Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Thị trường tiền tệ việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (825.18 KB, 23 trang )

Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 1
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
1.1. Khái niệm thị trường tiền tệ:
“Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn có kỳ
hạn dưới một năm, là nơi đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho nền kinh tế” (Nhập môn tài
chính tiền tệ-Sử Đình Thành và Vũ Thị Minh Hằng, 2008: 371).
Nhìn vào quá trình phát triển thì thị trường liên ngân hàng là hình thức cổ điển
của thị trường tiền tệ hoạt động với mục đích cân đối, điều hòa vốn giữa các ngân hàng
thương mại với các tổ chức tín dụng nhằm khai thông khả năng thanh toán cho các tổ
chức tín dụng. Nếu xét theo chiều ngang thị trường tiền tệ biểu hiện quan hệ điều tiết vốn
giữa các ngân hàng thưong mai, các tổ chức tín dụng. Nếu xét theo chiều dọc, thị trường
tiền tệ biểu hiện quan hệ giữa ngân hàng trung ương với các ngân hàng thương mại qua
con đường tái chiết khấu .
Ở nước ta, thị trường tiền tệ mới hình thành, công cụ giao dịch trên thị trường tiền
tệ còn ít nên luật pháp cho phép các giấy tờ có giá dài hạn được phép giao dịch trên thị
trường tiền tệ. Theo điều 9, luật sửa đổi một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước
(2003) định nghĩa: “Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua, bán ngắn hạn
các giấy tờ có giá, bao gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, chứng chỉ
tiền gửi và các giấy tờ có giá khác”.
1.2. Phân loại thị trường tiền tệ:

Phân loại thị trường tiền tệ được dựa trên một số tiêu thức sau:
1.2.1. Phân loại theo cơ cấu tổ chức
:
Thị trường tiền tệ bao gồm:
Thị trường tiền tệ cổ điển: là thị trường vay vốn ngắn hạn giữa các tổ chức tín
dụng (TCTD) đặt dưới sự quản lý của ngân hàng trung ương (NHTW). Hàng ngày, tại
đây hình thành lãi suất chỉ đạo thị trường tiền tệ, như: lãi suất LIBOR trên thị trường tiền
tệ London (London Inter Banking Offered rate), lãi suất PIBOR trên thị trường tiền tệ


Paris (Paris Inter Banking Offered rate), SIBOR (thị trường tiền tệ Singapore)…
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 2
Thị trường tiền tệ mới: đây là thị trường các trái phiếu ngắn hạn, cơ cấu của nó
gồm 2 cấp:
• Thị trường tiền tệ sơ cấp: là thị trường tiền tệ chuyên phát hành các loại trái
phiếu ngắn hạn lần đầu.
• Thị trường tiền tệ thứ cấp: là thị trường tiền tệ tổ chức mua bán lại các trái phiếu
đã phát hành ở thị trường sơ cấp.
• Thị trường mở (Openmarket operation): là thị trường mua bán các loại chứng
khoán nhà nước ngắn hạn như: tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, nhằm điều tiết
cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Tức thông qua thị trường mở, NHTW có thể làm cho
“tiền dự trữ” của các ngân hàng thương mại (viết tắt NHTM) tăng lên hoặc giảm xuống,
từ đó tác động đến khả năng cung cấp tín dụng của NHTM làm ảnh hưởng đến khối
lượng tiền tệ của nền kinh tế.
1.2.2. Phân loại theo đối tượng tham gia:
Thị trường tiền tệ bao gồm:
- Thị trường tín dụng ngắn hạn giữa các NHTM (hay thị trường liên ngân hàng –
Interbank): Thị trường này dưới sự điều hành của NHTW nhằm mục đích điều tiết vốn
trong hệ thống NHTM đồng thời tạo điều kiện cho NHTW thực hiện vai trò là người cho
vay cuối cùng.
- Thị trường các công nợ ngắn hạn như
: tín phiếu kho bạc, thương phiếu, kỳ phiếu
ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi, các khế ước cho vay, … bao gồm cả thị trường phát hành
và thị trường lưu thông, thị trường này biểu hiện cho sự phát triển thị trường tiền tệ.
- Thị trường hối đoái: là thị trường giao dịch các loại ngọai tệ và các phương tiện
thanh tóan có giá trị ngoại tệ, là một bộ phận quan trọng trong kết cấu thị trường tiền tệ.
Thị trường ngọai hối mang đặc trưng là tính quốc tế cao, hoạt động của nó đáp ứng
những nhu cầu về thương mại, đầu tư ngắn hạn trên bình diện quốc tế, đặc biệt là tạo điều
kiện can thiệp của NHTW nhằm đảm bảo sức mua đối ngoại của đồng ti

ền quốc gia.
Công cụ hoạt động thị trường hối đoái, gồm: hợp đồng giao ngay (Spot), hợp
đồng hoán đổi (Swap), hợp đồng kỳ hạn (Forward), hợp đồng quyền chọn (Option)….
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 3
nhờ đó đáp ứng được phần lớn nhu cầu ngoại tệ cho các đơn vị, tổ chức và làm cho thị
trường ngoại hối trở nên nhộn nhịp hơn.
1.3. Các chủ thể tham gia thị trường tiền tệ:

Trong quá trình phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường liên ngân hàng là hình
thức sơ khai của thị trường tiền tệ hoạt động với mục đích cân đối, điều hòa vốn giữa các
NHTM với các TCTD nhằm khai thông khả năng thanh toán cho các TCTD. Vì vậy, nếu
xét theo chiều ngang, thị trường tiền tệ biểu hiện quan hệ điều tiết vốn giữa các NHTM,
các TCTD. Còn nếu xét theo chiều dọc, thị trường tiền tệ biểu hiện mối quan hệ giữa
NHTW và NHTM qua con đường tái chiết khấu, trong đó lãi suất tái chiết khấu là một
công cụ linh hoạt để NHTW điều tiết vĩ mô nền kinh tế trong quá trình thực thi chính
sách tiền tệ.
Ngày nay, quy mô họat động của thị trường tiền tệ được mở rộng về phạm vi điều
tiết vốn, theo đó các chủ thể tham gia trên thị
trường đa dạng hơn.
Các chủ thể tham gia trên thị trường tiền tệ bao gồm:
− Chủ thể cung ứng nguồn vốn như: NHTW, NHTM, các TCTD khác… Việc đầu tư
nguồn vốn ngắn hạn trên thị trường này có độ rủi ro thấp, do trong thời gian ngắn giá
cả chứng khoán biến động không đáng kể.
− Chủ thể có nhu cầu về vốn như: NHTM, các đơn vị kinh tế khác, kho bạc nhà nước
Thông qua thị trường tiền tệ, các chủ thể này có thể thu hút được nguồn vốn ngắn hạn
dễ dàng và chi phí thấp.
− Chủ thể trung gian môi giới, vừa đi vay và vừa cho vay như: NHTM, Công ty chuyên
môi giới.
1.4. Các công cụ của thị trường tiền tệ:

− Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng: Phát hành với mệnh giá lớn, người gửi có
thể thương lượng lãi suất với các ngân hàng.
− Tín phiếu kho bạc: do kho bạc phát hành nhằm mục đích cân đối tiền mặt của ngân
sách nhà nước.
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 4
− Thương phiếu: do các công ty lớn có uy tín phát hành trong quá trình mua bán chịu
hàng hóa, thời gian ngắn( tối đa một năm)
− Chấp nhận thanh toán của ngân hàng: Do các doanh nghiệp phát hành được bảo lãnh
của ngân hàng.
− Hợp đồng mua bán lại (REPO):Đây là một thỏa thuận mua bán, theo đó người bán
đống ý mua lại chứng khoáng theo giá thỏa thuận với thời gian được ấn định .
1.5. Các nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ:

1.5.1. Nghiệp vụ vay và cho vay vốn ngắn hạn:

Nghiệp vụ này diễn ra chủ yếu giữa các NHTM, xuất phát từ họat động kinh
doanh tiền tệ, tại một thời điểm nhất định một số NHTM tạm thời thừa vốn trong khi đó
một số NHTM khác rơi vào tình trạng thiếu vốn tạm thời. Do đó để đảm bảo cho khả
năng thanh toán, quan hệ điều tiết vốn giữa các NHTM diễn ra thông qua các hình thức
sau:
- Cho vay bằng tiền mặt: Nếu căn cứ vào nhu cầu và thời hạn trên thị trường tiền tệ
có thể gặp các loại tín dụng như tín dụng hàng ngày (cho vay từ ngày hôm trước đến
ngày hôm sau); tín dụng theo yêu cầu (cấp vô thời hạn) không quy định rõ thời hạn trả nợ
nhưng chủ nợ có thể xóa nợ bất cứ lúc nào, tín dụng cuối kỳ ( được cấp vào thời điểm
cuối tháng hay cuối năm); tín dụng có kỳ hạn ( tùy theo thỏa thuận giữa đôi bên)
Khi NHTM thiếu hụt vốn tạm thời, có thể đi vay tại một NHTM khác đang thừa
vốn tạm thời tại thời điểm đó để đảm bảo khả năng thanh toán. Giao dịch liên ngân hàng
chủ yếu dưới hình thức tín chấp hoặc đảm bảo bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân hàng
cho vay

- Cho vay dưới hình thức cầm cố hoặc chiết khấu các chứng từ có giá: Khi có nhu
cầu lớn về vốn, các NHTM đã vay các TCTD khác nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu
thì NHTW có thể hỗ trợ bằng các nghiệp vụ sau:
• Tái chiết khấu chứng từ có giá: Ngân hàng thương mại sẽ đem những chứng từ
có giá mà trước đây đã chiết khấu cho khách hàng
đến ngân hàng trung ương để xin chiết
khấu lại.
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 5
• Bảo chứng lại: Đây cũng là nghiệp vụ cho vay vốn của ngân hàng trung ương
đối với các ngân hàng thương mại trên cơ sở đảm bảo bằng chứng từ có giá mà trước đó
ngân hàng thương mại đã cho khách hàng vay dưới hình thức cầm cố .
1.5.2. Nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn:
Công cụ chủ yếu của nghiệp vụ này là các loại trái phiếu ngắn hạn được phát hành
từ thị trường tiền tệ sơ cấp và bán lại ở thị trường thứ cấp.
Nghiệp vụ này phát sinh trong trường hợp một số chủ thể kinh tế cần bổ sung vốn
bằng tiền của mình nên phát hành một lượng trái phiếu ngắn hạn ra thị trường, trong khi
một số chủ thế khác đang muốn sinh lợi cho khoản vốn nhàn rỗi của mình bằng con
đường kinh doanh trên thị trường tiền tệ, họ sẽ mua bán trái phiếu ngắn hạn. Ở nghiệp vụ
này, ngoài trái phiếu ngắn hạn thì còn có kỳ phiếu thương mại, khế ước nợ, kỳ phiếu
ngân hàng, các lọai thư tín dụng…. Và đặc biệt là họat động của thị trường mở - thực
hiện việc mua bán ngắn hạn dưới 1 năm các giấy tờ có giá trị như tín phiếu, trái phiếu
kho bạc. Thông qua nghiệp vụ này, NHTW điều tiết cung cầu về tiền tệ: tùy theo mục
tiêu từng thời kỳ mà NHTW bơm tiền hay rút bớt tiền ra khỏi lưu thông. Do đó nghiệp vụ
này xem như một trong những công cụ quan trọng để ngân hàng trung ương điều tiết
cung-cầu về tiền tệ.











Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 6
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VIỆT NAM.
Tham gia là thành viên của các dạng thị trường tiền tệ có 5 Ngân hàng thương mại
Nhà nước, Ngân hàng chính sách xã hội, 36 Ngân hàng thương mại cổ phần, 4 Ngân hàng
liên doanh, 27 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Qũy tín dụng TW, 900 Quỹ tín dụng
nhân dân cơ sở, một số công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm, Quỹ đầu tư Tuy nhiên tham
gia là thành viên của thị trường liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc nhà
nước, thị trường mở thì không phải tất cả các tổ chức trên, hầu như chỉ có các NHTM
NN, NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, một
số công ty bảo hiểm
Về cơ chế tác động và can thiệp trên thị trường tiền tệ, được thể hiện tập trung ở
các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương. Theo đó,
dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế, từ tháng 6-2002, Ngân hàng Nhà nước chuyển
sang thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản trước đó. Hàng tháng Ngân hàng Nhà
nước công bố lãi suất cơ bản, vẫn quy định lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu;
cùng với lãi suất nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ Swap, lãi suất thị trường mở, lãi suất thị
trường đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước tác động vào lãi suất thị trường, lãi suất huy
động vốn và lãi suất cho vay của các Tổ chức tín dụng. Tác động vào lãi suất còn có công
cụ dự trữ bắt buộc. Khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, có tác
động làm tăng chi phí đầu vào của các TCTD. Do đó hoặc là các TCTD giữ nguyên lãi
suất huy động vốn thì phải tăng lãi suất cho vay; hoặc là đồng thời vừa phải tăng lãi suất
cho vay, vừa phải tăng lãi suất huy động vốn.

Công cụ điều hành tỷ giá cũng có tác động vào lãi suất của các TCTD trên thị
trường tiền tệ, nhưng không rõ nét.
Với sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính, đặc biệt là các TCTD, với
cơ chế điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương tiến dần tới phù
hợp với thông lệ quốc tế, các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng được chủ động
trong các hoạt độ
ng huy động vốn và cho vay của mình, tham gia tích cực, năng động và
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 7
cạnh tranh mạnh mẽ với nhau trên thị trường tiền tệ, theo đó, nó cũng có điều kiện thúc
đẩy thị trường tiền tệ phát triển.
Thực trạng các thị trường trong thị trường tiền tệ cũng là một vấn đề đáng quan
tâm:
2.1. Thị trường liên ngân hàng:
Thị trường nội tệ liên ngân hàng ra đời năm 1993 dưới hình thức là một thị trường
tập trung có tổ chức qua Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và gắn liền với các trung tâm
thanh toán bù trừ (Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội). Từ năm 1997, hoạt
động của thị trường diễn ra theo hình thức các ngân hàng trực tiếp vay mượn lẫn nhau
không thực hiện thông qua NHNN. Các Ngân hàng thỏa thuận phương thức giao dịch,
thời hạn, lãi suất cũng như điều kiện bảo đảm tiền vay dựa trên mức độ tín nhiệm và có
sự tham gia tích cực của NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài. Đến nay, phần lớn các giao dịch liên ngân hàng được thực hiện dưới các hình
thức tín chấp, bảo đảm bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân hàng cho vay; thậm chí một
số ngân hàng đã thực hiện quan hệ vay mượn dưới hình thức gửi tiền lẫn nhau.
2.1.1. Thành tựu:
Qua 17 năm thành lập thị trường liên ngân hàng đã đóng góp những thành tựu
đáng kể vào thị trường tiền tệ của nước ta:
- Số lượng thành viên và doanh số hoạt động trên thị trường liên ngân hàng đã tăng đáng
kể, phương thức giao dịch của thị trường ngày càng đổi mới, hầu hết các giao dịch đều
thực hiện qua mạng, thời hạn của các giao dịch khá linh hoạt (qua đêm, 1 tu

ần, 2 tuần, 1
tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng).
Hiện nay, gần 30 NHTM đã thực hiện giao dịch vốn liên ngân hàng (gửi tiền/cho
vay và nhận tiền gửi/đi vay) thông qua hệ thống của Hãng Reuters. Hãng Reuters đã xây
dựng được trang lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng Việt Nam
(VNIBOR) trên cơ sở chào giá hàng ngày của một số ngân hàng.
- Doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng từ năm 2002 đến nay, theo đánh giá
của các chuyên gia ngân hàng thì doanh số giao dịch tăng khoảng 20% mỗi năm. Kết quả
trên đã chứng minh thị trường nội tệ liên ngân hàng đã thực hiện được vai trò điều tiết
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 8
vốn ngắn hạn bằng đồng Việt Nam giữa các ngân hàng, làm tăng hiệu quả sử dụng
nguồn vốn của các TCTD an toàn, hiệu quả.
- Việc NHNN điều hành linh hoạt tỷ giá USD/VND (điều chỉnh tăng tỷ giá giao dịch
USD/VND bình quân thị trường liên ngân hàng, tăng biên độ tỷ giá giữa VND với USD
từ +3%(ngày 07/11/2008) lên +5%(ngày 24/03/2009) hoặc giảm +3% (ngày 25/11/2009)
đối với giao dịch mua bán của các NHTM); can thiệp mua bán ngoại tệ và thực hiện các
biện pháp chống đầu cơ ngoại tệ ; bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng
thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống đã góp phần điều hoà ngoại tệ trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng.
2.1.2. Hạn chế:
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng thị trường liên ngân hàng
vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần hoàn thiện. Đó là:
- Cũng do tình trạng thiếu hụt đồng Việt Nam, nên có thời điểm lãi suất cho vay qua đêm
trên thị trường nội tệ liên ngân hàng đã lên tới 12%/năm, thậm chí có thời điểm lên tới
18%/năm, cao hơn lãi suất cho khách hàng vay vốn. NHNN thông qua nghiệp vụ thị
trường mở mua vào giấy tờ có giá ngắn hạn cung ứng hơn 10.000 tỷ đồng cho các
NHTM, nhưng không thấm gì so với nhu cầu khan hiếm tiền đồng Việt Nam hiện nay
của thị trường tiền tệ. Cũng chính do tình trạng đó, nên hiện nay các NHTM đang đẩy
mạnh huy động vốn trong nền kinh tế bằng nhiều biện pháp khác nhau, như tăng chi phí

khuyến mãi, tăng lãi suất, từ đ
ó tạo áp lực tăng lãi suất cho vay và từ đó góp phần tạo
thêm áp lực gia tăng lạm phát.
- Trên thị trường liên ngân hàng, phần lớn các NHTM cổ phần nhỏ (có quy mô vốn thấp,
hoạt động dịch vụ kém phát triển và chủ yếu là kinh doanh tín dụng) thường là các ngân
hàng đi vay. Trong khi đó nhóm các ngân hàng này cũng chính là các ngân hàng có dư nợ
tín dụng lớn hơn so với tổng huy động vốn, tỷ lệ dư nợ tín dụng so với t
ổng huy động vốn
cao hơn 100%, thậm chí có NHTM cổ phần tỷ lệ này trên 200%. Một bộ phận vốn sử
dụng cho vay khách hàng và nền kinh tế được các tổ chức tín dụng này vay từ thị trường
liên ngân hàng. Cùng với hiệu ứng nhu cầu vốn dịp Tết Nguyên đán đã làm nóng thị
trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ trên địa bàn trong thời gian qua. Đồng thời
một bộ phận các NHTM cổ phần lớn (quy mô vốn lớn, dịch vụ phát triển mạnh, quản lý
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 9
tốt) sử dụng vốn hợp lý hơn, cơ cấu nguồn và cơ cấu tín dụng hợp lý (dư nợ tín dụng so
với tổng huy động vốn dưới 100%, có ngân hàng chỉ khoảng 50%-60%) – thường là các
ngân hàng cho vay trên thị trường liên ngân hàng. Chính việc quan hệ một chiều (các
ngân hàng thường xuyên cho vay và nhóm các ngân hàng thường xuyên đi vay) cũng tạo
ra những hạn chế nhất định trong quan hệ trên thị trường liên ngân hàng, làm xuất hiện
hiện tượng "kinh doanh" quá mức ngay trên thị trường này. Trong một số trường hợp lãi
suất đẩy lên quá cao vì nhu cầu thanh khoản và các ngân hàng đi vay không có sự lựa
chọn nào khác.
- Ngay sau khi NHNN hủy bỏ trần lãi suất huy động 12%/năm và thay bằng trần lãi suất
cho vay 18%/năm (150% của lãi suất cơ bản vừa được nâng lên 12%/năm), tất cả các
NHTM, kể cả các NHTM quốc doanh, đều đồng loạt liên tiếp tăng lãi suất huy động và
tăng cường vay mượn trên thị trường liên ngân hàng (có lúc lên tới 20%/năm) để đối phó
với tình trạng khó khăn về thanh khoản.

Biểu 1: Lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm năm 2008


- Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng chưa phản ánh chính xác quan hệ cung cầu và xu
hướng vận động của thị trường tiền tệ.
- Vai trò của NHNN trong việc thu thập thông tin diễn biến thị trường liên ngân hàng và
tham gia điều tiết thị trường khá mờ nhạt, đặc biệt là cơ chế xử lý trong trường hợp cung
lớn hơn cầu vốn trên thị trường.
2.2. Thị trường các công cụ nợ ngắn hạn:
2.2.1. Thành tựu:
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 10
- Trong 5 năm qua, từ 2001 đến 2005, nghiệp vụ phát hành TPKB qua Ngân hàng Nhà
nước không ngừng phát triển và đạt được kết quả rất khả quan với khối lượng phát hành
không ngừng tăng (năm 2002 tăng 215%; năm 2003 tăng 189% … và trong năm 2005
tăng 14% so với năm 2004). Tính từ năm 2001 đến hết năm 2005, tổng số tiền đã huy
động qua NHNN là 85.269,4 tỷ đồng và 14.500.000 USD.
- Ngày 6/10/2008, Kho bạc Nhà nước phối hợp với Ngân hàng Nhà nước tổ chức đấu
thầu 1.000 tỷ đồng tín phiếu kho bạc đợt 11/2008 với kỳ hạn 364 ngày.
- Từ ngày 20/10 đến hết ngày 18/12/2008, Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải Việt
Nam (Maritime Bank) đã phát hành chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn bằng Việt Nam đồng
nhằm thu hút thêm nguồn vốn phục vụ cho kế hoạch phát triển kinh doanh của Maritime
Bank trong thời gian tới. Chứng chỉ tiền gửi do Maritime Bank phát hành đợt này có
mệnh giá tối thiểu là 1 triệu đồng và có hai loại kỳ hạn là 3 tháng hoặc 6 tháng. Tổng
mệnh giá của đợt phát hành là 1000 tỷ đồng.
- Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long (MHB) đã phát hành kỳ phiếu
VND và USD đợt I/2008, với tổng số tiền phát hành 2.000 tỷ đồng (6/6/2008 -
6/8/2008).
- Sự thành công của TTM đã thu hút ngày càng nhiều TCTD tham gia. Nếu năm 2007,
TTM có 44 thành viên thì năm 2008 đã tăng lên 56 TCTD; trong đó có 35 TCTD có giao
dịch thường xuyên trên TTM, tăng 66,67% so với năm trước. Đặc biệt, nếu trước đây các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ tham gia giao dịch bán GTCG thì nay đã tham gia cả

mua và bán.
- Doanh số mua bán giấy tờ có giá (GTCG) trên thị trường mở tăng nhanh qua các năm.
Những năm gần đây, tốc độ này đạt trên 200%.
Bảng 1. Tổng doanh số trúng thầu OMO qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Khối lượng trúng thầu theo các phương thức giao dịch
Năm thực
hiện
Số
phiên
thực
Mua kỳ
hạn
Mua
hẳn
Bán kỳ
hạn
Bán hẳn Tổng cộng
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 11
2000 17 873,50 480,00 550,00 1.903,50
2001 48 3.253,81 60,00 50,00 570,00 3.933,81
2002 85 7.245,53 1.900,00 9.145,53
2003 107 9.844,15 11.340,00 21.184,15
2004 123 60.985,91 950,00 61.935,91
2005 159 100.679,15 700,00 1.100,00 102.479,15
2006 155 86.302 26.332 112.634
2007 165 88.257 35.264 123.521
2008 402 947.205 12.022 78.431 1.400.692
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông qua hoạt động OMO, NHNN không chỉ mua GTCG để bơm thêm vốn khả
dụng khi thị trường thiếu hụt vốn khả dụng và mà còn bán GTCG để hút tiền nhàn rỗi khi
thị trường dư thừa vốn nhằm thực hiện mục tiêu CSTT. Doanh số trúng thầu OMO tăng
mạnh qua các năm, trung bình tăng 1,9573 lần/năm, qua đó tăng khả năng điều tiết của
công cụ này đến vốn khả dụng của TCTD cũng như các điều kiện tiền tệ.
- Tần suất giao dịch trên thị trường mở tăng
Để tăng cường khả năng tác động của công cụ này, NHNN đã tăng tần suất giao
dịch thị trường mở. Trong thời gian đầu khi mới triển khai, các phiên OMO được tổ chức
với tần suất 10 ngày/phiên. Ngày giao dịch OMO được tính theo ngày làm việc. Từ phiên
thứ 14 vào ngày 29/11/2000, OMO được thực hiện với tần suất 1 tuần/phiên vào ngày thứ
Tư hàng tuần. Điều này đã giúp cho các TCTD chủ động điều chỉnh kịp thời, linh hoạt
vốn khả dụng của mình. Từ năm 2001, Ban điều hành OMO đã tăng định kỳ tổ chức các
phiên giao dịch OMO 2 phiên/1 tuần vào ngày thứ 3 và thứ 5 hàng tuần. Ngoài ra để đáp
ứng kịp thời vốn khả dụng cho TCTD, NHNN đã tổ chức các phiên đấu thầu đột xuất
theo ngày, cá biệt 2 phiên/ngày trong thời gian giáp Tết Nguyên đán. Việc tổ chức các
phiên đột xuất đã hỗ trợ kịp thời cho các TCTD khắc phục khó khăn về thiếu hụt vốn khả
dụng, đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả và đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ. Bắt đầu
từ tháng 11/2004, giao dịch OMO đã được thực hiện định kỳ 3 phiên/tuần, vào ngày thứ
2, 4 và 6, góp phần điều tiết kịp thời vốn khả dụng của TCTD. Trong năm 2005, NHNN
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 12
đã tổ chức được 158 phiên thị trường mở, tăng 28,5%so với năm 2004. Mặc dù hiện nay
đã giao dịch với tần suất 3 phiên/tuần nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
giao dịch vốn của các ngân hàng. Vì thế năm 2006 và 2007 được nâng lên là 5 phiên /
tuần .
Bảng 2. Số lượng các phiên giao dịch OMO
Số phiên mua Số phiên bán
Năm
Số
phiên

Mua
hẳn
Mua có
kỳ hạn
Bán hẳn Bán có kỳ
hạn
Tần suất giao
dịch
2000 17 4 10 3 0 10 ngày/phiên
2001 48 3 39 5 1 1 tuần/phiên
2002 85 1 58 26 0 1 tuần/2 phiên
2003 107 0 52 55 0 1 tuần/2 phiên
2004 123 0 109 0 14 1 tuần/3 phiên
2005 158 0 150 6 2 1 tuần/3 phiên
2006 155 148 7 1 tuần/5 phiên
2007 165 153 7 5 1 tuần/5 phiên
2008 402
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2.2.2. Hạn chế:
- Tuy nhiên, trong 5 năm qua, thị trường đấu thầu TPKB qua NHNN vẫn còn một số tồn
tại như thành viên tham gia đấu thầu chủ yếu vẫn là các Ngân hàng thương mại Nhà
nước, số lượng các NHTMCP và chi nhánh NH nước ngoài tham gia rất ít. Nguyên nhân
chủ yếu là các NHTMCP chưa thực sự quan tâm tới thị trường này do lãi suất TPKB
chưa thực sự hấp dẫn so với các loại trái phiếu phát hành qua Uỷ Ban chứng khoán. M
ặt
khác, lượng vốn khả dụng dư thừa để đầu tư vào TPKB của các NHTMCP vẫn còn hạn
chế. Việc đầu tư vào TPKB của các thành viên chủ yếu nhằm mục đích dự phòng an toàn
về khả năng thanh toán vào giai đoạn nhạy cảm ( Tết dương lịch và tết âm lịch) do đó
việc giao dịch các loại GTCG giữa các TCTD trên thị trường liên ngân hàng với nhau
chưa linh hoạt, một phần nguyên nhân do cơ sở hạ tầng (công nghệ, pháp lý) của thị

Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 13
trường thứ cấp chưa phát triển. Quy chế 935/2004/QĐ-NHNN ngày 23/7/2004 tuy đã cho
phép việc tổ chức hình thức đấu thầu kết hợp cả cạnh tranh và không canh tranh lãi suất
trong một phiên đấu thầu nhưng đến nay vẫn chưa áp dụng.
- Trong năm 2009, nhu cầu huy động vốn bằng trái phiếu chính phủ cho ngân sách vào
khoảng 200.000 tỉ đồng. Song, tổng khối lượng trái phiếu chính phủ đã phát hành trong
năm chỉ được khoảng 20.000 tỉ đồng, đạt 14% kế hoạch đề ra.
- Doanh số giao dịch OMO thấp, bình quân 373 tỷ đồng/phiên, nên mức độ tác động của
OMO đến các điều kiện thị trường vẫn còn khá khiêm tốn. Và trong năm 2007 thì bình
quân hơn 600 tỷ đồng / phiên .
- Kỳ hạn mua bán GTCG ngắn và chưa đa dạng: Hiện nay, NHNN chỉ thực hiện thống
nhất một loại kỳ hạn giao dịch trong một phiên đấu thầu. Điều này đã hạn chế sự lựa
chọn về kỳ hạn của các thành viên thị trường, mặc dù nhu cầu về khối lượng và thời gian
của các thành viên là khác nhau. Bên cạnh đó, NHNN chỉ thực hiện giao dịch theo một
chiều nhất định (mua hoặc bán GTCG) trong một phiên và chủ yếu thực hiện việc mua
GTCG nên các TCTD cũng không thể tham gia nếu không phù hợp với nhu cầu vốn của
họ. Điều này đã được chứng minh trong thực tế khi tại nhiều phiên giao dịch, không có
thành viên nào tham gia.
Mặc dù về quy định là kỳ hạn giao dịch đã được đa dạng hoá từ 7 ngày đến 182 ngày
nhưng trên thực tế, NHNN thường chỉ giao dịch với các kỳ hạn từ 7-30 ngày, dẫn đến các
khoản thanh toán với NHNN đến hạn dồn dập trong một thời .
2.3. Thị trường hối đoái
:
Trên thị trường tài chính, thị trường hối đoái là thị trường có tính thanh khoản cao
nhất với doanh số giao dịch lớn nhất hiện nay. Và tỷ giá hối đoái được sử dụng như thước
đo chủ yếu để nhận định thị trường hối đoái tại một quốc gia có đang phát triển ổn định
hay không. Trên thực tế, tỷ giá hối đoái là công cụ hữu hiệ
u để điều tiết hoạt động xuất
nhập khẩu cũng như dòng dịch chuyển của các luồng ngoại tệ. Nghĩa là, nó vẫn có thể

trái ngược với trên thị trường quốc tế.
2.3.1 Thành tựu:
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 14
Quy chế hoạt động giao dịch hối đoái được ban hành nhằm tạo cơ sở pháp lý cho
các hoạt động kinh doanh hối đoái, đa dạng hoá các loại hình giao dịch trên thị trường;
tạo các công cụ phòng ngừa rủi ro trước những biến động của tỷ giá và lãi suất trên thị
trường trong tương lại; giúp cho các nhà xuất khẩu, nhập khẩu, các đơn vị kinh tế chủ
động trong kinh doanh; thúc đẩy và phát triển các giao dịch hối đoái để góp phần hoàn
thiện thị trường hối đoái ở Việt Nam.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chính thức được hình thành từ năm 1994. Thị
trường này giúp kết nối cung cầu ngoại tệ cho các ngân hàng. Qua thị trường này,
NHNN đã theo dõi được các giao dịch về ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, thấy được
diễn biến cung cầu và tham gia thị trường với vai trò là người mua bán cuối cùng. NHNN
tham gia thị trường này nhằm thực thi chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Kể từ năm
1999, ngoài điều hành linh hoạt tỷ giá, NHNN còn thực hiện các biện pháp can thiệp kịp
thời tỷ giá trên thị trường giúp các NHTM cân đối ngoại tệ đã góp phần làm ổn định tỷ
giá.
Việc NHNN điều hành linh hoạt tỷ giá USD/VND (điều chỉnh tăng tỷ giá giao
dịch USD/VND bình quân thị trường liên ngân hàng, tăng biên độ tỷ giá giữa VND với
USD từ +3%(ngày 07/11/2008) lên +5%(ngày 24/03/2009) hoặc giảm +3% (ngày
25/11/2009) đối với giao dịch mua bán của các NHTM); can thiệp mua bán ngoại tệ và
thực hiện các biện pháp chống đầu cơ ngoại tệ ; bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu
các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống đã góp phần điều hoà ngoại
tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
2.3.2. Hạn chế:
Thị
trường ngoại hối của Việt Nam vẫn thuộc loại kém phát triển, ngay cả khi so
với các nước trong khu vực, kể cả quy mô và chiều sâu do chất lượng quản lý không cao,
thiếu thống nhất, các quy định lỏng lẻo, tạo điều kiện cho những hành vi vi phạm về quản

lý. Phổ biến tình trạng niêm yết giá cả bằng ngoại tệ, thanh toán, mua bán ngoại tệ bất
hợp pháp vẫn còn diễn ra phổ biến, các nguồn thu bằng ngoại tệ vẫn còn phân tán trong
nhân dân, doanh nghiệp hoặc một số quỹ ngoại tệ khác, chưa được thu hút vào hệ thống
ngân hàng, chưa nâng cao được tính chuyển đổi của đồng Việt Nam và chưa phát huy
được tác dụng trong việc khắc phục tình trạng đô la hóa của nền kinh tế.
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 15
Những vấn đề hết sức quan trọng của kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập
sâu và rộng như tỷ giá, thị trường ngoại hối, quản lý dự trữ mới chỉ được xác lập ở các
nguyên tắc cơ bản mà chưa được điều chỉnh rõ ràng về các giao dịch. Đối với công cụ tỷ
giá: Nếu như trước đây NHNN vẫn khống chế biên độ tỷ giá (±0.5%) trong một thời gian
dài thì nay đã cho phép các NHTM giao dịch trong biên độ (±1%) điều này đã hạn chế
quyền chủ động linh hoạt của các NHTM trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ có liên
quan đến ngoại hối.
Các giao dịch giữa các ngân hàng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chủ yếu
được thực hiện dưới hình thức giao ngay. Các công cụ mang tính phòng ngừa rủi ro, công
cụ phái sinh còn ít được áp dụng hoặc mới bước đầu triển khai, nhất là giao dịch kỳ hạn,
quyền chọn và giao dịch hoán đổi với các hình thức hoán đổi lãi suất, hoán đổi tiền tệ.
Song song thị trường ngoại tệ chính thức còn có sự tồn tại của thị trường ngoại tệ
chợ đen mà Vụ trưởng Vụ quản lý ngoại hối Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Quang Huy
nhận định là có quy mô tương đối nhỏ nhưng có tác động lớn đến tâm lý.
Sự ra đời và tồn tại của thị trường ngoại tệ chợ đen là một tất yếu xuất phát từ
thực trạng kinh tế và cơ chế quản lý ngoại hối của Việt Nam. Độ chênh lệch giữa tỷ giá
chính thức và tỷ giá chợ đen đã tạo nên khái niệm độ mở “cánh kéo” giúp đánh giá mức
độ hợp lý trong điều hành tỷ giá. Tính hợp lý bộc lộ khi hai tỷ giá xích lại gần nhau.
Không nhất thiết làm chúng trùng nhau vì thị trường chợ đen cũng chỉ là một mảng nhỏ
trong tổng thể thị trường, và tính bất hợp pháp của nó luôn chứa đựng một khoản rủi ro
nhất định.
Thị trường tiền tệ nổi trội với những đồng tiền mạnh như: USD, EUR, JPY.
Nhưng chỉ duy nhất USD chiếm tỷ trọng

ưu thế trong tổng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Ngay
cả Việt Nam, Chính phủ vẫn tập trung vào dự trữ đồng USD. Mặc dù có tỷ giá tương đối
ổn định, EUR và JPY vẫn chưa được sự quan tâm đúng mức trong cơ cấu dự trữ ngoại tệ.
Thị trường ngoại hối Việt Nam còn phụ thuộc quá nhiều vào USD - đã gây nên
hiện trạng “Đô la hóa”, để rồi phải suy ngẫm và tìm cách khắc phục. Làm mất giá đồng
tiền nội tệ có là giải pháp hữu hiệu để phát triển kinh tế xuất khẩu, thu hút đầu tư?
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 16
Đến nay, thị trường hối đoái Việt Nam vẫn mang đặc trưng là thiếu các công cụ
phòng chống rủi ro tỷ giá. Các công cụ hoạt động trên thị trường hối đoái, như: hợp đồng
giao ngay (Spot), hợp đồng hoán đổi (Swap), hợp đồng kỳ hạn (Forward), hợp đồng
quyền chọn (Option) thật sự rất cần thiết cho các nhà kinh doanh ngoại tệ, các công ty
xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp dễ chịu tổn thất khi tỷ giá biến động nếu các công cụ
này vẫn chưa được hoàn thiện và phát huy hết tác dụng.


















Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 17
CHƯƠNG 3:
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VIỆT NAM
3.1. Mục tiêu và định hướng
Mục tiêu, định hướng và các giải pháp lớn về điều hành chính sách tiền tệ của
NHNN năm 2010 là: Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và
thận trọng nhằm ổn định thị trường tiền tệ, thực hiện có hiệu quả vai trò điều tiết cung
cầu vốn ngắn hạn, bảo đảm khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng, kiểm soát tốc
độ tăng tổng phương tiện thanh toán, dư nợ tín dụng và áp dụng lãi suất, tỷ giá ở mức hợp
lý phù hợp với diễn biến tình hình, đáp ứng yêu cầu kích thích tăng trưởng kinh tế, ổn
định kinh tế vĩ mô và ngăn ngừa lạm phát cao trở lại thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền
vững trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế.
Để thực hiện mục tiêu trên, thị trường tiền tệ Việt Nam cần phát triển theo định
hướng sau: Phát triển thị trường tiền tệ an toàn hiệu quả, đồng bộ, mang tính cạnh tranh
cao nhằm tạo cơ sở quan trọng cho hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, huy động
và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín
dụng.
Theo đó, thị trường tiền tệ sẽ phát triển mạnh trên cơ sở tổ chức lại và củng cố thị
trường liên ngân hàng với cơ chế hoạt động thông thoáng, tăng cường vai trò giám sát,
điều hành, khả năng kiểm soát, điều tiết thị trường của NHNN;
Phát triển thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc; tăng cường hoạt động nghiệp vụ
thị trường mở
, tăng số lượng và chủng loại chứng khoán có độ an toàn và tính thanh
khoản cao được phép giao dịch; tăng cường sự liên kết giữa các thị trường tiền tệ bộ
phận, giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán nhằm tăng tính linh hoạt của thị
trường, khả năng phòng ngừa và khả năng chuyển đổi rủi ro giữa các thị trường; hạn chế
can thiệp hành chính vào hoạt động thị trường tiền tệ.
Trong từng thời điểm, những giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN sẽ có sự

linh hoạt theo sát sự chỉ đạo của Chính phủ và tôn trọng nguyên tắc thị trường.
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 18
3.2. Thị trường tín dụng ngắn hạn giữa các NHTM (hay thị trường liên ngân hàng –
Interbank):
- NHNN nên phối hợp với thành viên thị trường thành lập nhóm điều phối thị trường
Repo (là một dạng vay ngắn hạn đối với các loại chứng khoán của chính phủ. Người
tham gia bán các chứng khoán chính phủ cho người đầu tư, thông thường trong khoảng
thời gian ngắn hạn (24 giờ), và sau đó mua lại vào hôm sau) giữa các ngân hàng.
- NHNN xem xét thực hiện các giao dịch hoán đổi với thị trường liên ngân hàng thường
xuyên hơn, thay vì việc chỉ giao dịch trong thời kỳ khó khăn về thanh khoản nhằm
khuyến khích các thành viên thị trường giao dịch ở thời hạn dài hơn và tạo ra khối lượng
giao dịch lớn hơn trong thị trường liên ngân hàng.
- Thành lập trung tâm thị trường liên ngân hàng khu vực, trung tâm này không chỉ đơn
thuần là một bộ phận quản lý của Ngân hàng Nhà nước mà còn phải trở thành môi giới
giữa các ngân hàng có nhu cầu cho vay và đi vay.
- Mở rộng thành viên tham gia giao dịch trên thị trường liên ngân hàng vì hiện nay mới
chỉ có đại diện của các hệ thống Ngân hàng thương mại cho nên cần phải mở rộng cho tất
cả các thành viên (là các chi nhánh lớn) của hệ thống được tham gia.
- Nên bổ sung, đa dạng hoá các công cụ tài chính giao dịch trên thị trường. Ngoài hai
công cụ chủ yếu là tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng nhà nước thì các kỳ phiếu, trái
phiếu do Ngân hàng thương mại phát hành c
ũng cần được bổ sung giao dịch.
- Từng bước nâng cao chất lượng của việc thu thập và dự báo thông tin về vốn khả dụng
của các thành viên tham gia giao dịch để làm cơ sở đưa ra các quyết định chính xác trên
thị trường mở.
3.3. Thị trường các công nợ ngắn hạn:
- Để tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên trong việc lựa chọn kỳ hạn giao dịch,
NHNN cần đ
a dạng hoá hơn nữa các kỳ hạn giao dịch trong một phiên giao dịch. Trong

thời gian trước mắt, NHNN có thể áp dụng 2 kỳ hạn giao dịch trong một phiên. Việc áp
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 19
dụng nhiều kỳ hạn trong một phiên sẽ cho phép các thành viên có thêm sự lựa chọn phù
hợp với dự báo nhu cầu vốn của họ. Qua đó, sẽ tạo thêm cơ hội và tăng sự hấp dẫn của thị
trường mở đối với các thành viên.
- NHNN cũng cần tiến tới áp dụng giao dịch mua bán kỳ hạn qua đêm đối với thị trường
mở. NHNN sẽ định hướng đưa ra giao dịch repo kỳ hạn qua đêm để thúc đẩy thị trường
hoạt động linh hoạt và kịp thời. Cơng tác dự đốn và quản lý vốn của NHNN và NHTM
do đó được tiến hành trên cơ sở từng ngày, đảm bảo chính xác và hiệu quả. Để giao dịch
ở kỳ hạn này, NHNN và NHTM cần có những cải tiến và hồn thiện về mặt quản lý, trình
độ và cơng nghệ. Đây là một đòn bẩy để giúp thị trường vốn phát triển theo xu hướng
quốc tế.
- Cần đa dạng hóa kỳ hạn của Tín phiếu kho bạc nhất là TPKB với thời hạn ngắn dưới 6
tháng.
3.4. Thị trường hối đối:
* Nâng cao năng lực của các thành viên tham gia thò trường ngoại hối :
* Đối với Ngân hàng Nhà nước (NHNN):
- Nâng cao vai trò mua bán cuối cùng và giám sát thò trường của NHNN trên thò trường
ngoại tệ liên ngân hàng. NHNN cần nghiên cứu thực hiện phương thức xử lý mua
ngoại tệ dư thừa của các ngân hàng thương mại (NHTM) kèm theo cam kết bán lại
một phần hoặc toàn bộ khi các NHTM có nhu cầu thanh khoản về tài khoản ngoại tệ
của khách hàng cùng với biện pháp xiết chặt kỷ luật thanh toán. Có như vậy, sự căng
thẳng về cung cầu ngoại tệ cũng sẽ được hạn chế do tập trung được các luồng ngoại tệ
qua hệ thống ngân hàng.
- Phát triển các công cụ hiện đại trên thò trường ngoại hối giao dòch ngoại hối kỳ hạn,
quyền chọn, tương lai) trên cơ sở lộ trình tự do hóa tài khoản vãng lai và tài khoản vốn
một cách phù hợp và linh hoạt.
- Xác đònh tỷ giá trên cơ sở rổ ngoại tệ phù hợp với cơ cấu thương mại quốc tế của Việt
Nam với các đối tác thương mại chính có tính đến việc tự do hóa thương mại theo các

cam kết đa phương mà Việt Nam tham gia.
- Tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành quy đònh về trạng thái ngoại tệ của các
NHTM, tăng cường vai trò trung gian của hệ thống ngân hàng trong việc huy động
ngoại tệ từ khu vực có dư thừa (khu vực dân cư và chính phủ) và đáp ứng nhu cầu chi
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 20
ngoại tệ của các khu vực có thiếu hụt (khu vực doanh nghiệp) để cân đối ngoại tệ phù
hợp.
- Hoàn thiện công tác thống kê giao dòch ngoại hối về cả mặt phương pháp luận và kỹ
thuật thực hiện thông qua hoàn chỉnh các hệ thống mẫu biểu báo cáo tại cả NHNN và
các NHTM.
* Đối với Ngân hàng Thương mại:
- Cần tuyên truyền, hướng dẫn và tư vấn cho các doanh nghiệp kiến thức, kinh nghiệm
về các hoạt động ngoại hối và cách thức quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối.
- Chuẩn hoá tổ chức hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở các NHTM theo hướng mỗi
NHTM có một phòng kinh doanh ngoại tệ với quy mô thích hợp và có đủ thẩm quyền
để thực hiện các giao dòch ngoại hối tức thời.
- Tăng cường trang bò công nghệ, kỹ thuật hiện đại trong việc thu thập, cập nhật thông
tin về ngoại hối để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh ngoại hối được thông suốt và
hiệu quả. Bên cạnh đó, mỗi NHTM cũng phải thường xuyên đào tạo, đào tạo lại
nghiệp vụ chuyên môn trong lónh vực kinh doanh ngoại hối cho các cán bộ phụ trách
nhằm đảm bảo nguồn nhân lực giỏi trong lónh vực có tính chất phức tạp, mới mẻ này ở
nước ta.
* Phát triển thò trường ngoại tệ liên ngân hàng
Để tạo sức sống mới cho thò trường ngoại tệ liên ngân hàng, Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) cần quan tâm đến các vấn đề sau:
- Gia tăng quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia:
Trong thời gian gần đây, tổng dự trữ ngoại hối của Việt Nam gia tăng nhanh chóng,
góp phần tạo tiềm lực cho hoạt động quản lý ngoại hối của NHNN nói riêng, cho thò
trường hối đoái Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, cách đánh giá về quỹ dự trữ ngoại hối

Việt Nam còn hạn chế ở chỗ: quỹ dự trữ ngoại hối được xác đònh theo tuần nhập khẩu,
tức là mới chỉ dừng lại ở việc sẵn sàng cung ứng ngoại tệ để cân bằng cán cân thương
mại. Trong tương lai, cách tính này không an toàn vì nó không bao quát hết nhu cầu
ngoại tệ của đất nước vì bên cạnh cán cân vãng lai, cán cân vốn cũng tạo một áp lực
lớn về ngoại hối. Do vậy, để tránh tình trạng căng thẳng ngoại tệ trong tương lai,
NHNN cần cộng thêm khoản dự phòng cho các nhu cầu ngoại tệ phát sinh từ cán cân
tài khoản vốn trong việc xác đònh tồn quỹ ngoại hối; đồng thời, gia tăng nguồn ngoại
hối cho mục tiêu ổn đònh tỷ giá khi thò trường tài chính trong nước và quốc tế biến
động. Muốn vậy, NHNN cần tiếp tục thực hiện chính sách cung tiền kèm với mục tiêu
tăng quỹ dự trữ ngoại hối, phối hợp với Bộ Tài Chính trong việc quản lý và sử dụng
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 21
hiệu quả nguồn ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu dầu thô (mặt hàng xuất khẩu chiến
lược của quốc gia), tăng cường các biện pháp kinh tế nhằm khuyến khích các tổ chức,
cá nhân bán ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng…
- Ngân hàng Nhà nước phải đảm bảo tốt chức năng là người mua bán cuối cùng:
Một hạn chế nổi bật của thò trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt Nam là mất cân
đối trong giao dòch. Vì vậy, để có thể điều tiết thò trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm
can thiệp hữu hiệu vào tỷ giá, trước hết, NHNN phải sẵn sàng thỏa mãn mọi nhu cầu
ngoại tệ hợp lý của thò trường; ngược lại, theo tác động hai chiều của giao dòch, NHNN
có thể thu gom ngoại tệ từ các ngân hàng thương mại. Hiển nhiên, yêu cầu này chỉ có
thể thực hiện tốt khi và chỉ khi NHNN quản lý tốt tài khoản ngoại tệ, gia tăng dự trữ
ngoại hối và xây dựng cơ chế tỷ giá phù hợp.
- Đối với các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ:
+ Về tỷ giá kỳ hạn và hoán đổi tiền tệ: Thò trường ngoại tệ kỳ hạn trong thời gian
qua hoạt động khá mờ nhạt. Điều này xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu là do NHNN
đã khống chế thời hạn và tỷ giá mua bán trong các hợp đồng kỳ hạn. Để năng động
hóa thò trường, NHNN cần nhanh chóng cho phép thiết lập cơ chế xác đònh tỷ giá kỳ
hạn, phí hoán đổi tiền tệ hoàn toàn theo nguyên tắc thò trường.
+ Về nghiệp vụ tương lai và quyền chọn tiền tệ: Nhiều thò trường tài chính trên thế

giới đã thực hiện nghiệp vụ tương lai và quyền chọn nhưng do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan mà hiện nay NHNN còn dè dặt với các nghiệp vụ này. Tuy
nhiên, trong tương lai, thiết nghó NHNN nên cho phép các NHTM từng bước tiếp cận
với các nghiệp vụ này vì nó vừa làm đa dạng, sinh động thò trường ngoại hối vừa cung
cấp nhiều công cụ để quản trò rủi ro tỷ giá ở mức độ cao hơn cho nền kinh tế.
* Phát triển thò trường giao dòch bán lẻ thông qua quản lý thích hợp tài khoản tiền
gửi ngoại tệ:
- Đối với các tổ chức xã hội là người cư trú:
Không thay đổi về nghóa vụ bán ngoại tệ cho ngân hàng, nghóa là, các tổ chức này
buộc phải bán 100% số ngoại tệ thu được trong giao dòch quốc tế cho ngân hàng
thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ.
- Đối với các tổ chức kinh tế là người cư trú:
Để thu hút ngoại tệ từ các tổ chức này, trước hết, Chính phủ phải đảm bảo thỏa mãn
nhu cầu ngoại tệ hợp lý cho nền kinh tế, cũng là thỏa mãn nhu cầu của bản thân họ. Có
như vậy, các tổ chức này mới an tâm bán ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng.
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 22
Thứ hai, Chính phủ cần tạo điều kiện, phổ biến cho các tổ chức kinh tế sử dụng các
công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá một cách hiệu quả.
Thứ ba, NHNN phải kết hợp giữa việc quản lý tài khoản ngoại tệ với hoạt động cho
vay ngoại tệ của ngân hàng. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp có số dư tài khoản
ngoạïi tệ cao nhưng khi cần vốn kinh doanh họ không chuyển số ngoại tệ này thành
VND mà đề nghò ngân hàng thương mại cấp tín dụng bằng VND. Biện pháp này giúp
doanh nghiệp hạn chế rủi ro tỷ giá nhưng bất lợi của nó là gây khan hiếm tiền tệ một
cách giả tạo. Để giải quyết vấn đề này, NHNN nên xây dựng các quy đònh khắt khe
trong việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp có số dư tài khoản ngoạïi tệ cao nhằm
hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ của đơn vò và cân bằng cung cầu tiền tệ của quốc
gia.
- Đối với cá nhân là người cư trú:
Trong bối cảnh nền kinh tế “ngầm” còn tồn tại, nạn buôn lậu phát triển mạnh, hệ

thống quản lý tài sản cá nhân hoạt động kém hiệu quả…thì Chính phủ nên tiếp tục cho
phép các ngân hàng thương mại thu hút nguồn ngoại tệ của các cá nhân là người cư trú
dưới hình thức tài khoản tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu… ngoại tệ song song với tài
khoản bằng bản tệ. Khi cần điều chỉnh số dư tài khoản ngoại tệ của cá nhân là người
cư trú, NHNN sử dụng công cụ lãi suất, tỷ giá để điều tiết thay cho các ép buộc mang
tính hành chính (như cấm mở tài khoản ngoại tệ, bắt buộc kết hối…).
- Đối với các tổ chức, cá nhân là người không cư trú:
NHNN chỉ cho phép các đối tượng này mở tài khoản ngoại tệ để hạch toán các nguồn
thu ngoại tệ từ nước ngoài được chuyển vào chi tiêu tại Việt Nam. Nguồn ngoại tệ này
chỉ được sử dụng tại những nơi được phép thu ngoại tệ. Nếu phát sinh các nhu cầu chi
tiêu khác tại Việt Nam, chủ tài khoản phải đổi ngoại tệ thành đồng tiền Việt Nam tại
các ngân hàng thương mại để sử dụng.




Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 13
Trang 23
KẾT LUẬN
Tóm lại, thị trường tiền tệ Việt Nam đã được hình thành và từng bước hoàn thiện gắn liền
với tiến trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước. Cho đến nay, mặc dù thị trường
tiền tệ Việt Nam chưa thực sự phát triển, nhưng nó đã đóng vai trò quan trọng trong việc
điều tiết cung cầu về nguồn vốn ngắn hạn nhằm hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, đời sống của các chủ thể trong nền kinh tế.
Đặc biệt, thị trường đã thực hiện chức năng cân đối, điều hòa nguồn vốn giữa các ngân
hàng, góp phần hỗ trợ cho các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán, hoạt động an
toàn và hiệu quả. Thông qua các hoạt động trên thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam (NHNN) đã thực hiện điều tiết tiền tệ nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc
gia. Có thể khẳng định rằng, thị trường tiền tệ Việt Nam đã góp phần nhất định trong quá
trình phát triển kinh tế đất nước, nhất là quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường theo

định hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
#  "

×