Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

tác động của quá trình toàn cầu hóa với các doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.06 KB, 11 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM.
1. Điểm mạnh
- Nguồn nhân lực dồi dào
Tính đến ngày 1/4/2009 thì dân số Việt Nam là 86 triệu người, trong đó số người trong
độ tuổi lao động tăng nhanh và chiếm một tỉ lệ cao khoảng 67% dân số cả nước. Một
trong những lợi thế quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam là có nguồn lao động dồi
dào, dân số trẻ, lao động lại cần cù chăm chỉ, do đó chi phí cho sản xuất sản phẩm thấp
tạo ưu thế về giá cho các sản phẩm công nghiệp. Đó cũng là nhân tố thu hút sự đầu tư của
các nhà đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam.
- các doanh nghiệp Việt Nam nên tận dụng lợi thế về văn hóa
Xin trích dẫn nhận xét của Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú như sau:
Điều mà các doanh nghiệp Việt Nam nhưng doanh nghiệp nước ngoài không làm được là
tìm hiểu kỹ nhu cầu của người Việt Nam, văn hoá Việt Nam, đáp ứng nhu cầu đó, văn
hoá đó thì chúng ta sẽ thắng trên sân nhà.
Sự hiểu biết tường tận về văn hoá Việt là "vũ khí" của họ trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, bởi chúng ta không thể dựng hàng rào với tất cả các doanh nghiệp nước ngoài
mà không có hàng rào quanh ta, chúng ta không thể cạnh tranh với người nước ngoài
bằng vốn liếng, công nghệ, kinh nghiệm quản lý nhưng chúng ta có thể cạnh tranh bằng
Văn hoá . Văn hoá là một thứ không dễ học, là rào cản rất lớn với bất cứ người nước
ngoài nào, kể cả người nước ngoài sống nhiều năm ở một nước. Đơn cử như gà rán KFC
không bao giờ có thể thắng được phở Việt Nam
Cái yếu của doanh nghiệp Việt Nam là kinh nghiệm quản lý, kinh doanh còn mỏng; cơ sở
vật chất của doanh nghiệp; công nghệ yếu kém, nhân lực hạn chế Sản phẩm cũng vậy:
chủng loại còn ít, mẫu mã chưa phong phú, chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường, chất
lượng hàng hoá của chúng ta còn kém, bao bì, thương hiệu chưa xây đựng được. Đương
nhiên giá cả ở sản xuất quy mô nhỏ, mẫu mã ít thì sẽ cao hơn với sản xuất quy mô lớn.
Chính phủ và các Bộ ngành hiện đang đẩy mạnh kêu gọi "Người Việt dùng hàng Việt”
tạo điều kiện để hàng Việt Nam đến được với người tiêu dùng Việt Nam và người tiêu
dùng Việt Nam có thể dùng hàng Việt Nam, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển cơ sở hạ
tầng, sản xuất, trong khi nhà sản xuất không thể quan tâm nhiều tới xuất khẩu nữa, buộc


phải quan tâm nhiều tới thị trường nội địa
Ngoài ra phải khắc phục tâm lý tiêu dùng: đừng coi tiêu dùng sản phẩm chỉ để thoả mãn
nhu cầu của mình, mà còn đóng góp cho phát triển kinh tế đất nước, và từ đó lại quay lại
đóng góp cho sự phát triển của chính mình - đặc biệt là giới trẻ.
- Môi trường đầu tư, các chính sách, biện pháp quản lý của nhà nước đối với các doanh
nghiệp trong nước
Vai trò của doanh nhân Việt thực sự mới được nhìn nhận lại trong những năm gần đây
khi mà năm 1999 Luật Doanh nghiệp ra đời không chỉ thừa nhận mà còn khuyến khích
phát triển kinh doanh đã kéo theo sự gia tăng đột phá của lực lượng doanh nghiệp, doanh
nhân cả về lượng và chất. Năm 2005, quyết định của Chính phủ lấy ngày 13/10 hàng năm
làm ngày Doanh nhân Việt Nam cho thấy nghề kinh doanh không những được thừa nhận,
khuyến khích mà còn được tôn vinh. Đặc biệt, nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ 10
(2006) cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân đã khẳng định một cách mạnh mẽ và
toàn diện về vai trò của nghề kinh doanh, của đội ngũ doanh nhân đối với sự phát triển
chung của xã hội.
Luật đầu tư 2005 ra đời có hiệu lực vào tháng 7/2006 là dấu hiệu tốt cho các nhà đầu tư
trong và ngoài nước tiến hành các hoạt động đầu tư đặc biệt là trong ngành công nghiệp
Việt Nam. Các chính sách bảo đảm đầu tư chung, khuyến khích đầu tư hấp dẫn thể hiện
thái độ cởi mở của nhà nước trong hoạt động đầu tư. Tất cả tạo nên môi trường đầu tư
thuận lợi cho hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Gần đây nhà nước đề ra nhiều chương trình hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động
khoa học và công nghệ, cụ thể là nghiên cứu phát triển các thành tựu khoa học công nghệ
và ứng dụng chúng vào hoạt động doanh nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm, hiệu quả kinh doanh.
- Doanh nghiệp Việt Nam luôn rất năng động
Giáo sư Koenraad Tommissen là giám đốc điều hành của nhiều công ty lớn, làm tư vấn
cho nhiều doanh nghiệp châu Âu và giảng viên của nhiều trường đại học có chuyên
ngành quản trị kinh doanh. Ông chia sẻ góc nhìn của mình về kinh doanh ở Việt Nam: Đề
cập đến các điểm mạnh: Doanh nghiệp Việt Nam luôn rất năng động, họ có thể làm việc
nhiều hơn các đồng nghiệp ở những nước khác rất nhiều và trên hết chính là sự tự giác

sáng tạo, đổi mới. Họ tò mò và ham thích học hỏi. Tuy nhiên, họ có thể trao đổi thêm
kinh nghiệm và kiến thức với những đồng nghiệp trong nước. Điểm mạnh của doanh
nhân Việt là rất cần cù chịu khó, không ngại gian khổ, khó khăn, sức làm việc tốt, khả
năng chịu áp lực cao.
Ở Việt Nam chỉ xét các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ là
trên 95%, làm cho nền kinh tế năng động: vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô nhỏ,
nên dễ điều chỉnh hoạt động (xét về mặt lý thuyết).
2. Điểm yếu
- Nguồn nhân lực chất lượng thấp
Lực lượng lao động chủ yếu vẫn là lao động giản đơn, khi có đến 65,3 % lao động không
qua bất kỳ trường lớp đào tạo nào (2011). Xét trên bình diện chung, giá lao động của Việt
Nam hiện ở mức thấp so với các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan…
Đánh giá về chất lượng lao động Việt Nam thông qua năng suất lao động, TS. Hồ Đức
Hùng (Đại học Kinh tế TPHCM) so sánh: năng suất lao động của lao động Việt Nam hiện
thấp hơn Indonesia 10 lần, Malaysia 20 lần, Thái Lan 30 lần, và Nhật Bản tới 135 lần!
Ông cũng bày tỏ quan điểm: “Nếu coi lao động giá rẻ (chất lượng thấp) như một lợi thế
thì sai lầm, bởi yếu tố quyết định đến doanh thu lợi nhuận của doanh nghiệp chính là
năng suất lao động”. Dựa trên chỉ số cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới,
năm 2009-2010, Việt Nam xếp thứ 75/133 quốc gia về năng suất lao động, trong khi đó
vị trí của Singapore là 3, Malaysia 24, Thái Lan 36…
Khuyến cáo của TS. Christian H.M. Ketels, cố vấn đặc biệt Học viện Chiến lược và Cạnh
tranh Harvard: “Việt Nam sẽ bị mắc ở mức phát triển hiện nay nếu không có giải pháp
thay đổi nguồn nhân lực”.
- Do hoàn cảnh đất nước mới mở cửa và hội nhập, doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu kinh
nghiệm trên thương trường, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam không được đào tạo đầy
đủ, cơ bản kiến thức về kinh tế thị trường cạnh tranh và hội nhập toàn cầu
Tính đến năm 2010 Việt Nam mở cửa nền kinh tế được 20 năm và Hội nhập WTO được
3 năm. Phần lớn doanh nhân Việt có xuất phát điểm rất thấp về nhiều điều kiện để kinh
doanh, gìờ đây buộc phải cạnh tranh trong môi trường Hội nhập, họ đang phải nỗ lực rất
nhiều.

Tuy nhiên quá trình mở cửa nền kinh tế chậm cũng là một trong những điểm mạnh, vì có
thời gian để quan sát và học hỏi từ những nền kinh tế đi trước.
Năm 2009 là năm khó khăn đối với xuất khẩu Việt Nam, giữ kỷ lục về số lượng các vụ
kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam với
42 vụ kiện.
Điển hình nhất là ngày 22/12/2009, liên minh châu Âu (EU) đã bỏ phiếu chính thức
thông qua đề xuất của Ủy ban châu Âu (EC) kéo dài thời hạn áp thuế chống bán phá giá
đối với giày mũi da nhập khẩu từ Việt Nam và Trung Quốc thêm 15 tháng. Điều này đã
gây ảnh hưởng lớn đến toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu của ngành da
giày Việt Nam.
Doanh nghiệp cần nhanh nhạy trong việc nắm bắt thông tin để có sự chuẩn bị đối phó kịp
thời trước mọi diễn biến của thị trường.
- Doanh nghiệp Việt Nam thiếu kinh nghiệm quản lý, nhất là quản lý các doanh nghiệp,
tập đoàn lớn, phạm vi hoạt động trải rộng trên nhiều quốc gia, trong đó, một số lại tự ti
hoặc tự thỏa mãn với những kết quả hiện tại.
Nhiều doanh nghiệp vẫn coi nhẹ nhân tố quản lý mà chỉ đề cao đến vốn và thị trường.
Đặc biệt, trong các tổ chức kinh tế có quy mô lớn và thuộc sở hữu nước thì vấn đề cải
thiện chất lượng quản lý diễn ra rất chậm. Thời gian qua chúng ta đã tiến hành cổ phần
hoá doanh nghiệp song tốc độ còn chậm, chưa đạt được mục tiêu. Cổ phần hoá chỉ diễn ra
trong nội bộ doanh nghiệp, bộ máy quản lý sau cổ phần hoá không thay đổi, một bộ phận
cổ đông chưa hiểu hết quyền lợi và nghĩa vụ nên vai trò giám sát cũng như trách nhiệm
còn hạn chế. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp là tự tổ chức đào tạo (chiếm 85,06%), ít
đào tạo qua hệ thống các cơ sở chuyên đào tạo về quản lý.
- Tầm nhìn của nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, chưa có chiến lược kinh
doanh phù hợp, rõ rang; marketing còn yếu kém
Giáo sư Koenraad Tommissen cũng nêu ý kiến: vấn đề quan trọng, đồng thời cũng dễ
hiểu nhất của doanh nghiệp Việt Nam là họ muốn thu được lợi nhuận tức thì. Ai ai cũng
nhắm vào khoản lợi trước mắt. Họ không hề hiểu rằng việc đầu tư vào tương lai là rất
quan trọng. Cùng với những thói quen lạc hậu là vấn đề về sự hành xử chưa đúng đắn
trong phạm trù đạo đức kinh doanh.

• Thiếu chiến lược kinh doanh rõ ràng
- Chưa làm rõ vị trí và hướng kinh doanh cho doanh nghiệp trên thị trường, mặc dù đã có
doanh thu
- Đánh giá thị trường: cơ hội và thách thức kinh doanh, công nghệ, khách hàng và các đối
thủ chính yếu; nhiều khi thị trường đã thay đổi lớn mà doanh nghiệp vẫn bình chân như
vại
- Nội lực doanh nghiệp - điểm mạnh và điểm yếu: chưa thường xuyên tự đánh giá lại
doanh nghiệp để biết nội lực trong quá trình phát triển
- Thiếu hoặc hoàn toàn không có chiến lược sản xuất, kinh doanh qua từng thời kỳ
- Chưa có sự chia sẻ tầm nhìn giữa bộ máy lãnh đạo và thực thi
• Sản xuất, dịch vụ vẫn chưa hướng tới khách hàng
- Chưa thiết lập được hệ thống quản lý hiệu quả, chi phí, giảm thiểu tối đa những chi phí
không tạo ra giá trị gia tăng
- Chưa thiết lập được hệ thống quản lý chất lượng, liên tục cải tiến chất lượng; thiếu kiểm
soát chất lượng nên không đồng đều, giảm sút chu đáo và mất dần khách hàng
- Chưa tạo được môi trường thúc đẩy sản xuất và sáng tạo
- Không đánh giá được sự thỏa mãn khách hàng, đặc thù doanh nghiệp nên ngộ nhận về
sự thành công
• Marketing còn yếu kém
- Thiếu hoạch định chiến lược marketing, định vị sản phẩm (đối tượng khách hàng và sự
khác biệt)
- Xem việc phát triển thương hiệu là sự quảng cáo mà không coi phát triển thương hiệu
như phát triển một con người hoàn thiện
- Không thiết lập được hệ thống phân phối
- Khả năng liên kết, hợp tác, chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp kém, thậm chí
không có
Trên thế giới, việc liên kết để tạo thành các tập đoàn khổng lồ có sức mạnh chi phối thị
trường đã được tiến hành từ rất lâu. Thế nhưng ở Việt Nam, điều này dường như vẫn
không được nhiều doanh nghiệp quan tâm. Câu tục ngữ xưa: "Buôn có bạn, bán có
phường" dường như ngày nay không được nhiều doanh nghiệp coi trọng bởi lối tư duy

ngắn hạn. Hậu quả là rất nhiều cơ hội lớn đã bị bỏ qua do đối tác nước ngoài đặt hàng lớn
nhưng doanh nghiệp không có khả năng đáp ứng, trong khi lại không chịu liên kết với
doanh nghiệp khác cùng làm.
Việc các doanh nghiệp không chịu liên kết với nhau có nhiều lý do, như sợ lộ thị trường,
mất khách hàng, lộ thông tin… và chỉ liên kết khi khó khăn. Ông Lê Tiến Trường, Phó
Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam chia sẻ: "Trước đây, trong thời điểm thuận
lợi, nhu cầu liên kết của các doanh nghiệp trong ngành dệt may không rõ ràng; trong khó
khăn, sự liên kết trở thành một xu thế tất yếu để giảm bớt rủi ro và chia sẻ kinh nghiệm".
Đại diện Hiệp hội chè cũng từng cho biết, bình thường, các doanh nghiệp thuộc hiệp hội
không có khái niệm liên kết với nhau, thậm chí còn dè chừng, cảnh giác nhau; nhưng khi
bị đối tác nước ngoài điều tra kiện bán phá giá, các doanh nghiệp bỗng “thân” nhau lạ,
liên kết, chia sẻ với nhau một cách tự nhiên.
Nhìn chung, các điểm yếu này không phải là quá trầm trọng, những rõ ràng nếu không
được khắc phục có hiệu quả sẽ có ảnh hưởng xấu và ngày càng lớn đối với kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp Việt Nam rất cần sự hỗ trợ của nhà nước trong việc cải tạo môi trường
kinh doanh ngày càng phát triển, thuận lợi cho hoạt động doanh nghiệp như: cơ sở hạ
tầng, hệ thống pháp luật, các chính sách chế độ liên quan; hệ thống thông tin quốc gia;
Có chính sách, chiến lược phát triển kinh tế phù hợp, nhất quán, đặc biệt là các chính
sách tài chính, tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hợp lý, linh hoạt. Chính phủ cũng cần tiếp tục đẩy
mạnh các mối quan hệ ngoại giao để thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển, tạo cơ hội cho
doanh nghiệp, doanh nhân vươn ra thế giới; tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp cũng như gián tiếp vào Việt Nam.
Các điểm mạnh và điểm yếu trên đã khiến toàn cầu hóa tác động đến hoạt động của
doanh nghiệp với những cơ hội và thách thức sau
3. Cơ hội
- Thị trường rộng lớn
Cơ hội thị trường quốc tế sẽ ngày càng rộng mở cho các doanh nghiệp cùng với tiến trình
Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. Các doanh nghiệp có được môi trường kinh doanh
thuận lợi và ổn định kể cả trên thị trường thế giới và trong nước. Các nguyên tắc, quy

định của các tổ chức liên kết kinh tế quốc tế đều bảo đảm cho các doanh nghiệp có được
cơ hội tiếp cận thị trường xuất khẩu, đầu tư và sản xuất, kinh doanh với các điều kiện ổn
định, minh bạch và có khả năng dự đoán trước.
Đặc biệt khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. WTO mang
lại một cơ hội toàn diện về thị trường hàng hoá, thị trường dịch vụ, thị trường vốn và thị
trường lao động. Tham gia vào một không gian kinh tế lớn hơn rất nhiều, hệ thống chính
sách luật pháp minh bạch, phân công lao động toàn cầu. Tự do hoá thương mại và đầu tư
trong WTO tập trung vào việc tăng cường tiếp cận và mở rộng thị trường, cắt giảm và
dần dần tiến tới loại bỏ hoàn toàn các hàng rào thuế quan và phi thuế đối với thương mại
và đầu tư. Các thành viên hợp tác thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua các cam kết cải
cách kinh tế và tiến tới thương mại, đầu tư an toàn, tự do và thông thoáng hơn. Các thành
viên của WTO sẽ thực hiện lộ trình giảm thuế và xử lý các rào cản thương mại sau biên
giới, đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu của doanh nghiệp trong khu vực và tạo điều
kiện cho việc kinh doanh dễ dàng và chi phí rẻ hơn.
- Thu hút vốn đầu tư, các nguồn tài trợ từ nước ngoài
Các doanh nghiệp Việt Nam thường xuyên đối mặt với khả năng tài chính hạn hẹp do
tiềm lực vốn đất nước chưa đủ mạnh. Quá trình toàn cầu hóa với làn sóng đầu tư mạnh
mẽ của các chủ đầu tư nước ngoài, các nguồn tài trợ vốn từ các tổ chức lớn như Ngân
hàng thế giới (WB),…là cơ hội rõ ràng để các doanh nghiệp Việt giải tỏa cơn khát vốn
bấy lâu.
Tham gia vào WTO sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các dòng vốn FDI di chuyển đến những
nơi đầu tư có hiệu quả. Như vậy, các nước nếu biết khai thác tốt các lợi thế so sánh của
đất nước mình sẽ có thể tăng cường thu hút vốn FDI phục vụ cho quá trình phát triển đất
nước. Sự tăng trưởng kinh tế thần kỳ của các nước NIC, các con rồng châu Á, một số
nước ASEAN, Trung Quốc nhờ một phần quan trọng vào nguồn vốn FDI và các nguồn
vốn bên ngoài khác. Thực tế cho thấy những nước đang phát triển bứt lên được về kinh tế
trong hai ba thập kỷ vừa qua là những nước biết nắm bắt các cơ hội thuận lợi trong
thương mại và đầu tư mà quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra. Đó là
những nước đã thu hút được nhiều vốn FDI nhất trong số các nước đang phát triển, đồng
thời là những nước có chính sách kinh tế dựa trên nguyên tắc tự do hoá và hướng ngoại

mạnh.
Việt Nam có nhiều lợi thế so sánh trong thu hút FDI, cụ thể là:
• Ổn định cao về chính trị, xã hội.
• Kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và liên tục.
• Đạt được nhiều thành tựu đối ngoại: Từ chỗ bị bao vây, cấm vận trong bối cảnh
khủng hoảng đầy khó khăn của CNXH, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với các
nước trên khắp năm châu. Hiện Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 165 nước và
có quan hệ buôn bán với trên 100 nước và lãnh thổ. Quan hệ giữa Việt Nam và
các nước láng giềng ngày càng thêm gắn bó, quan hệ Việt Nam – EU được thắt
chặt, Việt Nam đã nối lại quan hệ với Nga, gia nhập ASEAN, trở thành thành viên
APEC, ASEM và WTO.
• Nằm trong khu vực phát triển kinh tế năng động: Châu Á - Thái Bình Dương là
khu vực tuy đang gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn được đánh giá là khu vực phát
triển năng động nhất thế giới với tốc độ phát triển kinh tế cao hơn các khu vực
khác.
• Nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ
• Có lợi thế về một số loại chi phí đầu tư: chi phí thuê đất, chi phí viễn thông, giá
nước
- Có điều kiện tiếp nhận công nghệ sản xuất và trình độ quản lý tiên tiến, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực
Toàn cầu hoá kinh tế tác động tích cực đến việc thay thế và đổi mới công nghệ, thông qua
các hoạt động chuyển giao và tiếp nhận, giúp cho các nước, nhất là các nước đi sau phát
triển nhanh hơn, theo con đường đi ngắn hoặc rút ngắn, đón đầu. Đối với các nước đang
phát triển thì thông qua hoạt động chuyển giao để thay thế, đổi mới công nghệ là chính,
đặc biệt thông qua FDI. Ngoài ra còn học hỏi được những kinh nghiệm quản lý sản xuất,
kinh doanh tiên tiến của các nước, từ đó góp phần nâng cao năng lực quản lý và sản xuất
kinh doanh
- Cơ hội khẳng định được vị thế của doanh nghiệp
Trong tiến trình hội nhập, các hình thức hỗ trợ truyền thống rất phổ biến của Nhà nước
cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế bao cấp như: trợ cấp, trợ giá, hỗ trợ tín dụng xuất

khẩu ưu đãi, thưởng xuất khẩu, độc quyền kinh doanh sẽ phải giảm dần theo các cam
kết quốc tế, làm gia tăng mạnh mẽ áp lực cạnh tranh từ bên ngoài, đây là một thách thức
rất lớn, nhưng cũng là cơ hội để doanh nghiệp tự vươn lên khẳng định mình. Bởi vì, việc
giảm bớt sự bảo hộ của Nhà nước sẽ tạo sức ép và động lực để các doanh nghiệp Việt
Nam buộc phải đổi mới quản lý, công nghệ, cải tiến sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao
hiệu quả và sức cạnh tranh mới có thể tồn tại trên thị trường.
Và để cạnh tranh, trước tiên doanh nghiệp Việt phải xác định được vị thế của mình trên
bản đồ kinh doanh toàn cầu. Theo báo cáo mới nhất của UNDP về 200 doanh nghiệp
hàng đầu Việt Nam thì chúng ta chưa có doanh nghiệp lớn tầm cỡ thế giới. Những doanh
nghiệp hàng đầu Việt Nam chỉ mới tương đương với những doanh nghiệp vừa và nhỏ của
các nước phát triển. Tuy vậy, đây chưa hẳn là một thực tế đáng buồn bởi khi nhìn lại quá
trình lịch sử, nghề kinh doanh của Việt Nam chỉ vừa được khôi phục trong một thời gian
không dài.
Trong thời gian gần đây, nhận thức được tầm quan trọng của thương hiệu đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh, một số doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đến việc
xây dựng thương hiệu và bảo hộ thương hiệu trên thị trường toàn cầu (Phở 24, bưởi Năm
Roi, …)
Ví dụ: Năm 2009 Công ty cổ phần Trung Nguyên khai trương một nhà máy chế biến cà
phê có công nghệ hiện đại bậc nhất thế giới ở Việt Nam - một cấu phần của Dự án "Thủ
phủ cà phê toàn cầu" do Trung Nguyên đề xướng và đang triển khai: Việc Trung Nguyên
khai trương nhà máy chế biến cà phê có công nghệ hiện đại nhất thế giới, tuy là một sự
kiện bình thường của hoạt động kinh doanh, lại chứa đựng một hàm ý rõ ràng: để thắng
trong cạnh tranh quốc tế và khẳng định mình là không nhỏ, doanh nghiệp Việt Nam cần
nhanh chóng đạt tới đỉnh cao công nghệ của thế giới. Và các doanh nghiệp Việt Nam có
thể đạt được mục tiêu đó. Dĩ nhiên, công nghệ cao chỉ là một phần, dù là phần rất quan
trọng, của cuộc chơi chinh phục mà doanh nghiệp Việt Nam hướng tới.

- Cơ hội giao lưu hợp tác, trao đổi học hỏi với các doanh nghiệp khác trên thế giới
4. Thách thức
• Thách thức bắt nguồn từ bản thân các doanh nghiệp

- Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện còn rất hạn chế
Các doanh nghiệp sẽ phải chịu gia tăng sức ép cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu và các
nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài ngay tại thị trường nội địa. Bởi vì, khi thị trường nội địa
"mở cửa", các doanh nghiệp nước ngoài được tự do tham gia buôn bán, cung cấp hàng
hóa, dịch vụ như doanh nghiệp trong nước trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối xử.
Bên cạnh đó, như đã nói ở trên, sự bảo hộ của Nhà nước đối với doanh nghiệp cũng phải
từng bước cắt giảm, xóa bỏ.
Hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm Việt Nam thấp, yếu tố vốn trong cơ cấu
giá thành sản phẩm không cao, chủ yếu dựa vào yếu tố lao động hoặc điều kiện tự nhiên,
trong khi lợi thế về lao động hiện nay đang giảm dần. Trong khi các hàng hóa, dịch vụ
nhập khẩu do nước ngoài cung cấp đa dạng, phong phú với chất lượng và giá cả thấp hơn,
các nhà cung cấp "trường vốn" hơn và dày dạn kinh nghiệm trong cạnh tranh quốc tế,
chưa nói tới tâm lý chung của người tiêu dùng vẫn chủ yếu là "sính hàng ngoại". Nhiều
doanh nghiệp trong nước có nguy cơ bị mất thị phần của mình, thậm chí bị phá sản.
- Vốn và con người
Đa số các doanh nghiệp Việt Nam đều có quy mô nhỏ và ít vốn, trong đó doanh nghiệp
vừa và nhỏ chiếm tới 97% trong hơn 450.000 doanh nghiệp. Theo Hiệp hội Doanh
nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam (Vinasme), các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có vốn
dưới 1 tỉ đồng chiếm tới 41% trong khi doanh nghiệp có vốn hơn 10 tỉ đồng chỉ chiếm
13%. Phần lớn các chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào
tạo một cách bài bản về kiến thức kinh doanh, quản lý kinh tế - xã hội, văn hóa, luật
pháp, kỹ năng quản trị kinh doanh … nhất là kỹ năng kinh doanh trong điều kiện hội
nhập quốc tế, ứng phó với những bất ổn trong môi trường kinh doanh mang tính toàn cầu.
Có thể lấy ví dụ với Luật Cạnh tranh của nước ta. Luật được Quốc hội phê chuẩn từ năm
2005, nhưng đến năm 2008, qua khảo sát mới chỉ có 55,2% chủ doanh nghiệp biết đến
Luật Cạnh tranh, trong số đó 96,6% doanh nhân được tiếp cận Luật này thông qua con
đường tự tìm hiểu. Chỉ khi nào các doanh nghiệp gặp vấn đề trong cạnh tranh, cần đến cơ
quan bảo vệ pháp luật thì doanh nghiệp mới tìm hiểu Luật Cạnh tranh. Do vậy, mặc dù
Luật Cạnh tranh có thể giúp cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và
vừa cạnh tranh một cách bình đẳng trước các doanh nghiệp lớn, song vẫn chưa được các

doanh nghiệp quan tâm một cách đúng mức.
Khả năng tiếp cận vốn cũng là một trong những khó khăn đối với doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện tại, có đến 70% doanh nghiệp còn dựa chủ yếu vào các
nguồn vốn vay, trong khi đó quy định về mức lãi suất huy động vốn của Ngân hàng Nhà
nước đối với các ngân hàng thương mại đang ở mức 14%/năm, lãi suất cho vay trong lĩnh
vực sản xuất kinh doanh từ 17% - 18%/năm. Trên thực tế một số ngân hàng thương mại
đã phá rào huy động vốn bằng cách nâng mức lãi suất lên 15% - 19%/năm, tùy vào thời
điểm và số lượng tiền gửi. Hệ quả là lãi suất cho vay đã bị nâng lên trên 20%, gây khó
khăn cho các doanh nghiệp. Chưa kể, một số ngân hàng đặt ra nhiều loại phí, đã đẩy mức
lãi suất thật mà các doanh nghiệp phải vay tăng ngất ngưởng khiến sản xuất kinh doanh
gặp khó khăn và xáo trộn. Như vậy, khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn sản xuất của
doanh nghiệp sẽ đẩy chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lên cao, làm giảm
hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam.
- Sự lạc hậu về khoa học – công nghệ
Hiện nay, đa số các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức
trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ. Thể hiện cụ thể: hơn 70% máy móc thiết bị
đang sử dụng được sản xuất từ những năm 1970; 75% máy móc thiết bị đã hết thời gian
khấu hao; 50% máy móc thiết bị mới tân trang. Xét về trình độ công nghệ, không có
doanh nghiệp Việt Nam nào đạt trình độ công nghệ hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế;
trong khi đó có 35% và 44% doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình, lạc hậu và
rất lạc hậu; trình độ công nghệ khá cũng chỉ khiêm tốn ở mức 21%.
Vì lý do lạc hậu về công nghệ nên chi phí sản xuất của doanh nghiệp luôn cao hơn chi phí
trung bình của thế giới từ 10 - 30%, trong khi chất lượng chưa tương xứng khiến cho
hàng hóa của Việt Nam rất khó cạnh tranh với các hàng hóa cùng chủng loại của nước
ngoài trên thị trường quốc tế, khu vực và ngay cả thị trường trong nước. Phần lớn doanh
nghiệp Việt Nam hoạt động chủ yếu trong các ngành nghề truyền thống. Tỷ lệ doanh
nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực hiện đại chưa nhiều: doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực dịch vụ tài chính tín dụng chỉ chiếm 1,46%, kinh doanh tài sản và tư vấn
chỉ chiếm 5,73%, khoa học và công nghệ chiếm 0,02%.
- Sự hạn chế về khâu nguyên vật liệu và sự yếu kém về thương hiệu các doanh nghiệp

Đa số các doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất kinh
doanh. Trong những năm qua, nhiều sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm có sự tăng trưởng
cao (hàng da giày, dệt may, chế biến thực phẩm, đồ uống, sản phẩm thép và kim loại
màu, sản phẩm nhựa, hàng điện tử, ô tô, xe máy…) đều phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu
bán thành phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Trong khi đó, giá cả các loại nguyên vật liệu
này trên thế giới có xu hướng gia tăng, làm cho nhiều nhóm sản phẩm có tỷ trọng chi phí
nguyên vật liệu khá cao, chiếm hơn 60% giá thành sản phẩm. Đặc biệt là khi lạm phát
trên thế giới tăng cao, giá dầu mỏ liên tục đạt những kỷ lục mới đã khiến cho các doanh
nghiệp lâm vào tình trạng rất khó khăn, buộc phải thu hẹp quy mô sản xuất để có thể tồn
tại được.
Mặt khác, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu mạnh,
chưa khẳng định được uy tín chất lượng sản phẩm. Trên thực tế, trong nhiều sản phẩm
của Việt Nam yếu tố cấu thành của tri thức, công nghệ thấp, trong khi yếu tố sức lao động
và nguyên vật liệu cao… Ngành điều nước ta giữ vị trí số 1 thế giới về xuất khẩu, theo
đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải khống chế thị trường và quyết định giá cả hàng hóa.
Tuy nhiên, thực tế hoàn toàn ngược lại. Doanh nghiệp trong nước chủ yếu làm công việc
thu gom hàng, nếu có chế biến thì chỉ chế biến thô, không xây dựng được thương hiệu,
không có nhãn mác nên các doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào các nhà nhập khẩu.
Điều đó làm cho sức cạnh tranh thấp, các sản phẩm của Việt Nam không có ưu thế rõ rệt
trên thị trường.
- Chiến lược phân phối, chiến lược truyền thông và xúc tiến thương mại của các doanh
nghiệp còn nhiều hạn chế
Hoạt động xúc tiến thương mại còn giản đơn, sơ lược và không có hiệu quả thiết thực.
Các doanh nghiệp mới chỉ chú trọng vào khâu sản xuất sản phẩm mà chưa chú ý nhiều
đến các khâu tạo nên giá trị gia tăng, như nghiên cứu và phát triển, xúc tiến và tiếp thị…
Hầu hết các doanh nghiệp chưa nhận thức đúng được giá trị và ý nghĩa của xúc tiến
thương mại, quảng cáo… Vì vậy, đầu tư về kinh phí, nhân lực và các nguồn lực khác cho
quảng cáo rất thấp, tổng thể mới chỉ dưới 1% doanh thu (tỷ lệ này của các doanh nghiệp
nước ngoài chiếm khoảng 10% đến 20% doanh thu). Do đó sức lan tỏa của hàng Việt đến
từng người tiêu dùng còn rất yếu, đặc biệt là người tiêu dùng ở khu vực nông thôn, miền

núi, vùng sâu, vùng xa. Hàng hóa Việt Nam đang có nguy cơ thua ngay trên chính sân
nhà của mình.
• 2. Thách thức từ môi trường kinh doanh
- Điểm yếu kém nhất trong môi trường kinh doanh Việt Nam hiện nay có thể nói chính là
cơ sở hạ tầng của nền kinh tế.
Việc nâng cấp các hạ tầng vật chất của Việt Nam vẫn còn nhiều thiếu sót và chậm trễ, đặc
biệt là trong việc phát triển cơ sở hạ tầng trọng yếu như các tuyến đường giao thông liên
tỉnh, cầu, phà, kho bãi, phương tiện chuyên chở… Những yếu kém này đã làm tăng chi
phí lưu thông, tăng thời gian không sản xuất của doanh nghiệp và làm giảm đáng kể lợi
nhuận cũng như những cơ hội đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam.
- mức nhập siêu trong nền kinh tế không những không giảm mà còn tăng mạnh.
Nhập siêu tháng sau luôn “lớn nhanh” hơn tháng trước. Đối với doanh nghiệp sản xuất
sản phẩm cùng loại tiêu thụ trong nước thì nhập siêu với quy mô lớn, liên tục và trong
thời gian dài như trên đã làm thu hẹp thị phần tiêu thụ sản phẩm, gây khó khăn lớn về thị
trường đầu ra cho doanh nghiệp.
- Hiện nay thủ tục hành chính đang được Chính phủ, các ngành, các cấp cải tiến theo
hướng tiết giảm mạnh nhưng vẫn chưa thực sự hiệu quả với doanh nghiệp.
Bình quân mỗi năm một doanh nghiệp Việt Nam phải dành tới 1050 giờ cho các thủ tục
thuế, gấp hai lần bình quân các nước tiên tiến trong khu vực. Do đó vừa làm tăng chi phí,
tốn thời gian công sức, làm lỡ thời cơ của doanh nghiệp Việt Nam và làm giảm sức cạnh
tranh của nền kinh tế trên trường quốc tế.
- Hiện tượng hàng giả, hàng nhái, hàng buôn lậu trốn thuế, doanh nghiệp ma,… hiện
chiếm tỷ trọng không nhỏ cũng là một yếu tố làm cho môi trường cạnh tranh Việt Nam
kém lành mạnh, gây thiệt hại lớn đối với doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Như vậy, môi trường kinh doanh của Việt Nam còn nhiều bất cập gây khó khăn cho quá
trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đòi hỏi trong thời gian tới, Chính phủ cần
nỗ lực giải quyết những khó khăn nhằm thúc đẩy sản xuất, tăng sức cạnh tranh cho sản
phẩm, doanh nghiệp trong nước và nền kinh tế.
Trước những thách thức, khó khăn như đã phân tích, thì việc nâng cao năng lực cạnh
tranh là một yêu cầu cấp bách của doanh nghiệp và nền kinh tế.

Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam - đặc
biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
• 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Nâng cao trình độ học vấn, hiểu biết về kinh tế - xã hội, văn hóa, luật pháp… cho các
chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý và người lao động trong doanh nghiệp, trong đó chú
trọng đến vấn đề xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp, tức là đạo đức
trong kinh doanh, thể hiện ở sự làm giàu hợp pháp, cạnh tranh lành mạnh, ứng xử của
doanh nghiệp với người tiêu dùng, trách nhiệm doanh nghiệp với xã hội để hướng tới
phát triển bền vững. Sự giàu có về trí tuệ, về của cải và tính năng động sáng tạo là những
giá trị xã hội mà mỗi doanh nhân, mỗi doanh nghiệp cần phải có. Vì vậy, xây dựng văn
hóa doanh nghiệp, tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh, tích cực luôn là động lực thúc
đẩy sức sáng tạo và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp.
- Tăng cường năng lực của chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý trong các
doanh nghiệp về quản trị kinh doanh, quản trị chiến lược. Trong mọi điều kiện, doanh
nhân cần thường xuyên cập nhật tri thức mới, những kỹ năng cần thiết (kỹ năng quản trị
trong cạnh tranh, kỹ năng lãnh đạo doanh nghiệp, kỹ năng quản lý sự biến đổi, kỹ năng
thuyết trình, kỹ năng đàm phán và giao tiếp, kỹ năng dự báo và định hướng chiến lược
phát triển v.v…) để có đủ sức cạnh tranh trên thị trường và tiếp cận nền kinh tế tri thức.
- Để cạnh tranh với các doanh nghiệp và thị trường nước ngoài, cần phải thực hiện
phương châm liên kết và hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng
sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Sự liên kết và hợp tác sẽ tạo ra sức
mạnh bội phần cho các nhóm doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế cùng sản xuất, kinh
doanh một (hoặc một số) sản phẩm nhất định và cùng thực hiện chiến lược thương hiệu,
xúc tiến thương mại và quảng bá sản phẩm trên thị trường.
- Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường sự hỗ trợ về vốn, cơ chế,
chính sách, luật pháp, xúc tiến thương mại, giáo dục - đào tạo, tư vấn về thiết bị, công
nghệ hiện đại… cho các doanh nghiệp - nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời,
tăng cường hơn nữa vai trò của các hiệp hội, các hội, các câu lạc bộ giám đốc và các tổ
chức chuyên môn, nghiệp vụ đối với sự phát triển của các doanh nghiệp.

×