MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra khi sự nghiệp đổi mới toàn diện đất
nước đã trải qua 25 năm và đạt được những thành tựu rất to lớn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng. “Thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt thành tựu quan trọng
trên nhiều mặt, nhất là xóa đói, giảm nghèo. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ
trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại,
hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực
cho phát triển đất nước.
Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân” [Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.92]. Những thành tựu mà ta đã đạt được trong đó có đóng góp quan trọng của
việc đổi mới nhận thức và áp dụng một cách sáng tạo vấn đề sở hữu của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn
Việt Nam.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây sự biến động của nền kinh tế thế giới, nhất là sự khủng hoảng tài chính và suy
giảm kinh tế toàn cầu, đã tác động không nhỏ đến Việt Nam; đã làm lộ ra những khó khăn, những bất cập trong cơ cấu
1
kinh tế và cơ chế quản lý của chúng ta. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về vấn đề sở hữu chưa đồng bộ và thống
nhất. Những bất cập trong quản lý, phân phối chưa được giải quyết tốt. Còn có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần
kinh tế. Các loại thị trường hình thành và phát triển còn chậm, vận hành chưa thông suốt. Sự cạnh tranh không lành mạnh
giữa các chủ sở hữu, tình trạng trốn lậu thuế, gian lận thương mại còn nhiều. Cải cách hành chính còn chậm. Tham nhũng,
lãng phí còn nghiêm trọng. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng xa. Hệ thống an sinh xã hội chưa phát triển. Nền kinh tế
phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chuyển dịch cơ cấu theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến những yếu kém trên là do vai trò của các hình thức sở hữu chưa được phát
huy đầy đủ. Để tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất ở nước ta tiếp tục phát triển thì cần phải tiếp tục hoàn thiện quan hệ
sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng muốn vậy thì chúng ta phải hiểu rõ vai trò của từng hình thức sở hữu,
phải giải quyết tốt vấn đề sở hữu. Chính vì lý do đó mà tôi chọn nghiên cứu đề tài “Các hình thức sở hữu và vai trò của
chúng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích: Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các hình thức sở hữu, luận án đề
xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2
2.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận án giải quyết những nhiệm vụ chính sau đây:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phân tích thực trạng của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay; những vấn đề đặt ra đối với vai trò của các hình thức sở hữu đó.
- Đưa ra quan điểm và giải pháp nhằm phát huy vai trò của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của luận án là vai trò của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu của luận án: Giai đoạn phát triển kinh tế của Việt Nam trong khoảng 15 năm trở lại đây.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận:
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề sở hữu.
4.2. Cơ sở thực tiễn:
Luận án được thực hiện dựa trên sự kế thừa những thành tựu của các nhà khoa học đã nghiên cứu về vấn đề sở
hữu và thực tiễn quá trình xây dựng chế độ sở hữu ở Việt Nam hiện nay.
3
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án: Phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, logic-lịch sử,
khái quát hóa, trừu tượng hóa, và các phương pháp chung của khoa học xã hội.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Góp phần hệ thống hóa lý luận về sở hữu, sở hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Làm rõ thêm thực trạng của các hình thức sở hữu cơ bản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án cung cấp thêm tri thức về vấn đề sở hữu và vai trò của các hình thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay.
- Nội dung nghiên cứu và những kết quả đạt được của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và
nghiên cứu vấn đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được trình bày thành 4 chương và 10 tiết.
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
4
1.1. Lý luận về sở hữu và hình thức sở hữu
1.1.1. Khái niệm sở hữu
Các công trình nghiên cứu khi bàn đến khái niệm sở hữu thường tập trung vào việc làm rõ một số vấn đề cơ bản
như: Trước đây khái niệm sở hữu có được sử dụng hay không? Nếu được sử dụng thì nó được sử dụng với nghĩa như thế
nào và có thống nhất hay không? Sở hữu là phạm trù lịch sử hay phạm trù vĩnh viễn? Khái niệm sở hữu theo quan điểm
của C.Mác và Ph.Ăngghen như thế nào?
1.1.2. Vai trò của sở hữu tư liệu sản xuất
Khi bàn đến vai trò của sở hữu tư liệu sản xuất, hầu hết các tác giả đều cho rằng, sở hữu có vai trò rất quan trọng
cho nên giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp đó nắm quyền thống trị xã hội về
mặt kinh tế và do đó thống trị về chính trị, tư tưởng. Khi sở hữu phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất thì nó thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, khi không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Sở hữu giữ vị trí trung tâm trong hệ thống lý luận kinh tế của bất cứ giai đoạn phát triển
lịch sử nào; nó chi phối các yếu tố khác của đời sống xã hội. Chế độ sở hữu thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của các yếu
tố khác trong cấu trúc xã hội, cuối cùng sẽ làm thay đổi hình thái kinh tế - xã hội hiện tồn bằng hình thái kinh tế - xã hội
mới phù hợp với chế độ sở hữu mới với đặc trưng của nó.
1.1.3. Quyền sở hữu
5
Nói đến quyền sở hữu các tác giả thường cho rằng, quan hệ sở hữu một khi được luật pháp hóa thì trở thành
quyền sở hữu, bao gồm rất nhiều quyền. Cần phân biệt sở hữu và quyền sở hữu, sở hữu trên danh nghĩa và sở hữu thực tế.
Khi hiểu và phân biệt rõ khái niệm sở hữu và quyền sở hữu, sở hữu trên danh nghĩa và sở hữu thực tế giúp cho ta hiểu rõ
bản chất của vấn đề tránh được sự mập mờ, không rõ ràng của các nhà tư bản nhằm đánh tráo khái niệm để xoa dịu mâu
thuẫn giai cấp trong xã hội.
1.1.4. Chủ thể sở hữu và đối tượng sở hữu
Khi nghiên cứu những vấn đề lý luận xung quanh khái niệm sở hữu, các tác giả thường tìm hiểu các khái niệm
kèm theo, như chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu. Họ cho rằng, chủ sở hữu là người, là phía tích cực chủ động, còn đối
tượng sở hữu là phía bị động thường được biểu hiện dưới dạng những vật tự nhiên. Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã
hội, đối tượng sở hữu cũng thay đổi rất nhiều so với trước kia. Chủ sở hữu có thể sử dụng uy quyền riêng để thực hiện bảo
vệ những lợi ích của bản thân họ
1.1.5. Hình thức sở hữu
Cho đến nay việc phân biệt giữa hình thức sở hữu với quan hệ sở hữu; giữa hình thức sở hữu với chế độ sở hữu
vẫn là vấn đề được nhiều học giả quan tâm và đưa ra các quan điểm khác nhau. Theo tác giả Phạm Văn Sinh, hình thức sở
hữu là khái niệm cụ thể hơn so với quan hệ sở hữu, nó chỉ rõ ràng hơn mối quan hệ giữa chủ thể sở hữu và đối tượng sở
hữu.
6
Một số tác giả thì cho rằng, mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một hình thức sở hữu đặc trưng bên cạnh một số
hình thức sở hữu khác, từ đó họ khẳng định rằng, việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong điều kiện Việt Nam hiện
nay là hoàn toàn đúng đắn.
1.2. Vai trò của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Tính tất yếu của sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam
Sự tất yếu phải đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm khai thác có
hiệu quả mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế được các tác giả, như Lương Việt Hải, Đặng Hữu Toàn, Phạm Văn Đức,
Nguyễn Ngọc Hồi chứng minh theo những cách khác nhau. Việc phân tích xem sở hữu là mục tiêu hay là phương tiện
cũng được quan tâm và có những quan điểm khác nhau. Nếu như trước đây các tác giả thường tuyệt đối hóa vai trò của sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể, thì từ sau đổi mới các tác giả đều nhận thấy mỗi hình thức sở hữu có một tác dụng nhất
định. Chính vì vậy, việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay là một tất yếu khách quan.
1.2.2. Vai trò của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Vai trò của sở hữu nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tồn tại nhiều hình thức sở hữu, thích ứng với nó là tồn
tại nhiều thành phần kinh tế. Nhưng trong đó, sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất phải là chủ chốt, có như vậy mới đảm
bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Sở hữu nhà nước có thời kỳ đã phát huy
rất tốt vai trò chủ đạo của mình, nhưng trong thực tiễn hiện nay đang nảy sinh rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết để có
7
thể phát huy đầy đủ vai trò chủ đạo của nó. Đó là những nội dung mà các tác giả Nguyễn Cúc, Nguyễn Duy Hùng, Tô
Đức Hạnh…, quan tâm nghiên cứu.
Vai trò của sở hữu tập thể
Vai trò của sở hữu tập thể thường được thể hiện thông qua vai trò của các hợp tác xã sản xuất, hợp tác xã kinh
doanh, dịch vụ…, trong đó xã viên đóng vai trò chủ sở hữu. Trong thời kỳ bao cấp trước đây, kinh tế hợp tác xã cũng đã
phát huy những giá trị tích cực phục vụ cho công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc. Tuy nhiên, khi
chuyển sang thời kỳ hòa bình, người dân lao động trong hợp tác xã chưa thấy được lợi ích thiết thân của việc tham gia
hợp tác xã nên tỏ ra không mặn mà với mô hình hợp tác xã kiểu cũ. Làm thế nào để xây dựng được những hợp tác xã kiểu
mới hoạt động có hiệu quả trong cơ chế thị trường nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước? Đó là
vấn đề được nhiều tác giả quan tâm.
Vai trò của sở hữu tư nhân
Vai trò của sở hữu tư nhân gần đây được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và cũng đã có những đề tài nghiên
cứu sâu sắc về vấn đề này. Các tác giả cũng chỉ ra rằng, trong các chế độ trước đây đều quan tâm đến sở hữu tư nhân, từ
việc theo đuổi mục đích của cá nhân mà họ đã đóng góp vào lợi ích chung của xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, sở hữu tư
nhân đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy
nhiên, Nhà nước vẫn cần phải có những giải pháp cụ thể để phát huy vai trò của hình thức sở hữu này hơn nữa.
Vai trò của sở hữu hỗn hợp
8
Theo các tác giả Phùng Trung Tập, Lê Thanh Sinh…, sở hữu hỗn hợp có thế mạnh hơn so với các hình thức sở
hữu khác ở chỗ nó kết hợp sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế; vì vậy, nó có khả năng tập hợp mọi nguồn lực
khác nhau cho việc phát triển sản xuất, kinh doanh nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao. Sở hữu hỗn hợp, ngoài việc phát
huy được vai trò của các thành phần kinh tế khi kết hợp với nhau trong sản xuất kinh doanh, còn giúp thu hút vốn đầu tư
nước ngoài hoặc khuyến khích các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài nhằm tìm kiếm lợi nhuận trong sản xuất,
kinh doanh. Đó là hình thức sở hữu mà theo nhiều tác giả cần được khuyến khích phát triển hơn nữa.
1.3. Những giải pháp cho vấn đề sở hữu
Theo đa số các tác giả, những giải pháp cho việc phát triển kinh tế đất nước nói chung là hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước đối với các
thành phần kinh tế; đổi mới chế độ sở hữu. Có rất ít tác giả đưa ra những giải pháp cụ thể cho việc phát huy vai trò của
các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Chính vì vậy, theo tôi, đây vẫn
còn là một vấn đề cần tiếp tục được quan tâm nghiên cứu.
Kết luận chương 1
Vấn đề sở hữu là vấn đề quan trọng của bất cứ xã hội nào, bởi nó là yếu tố quyết định nhất trong quan hệ sản
xuất, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính vì vậy mà các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác – Lênin rất quan tâm tới vấn đề này. Ở Việt Nam, trước khi tiến hành công cuộc đổi mới, một số tác giả đã đề cập
đến đề tài này, quan tâm khai thác luận điểm mácxít về vấn đề xóa bỏ chế độ tư hữu, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu
9
sản xuất để khẳng định tính tất yếu của việc quốc hữu hóa và tập thể hóa. Từ Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng, đặc
biệt từ sau Đại hội VII, các tác giả tập trung vào việc luận chứng tính tất yếu phải đa dạng hóa các hình thức sở hữu, phải
xem sở hữu có là vấn đề có tính chất cơ bản nhất đối với mọi sự cải cách kinh tế; phê phán những quan điểm cho rằng sở
hữu trong chủ nghĩa xã hội chỉ có hai hình thức độc tôn là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể; phê phán tính chất vô chủ do
hai hình thức sở hữu đó gây ra.
Các tác giả cũng tập trung phân tích vị trí, vai trò của từng hình thức sở hữu; sự đan xen giữa các hình thức sở
hữu với nhau trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
về sở hữu là mục tiêu hay là phương tiện. Đã có những quan niệm khác nhau về khái niệm sở hữu, chủ thể sở hữu, đối
tượng sở hữu, chế độ sở hữu, hình thức sở hữu, quan hệ giữa các quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền kinh doanh; quan
hệ giữa sở hữu và pháp lý, sở hữu và chính trị.
Mặc dù sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được
thừa nhận, nhưng vai trò của các hình thức sở hữu và phương thức để phát huy vai trò của chúng thì vẫn chưa được các
tác giả đề cập đến nhiều và chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Đề tài “Các hình thức sở hữu và vai trò của chúng
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” vẫn đang cần được nghiên cứu sâu sắc
hơn nữa, nhất là từ góc độ triết học.
10
Chương 2: SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. Sở hữu và hình thức sở hữu
Sở hữu là quan hệ xã hội giữa người với người về việc chiếm hữu tư liệu sản xuất và của cải xã hội. Sở hữu là
quan hệ xã hội nên ít nhất phải có hai người trở lên có liên quan tới một đối tượng nhất định mới đặt ra vấn đề sở hữu.
Sở hữu khác với chiếm hữu ở chỗ, muốn sản xuất ra của cải vật chất con người phải chinh phục thiên nhiên,
chiếm hữu những cái có trong tự nhiên, cải biến chúng thành những cái có ích cho đời sống con người. Chiếm hữu thể
hiện quan hệ giữa con người với tự nhiên, là hành vi gắn liền với sự tồn tại và phát triển của con người. Chiếm hữu là
phạm trù vĩnh viễn trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Sở hữu là phạm trù lịch sử, là quan hệ xã hội nhất định.
Các khái niệm khác, như chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu, quyền sở hữu, hình thức sở hữu, chế độ sở hữu cũng
được tác giả tập trung làm rõ ở trong phần này.
2.2. Sự vận động biến đổi của các hình thức sở hữu trong lịch sử
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một hình thức sở hữu đặc trưng. Các hình thức sở hữu vận động, biến đổi
dưới sự chi phối của quy luật khách quan – quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lịch sử loài người trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội luôn có sự tồn tại
nhiều hình thức sở hữu, song bao giờ cũng có một hình thức sở hữu đặc trưng cho chế độ sở hữu của hình thái kinh tế - xã
hội đó. Nghiên cứu các hình thức sở hữu trong lịch sử sẽ giúp cho ta có một phương pháp luận đúng đắn, nhìn ra cái logic
11
và cái lịch sử của sự tồn tại, vận động và phát triển của chúng. Điều đó giúp lựa chọn, tổ chức các hình thức sở hữu phải
phù hợp với điều kiện cụ thể trong sự nghiệp đổi mới và phát triển toàn bộ nền kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
2.3. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về sở hữu và việc vận dụng quan điểm đó ở Việt Nam
2.3.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen
C.Mác đã coi vấn đề sở hữu là vấn đề sống còn của bất cứ giai cấp nào trong xã hội. Trong tác phẩm “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: Đối với những người cộng sản, vấn đề sở hữu còn là vấn
đề hàng đầu, vấn đề cơ bản của mọi phong trào cách mạng. Mặc dù rất quan tâm đến vấn đề sở hữu nhưng các ông không
đưa ra định nghĩa cụ thể nào về vấn đề này. Sở hữu là một trong ba bộ phận cấu thành quan hệ sản xuất; là bộ phận quyết
định nhất đối với các bộ phận còn lại; và vì quan hệ sản xuất bao giờ cũng gắn với lực lượng sản xuất trong một phương
thức sản xuất nhất định. Theo các ông, không có chế độ sở hữu nào tồn tại vĩnh cửu, sự thay thế liên tiếp các chế độ sở
hữu thực tế đã diễn ra trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người. Việc xóa bỏ, thủ tiêu chế độ sở hữu tư bản
chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa,
nhằm xóa bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng cho
rằng, việc thay thế quan hệ sở hữu này bằng quan hệ sở hữu khác, ví dụ như việc xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ
công hữu, không thể làm ngay lập tức, cũng không thể là việc tùy tiện do ý muốn chủ quan quyết định mà nó là kết quả
của sự phát triển lực lượng sản xuất.
2.3.2.Quan điểm của V.I.Lênin
12
V.I.Lênin đã bảo vệ những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề sở hữu, đặc biệt là vấn đề xóa bỏ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. V.I.Lênin chưa bao giờ nghi ngờ khả năng và vai trò của việc thủ tiêu chế độ tư hữu.
Với sự thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga, ông là người đã hiện thực hóa những quan
niệm về xóa bỏ chế độ tư hữu của C.Mác và Ph.Ăngghen, đưa nó thành những giải pháp, những bước đi thích hợp trong
bối cảnh nước Nga lúc bấy giờ. V.I.Lênin đã chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó thành
phần kinh tế tư bản nhà nước được xem là khâu trung gian để đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.3.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
Trước khi diễn ra công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam chỉ thừa nhận một chế độ sở hữu duy nhất, đó
là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Những sai lầm mang tính chất nóng vội, chủ quan duy ý chí đó đã được Đảng ta sửa chữa và từng bước khắc
phục bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đã cho thấy, quá trình
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phải bám sát trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
2.4. Mối liên hệ và sự phối hợp giữa các hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay
13
Các hình thức sở hữu luôn luôn tồn tại trong quan hệ phức hợp; giữa các hình thức sở hữu có những điểm tương
đồng nhưng cũng có những nét khác biệt. Tùy theo điều kiện, hoàn cảnh mà các hình thức đó hợp tác và đấu tranh với
nhau. Đó là sự phát triển biện chứng của sở hữu. Sự hợp tác và đấu tranh giữa các hình thức sở hữu là động lực thúc đẩy
quan hệ sở hữu vận động và phát triển theo xu hướng tăng dần tính xã hội hóa.
Kết luận chương 2
Những vấn đề lý luận liên quan đến sở hữu được bàn đến trong chương này như khái niệm sở hữu, chiếm hữu,
chế độ sở hữu, hình thức sở hữu, đối tượng sở hữu, quyền sở hữu, sự vận động biến đổi của các hình thức sở hữu trong
lịch sử, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về sở hữu và sự vận dụng những quan điểm đó ở Việt Nam.
Thực tiễn đòi hỏi cho việc nhận thức và giải quyết vấn đề sở hữu phải hết sức khoa học và nghiêm túc. Việc phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đang đặt ra những vấn đề cấp bách và nan
giải, đó là làm thế nào để phát huy vai trò của các hình thức sở hữu. Phát huy tốt vai trò của các hình thức sở hữu giúp cho
nền kinh tế phát triển mạnh mẽ hơn, vừa bảo đảm được nguyên tắc phát triển kinh tế vừa bảo đảm nguyên tắc định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Chương 3: VAI TRÒ CỦA CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
14
3.1. Thực trạng vai trò của các hình thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Sở hữu nhà nước
Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu và
nhiều thành phần kinh tế; trong đó, sở hữu nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo này
được thể hiện ở những điểm sau: Một là, sở hữu nhà nước định hướng phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện, hài
hòa. Hai là, với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc mở đường, nêu gương, định hướng cho
các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Ba là, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định
hướng và điều tiết, hướng dẫn hoạt động các thành phần kinh tế khác bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
3.1.2. Sở hữu tập thể
Cho đến nay, Đảng ta vẫn xem sở hữu tập thể và kinh tế tập thể có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam và tìm cách phát huy vai trò của thành phần kinh tế này cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều
này được thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, sở hữu tập thể và kinh tế tập thể có vai trò rất quan trọng trong định
hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Thứ hai, sở hữu tập thể và kinh tế tập thể giúp cho nông nghiệp, thương nghiệp,
giao thông vận tải Việt Nam đạt được những thành tựu mới. Thứ ba, sở hữu tập thể giúp nông dân Việt Nam nhanh
chóng hòa nhập với cơ chế thị trường. Thứ tư, sở hữu tập thể và kinh tế tập thể giúp người lao động đoàn kết, gắn bó vì
lợi ích chung.
15
3.1.3. Sở hữu tư nhân
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII năm 1991, Đảng ta chính thức thừa nhận kinh tế tư nhân là bộ phận
quan trọng cấu thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự thừa nhận đó có ý nghĩa rất quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam; đã làm cho kinh tế tư nhân ngày càng phát triển mạnh và có những đóng góp hết
sức quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế đất nước. Vai trò của sở hữu tư nhân được thể hiện ở những mặt sau: Thứ
nhất, sở hữu tư nhân góp phần quan trọng vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Thứ hai, sở hữu tư
nhân thúc đẩy phát triển kinh tế, phát triển sản xuất hàng hóa, thúc đẩy sức sáng tạo của người lao động. Thứ ba, sở hữu
tư nhân huy động ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh và làm tăng thu nhập quốc
dân. Thứ tư, sở hữu tư nhân góp phần tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, đa dạng hóa ngành nghề, nâng cao cả về số
lượng, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của người dân. Thứ năm, sở hữu tư nhân tham gia
tích cực vào việc giải quyết các vấn đề xã hội.
3.1.4. Sở hữu hỗn hợp
Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu có sự tham gia của nhiều loại chủ thể khác nhau về tính chất. Trong điều kiện
nền kinh tế thế giới hiện đang có nhiều biến đổi mạnh mẽ thì hình thức sở hữu hỗn hợp tỏ ra có ưu điểm rất rõ. Nó giúp
cho nền kinh tế vận hành một cách năng động và hiệu quả hơn. Chính nhờ có hình thức kinh tế hỗn hợp mà ta thu hút
16
được nguồn vốn từ các chủ thể khác nhau với các mức độ tham gia khác nhau. Nó cũng giúp hàng hóa Việt Nam xâm
nhập vào thị trường thế giới, chất lượng hàng hóa không ngừng được nâng cao góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh
của hàng hóa Việt Nam.
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với vai trò của các hình thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay
Với mong muốn rằng, thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo vì đó là tài sản của toàn dân, mọi người
đều được hưởng lợi từ lợi nhuận do thành phần kinh tế này mang lại. Nhưng hiện nay thì vai trò của kinh tế nhà nước vẫn
còn rất nhiều điều khiến chúng ta phải xem xét. Trên thực tế thì hiệu quả của thành phần này không cao, nhiều tập đoàn,
tổng công ty Nhà nước hoạt động kém hiệu quả và thua lỗ. Trong điều kiện hiện nay, việc xác định thành phần kinh tế
nhà nước làm chủ đạo cũng có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau. Vì vậy vấn đề đặt ra đối với hình thức sở hữu này là làm
thế nào để phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.
Sở hữu tập thể, với mô hình hợp tác xã và làm ăn tập thể kiểu cũ đã không thể tồn tại vì sự kém hiệu quả của nó.
Còn mô hình hợp tác xã kiểu mới thì còn rất lúng túng về phương thức hoạt động và khiêm tốn về quy mô. Hệ thống lý luận
định hướng cho sự phát triển của hình thức sở hữu này còn yếu và thiếu; tính dự báo còn kém; việc tổng kết thực tiễn còn
chậm trễ. Hệ thống dịch vụ tư vấn, chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng phục vụ cho các
17
hợp tác xã còn yếu kém cả về cơ sở vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với hình thức sở hữu
này là phải thay đổi mô hình hợp tác xã hiện nay cho phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
phù hợp với xu thế thời đại và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đối với sở hữu tư nhân, mặc dù có đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm
qua nhưng những đóng góp đó vẫn còn hạn chế so với tiềm năng của hình thức sở hữu này. Vẫn còn tình trạng trốn thuế
thể hiện sự thiếu tinh thần trách nhiệm với nhà nước và với xã hội, có một số doanh nghiệp tư nhân làm ăn tốt nhưng báo
cáo thua lỗ nhiều năm liền để trốn thuế. Nhiều doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân hiện nay phát triển còn tự phát, manh
nún, tản mạn, chưa gắn kết một cách hiệu quả với các hình thức sở hữu khác để cùng phát triển. Vì vậy, vấn đề đặt ra đối
với hình thức sở hữu này là phải phát triển quy mô sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh, khắc phục tình trạng gian
lận thương mại, trốn thuế, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp tư nhân đối với xã hội.
Kết luận chương 3
18
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay có nhiều hình thức sở hữu và
nhiều thành phần kinh tế; trong đó, mỗi hình thức sở hữu, mỗi thành phần kinh tế đóng một vai trò rất quan trọng. Sở hữu
nhà nước giữ vai trò chủ đạo; là nhân tố mở đường, định hướng tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sự phát triển
của toàn bộ nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là nền tảng cho sự phát triển kinh tế, xã hội một cách toàn diện, hài hòa. Kinh
tế nhà nước giữ vị trí nền tảng trong nền kinh tế quốc dân; là lực lượng vật chất quan trọng để định hướng và cân đối vĩ
mô nền kinh tế.
Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể giúp cho nông nghiệp Việt Nam đạt được những thành tựu mới; giúp nông dân
nhanh chóng hòa nhập với kinh tế thị trường; giúp người lao động đoàn kết gắn, bó vì lợi ích chung.
Sở hữu tư nhân góp phần quan trọng vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động; thúc đẩy phát triển
sản xuất hàng hóa, thúc đẩy khả năng sáng tạo của cá nhân; huy động được nhiều vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất
kinh doanh; làm tăng thu nhập quốc dân; tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, đa dạng hóa ngành nghề; nâng cao số
lượng, chất lượng hàng hóa, dịch vụ; thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của người dân; tham gia tích cực vào việc giải
quyết các vấn đề xã hội. Để phát huy vai trò tích cực của sở hữu tư nhân, chúng ta cần xây dựng và kiện toàn hệ thống
pháp luật và những quy chế có liên quan.
Sở hữu hỗn hợp gắn kết được các chủ sở hữu với nhau vì lợi ích chung. Nó góp phần tăng thu nhập cho cá nhân,
cho địa phương và cho ngân sách Nhà nước; giúp cho hàng hóa Việt Nam xâm nhập vào thị trường thế giới một cách dễ
dàng hơn; góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam; góp phần tạo ra bước chuyển dịch ban đầu về
19
cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản xuất, kinh nghiệm quản lý và giúp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Như trên đã phân tích, mỗi hình thức sở hữu có một vai trò nhất định, việc xác định đúng đắn vai trò của mỗi hình
thức sở hữu có ý nghĩa quan trọng giúp cho Đảng và Nhà nước đưa ra những chính sách cụ thể, phù hợp nhằm thúc đẩy
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển.
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Quan điểm
Một là, sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu là một tất yếu khách quan lâu dài . Theo
quy luật chung của lịch sử, trong các hình thái kinh tế - xã hội từ trước đến nay, bên cạnh hình thức sở hữu đặc trưng bao
giờ cũng tồn tại đan xen nhiều hình thức sở hữu khác, bên cạnh những mặt giống nhau bao giờ cũng có những điểm khác
biệt. Điều đó là tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội. Mặt khác, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có những chủ thể sản xuất, kinh doanh thực sự chứ không phải là những
chủ thể trừu tượng, chung chung. Để có chủ thể thực sự thì phải có những người chủ sở hữu đích thực. Nếu không như
vậy thì sẽ không có các quan hệ sản xuất và trao đổi thật sự, không thể có kinh doanh thật sự, không có kinh tế thị trường
theo đúng nghĩa kinh tế chính trị của nó.
20
Hai là, phải xây dựng mô hình hợp tác xã với quy mô lớn, khắc phục tình trạng sản xuất manh mún nhỏ lẻ. Mặc dù nền
kinh tế nước ta đã đạt được rất nhiều thành tựu trong thời gian qua nhưng thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam vẫn
thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Vấn đề thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vẫn phải được xem là
nhiệm vụ hàng đầu trong giai đoạn hiện nay. Kinh tế tập thể từ trước đến nay đóng góp rất nhỏ vào sự tăng trưởng của
nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy, việc phát huy vai trò của hình thức sở hữu này cần phải được quan tâm thực hiện bằng
cách, phát triển các mô hình hợp tác xã kiểu mới hoạt động theo luật hợp tác xã. Phải xây dựng được một cơ chế chính
sách phù hợp nhằm phát triển các hợp tác xã cho phù hợp với trình độ sản xuất hiện nay là phải chuyển đổi mô hình sản
xuất kinh doanh nhất là các hợp tác xã nông nghiệp, các mô hình hợp tác xã dịch vụ, giao thông vận tải, môi
trường….cũng phải được mở rộng về quy mô và nâng cao trình độ quản lý vấn đề này đòi hỏi phải có giải pháp chiến
lược cùng với việc nâng cao nhận thức cho nhân dân, nếu không nền nông nghiệp Việt Nam vẫn mãi chỉ là một nền nông
nghiệp lạc hậu, manh mún, nhỏ lẻ. Đối với các hợi tác xã dịch vụ, thương mại, giao thông vận tải, môi trường… cũng
phải đổi mới để phù hợp với cơ chế thị trường và xu thế hội nhập hiện nay. Có như vậy kinh tế tập thể cùng với kinh tế
nhà nước mới ngày càng trở thành nền tảng cho nền kinh tế nước ta.
Ba là, phát triển quy mô sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân. Những năm gần đây
dưới tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới hình thức sở hữu tư nhân lộ ra những hạn chế rất lớn, đó là năng lực cạnh
tranh và khả năng thích nghi với sự biến động của thị trường. Theo thống kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam số lượng các doanh nghiệp tư nhân phá sản năm 2012 là 58.128 doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp phá sản gia
21
tăng chóng mặt. Tính đến ngày 1-4-2012 Việt Nam chỉ còn 312.600 doanh nghiệp đang hoạt động trong tổng số trên
694.000 doanh nghiệp thành lập kể từ khi có Luật doanh nghiệp.
Việt Nam đang đứng trước thực tế thiếu hụt doanh nghiệp có quy mô vừa khi loại hình này chỉ chiếm 2,1% trong
tổng lao động toàn quốc. Đặc biệt, khối doanh nghiệp vừa của của Việt Nam là khu vực này thường có xu hướng thu hẹp
quy mô lao động, ít khi phát triển lên được thành các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn về lao động. Vì vậy, việc hỗ trợ về
vốn, ưu đãi giảm thuế miễn thuế, cho các doanh nghiệp tư nhân cần phải được thực hiện để giúp các doanh nghiệp tư
nhân mở rộng sản xuất, tăng sức cạnh tranh. Phải quan tâm đào tạo đội ngũ doanh nhân giỏi để họ thích nghi với xu thế
toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, tránh tình trạng, nóng vội, ăn sổi, không quan tâm đến chất lượng hàng hóa dịch vụ, làm
mất uy tín và không thể đứng vững khi có sự biến động của thị trường.
Bốn là, kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo.
Thừa nhận và tạo điều kiện cho mọi hình thức sở hữu, mọi thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển, song cần
phân biệt rõ mỗi hình thức sở hữu trong hệ thống quan hệ sở hữu cũng như vai trò của các thành phần kinh tế trong nền
kinh tế. Trong các hình thức sở hữu, sở hữu nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước có vai trò rất quan trọng. Nó hỗ trợ,
thúc đẩy các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế khác phát triển và là nhân tố kết nối để thiết lập mối quan hệ giữa
các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế bảo đảm quá trình tái sản xuất xã hội đạt tăng trưởng cao. Vai trò của sở hữu
nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước còn góp phần hướng sự phát triển của sở hữu tư bản tư nhân vào mục tiêu xây
22
dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo sẽ hướng nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
4.2. Những giải pháp nhằm phát huy vai trò của các hình thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để các hình thức sở hữu, các thành
phần kinh tế phát triển nhanh và bền vững, trước hết cần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Muốn vậy, cần nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường
sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện của Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế. Đảng phải đưa ra được chủ trương, đường lối bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh
tế, giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường.
Hai là, không phân biệt đối xử giữa các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Đối xử bình đẳng không có
nghĩa là bình quân, vì mỗi hình thức sở hữu có một vị trí, vai trò riêng trong nền kinh tế. Vì vậy, việc tạo lập chính sách
hợp lý giúp mỗi hình thức sở hữu phát huy được vai trò của mình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Sở hữu nhà nước
có thể được ưu tiên trong các lĩnh vực mang tính vĩ mô (như y tế, giáo dục, quốc phòng, an ninh). Còn sở hữu tư nhân sẽ
được ưu tiên trong các lĩnh vực nhu cầu vốn ít, thu hồi vốn nhanh và cần đẩy nhanh về mặt tiến độ. Còn sở hữu tập thể mà
trọng tâm là các hợp tác xã thì cần được hỗ trợ phát triển sản xuất ở nông thôn. Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu mà
các chủ sở hữu chủ động góp vốn kinh doanh nhằm thu lợi nhuận; nó cần được ưu tiên khi huy động nguồn vốn trong
dân, huy động sự sáng tạo trong quản lý.
23
Trong mỗi thời điểm cần phải có những giải pháp thích hợp nhằm giải quyết những vấn đề mới nảy sinh do tác
động của quá trình toàn cầu hóa gây ra, đồng thời bảo đảm cho các hình thức sở hữu được đối xử bình đẳng trong một
môi trường minh bạch và lành mạnh.
Ba là, cần nhanh chóng thực hiện chế độ quản lý công ty đối với tất cả các doanh nghiệp nhà nước. Phải đẩy
mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung
vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực
công ích… Việc hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực là cần thiết, nhưng nên thực hiện một cách
thận trọng và bảo đảm tính vừa sức. Phải tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước ra khỏi chức năng quản lý
kinh doanh của doanh nghiệp. Tách hệ thống hành chính ra khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp. Đối với những doanh
nghiệp xét thấy không cần thiết hoặc thua lỗ kéo dài, không có khả năng vươn lên, thì chuyển sang hình thức sở hữu khác,
cho thuê, bán khoán hoặc giải thể. Cần phải nâng cao tính hạch toán, tính chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp.
Bốn là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu ở Việt Nam. Đối với vấn đề sở hữu chúng ta cần: Hoàn
thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Các nguồn lực xã hội cần được phân bổ theo cơ chế thị trường và chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế của Nhà nước để bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội. Chính sách phân phối và phân phối
lại phải bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, của người lao động và của doanh nghiệp; phải tạo động lực cho người lao
24
động hăng say sản xuất, kinh doanh. Bổ sung và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền sở hữu nhằm giúp cho
mỗi hình thức sở hữu phát huy được vai trò quan trọng của mình.
Năm là, khuyến khích các chủ sở hữu kết hợp với nhau trong sản xuất kinh doanh nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển. Để khuyến khích các chủ sở hữu hợp tác kinh doanh cần phải quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên
tham gia, khi có tranh chấp xảy ra thì cần phải có chế tài để bảo vệ lợi ích chính đáng của người bị hại và có giải pháp xử
lý thích đáng với những người gây tổn hại tới lợi ích của người khác cũng như lợi ích của tập thể, của Nhà nước. Phải
khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, không có trọng tâm, trọng điểm.
Kết luận chương 4
Hình thức sở hữu, thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh là những vấn đề có quan hệ mật thiết hữu cơ
với nhau.
Trong nền kinh tế quốc dân, các thành phần kinh tế được sắp xếp theo hình thức sở hữu. Có bao nhiêu hình thức
sở hữu thì có bấy nhiêu thành phần kinh tế, ứng với một hình thức sở hữu thì có một thành phần kinh tế. Khi ta nói sở hữu
là nói mặt quyết định nhất của quan hệ sản xuất để phân biệt với lực lượng sản xuất. Khi nói thành phần kinh tế thì bao
hàm cả hình thức sở hữu và lực lượng sản xuất kèm theo. Nói cách khác, mỗi thành phần kinh tế là một phương thức sản
xuất theo một nghĩa hẹp, thì ở đó có cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mà cái đặc trưng nhất là hình thức sở hữu.
Trong thực tiễn các hình thức tổ chức kinh doanh rất đa dạng và vô cùng phong phú được biểu hiện bằng các
công ty, các xí nghiệp, các hợp tác xã, các trang trại, các cửa hàn, với rất nhiều hình thức cụ thể với nhiều tên gọi khác
25