Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Nâng cao kim ngạch xuất khẩu gạo tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.32 MB, 89 trang )

TRƯờNG ĐạI HọC KINH Tế QUốC DÂN
* * *
Hoàng tuấn anh
Nâng cao kim ngạch xuất khẩu gạo tại Công
ty
cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu t
vilexim
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh tổng hợp
LUậN VĂN THạC Sỹ QUảN TRị KINH
DOANH
Ngời hớng dẫn khoa học
GS.TS. NGUYễN ĐìNH PHAN
Hà Nội - 2011
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
* Hình 1.1 : Sơ đồ các kênh tiêu thụ lúa gạo tại Việt Nam
* Hình 2.1 : Sơ đồ cơ cấu tổ chức Công ty VILEXIM
* Hình 2.2 : Kim ngạch xuất khẩu gạo 2005 – 1010
* Hình 2.3 : Lượng gạo xuất khẩu 2005- 1010
* Hình 2.4 : Cơ cấu xuất khẩu gạo theo loại năm 2010
* Hình 2.5 : Cơ cấu thị trường xuất khẩu năm 2007 và 2010
* Hình 2.6 : Mô hình công tác tổ chức thu mua tạo nguồn
* Hình 2.7 : Quá trình thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty
* Hình 3.1 : Chuỗi liên kết sản phẩm gạo trong chiến lược xây dựng thương
hiệu gạo xuất khẩu
* Bảng 1.1 : Diện tích, năng suất, sản lượng lúa Việt Nam 2001 – 2010
* Bảng 1.2 : Vị trí của Việt Nam trong xuất khẩu gạo thế giới
* Bảng 1.3 : Khối lượng, giá và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam giai
đoạn 2001 – 2010
* Bảng 1.4 : Gạo xuất khẩu của Việt Nam 2008 – 2009 phân theo khu vực


* Bảng 2.1 : Kim ngạch xuất khẩu gạo
* Bảng 2.2 : Lượng gạo xuất khẩu
* Bảng 2.3 : Cơ cấu gạo xuất khẩu
* Bảng 2.5 : So sánh kim ngạch xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp giai đoạn
2007-2010
* Bảng 2.6 : Tỷ suất lợi nhuận gạo xuất khẩu ủy thác và xuất khẩu trực tiếp
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
* IRRI: Viện lúa quốc tế
* VFA: Hiệp hội lương thực Việt Nam
* IFPRI: Viện nghiên cứu chính sách lương thực quốc tế
* USD: Đô la Mỹ
* VNĐ: Việt Nam Đồng
* L/C: Thư tín dụng
* SGS: Công ty giám định độc lập quốc tế
* FOB: Một điều kiện trong Incoterms có nghĩa : Giao hàng lên tàu
* CIF: Một điều kiện trong Incoterms có nghĩa : Giá thành, bảo hiểm và
cước phí
TRƯờNG ĐạI HọC KINH Tế QUốC DÂN
* * *
Hoàng tuấn anh
Nâng cao kim ngạch xuất khẩu gạo tại công
ty
Cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu t
vilexim
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh tổng hợp
tóm tắt LUậN VĂN THạC Sỹ
Hà Nội - 2011
Từ đặc điểm nước ta là một nước nông nghiệp với 70% lực lượng lao
động hoạt động trong ngành nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta đã xác định
nông sản là mặt hàng xuất khẩu chiến lược nhằm giải phóng lực lượng lao

động nhàn rỗi rất lớn trong nông nghiệp, phân công lại lực lượng lao động và
tạo nguồn vốn ban đầu cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước. Trong những năm qua, gạo là một trong số những mặt hàng xuất
khẩu chiến lược mang lại nguồn thu rất lớn cho ngân sách, đóng vai trò rất lớn
trong cán cân xuất nhập khẩu của nước ta.
Thấy rõ tầm quan trọng của đẩy mạnh xuất khẩu gạo đối với một doanh
nghiệp xuất nhập khẩu có truyền thống trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản như
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM, tác giả quyết
định lựa chọn đề tài: "Nâng cao kim ngạch xuất khẩu gạo tại Công ty cổ phần
xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM".
Thực hiện đề tài này tác giả dự định nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu
gạo tại Công ty VILEXIM. Tuy nhiên, trong quá trình thực tế nghiên cứu, do
nội dung vấn đề nghiên cứu khá phức tạp và khá rộng mà thực tế công tác tại
Công ty VILEXIM không có đủ thông tin để phân tích đánh giá, vì vậy, tác
giả tập trung nghiên cứu kỹ về vấn đề nâng cao kim ngạch xuất khẩu gạo tại
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM.
Nội dung chính của đề tài bao gồm 3 phần :
Phần 1: Các vấn đề lý luận về vai trò của xuất khẩu gạo và các nhân tố
ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam
Phần 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu gạo của Công ty cổ phần xuất
nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM
Phần 3: Tác giả đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao kim ngạch xuất
khẩu gạo tại Công ty VILEXIM.
i
Luận văn là kết quả nghiên cứu độc lập của tác giả. Qua quá trình nghiên
cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động xuất khẩu gạo của Công ty cổ
phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM, trong luận văn, tác giả đã
nêu được một số vấn đề như sau:
Thứ nhất: Luận văn đã nêu được khái quát về tình hình sản xuất và xuất
khẩu lúa gạo của Việt Nam, điều này thể hiện ở những khía cạnh sau:

Một là, tác giả đã làm rõ về đặc điểm về sản xuất của ngành lúa gạo và
hệ thống các kênh tiêu thụ lúa gạo của Việt Nam.
Hai là, tác giả đã khái quát được vai trò của hoạt động kinh doanh xuất
khẩu gạo trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế đất nước.
Ba là, tác giả đã tổng hợp số liệu từ năm 2001 – 2010 về tình hình sản
xuất lúa gạo của Việt Nam bao gồm diện tích, năng suất, sản lượng và tình
hình xuất khẩu gạo về khối lượng, giá cả và kim ngạch, đồng thời cho thấy vị
trí của Việt Nam trong xuất khẩu gạo thế giới.
Bốn là, tác giả nêu lên một số thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt
Nam trong những năm qua như: Indonesia, Malaysia, Philippin, Singapore,
Irắc, Cuba
Năm là, tác giả đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo
của các doanh nghiệp Việt Nam: yếu tố thời tiết khí hậu; chính sách an ninh
lương thực; chất lượng gạo xuất khẩu; yếu tố mùa vụ; giá cả, bao gói mẫu mã;
khả năng tiếp cận tín dụng xuất khẩu.
Sáu là, tác giả đã tổng hợp sơ bộ kinh nghiệm kinh doanh xuất khẩu gạo
của một số nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới như: Thái Lan, Ấn Độ,
Mỹ.
Thứ hai, tác giả nghiên cứu khá sâu sắc về quá trình hình thành và phát
triển của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM, thực
ii
trạng tình hình xuất khẩu gạo của Công ty VILEXIM trong những năm gần
đây, trong đó phân tích các vấn đề cụ thể sau :
Một là, tác giả giới thiệu về quá trình hình thành và phát triển của Công
ty cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM. Phân tích số liệu về
kim ngạch, lượng gạo xuất khẩu, cơ cấu mặt hàng gạo xuất khẩu, cơ cấu thị
trường để thấy được tình hình kinh doanh xuất khẩu gạo của Công ty.
Hai là, qua những phân tích tổng quan tình hình xuất khẩu gạo của Công
ty, chỉ rõ kim ngạch xuất khẩu gạo của Công ty tăng qua từng năm và trở
thành mặt hàng xuất khẩu chính, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch

xuất khẩu của Công ty do được Ban Giám đốc công ty quan tâm chú trọng,
thúc đẩy xuất khẩu.
Ba là, phân tích cơ cấu xuất khẩu gạo cả về chủng loại và thị trường
trong đó chỉ trong năm 2009, 2010 Công ty đã xuất khẩu gạo sang 11 thị
trường, gần gấp đôi so với năm 2007
Bốn là, phân tích quy trình xuất khẩu gạo từ khâu nghiên cứu thị trường,
thu mua tạo nguồn đến khâu giao hàng và lập chứng từ thanh toán đòi tiền
khách ngoại.
Công tác nghiên cứu thị trường chưa được thực hiện một cách nghiêm
túc, thu thập thông tin thị trường gần như không có do còn thiếu cán bộ trong
bộ phận tổng hợp marketing. Tuy Công ty đã thành lập một số trạm mua hàng
và cử cán bộ xuống tận địa phương nhưng mối quan hệ của Công ty với địa
phương còn lỏng lẻo, vẫn phải qua nhiều thương lái trung gian. Do chưa đủ
phương tiện để kiểm tra chất lượng hàng hóa nên nhiều khi còn định tính, phụ
thuộc kinh nghiệm của cán bộ nhận hàng. Khâu giao hàng, lập chứng từ thanh
toán ngân hàng đang được Công ty thực hiện tốt, do cán bộ có kinh nghiệm
đảm nhận nên ít xảy ra sai lỗi dẫn đến bị khách ngoại trừ tiền hay từ chối
thanh toán.
iii
Năm là, chỉ ra những ưu điểm của xuất khẩu gạo trực tiếp như: lợi nhuận
cao, nắm bắt được thông tin thị trường, chủ động trong công tác giao nhận
vận chuyển và bán hàng.
Sáu là, tác giả đã tổng kết lại những thành tựu đã đạt được trong xuất
khẩu gạo của Công ty VILEXIM trong những năm vừa qua, nêu những mặt
hạn chế cần phải sửa chữa và lấy đó làm cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao kim ngạch xuất khẩu gạo của Công ty.
Thứ ba, từ những hạn chế được phân tích ở trên tác giả đưa ra một số
biện pháp nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu gạo của Công ty VILEXIM:
Một là, đề xuất một số định hướng để Công ty có thể tổ chức tốt công tác
nghiên cứu thị trường, nắm bắt thông tin thị trường, phát huy được vai trò của

Phòng Tổng hợp Marketing trong việc cung cấp thông tin cho các phòng ban
chi nhánh của Công ty và Ban giám đốc trong việc ra các quyết định kinh
doanh.
Hai là, đưa ra một số biện pháp nhằm thực hiện tốt công tác thu mua lúa
gạo xuất khẩu, đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu của công ty luôn ổn định và
đạt tiêu chuẩn chất lượng gạo xuất khẩu.
Ba là, hoàn thiện hệ thống kho bãi tại Cần Thơ, đầu tư cho công tác dự
trữ, chế biến và bảo quản lúa gạo để có thể đảm bảo chất lượng hàng hóa,
đồng thời đáp ứng được các yêu cầu theo Nghị định 109 của Nhà nước. Tác
giả cũng kiến nghị chuyển từ kho Cần Thơ lên thành Chi nhánh Cần Thơ để
tăng thêm tính tự chủ trong kinh doanh.
Bốn là, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ để có thể đáp ứng được yêu
cầu kinh doanh của Công ty trước những biến động của thị trường.
Năm là, đưa ra một số kiến nghị với cơ quan Nhà nước để có thể phát
huy được vai trò của Nhà nước trong điều hành, quản lý, giúp cho cơ chế
“bốn nhà” phát huy được hiệu quả cao nhất như: hoàn thiện quy chế điều
iv
hành xuất khẩu gạo; hoàn thiện hệ thống thông tin về an ninh lương thực; tăng
năng lực dự trữ quốc gia; đẩy mạnh công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp.
Trên đây là những kết quả nghiên cứu của tác giả được trình bày trong
luận văn. Tuy vậy, do kiến thức của tác giả còn có những hạn chế nhất định,
nội dung nghiên cứu phức tạp và thời gian nghiên cứu hạn chế nên luận văn
còn có những hạn chế nhất định. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của các thầy, cô giáo và các đồng nghiệp để luận văn hoàn thiện
hơn và đem lại những đóng góp thực tế cho Công ty cổ phần xuất nhập khẩu
và hợp tác đầu tư VILEXIM trong thời gian tới.
v
TRƯờNG ĐạI HọC KINH Tế QUốC DÂN
* * *
Hoàng tuấn anh

Nâng cao kim ngạch xuất khẩu gạo tại công
ty
Cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu t
vilexim
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh tổng hợp
LUậN VĂN THạC Sỹ QUảN TRị KINH
DOANH
Ngời hớng dẫn khoa học
GS.TS. NGUYễN ĐìNH PHAN
Hà Nội - 2011
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển thương mại quốc tế đã trở thành xu thế mang tính tất yếu
khách quan của lịch sử và ngày nay nó được xem như là điều kiện làm tiền đề
cho sự phát triển kinh tế toàn cầu nói chung và mỗi quốc gia nói riêng, hoạt
động xuất khẩu hàng hoá có ý nghĩa và vai trò vô cùng quan trọng đối với nền
kinh tế quốc dân . Việt Nam chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho thương mại quốc tế phát
triển, đảm bảo sự lưu thông hàng hoá với nước ngoài, khai thác được tiềm
năng và lợi thế của nước ta trên cơ sở phân công lao động quốc tế ngày càng
sâu sắc. Từ đó tạo điều kiện giúp Việt Nam rút ngắn khoảng cách với các
quốc gia phát triển, đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế và thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá mà Đảng ta đã đề ra .
Từ đặc điểm nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu trên 70% lực
lượng lao động hoạt động trong ngành nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta đã
xác định nông sản là mặt hàng xuất khẩu chiến lược nhằm giải phóng lực
lượng lao động nhàn rỗi rất lớn trong nông nghiệp, phân công lại lực lượng
lao động và tạo nguồn vốn ban đầu rất cần thiết cho sự nghiệp hiện đại hoá
công nghiệp hoá. Trong những năm vừa qua, xuất khẩu gạo mang lại nguồn
thu rất lớn cho ngân sách, đóng vai trò rất lớn trong cán cân xuất nhập khẩu

của nước ta.
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM, tiền thân
là Công ty xuất nhập khẩu với Lào trực thuộc Bộ Thương mại cũ nay là Bộ
Công thương là một công ty có truyền thống trong lĩnh vực xuất nhập khẩu
hàng nông sản trong đó có mặt hàng gạo. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu
gạo của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM trong
những năm qua cũng đã đạt được những kết quả khá khả quan, doanh thu
7
hàng năm từ xuất khẩu gạo đạt xấp xỉ 500 tỷ đồng, chiếm 40 - 50% tổng
doanh thu hàng năm. Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu gạo vẫn còn tồn tại
nhiều hạn chế như giá cả không ổn định, chất lượng không đảm bảo, còn phụ
thuộc nhiều vào các đơn vị trung gian, tư thương.
Từ những lý do cấp thiết từ thực tiễn, tác giả chọn đề tài : “Nâng cao
kim ngạch xuất khẩu gạo tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác
đầu tư VILEXIM” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Việc nghiên cứu đề tài hoàn toàn có ý nghĩa ứng dụng trong thực tiễn
kinh doanh của công ty bởi hoạt động xuất khẩu mang lại nguồn thu ngoại tệ
cho công ty
2.Mục đích nghiên cứu
- Phân tích thực trạng tình hình xuất khẩu gạo tại Công ty cổ phần xuất
nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM trong những năm qua và đánh giá
những kết quả đã đạt được.
- Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu gạo tại
Công ty VILEXIM.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo
- Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu công tác xuất khẩu gạo từ khâu nghiên cứu thị trường, triển
khai thu mua đến giao hàng, bán hàng.
Các số liệu nghiên cứu được thu thập trong phạm vi 5 năm gần đây của

Công ty VILEXIM.
Các đề xuất đưa ra nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu gạo tại Công ty
VILEXIM từ năm 2011 đến năm 2015, có định hướng phát triển cho những
thời kỳ tiếp theo.
4. Phương pháp nghiên cứu
8
Trên cơ sở nền tảng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để
nghiên cứu, các phương pháp cụ thể là:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích và dự báo.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp so sánh.
5. Những đóng góp của Luận văn
Về phương diện lý thuyết:
Nghiên cứu và nắm vững tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam, vai trò
của xuất khẩu gạo, các nhân tố hảnh hưởng đến xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Về phương diện thực tiễn:
Công ty VILEXIM là một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đa
ngành, đa lĩnh vực, được hình thành từ năm 1986. Trong quá trình phát triển
20 năm của mình Công ty đã có sự phát triển vượt bậc về mọi mặt. Năm
2005, Công ty đã chuyển đổi sang hình thức Công ty cổ phần.
Trong những năm gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu trong các
trường đại học, các viện nghiên cứu nhằm đưa ra những ý kiến, nhận định
thuận lợi và khó khăn cũng như giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt
Nam như:
“Báo cáo nghiên cứu thị trường gạo” của Viện nghiên cứu Thương
mại- Bộ Công thương
“Tình hình gạo thế giới năm 2009” của Trung tâm thông tin phát triển
nông nghiệp nông thôn - Viện chính sách và chiến lược phát triển nông
nghiệp nông thôn năm 2009
“Giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo tại Đồng bằng sông Cửu

Long”, luận văn thạc sỹ của tác giả Vũ Thái Hòa năm 2005.
“Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế Quốc tế”
của tác giả Nguyễn Tuyết Nhung năm 2008
9
“Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành sản xuất, chế biến, xuất
khẩu gạo khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế” của tác giả Lâm Văn Thi - Trường Đại học kinh tế Tp. Hồ Chí Minh
Tại Công ty VILEXIM cũng đã có những chuyên đề nghiên cứu như:
“Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm nông sản xuất khẩu tại
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM” của Trần thị
Hồng Yến Khoa Khoa học quản lý Trường Đại học Kinh tế quốc dân năm
2008
“Chiến lược marketing nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản tại
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM” của Lê Thị
Ngọc Anh - Khoa Kinh tế & kinh doanh quốc tế Trường Đại học Ngoại
Thương năm 2007
6.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm ba chương:
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU GẠO ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO TẠI CÔNG TY
VILEXIM TRONG THỜI GIAN QUA.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO KIM NGẠCH
XUẤT KHẨU GẠO TẠI CÔNG TY VILEXIM
10
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU GẠO ĐỐI VỚI
NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
1. Đặc điểm của ngành lúa gạo Việt Nam
Cây lúa luôn giữ vị trí trung tâm trong nông nghiệp và kinh tế Việt
Nam. Hình ảnh đất Việt thường được mô tả như là một chiếc đòn gánh khổng

lồ với hai đầu là hai vựa thóc lớn là Đồng bằng Sông Hồng và Đồng bằng
Sông Cửu Long. Đây là hai vùng châu thổ có mật độ dân cư và thâm canh sản
xuất nông nghiệp thuộc loại cao nhất trên thế giới. Điều kiện thời tiết khí hậu
và địa lý thích hợp đã tạo một môi trường lý tưởng cho sản xuất lúa gạo tại
hai châu thổ này. Mặc dù hai châu thổ này chỉ chiếm khoảng 15% tổng diện
tích nhưng đã sản xuất ra trên 2/3 sản lượng gạo của cả nước, ngoài ra còn sản
xuất cây ăn quả, chăn nuôi gia đình và thuỷ sản. Vùng Đông Bắc và Tây Bắc
có tỉ lệ người nghèo cao, nhiều núi đồi và là nơi sinh sống của nhiều dân tộc
thiểu số. Trồng ngô, chăn nuôi, cây ăn quả và nghề rừng là các hoạt động
nông nghiệp khá phổ biến. Vùng duyên hải Bắc và Nam Trung Bộ có diện
tích hẹp với nhiều núi đồi, sản xuất lúa gạo qui mô nhỏ, chăn nuôi và thuỷ sản
là các ngành sản xuất quan trọng. Tây Nguyên là cao nguyên trù phú chủ yếu
tập trung cho sản xuất cà phê và các cây công nghiệp. Đông Nam Bộ, vùng
đất bao quanh thành phố Hồ Chí Minh, có mức độ đô thị hoá cao và là nơi tập
trung nhiều cơ sở chế biến nông sản, sản xuất nông nghiệp khá đa dạng, bao
gồm cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi tập trung và thuỷ sản. Rải rác ở
các vùng này đều có các cánh đồng trồng lúa tưới, lúa rẫy và lúa nước trời.
Lúa là cây trồng chính trong các hệ thống canh tác ở Việt Nam. Vị trí
của cây lúa có khác nhau giữa các vùng sinh thái nông nghiệp. Lúa thường
được trồng kết hợp với các cây mầu lương thực và cây công nghiệp. Chỉ ở các
tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long mới chuyên canh lúa mức độ cao
11
(lúa chiếm gần 90% diện tích gieo trồng). Tại các vùng đông dân khác do nhu
cầu lương thực cao nên lúa cũng thường chiếm một tỉ lệ khá lớn (50 - 75%)
như đồng bằng sông Hồng, đồng bằng ven biển Trung Bộ và vùng trung du
Bắc Bộ (Đông Bắc). Tại các vùng miền núi Bắc Bộ chủ yếu cũng trồng cây
lương thực, song lúa được trồng ít đi và các cây mầu lương thực khác lại tăng
hơn. Ở các vùng đất bazan của Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, cây công
nghiệp phát triển vượt xa lúa và mầu lương thực. Các tỉnh này có một hệ
thống cây trồng khá đa dạng.

Việt Nam trồng khá nhiều loại giống lúa khác nhau, tuỳ thuộc vào điều
kiện của từng vùng sinh thái và từng mùa vụ. Các tỉnh phía Bắc sử dụng nhiều
loại giống lúa nhập từ Trung Quốc và lúa ưu thế lai (chủ yếu là do khả năng
thích ứng của các giống lúa Trung Quốc với điều kiện đất đai khí hậu của
miền Bắc), trong khi đó các tỉnh phía Nam lại trồng nhiều giống lúa IR có
nguồn gốc từ Viện lúa quốc tế. Mặc dù có hàng trăm giống lúa khác nhau,
nhưng chỉ có 10 giống lúa được trồng phổ biến nhất, chiếm tới 60% tổng diện
tích gieo trồng lúa cả nước. Trong số các giống lúa còn lại, mỗi giống chỉ
chiếm không quá 1% tổng diện tích gieo trồng. Theo điều tra của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2000, cả nước mỗi vụ trồng trên 200
giống lúa khác nhau. Tuy nhiên số lượng giống lúa được trồng ở từng vùng và
từng vụ có khác nhau. Vụ Đông - Xuân ở miền Trung có số lượng giống lúa ít
nhất, nhưng cũng đã là 131 giống lúa khác nhau.
Về sản lượng lúa gạo thì Đồng bằng Sông Cửu Long vẫn có mức sản
xuất lúa hàng hóa cao hơn Đồng bằng Sông Hồng, một phần là do đất đai
bình quân đầu người cao hơn. Sự khác biệt lớn giữa hai vùng châu thổ trong
lưu thông lúa gạo là ở Đồng bằng Sông Cửu Long hệ thống lưu thông lúa gạo
chủ yếu tập trung cho xuất khẩu thông qua các doanh nghiệp nhà nước, trong
khi đó tại Đồng bằng Sông Hồng lại chủ yếu hướng vào thị trường tiêu dùng
nội địa.
12
Trong thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80, cơ chế kế hoạch hoá sản xuất tập
trung đã khiến ngành lúa gạo lâm vào cảnh trì trệ, năng suất lúa giảm và tài
nguyên tự nhiên phục vụ sản xuất không được khai thác hết. Từ năm 1986,
Việt Nam bắt đầu đổi mới kinh tế. Hộ gia đình được coi là một đơn vị sản
xuất chính trong nông thôn và được trao quyền tự chủ quyết định sản xuất và
tiêu thụ nông sản. Cơ chế khoán hộ cùng với những cải cách về chế độ sử
dụng ruộng đất và tự do hoá thương mại đã tạo ra một bước nhảy vọt trong
nông nghiệp. Sản xuất lúa gạo tăng mạnh bắt đầu từ cuối thập kỷ 80, Việt
Nam chuyển từ một nước nhập khẩu lương thực thành một nước xuất khẩu

gạo quan trọng trên thế giới vào cuối những năm 90.
Sản xuất lúa gạo giữ một vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp.
Chính sách thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu gạo sẽ đem lại lợi ích cho những
người sản xuất kinh doanh và là công cụ hữu ích cho việc xoá đói giảm nghèo
ở nông thôn Việt Nam. Ngày nay, phần lớn dân cư Việt nam đang sống ở
nông thôn có nguồn sinh kế quan trọng là sản xuất nông nghiệp, trong đó sản
xuất lúa gạo là nguồn lương thực và thu nhập chính của nhiều hộ nông dân.
Chỉ riêng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long đã có tới 30
triệu dân nông thôn hoạt động sản xuất lúa được coi như nguồn sống chính.
Những thành tựu trong sản xuất lúa gạo trong thời kỳ đổi mới đã giúp Việt
Nam không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn trở thành
nước xuất khẩu gạo quan trọng trên thế giới. Kể từ năm 1996 đến nay khi cơ
chế hạn ngạch xuất khẩu đã được nới lỏng và xoá bỏ, số lượng gạo có thể sử
dụng cho xuất khẩu đã tăng gấp đôi.
Hệ thống tiêu thụ lúa gạo ở Việt Nam khá phức tạp thông qua nhiều
mắt xích liên hệ giữa các đối tác khác nhau: nông dân sản xuất lúa, người thu
gom lúa, cơ sở xay xát, người bán buôn, người bán lẻ và các công ty quốc
doanh lương thực. Hệ thống các kênh tiêu thụ có thể được mô tả khái quát
bằng sơ đồ dưới đây.
13
Hình 1.1: Sơ đồ các kênh tiêu thụ lúa gạo tại Việt Nam
(Nguồn: Hiệp hội lương thực Việt Nam)
Ghi chú: HĐXK - Hợp đồng xuất khẩu
Kênh tiêu thụ gạo
Kênh tiêu thụ lúa
Nhìn chung, kể từ 1980 công cuộc đổi mới cơ chế chính sách đã có
những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của một hệ thống lưu thông lúa gạo
tự do ở Việt Nam. Thị trường lúa gạo trong nước đã được tháo gỡ khỏi mọi
hạn chế ràng buộc. Hệ thống lưu thông phân phối và tiêu thụ sản phẩm lúa
gạo hiện nay hầu như hoàn toàn tự do với sự tham gia của nhiều đơn vị, nhiều

thành phần kinh tế khác nhau.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng khu vực tư nhân hiện đang chiếm vị trí quan
trọng ở thị trường lúa gạo trong nước với thị phần ước tính khoảng 90%. Vai
trò của các doanh nghiệp nhà nước đối với thị trường lúa gạo nội địa, hiện
không đáng kể. Tuy nhiên, các thành phần kinh tế nhà nước lại đang chiếm
Nông
dân
Thươn
g lái
Người
xay xát
Ng tiêu
dùng
Ng bán
lẻ
Ng.
bán
buôn
DN có
HĐXK
DN
không có
HĐXK
Xuất khẩu
14
giữ vị trí độc tôn trong thương mại quốc tế (95%). Chính vì vậy hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước nông nghiệp thường tập chung vào
lĩnh vực xuất khẩu gạo và nhập khẩu các vật tư nông nghiệp. Gần đây, cùng
với sự hội nhập của Việt Nam vào thị trường khu vực và quốc tế thì cơ hội
tham gia thương mại quốc tế đối với khu vực kinh tế tư nhân đã được mở

rộng hơn.
2. Vai trò của hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo
Xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh
tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng
xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu
cũng như tạo cơ sở cho phát triển hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhất của
chính sách thương mại. Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện
pháp thúc đẩy các ngành kinh tế theo hướng xuất khẩu, khuyến khích khu vực
tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập,
ngoại tệ cho đất nước. Hoạt động xuất khẩu gạo có những vai trò chính như
sau:
2.1.Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa
đất nước
Quá trình công nghiệp hóa cần một lượng vốn lớn để nhập khẩu máy
móc, thiết bị kỹ thuật công nghệ cao để có thể theo kịp nền công nghiệp hiện
đại của các nước đã phát triển. Nguồn vốn cho nhập khẩu được hình thành từ
rất nhiều nguồn vốn khác nhau
- Đầu tư nước ngoài
- Vay nợ, viện trợ
- Thu từ hoạt động du lịch
- Xuất khẩu…
15
Các nguồn vốn khác quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này
hay cách khác ở thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng nhất đối với nền kinh tế
nước ta vẫn là xuất khẩu, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của
nhập khẩu.
Hiện nay ở các nước xuất khẩu gạo với khối lượng lớn chủ yếu là các
nước đang phát triển: Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc, Pakistan… chính vì
thế nguồn ngoại tệ thu về từ xuất khẩu gạo đối với các nước này là rất quan
trọng trong phát triển kinh tế.

2.2.Xuất khẩu đóng vai trò chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển
Ngày nay với xu thế hội nhập, cơ hội và thách thức rất nhiều, các nước
đều phải phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu những sản phẩm mà mình có
lợi thế và nhập khẩu những sản phẩm không có lợi thế hoặc lợi thế so với các
sản phẩm khác nhỏ hơn. Khi gạo đã trở thành một lợi thế trong xuất khẩu của
một nước thì các nước đó sẽ tập trung vào sản xuất lúa gạo với quy mô lớn,
trình độ thâm canh cao, khoa học kỹ thuật tiến bộ nhằm tăng năng suất, sản
lượng và chất lượng gạo. Từ sự tập trung sản xuất đó sẽ kéo theo sự phát triển
của các ngành, lĩnh vực có liên quan và dẫn tới sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế:
- Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có cơ hội phát
triển.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp yếu tố đầu vào
cho sản xuất.
- Tạo tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong
nước.
- Thông qua xuất khẩu nước ta có thể tham gia vào công cuộc cạnh
tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng từ đó hình thành
cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với môi trường.
16
- Đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới hoàn thiện công
việc sản xuất kinh doanh
2.3.Xuất khẩu có tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm, cải
thiện đời sống của nhân dân
Xuất khẩu gạo trước hết làm tăng thu nhập của người nông dân đặc biệt
ở nông thôn, các vùng chuyên canh lúa nước, đời sống người dân phụ thuộc
chủ yếu vào cây lúa. Sau nữa, xuất khẩu giúp giải quyết một lượng lớn lao
động dư thừa trong nước. Khi thực hiện tăng cường xuất khẩu thì kéo theo nó
là vấn đề xay xát, chế biến phát triển, vấn đề vận tải hàng hóa… những công

tác trên thu hút khá nhiều lao động từ không có trình độ kỹ thuật, quản lý đến
có trình độ cao. Việc tạo việc làm ổn định cũng chính là một biện pháp hữu
hiệu để tăng thu nhập, ổn định xã hội.
Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì xuất khẩu
gạo là một lợi thế lớn. Bởi vì sản xuất và xuất khẩu gạo của nước ta có những
lợi thế căn bản như: đất đai, khí hậu, nguồn nước, nguồn nhân lực… và đặc
biệt yêu cầu về vốn kỹ thuật trung bình. Với các lợi thế như vậy tăng cường
xuất khẩu gạo là hướng đi đúng đắn nhất.
Xuất khẩu gạo hay xuất khẩu hàng hóa nông sản nói chung có tác động
to lớn đến nền kinh tế nước ta, giúp khai thác được tất cả lợi thế tương đối
cũng như tuyệt đối của Việt nam trong quá trình hội nhập. Trong quá trình sản
xuất lúa gạo, Việt Nam đã thu được những kết quả to lớn từ một nước nhập
khẩu gạo đã vươn lên trở thành một nước xuất khẩu đứng hàng thứ hai trên
thế giới. Tuy nhiên xuất khẩu gạo của Việt Nam còn chưa tương xứng với các
tiềm năng có sẵn, cần có những giải pháp cụ thể cho vấn đề này.
Cuối thập niên vừa qua, xuất khẩu lúa gạo đã trở thành mục tiêu kinh tế
của Việt Nam, và lượng gạo xuất khẩu được dùng như một chỉ số phản ánh sự
cân bằng giữa cung và cầu. Do đó, cần phải phân tích lợi thế của sản xuất gạo
của Việt Nam. Lợi thế về giá là tiêu chuẩn chính để đánh giá khả năng cạnh
17
tranh của lúa gạo Việt Nam.
3. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam
Trong những năm vừa qua, sản xuất lúa ở Việt Nam đó tăng trưởng liên
tục cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Tuy nhiên, sự gia tăng sản lượng
lúa ở Việt Nam chủ yếu do tăng năng suất, từ 42,43 tạ/ha/vụ năm 2000 lên
52,28 tạ/ha/vụ năm 2009. Trong giai đoạn 2003 - 2009, mặc dù diện tích
trồng lúa giảm bình quân 0,12%/năm, nhưng năng suất năm sau tăng cao hơn
năm trước, đạt 1,88%/năm, nên sản lượng lúa vẫn đạt tốc độ tăng ở mức
1,75%/năm.
Bảng 1.1: Diện tích, năng suất sản lượng lúa Việt Nam 2001 - 2010

Năm
Diện tích Năng suất Sản lượng
Nghìn ha
Chỉ số phát
triển (%)
Tạ/ha
Chỉ số phát
triển (%)
Nghìn tấn
Chỉ số phát
triển (%)
2001 7.492,7 42,85 32.108,4
2002 7.504,3 0,15 45,90 7,12 34.447,2 7,28
2003 7.452,2 -0,69 46,39 1,05 34.568,8 0,35
2004 7.445,3 -0,09 48,55 4,67 36.148,9 4,57
2005 7.329,2 -1,56 48,89 0,70 35.832,9 -0,87
2006 7.324,8 -0,06 48,94 0,11 35.849,5 0,05
2007 7.207,4 -1,60 49,87 1,89 35.942,7 0,26
2008 7.400,2 2,68 52,30 4,87 38.700,0 7,67
2009 7.440,1 0,54 52,28 -0,02 38.900,0 0,52
2010 7.513,7 0,99 53,20 1,76 39.760,0 2,74
(Nguồn: Tổng cục Thống kê )
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, Việt Nam hiện đứng thứ 5
thế giới về sản lượng gạo, chiếm 5 - 6 % trong tổng sản lượng gạo thế giới.
Năm 2009, Trung Quốc là nước sản xuất lúa gạo lớn nhất thế giới với 137
triệu tấn, chiếm 31,57% tổng lượng gạo thế giới.
Tại Hội nghị Tổng kết xuất khẩu gạo năm 2009 và triển khai mua lúa
gạo hàng hóa vụ đông xuân do Hiệp hội lương thực Việt Nam tổ chức đó diễn
ra tại Long Xuyên - An Giang ngày 02/3/2010 cho biết cả nước hiện có 216
18

doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Trong số này, có 11 doanh nghiệp xuất khẩu lớn
nhất (chiếm tới 69%), 82 doanh nghiệp xuất dưới 1.000 tấn/năm, 41 doanh
nghiệp xuất khoảng 200 tấn, thậm chí có doanh nghiệp một năm chỉ xuất khẩu
được 1 tấn.
Hiện tại Việt Nam là nước đứng thứ hai trong xuất khẩu gạo thế giới
chỉ sau Thái Lan, khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đạt khoảng 5 - 6
triệu tấn, chiếm 18,12% trong tổng lượng xuất khẩu gạo thế giới, trong khi
của Thái Lan là khoảng 10 triệu tấn, chiếm tới 32,94%.
Bảng 1.2: Vị trí của Việt Nam trong xuất khẩu gạo thế giới
Đơn vị tính: 1000 tấn
2005/06 2006/07 2007/08 2008/09 2009/10 Tỷ trọng
Tổng xuất khẩu
thế giới
29.120 31.844 29.598 28.689 30.350 100,00
Thái Lan 7.376 9.557 10.011 8.600 10.000 32,94
Việt Nam 4.705 4.522 4.649 5.800 5.500 18,12
Pakistan 3.579 2.696 3.000 3.000 3.300 10,87
Hoa Kỳ 3.307 3.029 3.273 3.100 3.050 10,04
Ấn Độ 4.537 6.301 3.383 2.000 2.000 6,58
Trung Quốc 1.216 1.340 969 800 1.500 4,94
(Nguồn: Hiệp hội Lương thực Việt Nam)
Việt Nam xuất khẩu gạo sang nhiều nước trên thế giới nhưng thị phần
lớn nhất là ở các nước trong khu vực như Philippin, Malaysia, Indonesia
Năm 2009, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, nước ta xuất khẩu 6
triệu tấn gạo. Tổng cộng từ 1989 đến 2009, nước ta xuất khẩu 70 triệu tấn
gạo, kim ngạch đạt 19,67 tỷ USD.
Bảng 1.3: Khối lượng, giá và kim ngạch xuất khẩu gạo
của Việt nam giai đoạn 2001 - 2010
Năm
Khối lượng Giá Kim ngạch

1.000
tấn
Chỉ số
phát triển
(%)
USD/tấn
Chỉ số phát
triển (%)
Triệu
USD
Chỉ số phát
triển (%)
19
2001 3.729 167,53 624,710
2002 3.241 -13,09 223,86 33,63 725,535 16,14
2003 3.813 17,65 188,97 -15,59 720,528 -0,69
2004 4.087 7,19 232,54 23,06 950.388 31,90
2005 5.250 28,46 268,04 15,27 1.407,229 48,07
2006 4.643 -11,56 274,80 2,52 1.275,896 -9,33
2007 4.557 -1,85 326,96 18,98 1.489,969 16,78
2008 4.742 4,06 610,14 86,60 2.894,410 94,25
2009 5.958 25,64 447,08 -26,72 2.663,877 -7,96
2010 6.754 13,36 451,16 0,91 3.047,164 9,28
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Giá một tấn gạo xuất khẩu bình quân 345 USD, cao nhất là năm 2008
với 610 USD, thấp nhất là năm 2003 với 189 USD.
Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu 6.007 nghìn tấn, tăng gấp gần 2 lần
năm 2003 đạt 3.813 nghìn tấn. Về giá trị, kim ngạch xuất khẩu năm 2009 đạt
2.437 triệu USD, gấp 3 lần năm 2003 đạt 720 triệu USD. Trong giai đoạn
2003 - 2009, xuất khẩu gạo của nước ta tăng bình quân 9%/năm về lượng và

19%/năm về giá trị.
Hiện nay chuỗi gía trị ngành lúa gạo của Việt Nam chủ yếu có hai kênh
chính là xuất khẩu và thị trường nội địa. Kênh xuất khẩu đi qua các khâu: từ
người nông dân qua các nấc trung gian là thương lái, doanh nghiệp xay xát, sơ
chế và xuất khẩu. Kênh thị trường nội địa đi qua các khâu từ người sản xuất
(chủ yếu là nông hộ nhỏ lẻ; trang trại, hợp tác xã) qua các nấc trung gian là
thương lái, doanh nghiệp kinh doanh chế biến, đến người tiêu dùng qua các
kênh như chợ, siêu thị… Hình thức mua bán gạo phổ biến hiện nay là mua
bán tự do giao hàng ngay và không có hợp đồng giữa nông dân với những
người thu gom (thương lái); mua bán thông qua ký kết hợp đồng giữa doanh
nghiệp với hộ nông dân, giao dịch qua chợ đầu mối, trung tâm giao dịch nông
sản rất hạn chế.
Việt Nam hàng năm xuất khẩu 4 - 5 triệu tấn gạo, chiếm khoảng 18-
20% tổng sản lượng gạo sản xuất ra. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng
20

×