Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tóm tắt tiếng việt nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc thái ở việt nam có cùng đề tài với truyện thơ nôm dân tộc kinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.76 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu sinh chọn đề tài: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở
Việt Nam có cùng đề tài với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh vì 4 lí do (luận án viết 2,5
trang) gồm:
- Truyện thơ là thể loại khá quan trọng của văn học nước nhà. Thành tựu
truyện thơ kết tinh từ “máu chảy” nơi ‘đầu ngọn bút”, khiến “nước mắt thấm trên
tờ giấy” của toàn dân tộc Việt Nam. Nói tới truyện thơ, chúng ta cần kể đến
truyện thơ Nôm và truyện thơ dân tộc Thái.
- Tộc người Thái có dân số đông thứ 3 ở miền núi. Văn học Thái có quá trình
hình thành, vận động vừa độc lập tương đối, vừa là sản phẩm của tổng hòa các yếu
tố nội, ngoại sinh. Trong vốn văn hóa, văn nghệ của dân tộc Thái, truyện thơ là
một thể loại khá đặc sắc. Ngoài một số tác phẩm truyền miệng, truyện thơ có
nhiều sáng tác bằng chữ viết nhưng chưa được quan tâm, nghiên cứu.
- Truyện thơ Nôm là thể loại quan trọng, có vai trò trụ cột cho nền văn học
dân tộc Kinh. Điểm chung của thể loại truyện thơ Nôm và truyện thơ dân tộc Thái là
cùng có yếu tố hạt nhân - truyện và hình thức diễn đạt - thơ. Vấn đề so sánh tương đồng
và khác biệt của một số truyện thơ Nôm với một số truyện thơ Thái ít ai tìm hiểu. Đây là
lí do cơ bản để chúng tôi lựa chọn đề tài nói trên.
- Truyện thơ được đưa vào giảng dạy ở chương trình phổ thông. Việc nghiên
cứu đề tài này góp phần cung cấp cho Nghiên cứu sinh và người học có thêm vốn
hiểu biết về văn học địa phương. Thêm nữa, bản thân Nghiên cứu sinh có quá
trình sống lâu dài trên mảnh đất Tây Bắc, cái nôi của truyện thơ. Những yếu tố đó
tạo điều kiện thuận lợi để Nghiên cứu sinh đi vào nghiên cứu so sánh một số
truyện thơ đã đề cập.
2. Lịch sử vấn đề
Trong tổng quan nghiên cứu đề tài, luận án chúng tôi trình bày 3 vấn đề (gồm 15
trang):
- Điểm qua tư liệu truyện thơ Thái dùng để nghiên cứu.
- Các phương diện đã được nghiên cứu của truyện thơ các dân tộc ít người và
truyện thơ dân tộc Thái.


- Những ý kiến đề cập mối tương tác giữa truyện thơ dân tộc Thái với truyện thơ
Nôm dân tộc Kinh.
Chúng tôi chú ý tới 3 vấn đề sau:
2.1. Lịch sử văn bản
- Luận án nghiên cứu 5 truyện thơ Nôm và 5 truyện thơ Thái.
- Để thực hiện luận án, Nghiên cứu sinh cùng ba cộng sự đã dịch 3 truyện thơ Thái,
gồm: Trạng nguyên, Trạng Tư, Ngu háu.
2.2. Truyện thơ các dân tộc ít người và truyện thơ dân tộc Thái
2.2.1. Truyện thơ
1
Bàn về các phương diện, truyện thơ thu hút mối quan tâm của các nhà nghiên
cứu tiêu biểu như Đinh Gia Khánh, Võ Quang Nhơn, Đặng Nghiêm Vạn, Phan Đăng
Nhật, Lê Trường Phát, Nguyễn Xuân Kính, Cầm Cường, Nông Quốc Chấn, Vũ Anh
Tuấn…
- Vị trí của truyện thơ:
Võ Quang Nhơn chỉ ra truyện thơ ở các dân tộc ít người không xuất hiện riêng lẻ
mà trở thành “một hiện tượng”, là “sự kiện đặc biệt” nổi bật.
Nhà nghiên cứu N.I.Niculin nhận định rằng truyện thơ là “tài sản vô cùng
quý báu của nền văn học dân tộc Việt Nam. Truyện thơ đã làm cho thơ ca Việt
Nam khác biệt hẳn so với truyền thống ở Viễn đông mà nó gắn bó mật thiết”
Phan Đăng Nhật tổng kết “nếu như người Kinh có truyện thơ Nôm thì các dân tộc
thiểu số có một loại hình tương đương: Truyện thơ”.
Nông Quốc Chấn giới thiệu chung về truyện thơ Tày Nùng đã xếp truyện thơ
thuộc về “nền văn học cổ điển của Tày Nùng”.
- Về loại hình của truyện thơ:
Vũ Tiến Quỳnh đi truy tìm nguồn gốc văn hóa xã hội, phong cách thể loại truyện
thơ và khẳng định “Truyện thơ - một dấu nối giữa văn học truyền miệng và văn học
thành văn”.
Đặng Nghiêm Vạn nhấn mạnh, truyện thơ “là loại hình mang tính chuyển tiếp,
không dừng lại ở phạm trù dân gian, tuy còn đượm nhiều hương sắc, mà đá qua phạm

trù bác học”.
Đây là những cơ sở khoa học để xem xét mối tương tác giữa truyện thơ Nôm dân
tộc Kinh và truyện thơ dân tộc Thái.
- Về hình thức nghệ thuật:
Lê Trường Phát chuyên chú về cách thức tổ chức trong truyện thơ khẳng định:
“ngoài “kết thúc có hậu” như trên, truyện thơ còn xây dựng kiểu kết thúc khác, một kiểu
cốt truyện được cấu trúc theo mô hình khác.”
- Về đề tài của truyện thơ:
Phan Đăng Nhật nêu ý kiến: “Về mặt nội dung, vấn đề trung tâm của các truyện
tình yêu là cuộc sống đau khổ của những trai gái bị thất bại trong tình yêu do xã hội cũ
gây nên”.
Hoàng Tiến Tựu nhận xét: “Về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật, truyện thơ
về đề tài tình yêu các dân tộc ít người đã kế thừa và phát triển truyền thống của thơ ca
trữ tình, đặc biệt là dân ca tình yêu của các dân tộc”.
Các ý kiến trên đều thống nhất ở một điểm rằng, truyện thơ có hai đề tài chủ yếu:
Tình yêu lứa đôi thủy chung và tố cáo xã hội ngột ngạt, lạc hậu.
2.2.2. Truyện thơ dân tộc Thái
- Phần này, chúng tôi chú ý tới các nhận định bàn riêng về truyện thơ Thái.
Nhóm tác giả biên soạn Từ điển Văn học tổng kết: Truyện thơ dân tộc Thái tồn tại
dưới hai hình thức: truyền miệng và viết, diễn đạt bằng văn vần, có cốt truyện, của dân
tộc Thái ở Việt Nam… Truyện thơ Thái có quy mô hơn hẳn về dung lượng tác phẩm, về
2
tầm khái quát các vấn đề xã hội được phản ánh, về nghệ thuật xây dựng hình tượng văn
học.
Lực lượng học giả làm công tác nghiên cứu chuyên biệt về văn học Thái còn rất
mỏng, thành tựu cũng khá khiêm tốn. Cuốn sách văn học chuyên biệt đầu tiên có tính
chất nghiên cứu về truyện thơ dân tộc Thái mang tên Tìm hiểu văn học dân tộc Thái Việt
Nam của Cầm Cường. Ông quan niệm “truyện thơ, thơ ca nói chung - sự nở rộ của văn
học thành văn của dân tộc Thái”.
- Sự gặp gỡ trong ý kiến của Vũ Tiến Quỳnh, Đặng Nghiêm Vạn, Cầm Cường, cho

thấy cần xem xét lại nhận thức xếp truyện thơ là thể loại thuộc văn học dân gian. Thực
chất nhiều truyện thơ mang dấu ấn văn học viết rõ rệt.
- Nguồn gốc cốt truyện truyện thơ:
Lê Trường Phát khẳng định “có nhiều tác phẩm văn học Thái vay mượn cốt truyện
của các dân tộc anh em”.
Cầm Cường đã chia những truyện thơ Thái là đối tượng nghiên cứu của luận án
thành 2 loại. Truyện thơ có nguồn gốc bản tộc gồm 2 tác phẩm: Ý Nọi - Náng Xưa, Ú
Thêm. Truyện thơ có nguồn gốc ngoại bản tộc gồm 3 tác phẩm: Trạng nguyên, Trạng
Tư, Ngú háu.
2.3. Mối tương tác giữa truyện thơ dân tộc Thái với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh
- Phần này, Nghiên cứu sinh trình bày, đánh giá những ý kiến bàn về sự tương tác,
giao lưu, so sánh truyện thơ Thái với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh.
Trong khoảng vài chục năm trở lại đây, việc nghiên cứu so sánh truyện Nôm dân
tộc Kinh với truyện thơ các dân tộc ít người được giới nghiên cứu quan tâm, xem xét.
Nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật cho biết: “Giữa truyện thơ miền núi và truyện
Nôm miền xuôi có những nét tương đồng về các mặt: tư tưởng chủ đạo, xây dựng nhân
vật, kết cấu tác phẩm và các thủ pháp nghệ thuật thường dùng”.
Nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch đồng tình với ý kiến trên, nhìn từ phương diện
nghệ thuật: “truyện Nôm của người Việt dần dần đã xâm nhập vào cả thể loại truyện thơ
Tày, Nùng, Thái để tạo nên những truyện thơ mang dáng dấp của truyện Nôm hay nói
đúng hơn là chịu ảnh hưởng của truyện Nôm cả về cấu trúc tư tưởng và nghệ thuật”.
Nhà nghiên cứu Lê Trường Phát nêu ra ý kiến có tính chất định hướng, khẳng định
tính sáng tạo độc lập của tác giả Thái như sau: Điểm độc đáo dễ thấy ở đây là “truyện
thơ này không hẳn đã là dịch phẩm của truyện Nôm kia, từ truyện Nôm này đến truyện
thơ kia đã có khoảng cách khá xa về cốt truyện, các tình tiết […] về tính dân tộc của
hình tượng nhân vật, của ngôn ngữ nhân vật”.
- Lí giải về nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tương đồng và khác biệt giữa truyện
thơ với truyện thơ Nôm, có ý kiến cho rằng tác giả truyện thơ dân tộc ít người đã kế
thừa và sáng tạo từ các nền văn học lân cận.
Đi tìm câu trả lời cho hiện tượng “cặp đôi" của truyện thơ và truyện Nôm, Đinh

Gia Khánh đưa ra hai giả thiết. “Có thể các nho sĩ, trí thức, các tu sĩ dân tộc dựa vào vốn
truyện thơ của dân tộc Việt ở dưới xuôi lên hoặc du nhập các truyện của Ấn Độ, của
3
Lào, của Trung Quốc vào để xây dựng nên những truyện thơ của dân tộc mình… Những
tác phẩm đó được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, tuy là khuyết danh nhưng đã mang
dấu ấn của sáng tác cá nhân rõ rệt, ít nhiều mang phong cách bác học tiếp cận với văn
học thành văn” song có thể “truyện thơ chỉ là sự sao chép hay chuyển thể từ tác phẩm
truyện Nôm Kinh sang truyện thơ các dân tộc thiểu số”.
N.I.Nikulin nhận định, “những kiểu truyện tương tự như truyện Nôm có thể tìm
thấy trong những trường ca dân gian của các dân tộc sinh sống ở Việt Nam như Mường,
Nùng, Tày, Thái…”.
Sự giống nhau còn được giải thích từ hiện tượng đồng loại hình. Truyện thơ được
sinh ra bởi các dân tộc Đông Nam Á cũng như các dân tộc ít người ở Việt Nam cùng có
“nguồn gốc nhân chủng, nguồn gốc dân tộc, lịch sử, ngôn ngữ, cho đến kinh tế, văn hóa,
phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng”. Có thể, quá trình thiên di và giao lưu văn hóa
tạo ra hiện tượng hòa đồng.
* Từ tổng quan nói, Nghiên cứu sinh nhận thấy:
Những công trình trên chủ yếu đưa ra phán đoán tản mạn, sơ lược về đề tài, nội
dung, nghệ thuật, điểm giống, khác nhau ở phương diện cốt truyện giữa truyện Nôm
Kinh và truyện thơ các dân tộc ít người (trong đó có truyện thơ Thái) nhưng chưa có học
giả nào công phu chứng minh, làm rõ, không có công trình chuyên biệt nào đi sâu khảo
sát, phân tích, so sánh cụ thể các nhóm truyện nhằm tìm ra kết luận khoa học xác đáng.
Bởi vậy, trên cơ sở tổng kết ý kiến có tính chất định hướng của các nhà nghiên cứu, phê
bình, chúng tôi coi đó là thành tựu cần được kế thừa và là những gợi ý quý báu để tiến
hành Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam có cùng đề tài với
truyện thơ Nôm dân tộc Kinh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung khảo sát 5 truyện thơ dân tộc Thái là: Trạng Tư, Trạng nguyên, Ý
Nọi - Náng Xưa, Ngu háu, Ú Thêm, so sánh với 5 truyện thơ Nôm: Hoàng Trừu, Tống
Trân - Cúc Hoa, Cái Tấm - Cái Cám, Thạch Sanh, Truyện Từ Thức…

4. Nhiệm vụ và giới hạn của đề tài
4.1. Nhiệm vụ của đề tài
Nghiên cứu sinh có 3 nhiệm vụ chính, gồm:
- Tìm hiểu những vấn đề chung liên quan đến truyện thơ và truyện thơ Thái.
- Tìm hiểu nội dung, nghệ thuật một số truyện thơ Thái.
- So sánh, lí giải nguyên nhân điểm giống và khác nhau giữa truyện thơ Thái và
truyện thơ Nôm dân tộc Kinh được đề cập.
4.2. Giới hạn của đề tài
Đề tài chỉ nghiên cứu 5 truyện thơ của dân tộc Thái và 5 truyện thơ Nôm dân tộc
Kinh nói trên chứ không tập trung tới tác phẩm khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
4
Để nghiên cứu đề tài, Nghiên cứu sinh dùng nhiều phương pháp, trong đó, có
4 phương pháp chính, gồm:
5.1. Phương pháp hệ thống
5.2. Phương pháp liên ngành
5.3. Phương pháp so sánh
5.4. Phương pháp loại hình
6. Đóng góp của luận án
Thực hiện luận án, Nghiên cứu sinh kì vọng sẽ đóng góp được những phương
diện sau:
- Tổng quan về 5 truyện thơ dân tộc Thái cùng đề tài với truyện thơ Nôm
dân tộc Kinh.
- Đánh giá và khảo sát một cách hệ thống để phác thảo diện mạo truyện thơ
dân tộc Thái cùng đề tài với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh.
- Đánh giá nội dung và nghệ thuật của một số truyện thơ Thái cùng đề tài
với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh.
- So sánh điểm tương đồng và khác biệt giữa truyện thơ dân tộc Thái với
truyện thơ Nôm dân tộc Kinh.
- Cung cấp tư liệu, gồm bản dịch truyện: Trạng nguyên, Trạng Tư, Ngu háu

(do Nghiên cứu sinh cùng các cộng là trí thức bản tộc đã tiến hành dịch, biên
soạn).
7. Cấu trúc của luận án
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRUYỆN THƠ DÂN TỘC THÁI
CÓ CÙNG ĐỀ TÀI VỚI TRUYỆN THƠ NÔM DÂN TỘC KINH
(Trong luận án, toàn chương 38 trang, trình bày các vấn đề: Truyện thơ, đề
tài và cốt truyện; truyện thơ Nôm dân tộc Kinh; truyện thơ dân tộc Thái; mối
tương tác giữa truyện thơ Nôm và truyện thơ Thái.)
1.1. Truyện thơ, đề tài và cốt truyện
Phần này, Nghiên cứu sinh trình bày các vấn đề cơ sở bao gồm: truyện thơ,
đề tài và cốt truyện (gồm 6 trang).
1.1.1. Truyện thơ
- Truyện thơ thuộc loại hình tự sự. Truyện có 2 hạt nhân quan trọng: cốt
truyện và nhân vật, khi diễn đạt có hai hình thức là văn xuôi và văn vần. Trong
luận án này, chúng tôi nghiên cứu truyện văn vần.
- Truyện văn vần dùng văn tự để thể hiện nội dung và nâng lên thành nghệ
thuật. Vì thế, luận án của chúng tôi nghiên cứu là truyện văn vần nghệ thuật mà
các nhà nghiên cứu gọi là truyện thơ.
5
- Truyện thơ thuộc phương thức tự sự, có yếu tố hạt nhân là truyện. Truyện là
“tác phẩm văn học miêu tả tính cách nhân vật và diễn biến của sự kiện thông qua
lời kể của nhà văn” Hình thức biểu hiện của truyện thơ là thơ. Truyện được kể
dưới hình thức thơ. Thơ là “hình thức nghệ thuật dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh và
có nhịp điệu để thể hiện nội dung một cách hàm súc”. Hai phương thức tự sự, trữ
tình kết hợp với nhau trong cùng một thể loại truyện thơ đã tạo nên điểm đặc biệt,
không có ở các thể loại khác: vừa phản ánh đời sống khách quan lại vừa biểu hiện
trực tiếp thế giới chủ quan con người. Truyện chú ý tới tình tiết, thơ tập trung
miêu tả nội tâm.
* Như vậy, truyện thơ có thể hiểu như sau: Truyện thơ là những sáng tác tự

sự dưới hình thức thơ ca trường thiên, tồn tại bằng chữ viết hoặc không có chữ
viết, là hiện tượng trung gian giữa văn học dân gian và văn học thành văn.
1.1.2. Đề tài và cốt truyện
Vì luận án lấy cơ sở là đề tài làm trụ để so sánh và dùng cốt truyện biểu thị đề
tài nên chúng tôi đề cập đến kiến thức công cụ gồm hai vấn đề: đề tài và cốt
truyện.
- Đề tài là thuật ngữ dùng để chỉ phạm vi các sự kiện tạo nên cơ sở chất liệu
đời sống của tác phẩm nghệ thuật. Khái quát hơn, đề tài thể hiện phạm vi miêu tả
trực tiếp của tác phẩm nghệ thuật.
- Ở tác phẩm văn chương, đề tài là phương diện tường minh trên bề mặt câu
chữ, chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng
tác văn học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm. Có thể xác
định đề tài văn học theo giới hạn bề ngoài của phạm vi hiện thực được phản ánh
trong tác phẩm.
- Truyện thơ của các dân tộc ít người có ba đề tài chính: tình yêu, gia đình,
xã hội. Các đề tài này vừa có liên kết bề ngoài, vừa có mối liên kết bên trong,
vừa thể hiện phạm vi hiện thực được phản ánh. Ba đề tài đó xâm nhập vào
nhau, khó tách bạch.
- Đề tài luôn luôn đi kèm với nội dung cấu trúc của tác phẩm. Với tác phẩm
tự sự, nội dung cấu trúc bao giờ cũng gồm ba phương diện chính: Cốt truyện,
nhân vật, hình thức diễn đạt. Từng phương diện trên có những nội hàm riêng.
- Cốt truyện là hệ thống các biến cố trong trật tự nghệ thuật đã được lựa chọn
sắp xếp và chính là môi trường để chuyển tải giá trị nội dung và nghệ thuật. Kết
cấu đó của truyện thơ thường ở các dạng chủ yếu: trật tự tuyến tính; xâu chuỗi, lắp
ghép; vòng tròn.
1.2. Truyện thơ Nôm dân tộc Kinh
6
Truyện thơ Nôm là đối tượng so sánh với truyện thơ Thái, song đã có nhiều
công trình chuyên biệt về nó nên trong luận án, chúng tôi chỉ ngắn gọn 5 vấn đề (3
trang).

- Truyện thơ Nôm là một trong những thể loại được quan tâm đặc biệt trong
văn học trung đại Việt Nam. Truyện thơ Nôm ra đời trong điều kiện lịch sử - xã
hội nước ta từ cuối thế kỉ XV đến thế kỉ XVIII.
- Sự ra đời của truyện thơ Nôm gắn liền với các tiền đề văn hoá, nghệ thuật.
Các loại hình dân gian phát triển mạnh mẽ nhất như nghệ thuật sân khấu cổ
truyền, phù điêu dân gian, văn học dân gian được đề cao.
- Về mặt cốt truyện, liên quan chặt chẽ tới luồng gió dân chủ, thể loại tự sự
dân gian có sẵn - truyện cổ tích trở thành nguồn cội của truyện Nôm.
- Truyện thơ Nôm không đơn thuần là kết quả nội sinh của văn hóa tộc người
Kinh ở Việt Nam mà nó còn được ra đời bởi sự giao lưu văn hóa. Sự hình thành
và phát triển của thể loại truyện Nôm không thể tách rời quá trình phát triển của
văn học chữ Nôm và văn xuôi, văn vần nói riêng cũng như quá trình hình thành
và phát triển của loại hình tự sự trong văn học Việt Nam nói chung.
- Truyện thơ Nôm xuất phát từ ba nguồn gốc chính: tiểu thuyết thị dân Trung
Quốc, truyện dân gian Việt Nam, thực tế cuộc sống cá nhân.
1.3. Truyện thơ dân tộc Thái
Đây là đối tượng trung tâm của luận án, Nghiên cứu sinh sẽ trình bày kĩ hơn
phần trước, bao gồm các phương diện: Lịch sử văn hóa xã hội tộc người Thái;
hiện trạng truyện thơ dân tộc Thái (tổng cộng 9 trang).
1.3.1. Lịch sử văn hóa xã hội tộc người Thái
1.3.1.1. Lịch sử tộc người Thái và địa lí tự nhiên
Người Thái chia thành hai nhóm chính, gồm Tay Khao (Thái Trắng), Tay
Đăm (Thái Đen). Người Thái dần di cư về phía nam và tây nam lãnh thổ Trung
Quốc “đến Việt Nam trong thời gian từ thế kỉ VII đến thế kỉ XIII”. Khi định cư tại
Việt Nam, người Thái thiết lập, tổ chức xã hội khá chặt chẽ theo hình thái ý thức
hệ phong kiến.
1.3.1.2. Cấu trúc xã hội
Trên lãnh thổ Việt Nam, người Thái cư trú ở một địa bàn khá rộng, liền từ
một dải bao gồm cả phần Tây Bắc Bắc Bộ, miền tây Thanh Hóa và Nghệ An.
- Kinh tế

Người Thái sinh sống trên địa bàn miền núi, địa hình sản xuất chủ yếu là
nương rẫy. Nghề trồng lúa nước vốn được coi là người bạn chung thủy, gắn bó với
mỗi gia đình dân tộc Thái.
- Kết cấu giai tầng xã hội
Trước Cách mạng tháng Tám, tộc Thái chia thành hai tầng lớp. Bộ máy cai trị
hàng châu của Thái Đen ở Tây Bắc khá cồng kềnh bao gồm các chức dịch: pha
7
nha, phìa tạo, mo lang, chang. Giai cấp bị trị là cuông nhốc. Họ nắm toàn bộ lợi
tức của châu và có quy định rất rõ ràng trong luật tục.
- Hôn nhân
Với hôn nhân, ở chế độ phìa tạo, quan hệ thị tộc mẫu hệ chi phối thì việc hôn
nhân phải được hai gia đình cho phép và diễn ra theo hai khía cạnh: hôn nhân phải
môn đăng hộ đối; hôn nhân cư trú bên nhà vợ (tục ở quản).
- Tín ngưỡng
Người Thái gắn vương quyền với thần quyền. Họ theo nếp sống đa thần, tất
cả trên trời dưới nước đều có ma cai quản.
1.3.1.3. Văn tự, văn học
- Văn tự
Do điều kiện tư liệu cụ thể nghiên cứu về lịch sử dân tộc này còn hạn chế nên
cho đến nay vấn đề nguồn gốc văn tự Thái vẫn đang gây nhiều tranh cãi. Chữ Thái
xuất hiện tuy gần thời điểm ra đời của chữ Nôm nhưng lại không giống với dạng
chữ tượng hình. Hiện nay chữ Thái có bảy cách viết nhưng rất thống nhất về
nguyên tắc cấu tạo.
- Văn học
Kho tàng văn học của dân tộc Thái phong phú đa dạng về thể loại. Các thể
loại hoàn toàn dân gian như thần thoại, cổ tích, lời có vần cha ông truyền lại hiện
đã được dịch sang chữ quốc ngữ. Truyện thơ được đánh giá là thể loại có vị trí
quan trọng, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của văn học Thái trên cả hai phương
diện văn tự và nghệ thuật văn chương.
1.3.2. Hiện trạng truyện thơ dân tộc Thái

Truyện thơ là một trong những thể loại văn học của người Thái có số lượng
sáng tác đông đảo và dài hơi nhất.
So với các dân tộc thiểu số khác, số lượng truyện thơ của dân tộc Thái khá
phong phú (khoảng 300 tác phẩm), trong đó chỉ có 6 tác phẩm được dịch ra tiếng
Việt. Giống như hệ thống truyện thơ Nôm bình dân của dân tộc Kinh, các sáng tác
truyện thơ Thái đều khuyết danh.
Truyện thơ Thái chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của loại hình diễn xướng - khắp
(hát). Truyện thơ khi diễn xướng được hát theo điệu khắp xư.
Về nguồn gốc cốt truyện, truyện thơ Thái ở Việt Nam được sáng tác từ 2
nguồn cơ bản: dựa trên truyện cổ dân gian Thái; dựa vào cốt truyện của nền văn
học dân tộc Kinh, Lào, Trung Hoa…
Về đề tài sáng tác, truyện thơ Thái Tây Bắc chú trọng tới 3 đề tài chính: đề tài
tình yêu đôi lứa, đấu tranh chinh phục tự nhiên, gia đình - xã hội. Kết cấu cốt
truyện trong truyện thơ Thái có thể chia làm hai mô hình: gặp gỡ - tai biến - đoàn
tụ và xâu chuỗi, lắp ghép.
8
1.4. Mối tương tác giữa truyện thơ Nôm và truyện thơ Thái
Phần này chúng tôi trình bày sự giao lưu về đề tài của truyện thơ Thái và
truyện thơ Nôm.
- Do hiện trạng văn bản, luận án chọn 5 truyện thơ Thái để khảo sát. Trong 5
truyện đó thì 2 truyện có đề tài mang tính chất phổ biến toàn thế giới. Cách thức
sáng tác là bám sát đề tài, sau đó tác giả thoát khỏi đề tài mà sáng tạo ra cốt
truyện của người Thái.
- Mở rộng phạm vi sáng tác, mong muốn được giao lưu văn hóa, người Thái
còn dựa vào cốt truyện có sẵn trong truyện thơ Nôm của người Kinh. Với lối kế
thừa này, tác giả thường bám sát cốt truyện truyện thơ Nôm sau đó sáng tạo bằng
cách thêm tình tiết, đảo trật tự tình tiết, thổi vào đó luồng tư tưởng, văn hóa của
người Thái khiến tác phẩm mang tinh thần mới.
- Ngoài những cách thức trên, truyện thơ Nôm của người Kinh và truyện thơ
của người Thái còn có hiện tượng sáng tác dựa trên những mô típ chung.

1.5. Giới thiệu nội dung một số truyện thơ Thái và truyện thơ Nôm liên
quan đến đề tài
Chúng tôi giới thiệu cặp đôi truyện thơ Nôm – truyện thơ Thái, trong đó nhấn
mạnh hơn về đối tượng trung tâm - truyện thơ Thái, gồm 5 mục.
1.5.1. Truyện thơ Nôm Thạch Sanh và truyện thơ Thái Ngu háu
1.5.2. Truyện thơ Nôm Cái Tấm - Cái Cám và truyện thơ Thái Ý Nọi -
Nàng Xưa
1.5.3. Truyện thơ Nôm Từ Thức và truyện thơ Thái Ú Thêm
1.5.4. Truyện thơ Nôm Tống Trân - Cúc Hoa và truyện thơ Thái Trạng
nguyên
1.5.5. Truyện thơ Nôm Hoàng Trừu và truyện thơ Thái Trạng Tư
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
- Truyện thơ - thuật ngữ định danh dùng để chỉ một thể loại văn học của
người Kinh; các dân tộc ít người trong đó có người Thái trên lãnh thổ Việt Nam.
Một số truyện thơ của dân tộc Thái và truyện thơ Nôm của dân tộc Kinh có cùng
đề tài.
- Đề tài là khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh
trực tiếp trong sáng tác văn học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung
tác phẩm. Đề tài muốn được triển khai cần phải thể hiện qua nội dung cấu trúc.
- Truyện thơ Nôm của dân tộc Kinh hay truyện thơ của dân tộc Thái đều có
chung yếu tố hạt nhân là truyện (tự sự), phương thức biểu hiện là thơ (trữ tình).
9
Là truyện, thể loại truyện thơ luôn đảm bảo yếu tố sơ đẳng nhất nhưng cốt lõi
nhất: cốt truyện. Cốt truyện không được kể bằng văn xuôi mà kể bằng văn vần thì
được gọi là truyện thơ.
- Truyện thơ Thái vận động trong môi trường lịch sử, điều kiện tự nhiên, văn
hóa tộc người miền núi đầy màu sắc huyền thoại. Quá trình hình thành vận động
truyện thơ Nôm dân tộc Kinh lại có nhiều điểm tương đồng khác biệt. Những yếu
tố dung dưỡng ấy góp phần kiến tạo nên các điểm chung đồng thời hình thành nét
riêng giữa các sáng tác của hai dân tộc.

- Sự giống và khác nhau nói trên được người đọc nhận thấy rõ nhất ở phương
diện đề tài, cốt truyện. Điểm giống nhau cơ bản là cùng có kết cấu ba phần, thời
gian tuyến tính một chiều, hệ thống nhân vật chính đơn tính cách, có nguồn gốc từ
truyện dân gian. Sự khác biệt nằm ở chỗ hệ thống tình tiết, sự kiện nhiều điểm
không trùng khít. Truyện thơ Thái có xuất hiện lối lắp ghép, xâu chuỗi, bên cạnh
những kết thúc tốt đẹp có kết thúc bi kịch, hành trạng nhân vật giàu chất sử thi…
Chương 2
NỘI DUNG CỦA MỘT SỐ TRUYỆN THƠ DÂN TỘC THÁI
CÓ CÙNG ĐỀ TÀI VỚI TRUYỆN THƠ NÔM DÂN TỘC KINH
(Trong Chương 2, chúng tôi trình bày 43 trang về các vấn đề: Khát vọng chinh
phục tự nhiên; khát vọng gia đình - xã hội; khát vọng có con người đẹp)
2.1. Khát vọng chinh phục tự nhiên
(Gồm 2 phần: khát vọng chiến thắng tự nhiên; khát vọng chinh phục tự nhiên
- cách thức bảo vệ bản mường)
2.1.1. Khát vọng chiến thắng tự nhiên
Một số truyện thơ Thái đề cập tới nội dung này là Ngu háu, Trạng nguyên,
Ú Thêm.
- Truyện thơ Ngu háu của dân tộc Thái lại tập trung khắc họa hình tượng
người anh hùng Lưu Vĩnh trong cuộc chiến đấu lẫm liệt mang màu sắc sử thi.
Lưu Vĩnh chiến thắng đá, điều khiển được đá, biến nó thành công cụ, vũ khí
chiến đấu tự giác với Mãng xà tinh. Ở buổi đầu, con người bị các lực lượng tự
nhiên chi phối. Trước sự việc bất bình, bằng tài năng đức độ của mình, Lưu Vĩnh
đã dũng cảm chiến đấu, giết chết Mãng xà hung ác giành lại công chúa. Đây là
giai đoạn con người dần dần thống trị lại tự nhiên, đồng thời gián tiếp đánh đổ
cái xấu của thế lực thần quyền.
Nhân vật Thạch Sanh trong truyện thơ Nôm cùng tên cũng chiến thắng mãng
xà song cuộc chiến công này dường như có sự sắp đặt của Ngọc Hoàng, chiến
thắng được tiên định, ít nhiều thể hiện sự bất lực của con người trước tự nhiên.
Khác với Thạch Sanh, nhân vật Lưu Vĩnh có nguồn gốc xuất thân thường nhân, tài
10

năng của chàng do khổ luyện và do chính cha đẻ dạy dỗ. Giết mãng xà bằng sức
mạnh nội tại của chính con người, mâu thuẫn giữa con người với tự nhiên được
giải quyết. Con người đã đứng trên tự nhiên, khuất phục nó. Cao hơn nữa, truyện
thể hiện sự thách thức của con người trước tự nhiên.
- Truyện thơ Ú Thêm là một luận chứng khẳng định quá trình này. Sống
trên mặt đất, giữa trùng điệp đá và sông lớn cùng những thác nước hung dữ.
Không gian hiểm nguy ấy khiến con người sợ hãi khôn cùng. Ú Thêm, với sức
mạnh của mình khuất phục tự nhiên rồi cải tạo tự nhiên. Trên con đường đó,
người Thái kiêu hãnh tin vào sức mạnh nội tại, khẳng định vị trí của con người
trước thế giới tự nhiên.
2.1.2. Khát vọng chinh phục tự nhiên - cách thức bảo vệ bản mường
- Quá trình chinh phục tự nhiên không chỉ thể hiện khát vọng của người Thái
mà quá trình đó còn là con đường duy nhất để bảo vệ bản mường. Nội dung này
được đề cập rõ nhất trong hai tác phẩm Ngu háu và Trạng nguyên.
- Trong tác phẩm Ngu háu, Mãng xà xuất hiện, cuộc sống của bản mường
như ngàn cân treo sợi tóc. Nhân vật Lưu Vĩnh chiến thắng Mãng xà để bảo vệ sinh
mạng của công chúa và lớn hơn, bản mường tránh được nạn hồng thủy.
- Tác phẩm Trạng nguyên cũng thể hiện nội dung nói trên, qua ba sự kiện:
Thu phục hổ dữ tàn phá bản mường; chiến thắng môi trường nước; giết thuồng
luồng dưới vực sâu.
Sáng tạo bằng cách ghép thêm tình tiết, tác giả Thái đã đưa vào tác phẩm
những nội dung mới so với phạm vi phản ánh ban đầu. Nhân vật chính chinh phục
môi trường cạn và môi trường nước đã thể hiện sự am tường và niềm khát khao
mở rộng hiểu biết, vươn tới thống trị chân trời mới của cộng đồng Thái.
Như vậy, chinh phục tự nhiên là khát vọng tha thiết của người Thái. Do sống
phụ thuộc nhiều vào môi trường tự nhiên nên truyện thơ thường chú ý đến đề tài
này. Chinh phục tự nhiên là nhiệm vụ của mỗi cá nhân vì nó quyết định hạnh phúc
lứa đôi. Chinh phục tự nhiên còn là cách duy nhất để bảo vệ bản mường.
2.2. Khát vọng bảo vệ gia đình - xã hội
(Vấn đề này chia làm 2 phần: khát vọng bảo vệ gia đình; khát vọng bảo vệ xã

hội)
2.2.1. Khát vọng bảo vệ gia đình
- Qua kết quả thống kê, chúng tôi nhận thấy, có 4 trong số 5 truyện thơ Thái
trong Phạm vi nghiên cứu có xuất hiện nội dung này (trừ truyện thơ Trạng Tư).
- Truyện Ý Nọi - Náng Xưa mượn mô típ dì ghẻ - con chồng tập trung phản
ánh bức tranh gia đình. So với truyện Cái Tấm - Cái Cám, quan hệ cha con trong
truyện thơ Thái sâu đậm hơn, mối quan hệ gia đình bền chặt gắn kết hơn. Tác giả
truyện thơ đã cho người đọc thấy môi trường văn hóa gia đình Thái, xã hội mà
quan hệ mẫu hệ đang duy trì, mọi quyền bính tập trung trong tay người vợ.
11
- Truyện Trạng nguyên cho thấy, tầng lớp trên đã thối nát, lại thêm chuyện
hôn nhân gả bán vô nhân ở phạm vi gia đình. Ông Tương - người cha Cúc Hoa đo
tình mẫu tử thông qua lăng kính đồng tiền, lấy số phận người con làm công cụ đổi
chác, mối quan hệ ruột thịt còn bị đổ vỡ huống chi “khác máu tanh lòng”. Chi tiết
cho thấy sự tuột dốc không cứu vãn của xã hội Thái. Vì vậy, cuối tác phẩm tác
phẩm truyện thơ đã để nhân vật bất hạnh hoặc con người lí tưởng được hạnh phúc
viên mãn. Đó là khát vọng, mơ ước của người Thái.
2.2.2. Khát vọng bảo vệ xã hội
- Truyện thơ Ú Thêm lại có phạm vi phản ánh rộng hơn: xã hội đầy biến
động, phức tạp. Tính chất đột biến phức tạp của cuộc sống được thể hiện trước hết
ở hệ thống mâu thuẫn từ xã hội đến gia đình, sự cụ thể hóa của thôn tính, thao
túng quyền lực, ích kỉ hẹp hòi giữa các quốc gia luôn muốn trở thành kẻ mạnh.
- Cuộc sống đầy phức tạp và biến động còn hiện hữu ở cõi phi trần thế
(mường quỷ, mường trời). Pha nha Trời ở mường Xì In là người nắm trong tay
mọi quyền lực mà cũng không bảo vệ được con gái mình khỏi cái ác. Vừa tuyệt
đối huyền bí, vừa trần ai, chi tiết này cho thấy tác giả truyện thơ Thái đã không
thần thánh hóa thế lực siêu nhiên như văn học dân tộc Kinh đương thời, giải
thiêng thần thánh và kéo gần khoảng cách giữa thế tục và thế giới tưởng tượng là
bước tiến lớn trong văn học viết giai đoạn này.
2.3. Khát vọng có con người lí tưởng

(Vấn đề này, Nghiên cứu sinh chia làm 4 phần, 22 trang: hình tượng con
người lí tưởng; tự hào sánh ngang xứ người; khát vọng “ở hiền gặp lành”; khát
vọng có con người lí tưởng gửi gắm qua tôn giáo tín ngưỡng)
2.3.1. Hình tượng con người lí tưởng
- Truyện thơ dân tộc Thái hướng tới giá trị thẩm mĩ: con người đẹp và ước
mơ kẻ “ở hiền” thì sẽ “gặp lành”. Qua truyện thơ Ngú háu và Trạng nguyên (dân
tộc Thái), tác giả xây dựng nhân vật nam lí tưởng có tâm hồn trong sáng giản dị,
chỉ một mực nghĩ về điều thiện, làm việc thiện, quên thân vì lợi ích cho cộng
đồng, không mong được báo đền ân nghĩa, chàng kết tinh cao đẹp đạo đức, sức
mạnh và trí tuệ quần chúng nhân dân.
- Truyện thơ Thái xuất hiện mẫu người khổ luyện thành tài. Khẳng định cái
đẹp, cái tài không xa lạ, khó nắm bắt mà nó thuộc về bất cứ ai. Tác phẩm thể hiện
đức tin vào giá trị người. Ca ngợi vẻ đẹp toàn diện của người lao động với tài
năng, đức độ, tác giả dân gian đã gửi gắm ước mơ, khát vọng xã hội công bằng có
nhân tài hào kiệt lãnh đạo muôn dân, chung hưởng hạnh phúc thái bình.
- Hình tượng người phụ nữ ở văn chương mỗi dân tộc có đôi nét khác biệt
song họ đều có chung những phẩm chất: xinh đẹp, hiền thục, hiếu thảo, thủy
chung
12
Chúng tôi chứng minh qua các nhân vật Khăm Ín, Cúc Hoa, công chúa An
Nam Trong tác phẩm Ú Thêm, Khăm Ín không chỉ là một tiên nữ xinh đẹp khác
thường mà còn là người phụ nữ có tình yêu mãnh liệt, thắm thiết, thủy chung; một
người con dâu ngoan hiền, một người mẹ yêu thương con hết mực. Ở truyện thơ
Trạng Nguyên, tác phẩm ca tụng tình yêu chung thủy, ý chí sắt đá của nhân vật
chính Cúc Hoa và hai nhân vật phụ: công chúa Bành Hoa và Cao Vương. Tới
Trạng Tư, công chúa An Nam hiền thục trong tính tình, chung thủy trong tình yêu.
Nàng công chúa trong truyện thơ Thái cũng là người có ý thức về hạnh phúc lứa
đôi.
- Hầu hết những tác phẩm nói về tình yêu hoặc tình vợ chồng đều ca ngợi về
lòng chung thuỷ của người phụ nữ. Để ca ngợi điều đó, các nhân vật phụ nữ phải

trải qua hàng loạt các sự kiện, biến cố mang tính chất thử thách. Và họ đều ít nhiều
phải chịu đựng đau khổ mới khẳng định được sự thuỷ chung của mình.
2.3.2.Tự hào sánh ngang xứ người
- Nội dung này được khai thác chủ yếu qua nhân vật Túng Tân trong tác
phẩm Trạng nguyên. Thông qua hành trình đi sứ của nhân vật Túng Tân, tác giả
đã khẳng định, Việt Nam có lòng tự tôn dân tộc, có nhiều hiền tài và đức hạnh
sánh kịp Trung Hoa. Khi đi thi và đi sứ, Túng Tân trải qua hai cuộc thử thách.
Suốt mười năm ở nước Tàu, Túng Tân đã làm cho vua Tàu phải khen phục là mưu
giỏi giang.
- Nội dung được khẳng định qua nhân vật Cúc Hoa. Nếu như Túng Tân tiêu
biểu cho tài trí của bậc nam nhi thì nàng Cúc Hoa lại tiêu biểu cho đức hạnh của
người phụ nữ. Đức hạnh của nàng khiến vua Tàu ước muốn được gặp nàng và
phong thành “bà hoàng ngôi phủ”. Trong cảnh đoàn viên, chia ngôi chính thất,
nàng có ngôi vị cao hơn Bành Hoa - công chúa nước Tàu và cả Cao Vương, con
gái vua Thủy Tề.
2.3.3. Khát vọng “ở hiền gặp lành”
- “Ở hiền” thì “gặp lành”, là tư tưởng thống nhất ở mọi truyện thơ của người
Kinh và người Thái có cùng đề tài.
- Qua hai tuyến nhân vật, cặp truyện thơ Thạch Sanh và Ngu háu, chúng ta
thấy sáng lên tư tưởng “thiện giả thiện báo, ác giả ác báo”. Từ cuộc đời nhân vật,
tác giả muốn gửi gắm ước mơ khát vọng về một xã hội công bằng, khuyên con
người hãy tin vào chính nghĩa. Thông qua tác phẩm, nhân dân lao động gửi gắm
ước mơ, khát vọng về một đất nước thái bình, con người được chung hưởng hạnh
phúc.
- Tinh thần triết lí cao đẹp, giàu chất nhân văn được thể hiện rõ nhất trong cặp
truyện Ý Nọi - Náng Xưa (dân tộc Thái) và Cái Tấm - Cái Cám (dân tộc Kinh).
13
Con người đẹp với những chuẩn giá trị thẩm mĩ thể hiện qua nhân vật Tấm và Ý
Nọi.
- Trong truyện thơ Ú Thêm, miêu tả con đường tới mường Trời của Ú Thêm

khi đi tìm vợ phải qua những mường quái lạ toàn người bị trừng phạt: người mắc
tội không kiêng khem khi sinh nở, người mắc tội khinh rẻ chồng, kẻ bỏ vợ bỏ
con Hình ảnh những mường quái dị có những người bị trừng phạt này phần nào
giống với Thập điện Diêm Vương của người Việt. Nó vừa thể hiện quan điểm của
người Thái về đạo lí xã hội, về triết lí sống, vừa thể hiện luật tục nghiêm khắc.
- Đặc điểm của triết lí ở hiền gặp lành đã quy định kết thúc có hậu của tác
phẩm và là ước muốn chủ quan của tác giả tộc người. Đây cũng chính là giá trị
nhân đạo của tác phẩm, bài học quý về đạo làm người và niềm tin cuộc sống.
2.3.4. Khát vọng có con người lí tưởng gửi gắm qua tôn giáo tín ngưỡng
Truyện thơ dân tộc Kinh phản ánh tư duy văn hóa tín ngưỡng Nho giáo, Đạo
giáo, Phật giáo Người Thái có những tư tưởng khác biệt, hầu hết các tác phẩm
được đề cập đều mang tinh thần vạn vật có linh hồn, thế giới ba cõi
2.3.4.1. Vạn vật đều có linh hồn
- Người Thái cho rằng, vạn vật xung quanh mình như cây cỏ, đất đá, sông núi
và muôn loài đều có linh hồn, có chủ cai quản. Tất cả lại ở dưới sự cai quản chung
của đấng tối cao là Then Luông, dưới Then là các thứ bậc phi (ma).
- Thế giới phi đối lập với thế giới sự sống, nhưng hai thế giới này liên lạc với
nhau nhờ một lực lượng siêu hình là hồn (hoặc vía) của mỗi cá nhân, sự vật hiện
tượng. Các chi tiết trong nhiều tác phẩm đề cập tới khái niệm hồn, Mường ma,
Mường trời, ma cửa rừng Người Việt chia con người thành hồn và phách, hồn
luôn bất tử, còn phách mất đi sau khi chết. Người Thái không dùng những từ ngữ
mang tính chất đoạn tuyệt như trên mà dùng từ “băng biến”. Cách dùng từ này có
lí do tín ngưỡng: đi sang cõi khác (băng để biến) chứ không chết. Hồn tách khỏi
xác, tan biến sẽ trở thành các ma ngụ trên những vị trí khác nhau ở Mường ma.
- Nếu quan niệm về thế giới vũ trụ của người Kinh bị chi phối bởi một số học
thuyết tôn giáo thì cùng vấn đề này, người Thái có quan niệm riêng. Quan niệm về
thế giới bên kia vừa cho thấy cách nhìn thế giới vũ trụ, vừa thể hiện về đạo lí xã
hội của người Thái, hình thành bản sắc dân tộc sâu đậm.
2.3.4.2. Thế giới có ba cõi
- Quan niệm thế giới gồm 3 cõi xuất hiện trong hầu hết các truyện thơ Thái

nhưng người đọc có thể nhận thấy rõ nhất trong truyện thơ Trạng nguyên. Trong
tác phẩm có nhiều đoạn thơ nói về tục cúng vía, gọi hồn, tế thần, nhất là những
dịp trọng đại.
- Theo người Thái, vũ trụ có 3 tầng: Mường Phạ, Mường Trần, Mường Ma
do phi ma ở. Theo quan niệm trên thì Then vừa là đấng sáng tạo lại vừa tượng
14
trưng cho từng mặt của tự nhiên và xã hội. Cõi Trời, Mường Then là nơi tối cao,
thiêng liêng nhất, nơi ấy là tột đỉnh vinh quang mà con người vươn tới. Khi ở
mường Trời, con người già đi thì có thể tái sinh bằng cách lột xác chứ không chết.
Khát vọng về sự bất tử, lòng ham muốn vượt thoát thời gian và hạn định tuổi tác
của con người là giấc mơ của bất kì tộc người nào. Chi tiết về trời của Túng Tân
vừa cường điệu hóa tài chí của nhân vật, vừa thể hiện quan niệm tín ngưỡng của
người Thái. Vẻ đẹp của con người Túng Tân là mẫu hình lí tưởng của cõi nhân
sinh, xứng đáng được sống ở Mường Phạ, Mường Then.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Nghiên cứu sinh tóm lược lại những nội dung truyện thơ Thái đã trình bày gồm:
- Truyện thơ là thể loại tiêu biểu của văn học dân tộc Kinh và văn học dân
tộc Thái. Cùng thể loại, sáng tác của hai bộ phận có hiện tượng cùng đề tài.
- Nội dung truyện thơ dân tộc Thái cùng đề tài với truyện thơ Nôm dân tộc
Kinh khá phong phú.
Do người Thái sinh sống chủ yếu trên núi cao, địa hình dốc, sinh hoạt phụ
thuộc nhiều vào tự nhiên cho nên khát vọng chinh phục tự nhiên trở thành nội
dung khác biệt bao trùm hầu hết các tác phẩm. Nhân vật chính trong các sáng tác
là những anh hùng nguồn gốc phàm trần, có công chinh phục đá núi, diệt mãng xà,
khống chế lũ lụt, chinh phục môi trường nước Qua nội dung này, người Thái thể
hiện niềm tin tha thiết vào sức mạnh nội tại của con người đời thường.
Truyện thơ Thái tập trung phản ánh khát vọng về gia đình và xã hội. Đây
cũng là mối quan tâm chung của truyện thơ Nôm. Từ tác phẩm Ngu háu cho đến
Trạng nguyên có sự vận động, thay đổi vai trò vị trí của con người trong gia đình,
chế độ mẫu hệ dần chuyển sang chế độ phụ hệ. Chế độ hôn nhân gả bán chưa hoàn

toàn chấm dứt nên người Thái cổ xúy cho tình yêu tự do, cho gia đình dân chủ. Xã
hội Thái trong truyện thơ đầy biến động phức tạp. Vua không minh, tìm cách hủy
diệt hiền tài, phìa tạo bản làng tham tiền, mất nhân tính.
Xã hội rối ren, số phận con người bị đe dọa. Từ hiện thực đen tối, xã hội
Thái đi tìm cho mình một vẻ đẹp con người với những chuẩn mực lí tưởng như
tài trí, đức hạnh, giàu lòng vị tha, cao thượng. Các tác phẩm Trạng nguyên, Ú
Thêm, Ngu háu toát lên nội dung này. Họ mơ ước những đấng minh quân có đủ
tài đức để lãnh đạo xã hội, vì vậy xuất hiện con người đẹp. Đặc biệt, tất cả các
truyện thơ Thái được khảo sát đều đề cao, ca ngợi tình cha con, mẹ con, lòng
chung thủy của người phụ nữ, cổ vũ cho tình yêu tự do. Để tất cả những giá trị
người được tồn tại, tôn vinh, truyện thơ đã mượn triết lí sống, quan niệm thẩm
mỹ “ở hiền gặp lành”. Đây là phương thuốc để bi kịch, khúc mắc được giải quyết
thỏa đáng trong tưởng tượng.
15
Thêm vào đó, vấn đề tôn giáo tín ngưỡng chi phối cách thức xây dựng nhân
vật. Phổ biến trong tất cả các truyện thơ là quan niệm vạn vật hữu linh. Mọi
phương diện của đời sống đều có phi (ma) cai quản. Sống ở kiếp đời con người
gieo nhân nào, gặt quả ấy. Người Thái không cho rằng chết là kết thúc cuộc đời
mà là “băng biến” sang kiếp khác. Quan điểm này có nhiều nét giống đạo Phật,
sống gửi, thác về để tái sinh.
Bên cạnh những nội dung trên, truyện thơ của dân tộc Thái mang tư tưởng
dân tộc. Các truyện thơ Trạng nguyên, Trạng Tư, Ú Thêm chú ý đến mối quan hệ
bang giao giữa hai quốc gia và sự tự cường.
Tất cả các phương diện nội dung trên chi phối nghệ thuật sáng tác truyện thơ
của người Thái như kết cấu tác phẩm, tính chất sử thi, ngôn ngữ nhân vật chúng
tôi sẽ tiếp tục trình bày vấn đề này ở chương sau.
Chương 3
NGHỆ THUẬT CỦA MỘT SỐ TRUYỆN THƠ DÂN TỘC THÁI CÓ
CÙNG ĐỀ TÀI VỚI TRUYỆN THƠ NÔM DÂN TỘC KINH
Trong Chương 3, Nghiên cứu sinh trình bày 48 trang về 5 vấn đề: Kết cấu

truyện thơ Thái; Nhân vật truyện thơ Thái; Ngôn ngữ truyện thơ Thái; Các biện
pháp nghệ thuật; Truyện thơ mang màu sắc sử thi.
3.1. Kết cấu truyện thơ Thái
3.1.1. Kết cấu và cấu trúc truyện thơ Thái
Kết cấu của tác phẩm văn học là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của
tác phẩm, phục tùng yêu cầu biểu đạt tư tưởng, phục tùng việc xây dựng hình
tượng nhân vật và phải đạt đến sự hoàn chỉnh, thống nhất, thẩm mĩ.
Từ khái niệm kết cấu nói trên, chúng tôi cho rằng truyện thơ Thái có 2 phương
diện lớn của kết cấu, gồm mô típ truyện thơ và cách tổ chức tình tiết…
3.1.2. Mô típ truyện thơ Thái
- Trong số các truyện thơ Thái đang khảo sát, chúng tôi thấy những sáng tác
sau sử dụng một số mô típ cơ bản. Truyện thơ Ngu háu sử dụng 2 mô típ: dũng sĩ
diệt rắn ác cứu người đẹp và mô típ kết hôn lên ngôi. Cách thức phản bác tư
tưởng giai đoạn trước của người Thái là đưa vào văn học những con người hiên
ngang đầy sức mạnh, có tầm vóc hơn hẳn tự nhiên.
- Ở truyện Ý Nọi - Náng Xưa, mô típ người mẹ thần kì dẫn con đến hạnh
phúc không xuất hiện trong truyện Cái Tấm - Cái Cám của người Kinh mà thay
thế vào đó là hình tượng Bụt. Sự hóa thân của nhân vật mẹ chính là tín hiệu thẩm
mỹ cho thấy tính bản địa của tác phẩm. Tính bản địa thể hiện ở phương diện văn
hóa - sự chi phối của chế độ mẫu hệ với tư duy sáng tác. Hình ảnh mãnh hổ khá
quen thuộc với người dân miền núi Tây Bắc ở những thế kỉ đã qua.
16
- Truyện Ú Thêm dân tộc Thái lại kết cấu bằng những mô típ khác xoay
quanh hai mô típ chủ đạo dũng sĩ diệt yêu quái cứu người đẹp và phàm nam du
tiên. Truyện có 6 mô típ chính sau:
- So với truyện thơ Nôm Tống Trân - Cúc Hoa, truyện Trạng nguyên có số
mô típ lớn hơn hơn, dẫn đến nội dung tác phẩm cũng phong phú hơn. Cái kí ức là
cái có sẵn, trong quá trình tương tác văn học, người Thái đã thêm bớt tình tiết, tu
sức cho ngôn từ để đưa vào sáng tác những nhu cầu thẩm mĩ thực tiễn của xã hội
mình mà theo họ, nó cần và đủ, phù hợp với tâm lí tộc người.

* Như vậy, mô típ là chất liệu kết cấu tác phẩm truyện thơ Thái. Việc lựa
chọn mô típ nào được sử dụng trong kết cấu truyện thơ Thái không phải là một
hiện tượng ngẫu nhiên mà có chủ đích sáng tạo. Nó chịu sự chi phối bởi những
kinh nghiệm thực tiễn và tâm lí văn hóa tộc người. Vì thế, có thể nói rằng mô típ
cấu tạo truyện thơ Thái phản ánh sâu sắc tư duy văn hóa tộc người.
3.1.3. Tổ chức tình tiết
- Do truyện thơ Thái là thể loại giao thoa giữa văn học dân gian và văn học
thành văn cho nên cách tổ chức tình tiết cũng không thống nhất theo một trật tự.
- Trong số các truyện thơ chúng tôi thấy có hai truyện thơ Thái chứa đựng
kết cấu ba phần, bao gồm: Gặp gỡ - tai biến - đoàn tụ. Truyện thơ Trạng nguyên
có mô hình kết cấu ba tầng, khác truyện Tống Trân - Cúc Hoa. Truyện Trạng
nguyên có 3 lần gặp gỡ, 2 lần lưu lạc và 3 lần đoàn tụ. Truyện Tống Trân - Cúc
Hoa có 2 lần gặp gỡ, 2 lần lưu lạc và 2 lần đoàn tụ. Tác phẩm Trạng nguyên có 10
chi tiết chính khác biệt Sáng tạo bằng cách ghép thêm tình tiết, tác giả Thái đã
đưa vào tác phẩm những nội dung mới mẻ so với phạm vi phản ánh ban đầu. Sở dĩ
đưa thêm nội dung này vì người Thái có nhu cầu phản ánh hiện thực đương thời
của tộc mình. Ngoài cách tổ chức trên, truyện thơ Thái còn tổ chức tình tiết bằng
cách kết hợp xâu chuỗi nhiều mô típ, nhiều tình tiết.
- Kết cấu của truyện thơ Thái khác với truyện thơ Nôm ở chỗ phần kết thúc ở
một vài tác phẩm xuất hiện kiểu bi kịch.
* Nói tóm lại, truyện thơ Thái có hai cách tổ chức tình tiết. Mỗi cách tổ chức
lại đem đến một hiệu quả phản ánh khác nhau. Cách tổ chức theo mô hình gặp gỡ
- tai biến - đoàn tụ tạo nên một kết cấu cố định, tập trung phản ánh chủ đề cụ thể,
dễ định hướng. Cách lắp ghép mô típ gây nhiều bất ngờ cho người đọc.
3.2. Nhân vật truyện thơ Thái
Nghiên cứu sinh chú ý 2 vấn đề: Số lượng nhân vật và nhân vật chính.
3.2.1. Số lượng nhân vật
17
- Truyện thơ Thái đã xây dựng một hệ thống nhân vật đông đảo. Số lượng
nhân vật ở mỗi tác phẩm tùy thuộc vào phạm vi, nội dung cuộc sống được

phản ánh.
- Bảng biểu thống kê.
- Hầu hết truyện thơ Thái có số lượng nhân vật phong phú hơn truyện thơ
Nôm dân tộc Kinh cùng đề tài. Hiện tượng không tương đương nhau về số lượng
nhân vật đối với loại truyện thơ Thái mượn cốt truyện Nôm Kinh là một minh
chứng cho thấy, tác giả truyện thơ Thái khi kế thừa cốt truyện của truyện thơ Nôm
đã thêm tình tiết, xây dựng thêm cốt truyện, làm cho cốt truyện phong phú hơn.
Kết quả này khẳng định người Thái không làm công việc “chuyển thể”, “sao
chép” giản đơn cốt truyện Nôm.
3.2.2. Nhân vật chính
Nhìn chung nhân vật chính trong truyện thơ Thái phong phú hơn so với
truyện thơ Nôm.
- Bảng biểu thống kê.
- Khi so sánh truyện thơ Nôm và truyện thơ Thái ở phương diện nhân vật,
chúng tôi nhận thấy có điểm khác biệt về nguồn gốc nhân vật.
- Văn học người Việt xuất hiện nhiều nhân vật có nguồn gốc siêu nhiên như
thần linh thực thụ, hoặc là, sự kết hợp với thần linh, thụ thai nhờ “mượn cửa để
xuống trần gian”. Nhân vật chính là các vị thần như trong truyền thuyết Sơn Tinh -
Thủy Tinh, Thánh Gióng… Sự ra đời phàm trần của các nhân vật chính cho thấy
truyện thơ Thái ở thời điểm này đã vượt khỏi đã dần dà thoát khỏi mối ràng
buộc của văn học dân gian, lấy con người làm đối tượng trung tâm để phản
ánh. Nhân vật chính trong truyện thơ Thái không chỉ khác biệt với nhân vật
trong truyện thơ Nôm ở phương diện số lượng và nguồn gốc mà còn ở kết cấu
hình tượng nhân vật, mang đậm màu sắc sử thi.
Nhân vật trong truyện thơ mang ý thức cộng đồng. Đặc điểm này thể hiện
qua khả năng chinh phục tự nhiên và cải tạo xã hội của con người đại diện cho ý
chí sức mạnh - mục đích của cộng đồng dân tộc. Trong số 5 truyện thơ Thái khảo
sát, có 3 nhân vật gồm Lưu Vĩnh (Ngu háu), Túng Tân (Trạng nguyên), Ú Thêm
(Ú Thêm) đáp ứng biểu hiện trên.
Nhân vật trong sử thi gắn liền hành trạng cá nhân với vấn đề lịch sử dân tộc.

Nhân vật trong truyện thơ nhìn chung có tầm vóc đẹp, có kích thước lớn lao hơn
chính bản thân nó, rất giống với nhân vật trong sử thi. Nhân vật trong truyện thơ
có sự cộng hưởng thể chất chuẩn mực của cộng đồng. Ở cộng đồng nào, người
18
anh hùng xuất hiện trong vẻ đẹp tạo hình theo quan điểm thẩm mĩ, theo chuẩn
mực riêng của cộng đồng ấy.
Là người phàm trần, nhưng Lưu Vĩnh, Túng Tân và Ú Thêm đều mang vẻ
đẹp siêu phàm, kì vĩ, thấp thoáng bóng hình thần thánh. Phẩm chất đầu tiên
thường gặp ở người anh hùng sử thi là lòng dũng cảm, ý chí và nghị lực phi
thường. Người anh hùng phải làm được ba điều: chinh phục môi trường nước,
chiến thắng đá dữ, có chiến công hiển hách, chinh phục Mường trời là thẩm mĩ
riêng của cộng đồng Thái. Các nhân vật trong truyện thơ khảo sát không có những
hình ảnh hồn nhiên ngây thơ, không tuyệt đối hóa vẻ đẹp bằng thủ pháp phóng đại
khoa trương như trong sử thi dân gian. Người anh hùng hiện lên với vóc dáng lớn
lao song bình dị và đời thường hơn.
3.3. Ngôn ngữ truyện thơ Thái
Nghiên cứu sinh trình bày cụ thể 2 vấn đề: Ngôn ngữ người kể chuyện;
Ngôn ngữ nhân vật.
3.3.1. Ngôn ngữ người kể chuyện
- Tác giả truyện thơ Thái khi kể chuyện thường giấu một chữ tôi ẩn chủ ngữ
trong câu. Điều này có thể thấy rõ nhất trong cách chuyển đoạn kể, tương ứng với
một đoạn thơ.
- Ngôn ngữ người kể chuyện thường đứng tách bạch, tự phân chia danh giới
rõ ràng với nhân vật và luôn ý thức mình đang trong vai người kể chuyện, không
đứng ở nhiều điểm nhìn khác nhau như tiểu thuyết hiện đại giai đoạn sau.
3.3.2. Ngôn ngữ nhân vật
- Ngôn ngữ nhân vật là “lời nói của một nhân vật cụ thể”. Trong tác phẩm
văn học ngôn ngữ nhân vật có hai dạng tồn tại: ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ
độc thoại.
- Truyện thơ Thái mà đề tài khảo sát, chúng tôi nhận thấy trong tác phẩm xuất

hiện nhiều ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật thường chiếm
30% đến 40% tổng số câu thơ toàn tác phẩm. Tác phẩm chiếm tỷ lệ cao nhất là Ý
Nọi - Náng Xưa. Tác phẩm chiếm tỷ lệ thấp nhất là Trạng Tư. Ngôn ngữ nhân vật
chiếm vị trí nổi bật trong dung lượng tác phẩm, là thành phần quan trọng trong kết
cấu của truyện thơ Thái có cùng đề tài với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh. Tính độc
lập của nhân vật trong cốt truyện thơ Thái đã rất cao so với truyện dân gian bản
địa. Tỷ lệ này cũng tương ứng với tỷ lệ thành phần ngôn ngữ nhân vật trong một
số truyện Nôm cùng đề tài với truyện thơ Thái.
- Ngôn ngữ xuất hiện ở dạng độc thoại chiếm tỷ lệ không cao. Do đó, có thể
nói: ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ Thái có cùng đề tài với truyện thơ Nôm
chủ yếu xuất hiện ở dạng đối thoại. Đây là hình thức tổ chức ngôn ngữ cơ bản của
nhóm truyện thơ Thái khi xây dựng hình tượng nhân vật.
19
- Đối với ngôn ngữ đối thoại, truyện thơ Thái có điểm đặc biệt so với truyện
thơ Nôm là nhiều khúc đoạn hai nhân vật giao tiếp thường tường thuật ngắn gọn
cho nhau những sự kiện cuộc đời mình đã trải qua, vì thế người đọc có cảm giác
truyện bị lặp lại.
- Ngôn ngữ tự sự trước hết thể hiện ở nghệ thuật miêu tả. Nếu như truyện thơ
dân tộc Kinh còn chứa nhiều điển cố, điển tích thì truyện thơ dân tộc Thái lại có
lối diễn đạt phù hợp với văn hóa tộc người mộc mạc, dân dã có phần ít chịu ảnh
hưởng văn hóa các nước phương Đông.
3.4. Các biện pháp nghệ thuật
- Ngôn ngữ miêu tả trong truyện thơ của dân tộc Thái ưa thủ pháp điệp ý,
điệp từ, nhấn mạnh, liệt kê, so sánh. Hiện tượng này lặp đi lặp lại trong toàn bộ 5
tác phẩm. Điệp ý là cách thức dùng nhiều hình ảnh để miêu tả một hành động, tâm
trạng theo cùng một cấu trúc cú pháp nhằm khắc họa sâu sắc nội dung cần diễn tả.
- Ý nghĩa của phép tạo kiểu dòng thơ sóng đôi là làm cho dễ nhớ, dễ thuộc,
dễ lưu truyền đồng thời góp phần tạo nên độ mềm dẻo, linh hoạt, sinh động trong
lối diễn đạt, phù hợp với nhu cầu ứng khẩu.
- Hình ảnh so sánh trong truyện thơ đã sử dụng nhiều kiểu ví von rất mộc

mạc, bình dị phù hợp với tư duy của người bản địa.
3.5. Truyện thơ mang màu sắc sử thi
Ở phương diện nội dung, truyện thơ thơ Nôm kể chuyện đời, chuyện người.
Truyện thơ Thái, ngoài những vấn đề trên còn chuyển tải những nội dung khác,
nghiêng về tính cộng đồng như khát vọng chinh phục tự nhiên, quan niệm vạn vật
hữu linh… Những đặc điểm này khiến cho truyện thơ Thái mang đậm chất sử thi,
kết cấu nghệ thuật giống như một tiểu thuyết sử thi.
Truyện thơ Thái bảo lưu nhiều yếu tố sử thi. Nhân vật chính trong các tác
phẩm Ú Thêm, Ngu háu, Trạng nguyên dường như được xây dựng từ những mảnh
vụn kí ức.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Truyện thơ Thái có hai kiểu kết cấu chính: kết cấu theo mô hình gặp gỡ - tai
biến - đoàn tụ và kết cấu theo kiểu mô típ. Cùng sử dụng một mô típ như truyện
thơ Nôm nhưng người Thái có mục đích diễn đạt của riêng mình và hành trạng
nhân vật sử dụng mô típ đó không giống nhau. Vì thế, có thể nói rằng mô típ cấu
tạo truyện thơ Thái phản ánh sâu sắc tư duy văn hóa tộc người.
Giống như một số truyện thơ Nôm, có những truyện thơ tổ chức theo mô hình
gặp gỡ - tai biến - đoàn tụ (nhất là đối với dạng truyện thế sự). Mỗi cách tổ chức
lại đem đến một hiệu quả phản ánh khác nhau. Cách tổ chức theo mô hình gặp gỡ
20
- tai biến - đoàn tụ tạo nên một kết cấu cố định, tập trung phản ánh chủ đề cụ thể,
dễ định hướng. Cách lắp ghép mô típ gây nhiều bất ngờ cho người đọc.
Đối với những tác phẩm kế thừa truyện thơ Nôm dân tộc Kinh, tác giả Thái
đã sáng tạo bằng cách ghép thêm tình tiết, đưa vào tác phẩm những nội dung mới
so với phạm vi phản ánh ban đầu. Sở dĩ đưa thêm nội dung này vì người Thái có
nhu cầu phản ánh hiện thực đương thời, thể hiện tâm lý tộc người
Nhân vật trong truyện thơ Thái thường có lai lịch bình thường (khác với
nhiều nhân vật siêu nhiên trong truyện thơ Nôm, nhưng hành động và ý chí phi
thường khiến cho nhân vật nhuốm màu huyền thoại. Sự phát triển vượt bậc từ kiểu
tư duy dân gian huyền thoại sang kiểu nhân vật đời thường cho thấy có sự đổi mới

văn học, con người “mỏng dẹt” của dân gian dần biến mất mà thay thế vào đó là
con người đầy đặn hơn, có cảm xúc tâm trạng, có những nghĩ suy thể hiện quá khứ
hoặc nghĩ về tương lai.
Về phương diện ngôn ngữ, truyện thơ Thái mang tính dân tộc sâu sắc trong
quá trình giao thoa văn hoá với các dân tộc anh em. Ngôn ngữ truyện thơ Thái
đánh dấu sự trưởng thành của tiếng nói dân tộc trong quá trình hội nhập. Nhân vật
trong truyện thơ chủ yếu sử dụng ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại đã xuất
hiện nhưng không nhiều. Tỷ lệ lời thơ đối thoại và độc thoại tương đương với
truyện thơ Nôm cùng đề tài với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh.
KẾT LUẬN
1. Văn học Việt Nam được cấu thành bởi văn học dân tộc Kinh và văn
học dân tộc ít người khác. Nghiên cứu tư duy nghệ thuật của dân tộc miền núi
là việc làm có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, nâng cao
đời sống văn hoá khu vực miền núi. Trong vốn văn hóa, văn nghệ của dân tộc
Thái phía Bắc, thể loại truyện thơ khá đặc sắc và độc đáo. Sáng tác truyện thơ
tồn tại dưới hai hình thức: truyền miệng và văn bản. Với giá trị đó, nó như một
thể loại đánh dấu bước chuyển mình từ văn học dân gian sang văn học thành
văn. Ở thời kì trung đại, thể loại truyện Nôm rất quan trọng, có vai trò trụ cột
cho nền văn học dân tộc Kinh.
2. Truyện thơ Nôm miền xuôi cũng như truyện thơ miền núi đều là bước
nối giữa văn học dân gian và văn học thành văn, đều mang đặc trưng chung của
cả hai hình thức văn học nói trên. Nghiên cứu vấn đề, chúng tôi có mục đích
tìm ra nội dung, nghệ thuật đặc trưng của truyện thơ Thái trong mối quan hệ so
sánh với truyện thơ Nôm Kinh.
3. So với truyện thơ Nôm, truyện thơ Thái trong nhóm khảo sát mang 5
nội dung chính: Khát vọng chinh phục tự nhiên, bảo vệ bản mường; khát vọng
gia đình - xã hội; khát vọng có con người lí tưởng
21
3.1. Do người Thái sinh sống chủ yếu trên núi cao, địa hình dốc, sinh hoạt
phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, cho nên, so với truyện thơ Nôm của người Kinh,

khát vọng chinh phục tự nhiên trở thành nội dung khác biệt bao trùm. Người
Thái luôn coi trọng yếu tố nước, vì nước là cơ sở để tạo nên xã hội bản mường.
Bên cạnh đó, những câu chuyện vượt đá, khuất phục đá, giết thú dữ… trở thành
vấn đề thường trực trong các truyện thơ.
3.2. Bức tranh gia đình là sự quan tâm lớn của các tác giả Thái. Tính chất
đột biến phức tạp của cuộc sống trước hết được thể hiện ở mâu thuẫn gia đình.
Trong xã hội Thái buổi đầu có giai cấp, môi trường văn hóa gia đình chịu sự chi
phối bởi chế độ mẫu hệ, mọi quyền bính tập trung trong tay người phụ nữ,
người đàn ông không thâu tóm quyền bính dẫu ở ngôi cao. Mâu thuẫn gia đình
phản ánh mâu thuẫn xã hội. Trong chế độ tập quyền, vua chỉ chú ý tới lợi ích cá
nhân, hủy diệt nhân tài, cậy thế làm điều tàn ác. Vua không minh, xã hội tất
loạn. Tầng lớp dưới lộng quyền, ma quỷ quấy nhiễu, dân chúng rơi vào nghèo
khổ.
Để chạy trốn hiện thực ấy, con người tìm tới tự nhiên để ẩn nấp. Con
người có thời kì đã muốn thoát khỏi tự nhiên nhưng do hiện thực khốn cùng,
không còn chỗ trú chân nên quay về với tự nhiên. Việc chạy trốn hiện thực hoặc
bị xua đuổi khỏi hiện thực chứng tỏ con người cô đơn, con người đáng thương
đã xuất hiện như trong tác phẩm Ngu háu, Ú Thêm
3.3. Từ hiện thực đen tối, xã hội Thái có khát vọng đi tìm cho mình một vẻ
đẹp con người với những chuẩn mực lí tưởng như tài trí, đức hạnh, giàu lòng vị
tha, cao thượng Họ mơ ước những đấng minh quân có đủ tài đức để lãnh đạo xã
hội, vì vậy xuất hiện con người đẹp. Đặc biệt, tất cả các truyện thơ Thái được
khảo sát đều đề cao, ca ngợi tình cha con, mẹ con, lòng chung thủy của người
phụ nữ, cổ vũ cho tình yêu tự do. Để tất cả những giá trị người được tồn tại, tôn
vinh, truyện thơ đã mượn triết lí sống, quan niệm thẩm mỹ “ở hiền gặp lành” như
một phương thuốc để bi kịch, khúc mắc được giải quyết thỏa đáng trong tưởng
tượng. Muốn con người lí tưởng được bất tử, truyện thơ tìm đến tôn giáo. Nếu
như truyện Nôm Kinh thể hiện đậm nét tư duy Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo
thì truyện thơ Thái lại ghi dấu kí ức đa thần giáo. Người Thái quan niệm hồn
con người chia thành nhiều loại, thế giới có ba cõi, đấng tối cao là Then Luông

cai quản. Qua văn chương, có thể thấy được, người Thái luôn lạc quan trước cái
chết, lên trời sống trường tồn mới vĩnh cửu. Vấn đề tôn giáo tín ngưỡng trong
truyện thơ là sự khúc xạ hiện thực bản sắc văn hóa Thái ở Việt Nam.
4. Từ nội dung truyện thơ Thái, có thể phác thảo vài phương diện nghệ
thuật của thể loại như kết cấu cốt truyện, nhân vật, diễn đạt
4.1. Kết cấu cốt truyện trong truyện thơ Thái có hai hình thức chính: theo
mô hình gặp gỡ - tai biến - đoàn tụ và theo kiểu mô típ. Các mô típ cấu tạo
truyện thơ Thái phản ánh sâu sắc tư duy văn hóa tộc người. Mỗi cách tổ chức
lại đem đến hiệu quả phản ánh khác nhau. Cách tổ chức theo mô hình gặp gỡ -
22
tai biến - đoàn tụ tạo nên một kết cấu cố định, tập trung phản ánh chủ đề cụ thể,
dễ định hướng. Cách lắp ghép mô típ gây nhiều bất ngờ cho người đọc.
Đối với những tác phẩm kế thừa cốt truyện Nôm dân tộc Kinh, tác giả
Thái đã sáng tạo bằng cách ghép thêm tình tiết, đưa vào tác phẩm những nội
dung mới so với phạm vi phản ánh ban đầu. Sở dĩ đưa thêm nội dung này vì
người Thái có nhu cầu phản ánh hiện thực đương thời, thể hiện tâm lý tộc
người.
4.2. Khác với đa số truyện thơ Nôm Kinh, nhân vật trong truyện thơ Thái
thường có lai lịch bình thường nhưng hành động và ý chí phi thường khiến cho
nhân vật nhuốm màu sử thi. Con người “mỏng dẹt” của dân gian dần biến mất
mà thay thế vào đó là con người đầy đặn hơn, có cảm xúc tâm trạng, có những
nghĩ suy thể hiện quá khứ hoặc nghĩ về tương lai. Có thể nói, với truyện thơ, lần
đầu tiên trong văn học Thái, một phần con người thực thụ đã đi vào trong văn
chương.
4.3. Ngôn ngữ trong truyện thơ Thái Đây là hiện tượng hiếm thấy ở
truyện thơ Nôm của người Kinh. Mặc dù trong 5 tác phẩm khảo sát có 2 truyện
mượn cốt truyện Nôm song tác giả Thái tuyệt đối không sử dụng điển tích, điển
cố. Trong quá trình hội nhập, ngôn ngữ truyện thơ Thái có sự bảo lưu lối khắp
(hát) cổ truyền. Nhân vật trong truyện thơ chủ yếu sử dụng ngôn ngữ đối thoại,
ngôn ngữ độc thoại xuất hiện nhưng không nhiều. Tỷ lệ lời thơ đối thoại và độc

thoại tương đương với truyện thơ Nôm cùng đề tài với truyện thơ Nôm dân tộc
Kinh.
4.4. Phổ biến trong truyện thơ Thái là biện pháp điệp từ, điệp ý, thích lối
ví von liệt kê hình ảnh. Hình ảnh so sánh ở hai dạng: mộc mạc gần gũi và trừu
tượng. Các thủ pháp này khiến cho truyện thơ Thái dễ nhớ, dễ thuộc, dễ lưu
truyền đồng thời góp phần tạo nên độ mềm dẻo, linh hoạt, sinh động trong lối
diễn đạt, có khả năng tạo hình, mô phỏng âm thanh, diễn đạt nhiều sắc thái khác
nhau của tình cảm, gây ấn tượng nổi bật.
5. Giữa những truyện thơ Thái với những truyện thơ Nôm cùng đề tài có
mối quan hệ tương tác với nhau. Truyện thơ Thái và truyện thơ Nôm đều phản
ánh một xã hội biến động khá phức tạp, nhân sinh quan, xã hội lí tưởng, ca ngợi
tình yêu, lòng chung thủy, ca ngợi vẻ đẹp của người lao động, thể hiện ước mơ
khát vọng của nhân dân, phản ánh mâu thuẫn xã hội thông qua mâu thuẫn gia
đình, ước mơ, triết lí ở hiền gặp lành… Những điểm giống nhau cho thấy
truyện thơ Thái có chịu ảnh hưởng một vài truyện thơ Nôm như nhận định của
một số nhà nghiên cứu. Tuy vậy, tác giả Thái không thụ động “sao chép” hoặc
“chuyển thể” mà có quá trình sáng tạo nghiêm túc, đồng thời thổi vào đó một
luồng gió tư tưởng mới phù hợp với văn hóa tộc người. Sự sáng tạo này không
thể phủ nhận bởi những điểm khác biệt giữa chúng là cơ sở xác thực để chứng
minh điều đó.
Giữa truyện thơ dân tộc Thái và truyện thơ Nôm dân tộc Kinh có những
điểm tương đồng và khác biệt về nghệ thuật nhất định. Cùng có mô hình kết cấu
23
cốt truyện ba phần gặp gỡ - tai biến - đoàn tụ, hệ thống nhân vật chia thành hai
tuyến chính diện, phản diện rõ ràng. Sự tương đồng về nghệ thuật còn được tìm
thấy khi so sánh hai truyện thơ có cùng cốt truyện, đó là mô típ xây dựng cốt
truyện. Các mô típ diệt rắn ác, cứu người đẹp, kết hôn và lên ngôi xuất hiện
trong cặp đôi Ngú háu và Thạch Sanh, mô típ phàm nam du tiên, kết hôn cũng
tiên nữ xuất hiện trong cặp đôi Ú Thêm và Từ Thức…
Bên cạnh điểm tương đồng, giữa nhóm truyện thơ dân tộc Thái với

truyện thơ Nôm dân tộc Kinh còn có nhiều điểm khác biệt về nội dung cũng
như nghệ thuật. Về nội dung, truyện thơ Thái chú ý nhiều tới khát vọng chinh
phục tự nhiên, chú ý đưa vào sáng tác nhận thức về tôn giáo tín ngưỡng. Về
chất liệu: truyện thơ dân tộc Kinh còn chứa nhiều điển cố, truyện thơ dân tộc
Thái lại có lối diễn đạt phù hợp với văn hóa tộc người mộc mạc, dân dã. Cấu
trúc cốt truyện lắp ghép và sự thêm bớt tình tiết cho phù hợp với văn hóa tộc
người là bằng chứng xác thực cho thấy quá trình tiếp biến, sáng tạo của truyện
thơ dân tộc Thái trong mối tương quan với văn học dân tộc Kinh.
6. Với tất cả những đặc điểm, nội dung và nghệ thuật trình bày trên,
chúng tôi cho rằng, vấn đề truyện thơ Thái cho phép mở ra những phạm vi
phong phú hơn thuộc các lĩnh vực nghiên cứu văn học và nghiên cứu liên
ngành. Nhưng vấn đề truyện thơ Thái cũng như truyện thơ dân tộc ít người nói
chung cần sự đầu tư nhiều hơn của nhiều người, nhiều ngành, với nhiều góc độ
khác nhau. Luận án chúng tôi mới chỉ nghiên cứu bước đầu một số bình diện
nhất định trong khả năng có hạn của mình. Đề tài cần được phát triển rộng hơn
nữa như nghiên cứu so sánh truyện thơ Thái với dân tộc ít người khác như Tày,
Mường hoặc truyện thơ Thái, Kinh với văn học khu vực Đông Nam Á.
24

×