Tải bản đầy đủ (.pdf) (195 trang)

Tác động của quá trình đô thị hóa thành phố Hồ Chí Minh đến huyện Cần Giuộc, Cần Đước tỉnh Long An dưới góc độ địa lý kinh tế - xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.48 MB, 195 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH





Huỳnh Thò Thu Tâm





TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH ĐẾN HUYỆN CẦN GIUỘC, CẦN ĐƯỚC
TỈNH LONG AN DƯỚI GÓC ĐỘ ĐỊA LÝ KINH TẾ-XÃ HỘI






LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC












Thành phố Hồ Chí Minh - 2009

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH




Huỳnh Thò Thu Tâm





TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH ĐẾN HUYỆN CẦN GIUỘC, CẦN ĐƯỚC
TỈNH LONG AN DƯỚI GÓC ĐỘ ĐỊA LÝ KINH TẾ-XÃ HỘI



Chuyên ngành: Đòa Lý học
Mã số: 60 31 95


LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐẶNG VĂN PHAN






Thành phố Hồ Chí Minh - 2009

LỜI CẢM ƠN

Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới
các thầy, cô giáo trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề
tài.
Tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Đặng Văn Phan - người đã tận
tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn
thiện luận văn.
Qua đây, tác giả cũng trân trọng cảm ơn c
ác cơ quan: Văn phòng Ủy
ban Nhân dân, văn phòng Huyện ủy, phòng Thống kê, phòng Tài
nguyên&Môi trường, phòng Công thương, phòng Nông nghiệp&Phát triển
nông thôn huyện Cần Giuộc, Cần Đước,... đã giúp đỡ tác giả trong quá
trình thu thập số liệu, tài liệu và thông tin có liên quan đến nội dung nghiên
cứu.
Cuối cùng, tác giả xin lời cảm ơn đến trường THPT Cần Đước, bạn bè,
đồng nghiệp và người th

ân đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác
giả trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Long An, ngày………tháng……….năm 2009
Tác giả luận văn


Huỳnh Thị Thu Tâm

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp nên
quá trình công nghiệp hóa đang diễn ra ngày càng nhanh ở khắp các tỉnh thành. Quá
trình này đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của từng địa phương với những
mức độ khác nhau. Đồng thời, nó thúc đẩy quá trình đô thị hóa phát triển. Sự phát
triển đô thị ở một số thành phố lớn như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh,…không
chỉ tác động đến ki
nh tế - xã hội - môi trường trên địa bàn thành phố mà còn ảnh
hưởng mạnh mẽ đến những huyện, tỉnh tiếp giáp, nằm gần.
Với vai trò là trung tâm đa chức năng, Thành phố Hồ Chí Minh đã có những
ảnh hưởng to lớn đến các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm (đặc biệt là các khu vực
vùng ven hoặc các tỉnh lân cận) trong đó có huyện Cần Giuộc, Cần Đước. Đây
là 2
huyện nằm ở phía Nam của tỉnh Long An, phía Bắc và phía Đông tiếp giáp với
Thành phố Hồ Chí Minh. Có thời kỳ Cần Giuộc, Cần Đước vốn là địa bàn của tỉnh
Chợ Lớn.
Về giao thông đường bộ, có quốc lộ 50 chạy từ Thành phố Hồ Chí Minh qua
Cần Giuộc, Cần Đước đến Tiền Giang và các tỉnh miền Tây; đường thủy có sông
Cần Giuộc là đường vận chuyển hàng hóa của các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
lên Thà
nh phố Hồ Chí Minh và ngược lại. Với vị trí quan trọng như thế, trong những

năm qua Thành phố Hồ Chí Minh là nhân tố tác động đến kinh tế - xã hội Cần
Giuộc, Cần Đước sâu sắc. Việc chuyển nguồn vốn đầu tư từ Thành phố Hồ Chí
Minh đến Long An đã tạo nên mối liên kết giữa Thành phố Hồ Chí Minh với Cần
Giuộc, Cần Đước trong việc khai thác tài nguyê
n, nguồn nhân lực, vốn, thị trường,
cơ sở hạ tầng ,…góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội hai huyện này phát triển hơn. Xu
hướng trên cũng làm cho diện tích đất nông nghiệp - một phương tiện kiếm sống của
người nông dân bị thu hẹp dần, môi trường sống bị ô nhiễm,…
Hiện nay, với sức ép gia tăng dân số cơ giới đã làm đô thị hóa Thành phố Hồ
Chí Minh ngà
y càng lan rộng ra ngoại thành, tác động đến các tỉnh nằm gần thành
phố. Trong thời gian tới, với việc quy hoạch, mở rộng vùng Thành phố Hồ Chí Minh
về các hướng, trong đó có hướng về phía tỉnh Long An (Nam - Tây Nam) sẽ làm cho
kinh tế - xã hội - môi trường ở huyện Cần Giuộc, Cần Đước càng bị tác động mạnh.
Nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế - xã hội của hai huyện dưới tác động
của quá trình đô thị hóa Thành phố Hồ Chí Minh ở một số mặt để từ đó có những
giải pháp mang tính khả thi nhằm phát triển kinh tế - xã hội Cần Giuộc, Cần Đước
trong thời gian tới. Chính vì vậy mà chúng tôi đã chọn đề tài “Tác động
của quá
trình đô thị hóa Thành phố Hồ Chí Minh đến huyện Cần Giuộc, Cần Đước tỉnh
Long An dưới góc độ địa lý kinh tế - xã hội” để nghiên cứu với mong muốn góp
phần nhỏ bé vào sự phát triển của huyện nhà.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Làm rõ tác động của quá trình đô thị hóa nói chung và Thà
nh phố Hồ Chí
Minh nói riêng đến một số mặt kinh tế - xã hội huyện Cần Giuộc, Cần Đước tỉnh
Long An và ngược lại.
Qua đó đề ra các định hướng và giải pháp chủ yếu để phát huy những thế
mạnh cũng như hạn chế những mặt tiêu cực từ quá trình đô thị hóa mang lại, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội Cần Giuộc, Cần Đước trong thời gian tới, đời sống

người dân từng bước được cải thiện,…
Để đạt được mục đích này, đề tài đề ra các nhiệm vụ sau:
-
Hệ thống hóa các vấn đề có liên quan đến quá trình đô thị hóa, làm rõ các
khái niệm, các tác động của quá trình đô thị hóa đến một số mặt kinh tế - xã hội.
- Điều tra, khảo sát các số liệu cần thiết.
- Phân tích tác động của quá trình đô thị hóa Thành phố Hồ Ch
í Minh đến một
số mặt kinh tế - xã hội huyện Cần Đước, Cần Giuộc tỉnh Long An, những thành tựu
đạt được và những hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới.
- Xây dựng định hướng cũng như dự báo một số chỉ tiêu trong thời gian tới, đề
ra những giải pháp mang tính khả thi.



3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài được xác định là ảnh hưởng của quá trình đô
thị hóa trong mối liên hệ giữa không gian kinh tế mở Thành phố Hồ Chí Minh với
huyện Cần Giuộc, Cần Đước của tỉnh Long An dưới góc độ địa lý kinh tế - xã hội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu : Tập trung phân tích tác động của quá trình đô thị
hóa
Thành phố Hồ Chí Minh đến một số mặt kinh tế - xã hội huyện Cần Giuộc, Cần
Đước tỉnh Long An.
Về không gian: Huyện Cần Giuộc, huyện Cần Đước tỉnh Long An nằm trong
mối quan hệ với Thành phố Hồ Chí Minh.
Thời gian: Đề tài tập trung giai đoạn 2001 - 2007, 2008
1
. Riêng quá trình đô

thị hóa Thành phố Hồ Chí Minh sẽ mở rộng thêm về quá khứ (từ năm 1975 đến
2007).
4. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Vấn đề đô thị hóa từ lâu đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà Địa lý
trên thế giới, nhưng ở Việt Nam quá trình nghiên cứu vấn đề này gần đây mới được
chú ý đến. Theo GS. Đàm Trung Phường - nhà đô thị lão thành thuộc lớp kiến trúc
sư đầu tiên tham
gia quy hoạch xây dựng lại các đô thị miền Bắc bị tàn phá trong
kháng chiến chống Pháp (1945 -1954) và nhiều thành phố công nghiệp mới của Việt
Nam, cho rằng: “cho đến giữa thập niên 90 vẫn chưa có ai viết sách và tiếp cận có
hệ thống”.
Năm 1995 cuốn “Đô thị Việt Nam tập I, tập II ” của GS. Đàm Trung Phường
ra đời và đã được tái bản lần thứ nhất vào năm
2005, tác giả tập trung giải quyết 2
vấn đề cơ bản là:
---------------------------------------------------
1

Ngày 06 tháng 02 năm 2001 biên bản hợp tác phát triển kinh tế - xã hội giữa tỉnh Long An và TP.HCM được kí kết


thực thi tạo điều kiện cho một số huyện của tỉnh Long An nằm tiếp giáp Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều cơ hội và thách
thức phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có huyện Cần Giuộc, huyện Cần Đước.
“Biên bản hợp tác phát triển kinh tế - xã hội giữa tỉnh Long An và TP.HCM”: Xem phụ lục
+ Đánh giá thực trạng mạng lưới đô thị Việt Nam và nghiên cứu những định
hướng phát triển trong bối cảnh đô thị hóa thế giới và tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của thời kỳ đổi mới nước ta.
+ Mở rộng những khái niệm về đô thị học có quan hệ với những tiến bộ của
thế giới, cập nhật những thông tin liên quan đến đô t
hị trong nước để tham khảo cho

giáo trình giảng dạy sinh viên đại học và chủ yếu là sau đại học.
Chính vì vậy mà chúng tôi coi cuốn sách “Đô thị Việt Nam tập I, tập II ” của
GS. Đàm Trung Phường là một trong những công trình quan trọng để tiếp cận các
vấn đề lý luận về đô thị nói chung cũng như đại cương về đô thị hóa ở Việt Nam nói
riêng. Tuy nhiên, như chính tác giả của công trình thừa nhận “
quyển đô thị Việt Nam
chưa có điều kiện đi sâu vào từng đô thị mà chỉ mới dừng lại ở cấp vĩ mô (macro) và
trung mô (mezo)”. [43, tr.5]
Bên cạnh đó còn hàng loạt công trình đề cập đến đô thị hóa và những vấn đề
liên quan đến nó như: “Dự án quy hoạch tổng thể vùng phát triển kinh tế trọng điểm
phía Nam” của Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam
(1996); “Đô thị hóa và
chính sách phát triển đô thị trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” của
Trần Văn Chữ, Trần Ngọc Hiên (Đồng chủ biên) (Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội
1998); “Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến năm 2020”
của Bộ Xây dựng (1999); “Dân số học đô thị” của Trần Hùng (Nxb Xây dựng Hà
Nội, 2001); “Những con đường về thành phố - Di dân đến T
hành phố Hồ Chí Minh
từ một vùng Đồng bằng sông Cửu Long” của Vũ Thị Hồng, Patrick Gubry, Lê Văn
Thành (Nxb TP.HCM 2003); “Quản lý đô thị thời kỳ chuyển đổi” của TS. Võ Kim
Cương (Nxb Xây dựng Hà Nội, 2004); “Dự thảo nhiệm vụ quy hoạch xây dựng
vùng Thành phố Hồ Chí Minh” của Bộ Xây Dựng (2004); “Vùng đô thị Châu Á và
TPHCM” của Nguyễn Minh H
òa ( Nxb Tổng hợp TPHCM 2005); “Kinh tế đô thị
và vùng” của Trần Văn Tấn (Nxb Xây dựng Hà Nội, 2006); “Ngập lụt tại các đô thị
Châu Á - kinh nghiệm cho Thành phố Hồ Chí Minh ” của Nguyễn Minh Hòa, Lê
Thị Hồng Diệp, Trương Nguyễn Khải Huyền (Nxb Tổng hợp TPHCM 2006); Văn
hóa ngoại thành TPHCM (từ góc nhìn thiết chế) của Nguyễn Minh Hòa (Nxb Tổng
hợp TPHCM 2007); “Hiệp Phước trên đường tiến ra biển Đông” của Phan Chánh
Dưỡng, Nguyễn Văn Kích, Tôn Sĩ Kinh (Nxb Tổng hợp TPHCM 2006); “Công tác

thực hiện quy hoạch xây dựng đô thị” của Trần Trọng Hanh (Nxb Xây dựng 2008);
“Địa lý đô thị”của Phạm Thị Xuân Thọ (Nxb Giáo dục 2008); vv…. Ngoài các công
trình kể trên còn có bài viết của một số tác giả được đăng trên các tạp chí hoặc báo
cáo tại các hội thảo khoa học.

Các công trình nghiên cứu cũng như các hội thảo trên đã đề cập rất nhiều vấn
đề từ lý luận đến thực tiễn đô thị hóa trên thế giới và trong cả nước, kể cả TP.HCM.
Nhưng nhìn chung, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào đề cập trực tiếp đến tác
động của quá trình đô thị hóa TP. HCM đến huyện Cần Giuộc, Cần Đước tỉnh Long
An. Chính vì vậy, luận văn này có thể đư
ợc xem là một trong những công trình đầu
tiên nghiên cứu về tác động của quá trình đô thị hóa TP. HCM đến huyện Cần
Giuộc, Cần Đước tỉnh Long An dưới góc độ địa lý kinh tế - xã hội.
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm
5.1.1. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Đây là quan điểm cơ bản, truyền thống của Địa lý học. Trong thực tế các sự
vật hiện tượng địa
lý luôn có sự phân hóa không gian làm cho chúng có sự khác biệt
giữa nơi này với nơi khác. Do đó, khi nghiên cứu tác động của quá trình đô thị hóa
TP. HCM đến huyện Cần Giuộc, Cần Đước tỉnh Long An phải tìm hiểu mối quan hệ
bên trong lãnh thổ và mối quan hệ giữa lãnh thổ nghiên cứu với các lãnh thổ lân cận.
, đó chính là mối quan hệ không gian tương tác của đối tượng nghiên cứu.
5.1.2. Quan điểm hệ thống
Đô thị hóa là quá trình chuyển hóa và vận động phức tạp mang tính quy luật.
Đô t
hị hóa diễn ra trong mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của cách mạng khoa
học kỹ thuật làm thay đổi kinh tế - xã hội, môi trường sống. Vì vậy, các tác động của
quá trình đô thị hóa TP. HCM đến huyện Cần Giuộc, Cần Đước tỉnh Long An cần
được xem như là một hệ thống nằm

trong hệ thống kinh tế - xã hội hoàn chỉnh, luôn
vận động và phát triển không ngừng. TP. HCM là một yếu tố quan trọng trong hệ
thống đô thị của quốc gia, tạo nên một cực phát triển trong hệ thống kinh tế - xã hội
của các vùng xung quanh và cả nước.
5.1.3. Quan điểm lịch sử viễn cảnh
Quan điểm này chú ý đến khía cạnh địa lý lịch sử. Các sự vật, hiện tượng
không chỉ biến đổi trong không gian mà biến đổi cả theo thời gian. Do đó, việc
nghiên cứu tác động của quá trình đô thị hóa TP. HCM đến huyện Cần Gi
uộc, Cần
Đước tỉnh Long An trong mối liên hệ quá khứ - hiện tại - tương lai sẽ làm rõ bản
chất của vấn đề theo một chuỗi thời gian, đảm bảo được tính logic, khoa học và
chính xác khi nghiên cứu.
5.1.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Con người luôn chịu tác động của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Trong quá trình phát triển đô thị, con người đã làm biến đổi tự nhiên, gây ra những
vấn đề mô
i trường nghiêm trọng. Cho nên, khi nghiên cứu cần phải quán triệt quan
điểm sinh thái và phát triển bền vững để đề ra những giải pháp nhằm đảm bảo sự hài
hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và tài nguyên môi trường.
5.2.Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp thống kê
Trong luận văn đã sử dụng và phân tích cơ sở số liệu thống kê của Tổng cục
thống kê, Cục thống kê TP. HCM, Long An, Phòng Thống kê Cần Giuộc, Cần Đước
.Các số liệu điều tra từ các cơ quan và người dân tại địa phương,…Nhờ đó, chúng
tôi đã có cơ sở để đánh giá mức độ tác động của quá t
rình đô thị hóa TP. HCM đến
huyện Cần Giuộc, Cần Đước tỉnh Long An.
5.2.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Từ các tài liệu thu thập được, chúng tôi sắp xếp, phân loại và phân tích các
thông tin, so sánh, đối chiếu nhằm

tìm ra mối liên hệ giữa đô thị hóa với kinh tế - xã
hội. Qua đó, đánh giá tác động của quá trình đô thị hóa đến kinh tế - xã hội.



5.2.3. Phương pháp bản đồ, biểu đồ
Nhằm chứng minh, làm sáng tỏ sự biến đổi của các hiện tượng kinh tế - xã hội,
sự tác động của các yếu tố với nhau, ngoài việc dùng số liệu tương đối và tuyệt đối
để chứng minh, chúng ta còn cụ thể hóa bằng các biểu đồ, bản đồ thích hợp.
Bản đồ - biểu đồ là phương pháp đặc trưng của khoa học Địa lý. Việc sử dụng
phương pháp này giúp cho các vấn đề nghiên cứu được cụ thể, trực qua
n và toàn
diện hơn. Một số bản đồ trong luận văn được xây dựng bằng phần mềm Mapinfo 7.5
dựa trên các dữ liệu đã thu thập và xử lý.
5.2.4. Phương pháp dự báo
Chúng tôi sử dụng phương pháp dự báo dựa trên cơ sở tính toán từ các số liệu
đã thu thập được và sự phát triển có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng trong
quá khứ, hiện tại và tương lai.
5.2.
5. Phương pháp thực địa
Đây là phương pháp cần thiết đối với nghiên cứu để có thể xác định mức độ
tin cậy của các tài liệu, số liệu đã thu thập được. Tác giả đã điều tra thực tế một số
nơi trên địa bàn, trực tiếp quan sát những thay đổi về kinh tế - xã hội, môi trường
dưới sự tác động của quá trình đô thị hóa. Qua các thông tin và tìm hiểu thực địa, tác

giả khẳng định lại mức độ tin cậy của số liệu và những nhận định đã có.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Sưu tầm, tổng hợp, phân tích và rút ra những tác động từ quá trình đô thị hóa
Thành phố Hồ Chí Minh ảnh hưởng đến Cần Giuộc, Cần Đư
ớc.

Dựa trên thực trạng tác động từ quá trình đô thị hóa Thành phố Hồ Chí Minh,
đề tài đưa ra những giải pháp, kiến nghị…nhằm hạn chế mặt tiêu cực và phát huy
những ảnh hưởng tích cực để kinh tế - xã hội Cần Giuộc, Cần Đước phát triển hơn
nữa, rút ngắn khoảng cách so với các khu vực lân cận.
Đóng góp một phần nhỏ vào việc quy hoạch vùng Thành phố Hồ Chí Mi
nh
đến năm 2020 tầm nhìn 2050, bao gồm toàn bộ ranh giới hành chính Thành phố Hồ
Chí Minh và 7 tỉnh xung quanh gồm: Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long
An, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu với diện tích 30.404 km
2
, bán kính ảnh hưởng từ
150 - 200 km.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục các tài liệu tham khảo,
phần nội dung nghiên cứu gồm ba chương:
Chương 1 : Đô thị hóa và một số vấn đề liên quan.
Chương 2: Tác động của quá trình đô thị hóa Thành phố Hồ Chí Minh đến
huyện Cần Giuộc, Cần Đước tỉnh Long An dưới góc độ địa lý kinh tế - xã hội.
Chương 3: Định hướng và giải pháp.





















Chương 1- ĐÔ THỊ HÓA VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
1.1. Đô thị
1.1.1. Khái niệm
Đô thị là một thực thể đã xuất hiện trong lịch sử xã hội loài người từ xa xưa,
khi ở nơi này, nơi khác bắt đầu hình thành cách thức sinh hoạt khác biệt nếp sinh
hoạt vẫn hằng tồn tại ở thôn quê gắn với nền sản xuất nông nghiệp. Những thực thể
hình thành nên đô thị sau một quá trình chuyển động tổng hợp của những điều kiện
ban đầu như sự định cư và
tăng dân số trên một vùng nào đó, hoặc là do sự phát
triển công nghiệp, thương mại phát triển. Trong các điều kiện ấy, trạng thái định cư
dần dần biến đổi về chất, từ cộng đồng tập trung ở các địa phương, cô lập, tự cung tự
cấp với nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, trở thành một hì
nh thái tập trung dân cư
với những hoạt động kinh tế phi nông nghiệp.
Trong cuộc sống, chúng ta thường gặp những thuật ngữ khác nhau chỉ đô thị
như thị trấn, thị xã, thành phố - Đô thị là thuật ngữ tổng quát dùng để chỉ các loại
khu định cư có tính chất phi sản xuất nông nghiệp và qui mô đô thị khác nhau. Có
nhiều khái niệm khác nhau về đô thị:
Theo Ratzel ( 1960): “Đô t
hị là sự tích tụ lâu dài của người và chỗ ở của họ,
chiếm một không gian không đáng kể và nằm giữa các cộng đồng lớn…” Ông cũng

nêu lên sự đối lập hoạt động của nông thôn dựa trên cơ sở trồng trọt và chăn nuôi
với hoạt động đô thị dựa vào công nghiệp và thương mại, cũng như nhà ở nông thôn
phân tán hơn nhà ở đô t
hị. Theo Ratzel nếu dân số chưa đầy 2.000 người thì điểm
tập trung dân cư đó mất tính chất đô thị. [53, tr.7]
Theo Richtofen ( Berlin1968): “Đô thị là một nhóm tập hợp những người có
cuộc sống không dựa vào nông nghiệp mà trước hết dựa vào công nghiệp và ông
cũng cho rằng, người dân đô thị phải dựa trên hoạt động sản xuất phi nông nghiệp
và các nhu cầu sinh hoạt của họ chủ yếu do bên ngoài cung cấp”. [53, tr.7]

Theo Yu. G. Xauskin: “Đô thị là một điểm quần cư có mật độ nhân khẩu cao
và dân cư ở đây không có hoạt động nông nghiệp trực tiếp”.[53, tr.7]. Như vậy, theo
Yu.G.Xauskin thì mật độ dân cư là nhân tố rất quan trọng để xác định đô thị.
=> Các khái niệm trên đã đưa ra những đặc điểm nhận biết đô thị vì mật độ
dân số cao có thể không phải là đô thị. Cụ thể: tỉ lệ người không sống bằng nông
nghiệp và tập trung với mật độ dân số cao ở những điểm khai thác mỏ than không
được công nhận là đô thị, mà chỉ là những điểm công nghiệp khai thác, nếu hết than,
nhóm dân cư đó lại chuyển đi nơi khác. Như vậy, các dấu hiệu để nhận biết đô t
hị
không chỉ là sự tập trung dân cư cao độ và dân cư ở đó hoạt động trong các ngành
phi sản xuất nông nghiệp mà còn bao gồm những dấu hiệu khác, như đô thị phải là
nơi định cư lâu lài, bền vững.
Một khái niệm tương đối hoàn chỉnh hơn là
của Bách khoa toàn thư Liên Xô.
Bách khoa toàn thư Liên Xô đã khái niệm: “Đô thị là khu dân cư rộng lớn, dân cư ở
đây c
hủ yếu hoạt động trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp cũng như các
lĩnh vực phục vụ, quản lý khoa học và văn hóa” [12, tr.28].
Ở Việt Nam, tên gọi đô thị có xuất xứ từ lịch sử hình thành các đô thị cổ Việt
Nam. Các đô thị cổ Việt Nam được hình thành từ ba yếu tố là: đô, thành và thị.

Đô chính là nơi làm việc của bộ m
áy quan lại triều đình phong kiến ở trung
ương và địa phương, cũng là nơi của vua quan, gia đình và dòng tộc,…
Thành là các thành quách và đơn vị quân đội thường trực có nhiệm vụ canh
gác và bảo vệ “đô”.
Thị dùng để chỉ thị trường buôn bán hàng hóa. Có “thành” và “đô” tất yếu
phải có trao đổi, buôn bán. Nơi tập trung buôn bán chính là các chợ. Việc xuất hiện
của chợ sẽ kéo theo sự tụ tập dâ
n cư và cơ sở kinh tế khác, nhất là tiểu thủ công
nghiệp.
Ngày nay với sự phát triển của phương tiện bảo vệ hiện đại, các thành quách
không còn là phương tiện bảo vệ hiệu quả nữa, nên khi xây dựng các đô thị người ta
không xây dựng các thành quách bao quanh. Bên cạnh đó, các lực lượng bảo vệ như
quân đội, cảnh sát cũng trở th
ành một đơn vị trong “đô”. Chính vì vậy, “thành”
không còn đóng vai trò quan trọng trong đô thị hiện đại, mà thay vào đó là các yếu
tố thuộc cơ sở hạ tầng như: giao thông, điện nước, nhà cửa, y tế, giáo dục, văn
hóa,…
Theo từ điển Tiếng Việt của viện Ngôn ngữ học, đô thị là “nơi dân cư đông
đúc, là trung tâm thương nghiệp và có thể cả công nghiệp, thành phố hoặc thị trấn”.
[57, trang 332]
Theo các tác giả của công trình Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị, đô thị là
“điểm dân cư tập trung với mức độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có cơ
sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm chuyê
n ngành tổng hợp, có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của một miền lãnh thổ, của một tỉnh, một
huyện hoặc một vùng trong tỉnh, huyện”. [49, tr.14]
Từ đó, có thể hiểu đô thị là nơi tập trung dân cư rất đông đúc, nơi đó dân cư
chủ yếu hoạt động trong các ngành sản xuất công nghiệp, quản lý kinh tế, quản lý
hành chánh, văn hoá và các chức năng phi nông nghiệp khác. N

ói một cách khác, đô
thị là nơi tập trung dân cư với mật độ dân số cao, đa số là những người lao động phi
nông nghiệp, dân cư sống và làm việc theo lối sống thành thị. Tuy nhiên, cho đến
nay chưa có ai đưa ra một định nghĩa xác đáng về đô thị. Những khái niệm quá phức
tạp thường khó có định nghĩa xác đáng. Do đó, để xác định một cụm
dân cư có phải
là đô thị hay không, người ta căn cứ vào một số tiêu chí.
Ở nước ta, ngày 5/5/1990, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ra quyết
định số 132/HĐBT theo quy định đô thị là các điểm dân cư có các yếu tố cơ bản sau:
1. Là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế của một vùng lãnh thổ nhất định.
2. Quy mô dân số nhỏ nhất là 4.000 người (miền núi c
ó thể thấp hơn).
3. Tỉ lệ lao động phi nông nghiệp lớn hơn 60% trong tổng số lao động, là nơi
có sản xuất dịch vụ và thương mại hàng hóa phát triển.
4. Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình công cộng phục vụ dân cư đô
thị.
5. Mật độ dân cư được xác định theo từng loại đô thị phù hợp với các đặc điểm
của từng vùng.
Như vậy, ở nước ta các điểm d
ân cư đô thị là những điểm dân cư có mật độ
cao, lao động tập trung chủ yếu vào các ngành phi sản xuất nông nghiệp, có cơ sở hạ
tầng thích hợp phục vụ cho dân cư đô thị, là trung tâm chuyên ngành hay tổng hợp,
có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng lãnh thổ hay cả nước.
- Mật độ dân cư là chỉ tiêu phản ánh mức độ tập trung dân cư đô thị, được tính
bằng người/km
2
hoặc số người/ha.
- Lao động sản xuất phi nông nghiệp bao gồm: lao động công nghiệp và thủ
công nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, bưu điện, ngân hàng, thương

nghiệp và dịch vụ công cộng, du lịch, văn hóa, y tế, giáo dục, hành chính,…
- Lao động sản xuất nông nghiệp ở ngoại thành.
- Cơ sở hạ tầng: giao thông, điện, nước, thông tin, vệ sinh và các công trình
công cộng phục vụ văn hóa xã hội, phục vụ giáo dục và đào
tạo, nghiên cứu khoa
học như: công viên, câu lạc bộ, rạp hát, rạp chiếu phim, viện bảo tàng, trường học,
viện nghiên cứu khoa học, bệnh viện,…
Đến năm 2001, theo nghị định 72/2001/NĐ-Cp ngày 5/10/2001 theo quy định
đô thị là các điểm dân cư có các yếu tố cơ bản sau:
1. Là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành.
2. Quy mô dân số nhỏ nhất là 4.000 người.
3. Tỉ lệ lao động phi nông nghiệp trên 65% trong tổng số lao động.
4.
Có đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội đạt từ 70% trở lên mức tiêu chuẩn,
quy chuẩn đối với từng loại đô thị.
5. Mật độ dân số thay đổi theo từng loại đô thị, từng vùng.
Việc xác định quy mô, vai trò, chức năng của đô thị dựa vào hiện trạng và kết
quả nghiên cứu phân bố lực lượng sản xuất, sơ đồ quy hoạch vùng. Mỗi đô thị có
một không gian và địa giới riêng,
bao gồm nội thị và ngoại ô, tùy thuộc vào loại đô
thị và đặc điểm tự nhiên của vùng kế cận. Mỗi đô thị có các ngoại ô khác nhau,
ngoại ô có chức năng hỗ trợ cho nội thị. Ngược lại, ngoại ô là vành đai chịu ảnh
hưởng của nội thị về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội.
Sự phát triển mạnh các chức năng KT - X
H và quá trình đô thị hóa mạnh mẽ
làm cho các đô thị có xu hướng không ngừng mở rộng vành đai ra ngoại thành. Việc
điều chỉnh ranh giới đô thị sẽ là điều tất yếu đối với nhiều đô thị có sức hút lớn (các
đô thị đặc biệt, loại I,loại II, loại III, loại IV), riêng các đô thị loại V không có ngoại
ô.
Từ thực tế tình hình đô thị hiện nay, các nhà nghiên cứu cũng như các chiến

lược gia đã đưa ra 10 tiêu chí tối thiểu cho sự hiện diện một đô thị [47, tr.15,16]:
1. An toàn công cộng (Public safty).
2. Giá lương thực, thực phẩm (Food cost).
3. Không gian sinh tồn (Living spaces).
4. Tiêu chuẩn nhà ở (Housing standard).
5. Thông tin liên lạc (Communication).
6. Giáo dục (Education).
7. Sức khỏe công cộng (Public health).
8. Hòa bình và sự yên tĩnh (Peace and quiet).

9. Thuận tiện giao thông (Trafic flow).
10. Không khí trong lành (clean air).
1.1.2. Phân loại đô thị
Để đánh giá vai trò, vị trí của đô thị trong hệ thống đô thị, chúng ta sắp xếp
chúng theo một “trật tự đô thị” với những tiêu chí nhất định. Đó là sự phân loại các
đô thị trên cở sở quy mô và phức tạp về chức năng của chúng.
Ở nước ta đô thị phân theo hai hệ thống: theo phâ
n cấp, phân loại đô thị và
theo cấp quản lý hành chính.
Theo Vụ Kiến trúc và Quy họach xây dựng - Bộ Xây dựng năm 2006 về việc
phân loại và phân cấp đô thị, đô thị Việt Nam được chia thành 6 cấp đô thị như sau:







Bảng 1.1. Phân loại đô thị ở Việt Nam [48, tr.7]


I Đô thị rất lớn, là
trung tâm chính trị,
kinh tế, văn hóa, khoa
học kĩ thuật, du lịch
dịch vụ, đầu mối giao
thông, giao lưu trong
nước và quốc tế, có
vai trò thúc đẩy sự
phát triển KT - XH
của một vùng lãnh thổ
liên tỉnh hoặc cả
nước.
Từ 500.000
đến 1,5 triệu
12.000
người
/km
2
, tỉ lệ
lao động
phi nông
nghiệp
trên 85%
Vùng,
Quốc
gia
Nhiều mặt
đồng bộ và
hoàn chỉnh
II Đô thị lớn là trung

tâm chính trị, kinh tế,
Từ 250.000
đến 500.000
10.000
người/km
2
,
Vùng Nhiều mặt
tiến tới
Loại
đô thị
Chức năng


Qui mô
dân số
Mật độ,
tỉ lệ
lao động
phi SXNN
Vùng
ảnh
hưởng
Cơ sở
hạ tầng
Đặc
biệt
Thủ đô hoặc đô thị là
trung tâm chính trị,
kinh tế, văn hóa, khoa

học kĩ thuật, đào tạo,
du lịch dịch vụ, đầu
mối giao thông, giao
lưu trong nước và
quốc tế, có vai trò
thúc đẩy sự phát triển
KT - XH của cả nước.
Từ 1,5 triệu
trở lên
Từ 15.000
người/km
2

trở lên, tỉ
lệ lao động
phi nông
nghiệp từ
90% trở
lên
Quốc
gia
Về cơ bản
đồng bộ và
hoàn chỉnh
văn hóa, khoa học kĩ
thuật, du lịch dịch vụ,
đầu mối giao thông,
giao lưu trong tỉnh,
vùng liên tỉnh hoặc cả
nước, có vai trò thúc

đẩy sự phát triển KT -
XH của một vùng
lãnh thổ liên tỉnh hoặc
một số lĩnh vực đối
với cả nước
Tỉ lệ lao
động phi
nông
nghiệp
trên 80%
đồng bộ và
hoàn chỉnh
III Là trung tâm chính
trị, kinh tế, văn hóa,
khoa học kĩ thuật, du
lịch, dịch vụ, đầu mối
giao thông, giao lưu
trong tỉnh, có vai trò
thúc đẩy sự phát triển
KT - XH của một tỉnh
hoặc một số lĩnh vực
đối với vùng liên tỉnh
Từ 100.000
đến 250.000
8.000
người/km
2
,
tỉ lệ phi
lao động

nông
nghiệp
trên 75%
Tỉnh,
liên tỉnh
Từng mặt
đồng bộ và
hoàn chỉnh
IV Là trung tâm tổng
hợp hoặc chuyên
ngành về chính trị,
kinh tế, văn hóa, khoa
học kỹ thuật, dịch vụ,
đầu mối giao thông,
giao lưu trong tỉnh, có
vai trò thúc đẩy KT -
XH của một tỉnh hoặc
một vùng trong tỉnh.
Từ 50.000
đến 100.000
6.000
người/km
2
,
tỉ lệ lao
động phi
nông
nghiệp
trên 70%
Huyện Đã hoặc

đang được
xây dựng
từng mặt
V Là trung tâm tổng
hợp hoặc chuyên
ngành về chính trị,
kinh tế, văn hóa, dịch
vụ, có vai trò thúc đẩy
KT - XH của một
huyện hoặc một cụm
xã.
Từ 4000 đến
50.000
Từ 2.000
người/km
2
,
tỉ lệ lao
động phi
nông
nghiệp
trên 65%
Huyện -
cụm xã
Đã hoặc
đang được
xây dựng
nhưng chưa
đồng bộ và
hoàn

chỉnh
=> Dựa theo các tiêu chí trên, Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt.
1.1.3. Vai trò của đô thị
Có những quan điểm khác nhau đánh giá vai trò của đô thị:
Quan điểm 1: Đô thị lớn làm suy yếu các vùng xa trung tâm vì trong quá trình
phát triển, sự cách biệt của giữa các đô thị và các vùng xung quanh càng tăng
thêm.[29, tr.145]
Quan điểm 2: Những đô thị lớn là đầu tàu thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất
nước, của khu vực.[
53, tr.37]
Ở đây, chúng tôi nghiêng về quan điểm thứ hai hơn, vì thời đại nào thì các đô
thị đều là nơi có tiềm lực lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, có sức chi phối mạnh mẽ,
ảnh hưởng đến các vùng xung quanh và ảnh hưởng đến sự phát triển KT - XH của
mỗi quốc gia.
Trong xu thế toàn cầu hóa, các thành phố lớn được mệnh danh là “thành phố
trung tâm kinh tế quốc tế” hay thành phố thế giới (global city) có sức mạnh c
hi phối
đối với nền kinh tế, chính trị thế giới. Ở phạm vi một quốc gia, đô thị là hạt nhân tạo
vùng kinh tế, với vai trò là trung tâm công nghiệp, dịch vụ, hành chính, văn hóa,
khoa học kỹ thuật. Ngoài ra, nó còn tạo ra lực hút kinh tế, dịch vụ và chi phối đời
sống KT - XH đối với các vùng xung quanh, các đô thị khác và cả vùng. Sức hút của
đô thị phụ thuộc vào quy mô của bản thân đô thị, vào tiềm lực của đô thị, khoảng
cách của đô thị nà
y với các đô thị khác. Đồng thời, sức hút của đô thị còn thay đổi
phụ thuộc vào sự phát triển tương quan giữa các đô thị trong vùng. Sức lan tỏa ảnh
hưởng của đô thị càng lớn thì quy mô vùng kinh tế càng lớn, tiềm lực vùng kinh tế
càng mạnh. Trong vùng kinh tế, các đô thị lớn (thành phố) là hạt nhân chính, các đô
thị vệ tinh và các đô thị nhỏ là hạt nhân phụ. Hệ thống đô thị trong vùng là bộ khung
của vùng kinh tế.
Các đô thị có mối liên hệ với nhau trong mạng lưới tạo nên sự trao đổi hàng

hóa, dịch vụ, khoa học, kỹ thuật và lao động. Với hệ thống dân cư đô thị có qui mô
hơn vài triệu dân trở lên và có bán kính ảnh hưởng hàng chục thậm ch
í đến cả trăm
km trong vùng, có thể nói chùm đô thị là hình thức chủ yếu về đô thị của thế kỷ XXI
nó có thể kết hợp hài hòa ba cuộc Cách Mạng: công nghệ, nhân văn và xã hội. Như
vậy, chùm đô thị có khả năng kết hợp khai thác các ưu điểm của hai lối sống thành
thị và nông thôn, hình thành một đô thị sinh thái.
1.1.4. Hình thức tổ chức không gian đô thị
Khi
nói đến ĐTH, người ta thường đề cập đến khái niệm “tổ chức không gian
đô thị”. Đó là khái niệm chỉ sự phân bố và sắp xếp các tổ chức không gian sống (nhà
ở, công sở, nhà máy, cảnh quan môi trường) trên bề mặt của một thành phố theo
những ý đồ nhất định nào đó, được thể hiện ở các mặt: “sự bố trí, sắp xếp các yếu tố
không gian khác nhau của đô thị lên
trên mặt bằng lãnh thổ dưới dạng bản đồ không
gian ba chiều”[16, tr.13]. Trong luận văn này, việc tổ chức không gian đô thị liên
quan chủ yếu đến “Vùng đô thị”.
* Vùng đô thị (Metropolitan Area):
Khái niệm 1: Vùng đô thị là một vùng địa lý gồm một trung tâm hạt nhân, dân
cư lớn và các cộng đồng dân cư xung quanh có quan hệ hòa nhập về kinh tế với hạt
nhân.[48, tr. 8,]
Khái niệm 2: Vùng đô thị ba
o gồm thành phố cũ kết hợp với phần mở rộng.
Thành phố cũ đóng vai trò là trung tâm và phần thứ hai mở rộng thêm.[16, tr.14]
Hai khái niệm trên có nét tương đồng là đều nói đến sự có mặt của một thành
phố chủ đạo đóng vai trò là trung tâm chính trị của toàn bộ vùng đô thị. Thành phố
này thường có hàng trăm năm tuổi và được coi là cốt lõi, là linh hồn của toàn vùng.
Dù lớn đến đâu
, nó cũng được hình thành từ một hạt nhân đầu tiên (core). Cụ thể,
Thành phố Sài Gòn bắt đầu từ Sài Gòn và Bến Nghé với diện tích không quá nửa

km
2
vào năm 1698, khi đó cả Sài Gòn và Bến Nghé mới chỉ có 5.000 dân. Vào thời
điểm ban đầu, chúng được gọi là trấn.
Ngay từ khi xuất hiện, hạt nhân này diễn ra quá trình tích tụ và phân tán. Tự
nó tỏa ra một sức hút khiến cho mọi người đổ dồn về ngày càng đông. Cùng với sự
tụ hợp của con người là sự hình thành nhà ở, công sở, quán xá, chợ, bệnh viện,
trường học,… với mật độ ngà
y càng dày đặc. Đó chính là cơ sở để hình thành một
kiểu cư trú mới, khác cư trú nông thôn với đặc tính căn bản là tập hợp một số lượng
người đông trên một lãnh thổ hạn chế với một mật độ cao và hoạt động phi nông
nghiệp. Cũng chính từ trung tâm này, xuất hiện sự mở rộng dần ra theo kiểu lan tỏa,
tựa như những sóng vòng đồng tâm. Các thành phố tiền công nghiệp có tốc độ bành
trướng chậm, n
hưng khi chuyển sang xã hội công nghiệp thì sự bành trướng diễn ra
cực kì nhanh chóng. Khi mà sự bành trướng này đạt đến độ tối đa (maximum size)
sẽ tạo ra một đại đô thị đơn cực. Tức là một thành phố khá lớn về diện tích và có một
lượng dân cư khá đông đảo, nhưng điều đặc biệt nhất là nó chỉ có một trung tâm
duy nhất, sự phát triển diễn ra the
o kiểu lan tỏa từ một trung tâm (megacity).
Một thành phố cho dù bành trướng có kế hoạch hay tự phát thì không thể quá
ngưỡng (sự giới hạn của đất đô thị, phạm vi hành chính, khả năng quản lý, sức chứa
dân số). Lúc này đô thị sẽ rơi vào tình trạng: một mặt bản thân nó muốn tiếp tục mở
rộng diện tích ra (theo chiều không gian) và tăng lượng dân cư cũng như tạo ảnh
hưởng ra c
ác vùng xung quanh. Mặt khác, do các yếu tố khách quan bắt buộc nó
phải ngưng tiến trình bành trướng. Bởi một khi mật độ dân số vượt quá ngưỡng sẽ
đưa đến sự bùng nổ, khủng hoảng đất đai, môi trường. Vì cũng như mọi cơ thể sống
khác, nó không tải thêm được nữa. Để thoát khỏi tình trạng này, sẽ có những thành
tố mới xuất hiện để chia sẽ với chính bản thân nó. N

hững thành tố mới được hình
thành là:
* Đô thị đối trọng: Đô thị đối trọng đảm nhiệm việc chia sẻ với thành phố
đóng vai trò trung tâm đang bị quá tải. Loại đô thị đối trọng này có đặc điểm [16,
tr.16]:
- Đối trọng có thể là một hay vài thành phố (nằm trong một liên minh), nhưng
điều quan trọng là diện tích cũng phải tương đương hoặc không quá nhỏ.
- Về dân số: Không quá ít (có thể bằng 1/3 hay 1/2), đủ để thu hút nhân lực từ
nơi khác đến và có khả năng tiếp nhận, không để cho toàn bộ dòng di dân chảy dồn
vào trung tâm, đặc biệt là khả năng chia sẽ dân cư từ bên trong thành phố trung tâm
di chuyển ra.
- Nếu đối trọng là một thành phố đơn lập thì nó phải là một thành phố đa chức
năng, còn nếu là một nhóm
thành phố đóng vai trò là đối trọng thì có thể mỗi thành
phố đảm nhiệm một hay hai chức năng chính như công nghiệp, du lịch, thương mại,
nghỉ dưỡng, v.v
- Thành phố đối trọng nằm không quá xa, nhưng cũng không quá gần. Khoảng
cách này thường được tính là gấp đôi hoặc tối đa là gấp ba bán kính của thành phố
đư
ợc đối trọng (khoảng cách tính từ trung tâm thành phố tới ngoài rìa xa nhất,
thường là điểm mút của các đường vành đai, 30, 50, 70 km).
* Nhóm thành phố chức năng đồng cấp: Một hình thức tổ chức không gian
đô thị khác để chia sẽ sự mở rộng đô thị là tạo ra những thành phố đồng cấp quy mô
dân số và diện tích. Những thành phố này nằm kề nhau, trải ra trên một vùng lãnh
thổ, tạo thà
nh một vùng đô thị. Dân số của mỗi thành phố không quá đông, ít nhất là
300.000 người và nhiều nhất là 1 triệu người, mỗi thành phố đảm nhiệm một chức
năng chủ yếu, chẳng hạn như thành phố khoa học là nơi tập trung hầu hết các trường
đại học và các viện nghiên cứu lớn nhất của vùng đô thị; thành phố tài chính là nơi
tập trung các ngân hàng, thị trường chứng khoán, văn phòng đại diện c

ho các tập
đoàn kinh tế; thành phố công nghiệp là nơi tập trung các nhà máy, KCN, KCX.
* Đô thị vệ tinh (Satellite): Một đô thị được gọi là vệ tinh phải thỏa mãn các
yêu cầu sau đây[16, tr.17]:
- Nó là một thành phố hoàn chỉnh để có thể trở thành một đơn vị độc lập tương
đối về cơ cấu tổ chức không gian (quy hoạch), cơ cấu chính trị (tổ chức chính trị xã
hội, tổ chức hành chính), cơ sở hạ tầng kỹ thuật (điện, cấp và t
hoát nước, giao thông,
xử lí rác thải) và hạ tầng xã hội (bệnh viện, trường học, nhà trẻ, phòng chữa
cháy,v.v. Tóm lại, “Về lý thuyết thì một thành phố vệ tinh đúng nghĩa phải là một
đơn vị đô thị hoàn chỉnh, có một hệ thống quản lý riêng, độc lập về hành chính
nhưng lại nằm trong cơ cấu của một thành phố lớn”.
- Nó phải nằm trong cùng một lãnh thổ với thành phố trung tâm, khoảng cách
không quá xa, (dễ ly tâm), cũng không quá gần (dễ bị thành phố hút vào). Trong
thực tế, những thành phố vệ tinh của Châu Á đều nằm
trong bán kính 50 km, tính từ
tâm cũ của thành phố.
- Về quan hệ vĩ mô: Nó thuộc mạng lưới chung của cả vùng. Có thể nó có sự
độc lập tương đối về bộ máy hành chính và quản lý đô thị, nhưng nó phải chịu sự
định hướng chiến lược và lãnh đạo chính trị chung từ thành phố trung tâm (còn gọi
là thành phố mẹ). Điều này giúp cho các thành phố vệ tinh không đi chệch ra khỏi lộ
trình phát triển.
-
Về dân số: Nó phải có một lượng dân số cần và đủ cho một đô thị (một thành
phố vệ tinh đứng độc lập có thể là 100.000 dân trở lên, nếu một cụm các đô thị vệ
tinh đứng gần nhau thì mỗi thành phố có thể là 30.000 - 50.000 dân), nếu ít quá sẽ
không có được sức hút. Nó cũng cần có một lực lượng lao động tại chỗ, nếu nó tồn
tại nhờ lực lượng “con lắc” từ nơi
khác đến thì thành phố đó không đảm nhiệm được
vai trò vệ tinh mà chỉ tồn tại theo kiểu “ngày tấp nập, đêm trống rỗng”.

- Thành phố vệ tinh dù nhỏ cũng phải là một nền tảng kinh tế riêng. Có thể nó
là một thành phố có cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh: công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
Nhưng nếu nó chỉ có một chức năng nào đó t
hì phải có sự hỗ trợ từ những thành phố
khác nằm chung trong một hệ thống.
- Một thị xã, thị trấn cấp tỉnh, huyện được coi là thành phố vệ tinh khi mà tỉnh
hay huyện đó nằm trong lãnh thổ quy ước vùng đô thị và chịu sự chi phối chính trị,
cũng như điều tiết từ một thành phố đóng vai trò trung tâm chính trị.
* Những vùng đệm: Trong một vùng đô thị lớn thường có những vùng phân
cách. Tùy theo mỗi góc độ mà n
hững vùng này với những cái tên là: vùng đệm, khu
vực chuyển tiếp, vùng mềm, dải phân cách. Tuy tên gọi khác nhau nhưng chúng có
cùng một đặc điểm là những vùng này không có các công trình xây dựng quy mô
lớn, cũng như không có các KCN tập trung, hoặc nếu có thì mật độ thấp, quy mô
nhỏ, không ô nhiễm. Nơi đây là rừng sinh thái, vành đai xanh, hồ nước, rừng trồng
hay rừng tự nhiên, các khu nghỉ mát, các khu dưỡng bệnh, dưỡng lão. Trong thực tế,
những vùng đệm này là dải phân cách tự nhiên tạo ra sự độc lập tương đối về địa
giới hành chính giữa các thành phố. Mặt khác, nó làm cho vùng đô thị mềm đi. Ở
những vùng đô thị lớn có thể còn có thêm các làng nghề, các làng nông nghiệp (chủ
yếu trồng rau, hoa, cây cảnh), ở những là
ng này được quy hoạch theo kiểu làng hiện
đại, văn minh. Ở rất nhiều các thành phố lớn trên thế giới, những vùng đệm này có ý
nghĩa là vùng dự trữ cho phát triển tương lai.
* Vành đai nông nghiệp xung quanh thành phố trung tâm [ 32, tr.80]
Theo V.Thunen, thành phố trung tâm có sức hấp dẫn đối với các hoạt động
nông nghiệp xung quanh. Ông xem địa tô chênh lệch như là một then chốt dẫn đến
sự phân định lãnh thổ có các hoạt động nông nghiệp và m
ang tính nông nghiệp đồng
nhất xung quanh các đô thị thành các vành đai sản xuất chuyên môn hóa nông
nghiệp khác nhau. Tư tưởng V.Thunen coi thành phố là các cửa Vào - Ra (cảng

biển, sân bay, đầu mối giao thông lớn,…), là những trung tâm trọng điểm của lãnh
thổ có sức hút. Và sức đẩy ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp xung quanh thành
phố. Thực tế cho thấy, khi đô thị lan tỏa đất nông nghiệp bị thu hẹp, diện tích cây
trồng bị mất đi. Quan điểm của V.Thunen có ý nghĩa
quan trọng, nó lập luận cho
việc xác định vai trò của một trung tâm và thiết lập vành đai nông nghiệp tối ưu.
Cũng theo quan điểm của V.Thunen, xung quanh một thành phố trung tâm có
thể tồn tại và phát triển 5 vành đai sản xuất chuyên môn hóa nông nghiệp theo nghĩa
rộng là: vành đai 1 là vành đai thực phẩm; vàn
h đai 2 là vành đai thực phẩm - lương
thực; vành đai 3 là vành đai cây ăn quả - lương thực; vành đai 4 là vành đai lương
thực - chăn nuôi, vành đai 5 là vành đai lâm nghiệp. Tùy theo điều kiện cụ thể và tư
nhiên, tập quán sản xuất của dân cư và quy mô của thành phố trung tâm mà xác định
số lượng vành đai cũng như bán kính của mỗi vành đai nông nghiệp. Thực tế cho
thấy, đối với các đô t
hị lớn ở nước ta bán kính tác động tới sản xuất nông nghiệp kéo
dài hay mở rộng có thể từ khoảng 15 đến 25 km, khoảng cách mỗi vành đai cách
nhau từ 3 đến 5 km.
Tóm lại, về mặt cấu trúc vùng đô thị là một thể tổng hợp đa dạng gồm các
thành phố lớn (megacity), các thành phố trung bình (city), các thành phố, thị trấn
nhỏ (town) và các khu ở (neigh – borhood). Trong đó có một thành phố đóng vai trò
chủ đạo, ngoài ra có thể có một số thành phố đối trọng, thành phố đồng cấp hay các
thành phố vệ tinh, xe
n giữa chúng là các khu đệm sinh thái. Đặc điểm nổi bật và
quan trọng nhất của vùng đô thị là đa cực, phi tập trung hóa. Vùng đô thị có thể rất
lớn, khi ấy là sự kết nối các chùm đô thị với nhau tạo nên mạng đô thị (city net)
bằng hệ thống giao thông liên hoàn, đa cấp. Trong trường hợp này, các nhà đô thị
học đặt cho chúng với những cái tên rất mới khó tìm được trong từ điển như: liên

hợp đô thị (megalopolis), dải đô thị, chuỗi đô thị (urban string), ngân hà đô thị

(urban galaxy), miền/vùng đại đô thị (mega - urban region/urban area).
1.1.5. Mối liên hệ không gian giữa đô thị với các vùng xung quanh
Đối với không gian xung quanh của một thành phố, đặc biệt là thành phố lớn,
tùy theo cường độ sức hút của thành phố hạt nhân, sự tác động qua lại giữa thành
phố hạt nhân và các điểm
dân cư xung quanh về các mặt kinh tế - văn hóa - xã hội
và cả hành chính mà người ta xác định được các cấp độ khác nhau (với các quan
niệm rộng hẹp khác nhau) về vùng xung quanh thành phố lớn với các tên gọi khác
nhau:
- Vùng ảnh hưởng của thành phố lớn (chia ra: vùng ảnh hưởng trực tiếp, vùng
hình thành ảnh hưởng của lực hút, vùng ảnh hưởng kinh tế).
- Vùng ngoại thành.
- Vùng ven đô (vùng kề cận).
Sự liên quan về mặt không gian - chức năng của vùng ảnh hưởng với thành
phố hạt nhân đã được nó
i tới nhiều trong các tài liệu địa lý đô thị và quy hoạch đô
thị. Không gian vùng ảnh hưởng là nơi xen kẽ các hình thức phân bố dân cư đô thị
và nông thôn; mật độ dân số, mật độ xây dựng thấp hơn; là nơi cung cấp “ thực

×