giá chính thức của các đồng tiền các nước thành
viên được xác định theo cơ chế tỷ giá cũ (ERM I) công bố tháng 5/1998 được
sử dụng như tỷ giá chuyển đổi song phương cho các nước thành viên tham
gia.
21
Đơn vị tiền tệ Ký hiệu Tỷ giá Thay đổi Hoàn thành
Schilling Áo
ATS
13,7603 31 tháng 12 năm 1998 2002
Franc Bỉ
BEF
40,3399 31 tháng 12 năm 1998 2002
Gulden Hà Lan
NLG
2,20371 31 tháng 12 năm 1998 2002

Markkaa Phần Lan
FIM
5,94573 31 tháng 12 năm 1998 2002
Franc Pháp
FRF
6,55957 31 tháng 12 năm 1998 2002
Mark Đức
DEM
1,95583 31 tháng 12 năm 1998 2002
Pound Ireland
IEP
0,787564 31 tháng 12 năm 1998 2002
Lira Ý
ITL
1.936,27 31 tháng 12 năm 1998 2002
Franc Luxembourg
LUF
40,3399 31 tháng 12 năm 1998 2002
Escudo Bồ Đào Nha
PTE
200,482 31 tháng 12 năm 1998 2002
Peseta Tây Ban Nha
ESP
166,386 31 tháng 12 năm 1998 2002
Drachma Hy Lạp
GRD
340,750 19 tháng 6 năm 2000 2002
Tolar Slovenia
SIT
239,640 11 tháng 7 năm 2006 2007

Pound Síp
CYP
0,585274 10 tháng 7 năm 2007 2008
lira Malta
MTL
0,429300 10 tháng 7 năm 2007 2008
Koruna Slovak
SKK
30,1260 8 tháng 7 năm 2008 2009
Ban đầu, đồng Euro tồn tại như là tiền để thanh toán trong kế toán
(chưa có tiền mặt): đồng Euro về mặt hình thức trở thành tiền tệ của các nước
thành viên, các tiền tệ quốc gia có địa vị là một đơn vị dưới Euro và có tỷ giá
cố định không đổi. Tỷ giá này được quy định bao gồm có 6 con số. Sau đó,
các tiền tệ là thành viên chỉ được phép tính chuyển đổi với nhau thông qua
đồng Euro, tức là trước tiên phải tính chuyển từ tiền tệ khởi điểm sang Euro
và sau đấy từ Euro sang tiền tệ muốn chuyển đổi.
1.3.2.2. Cơ chế tỷ giá mới (EMR II)
Hội đồng châu Âu tại Amsterdam tháng 6/1997 đã thông qua quyết
định hình thành cơ chế tỷ giá mới thay thế cho hệ thống tiền tệ châu Âu
(EMS) hiện hành. Trên cơ sở đó, viện tiền tệ châu Âu (EMI) chuẩn bị một
thỏa ước về cơ chế tỷ giá mới giữa các nước thành viên khu vực đồng Euro và
22
các nước ngoài khu vực trong đó quy định đối với ngân hàng tất cả các nước
thành viên đều phải:
- Báo cáo thường xuyên các hoạt động can thiệp đến hối đoái và các
hoạt động hối đoái khác.
- Cần có sự chấp nhận của ngân hàng trung ương ECB và các NCBs
không tham gia về các hoạt động can thiệp hoặc các giao dịch lớn bằng các
đồng tiền quốc gia vượt quá mức độ giới hạn đã được thỏa thuận và có thể
ảnh hưởng đến hoạt động thị trường hối đoái.

Tỷ giá chính thức giữa các đồng tiền quốc gia trong cơ chế EMR II với
đồng Euro được ECB xác định với biên độ giao động cho phép là +/- 1,5%
(tuy nhiên biên độ này có thể thu hẹp trong quá trình hội tụ kinh tế để tham
gia vào khu vực đồng tiền chung của các nước thành viên còn lại. Trong quan
hệ tỷ giá đồng Euro là đồng yết giá)
Để đảm bảo tỷ giá nằm trong biên độ này, ECB và NCBs của các quốc
gia thành viên ngoài khi vực đồng Euro thực hiện can thiệp không hạn chế và
tự động thông qua sử dụng các công cụ tài trợ vốn ngắn hạn. Tuy nhiên mức
độ can thiệp cũng như sự cần thiết can thiệp còn tùy thuộc vào ảnh hưởng của
nó đến mục tiêu ổn định giá cả.
23
1.3.2.3. Hệ thống thanh toán.
Mỗi quốc gia thành viên có ít nhất một hệ thống thanh toán đồng Euro
để thực hiện các giao dịch nội địa. Để thực hiện các giao dịch giữa các quốc
gia, các thành viên có thể lựa chọn nhiều phương thức thanh toán như: lựa
chọn một ngân hàng đại lý với 1 tài khoản đồng Euro để hạch toán các khoản
giao dịch bằng đồng Euro với tất cả thành viên khác, duy trì một tài khoản
được mở tại một ngân hàng đại lý của một số quốc gia để hạch toán các giao
dịch với quốc gia đó hay thực hiện chi trả trực tiếp thông qua hệ thống thanh
toán theo thời gian thực tế với một trung tâm thanh toán toàn lãnh thổ hoặc
thông qua hệ thống thanh toán bù trừ của hiệp hội Ngân hàng khu vực (EBA).
Trên thực tế đã có một trung tâm thanh toán cho toàn lãnh thổ EMU là
TARGET được nối mạng trực tiếp với các trung tâm thanh toán quốc gia cho
phép các khoản giao dịch giữa các quốc gia thành viên có thể thực hiên trong
một ngày. Hệ thống này thực sự là kênh để điều chỉnh mức độ thanh khoản
giữa các khu vực khác nhau để xử lý nhanh chóng các khoản chi trả với khối
lượng lớn.
3. Thực trạng hoạt động của đồng Euro.
Sau khoảng 11 năm được chính thức đưa vào hoạt động (kể từ ngày
1/1/1999 cho tới nay) với 16 quốc gia đã sử dụng Euro làm đơn vị tiền tệ

chính thức trong lưu thông của mình, khu vực đồng tiền chung Châu Âu
(Eurozone) phát triển ngày một lớn mạnh. Đồng Euro đã trở thành một công
cụ thanh toán toàn cầu, trở thành đối trọng với đồng USD Mỹ. Nhìn lại thời
gian hoạt động trong 11 năm vừa qua, chúng ta đã có thể đánh giá được phần
nào hiệu quả của việc sử dụng đồng Euro trên lãnh thổ các quốc gia liên minh
châu Âu EU.
24
3.1Những thành tựu đạt được :
3.1.1. Đối với các nước thành viên:
Việc 11 nước ban đầu tham gia liên minh tiền tệ châu Âu (EMU) với 290
triệu dân đã hình thành một thị trường rộng lớn trên thế giới với một nền kinh
tế tương đối phát triển. Nhờ có mối liên kết chặt chẽ hơn, các nước EU trở
thành một khối kinh tế vững mạnh hơn, do đó địa vị của EU được nâng cao
hơn, nhất là trong quan hệ với Mỹ. Để gia nhập EMU các nước thành viên đã
phải thỏa mãn rất nhiều qui định chặt chẽ về lạm phát, lãi suất dài hạn, thâm
hụt ngân sách và tỷ giá… Nhìn chung, điều này có tác dụng thúc đẩy các
nước thành viên phát triển để tránh bị tụt hậu so với các nước thành viên khác
và vi phạm những qui định được đặt ra ban đầu. Nhờ vậy, nền kinh tế các
nước thuộc khu vực Eurozone đã có những bước tiến nhất định.
3.1.1.1.Nền kinh tế được kích thích tăng trưởng:
Nhờ những tác động tích cực của việc hình thành một thị trường thống
nhất về hàng hóa, vốn và sức lao động đã giúp các nước Eurozone tận dụng
được hiệu quả những nguồn lực sẵn có cũng như tận dụng các nguồn lực bên
ngoài cho việc phát triển kinh tế.
Vì sử dụng một đơn vị tiền tệ chung nên trao đổi hàng hóa nên giao
dịch giữa các nước trong nội bộ của khối diễn ra thuận tiện và dễ dàng hơn,
không tốn kém chi phí cho hoạt động giao dịch ngoại hối, các doanh nghiệp
khi thực hiện kí kết các hợp đồng thương mại cũng không cần lo lắng về vấn
đề biến động của tỷ giá, nhờ vậy, làm cho các hoạt động thương mại giữa các
quốc gia trong khu vực diễn ra mạnh mẽ. Biểu hiện của điều này là sự gia

tăng của tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong nội bộ của khối.
Việc di chuyển dễ dàng của vốn và đồng nhất về đồng tiền giúp các nhà
đầu tư có thêm nhiều lựa chọn cũng như dễ dàng so sánh được mức lợi nhuận
thu được từ các dự án đầu tư khác nhau, trên những vùng khác nhau để đưa ra
25

×