Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Hệ thống tiền tệ quốc tế dựa trên chế độ bản vị dollar mĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.52 KB, 13 trang )

Hệ thống tiền tệ quốc tế dựa trên chế độ bản vị Dollar Mỹ (1944-1971)
I-Sự hình thành và phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế dựa trên chế độ
bản vị Dollar Mĩ
1.Khái niệm hệ thống tiền tệ
- Hệ thống tiền tệ quốc tế là chế độ tổ chức lưu thông tiền tệ được thể hiện
bằng những thỏa ước và những qui định của một số quốc gia, có hiệu lực trong một
phạm vi không gian và thời gian nhất định
2- Các hệ thống tiền tệ quốc tế chủ yếu
- Chế độ bản vị vàng (trước năm 1875)
- Chế độ bản vị Bảng Anh (1922-1929)
- Chế độ bản vị Dollar Mỹ (1944-1971)
- Chế độ Rúp chuyển nhượng của SEV (1964-1991)
- Hệ thống tiền tệ Châu Âu
- Hệ thống tiền tệ toàn cầu SRD
3-Sự hình thành và phát triển của chế độ bản vị Dollar Mỹ (1944-1971) hay
còn gọi là hệ thống Bretton Woods

Sự hình thành của chế độ bản vị Dollar Mỹ
- Ngay trước khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các nước đồng minh
đã bắt đầu việc xây dựng một hệ thống tiền tệ quốc tế mới nhằm thúc đẩy các quan
hệ tiền tệ và thương mại quốc tế. Vào năm 1944, một hội nghị quốc tế được nhóm
họp tại Bretton Woods (Mỹ) với sự tham gia của đại diện 44 quốc gia đã đưa ra
một loạt các biện pháp liên quan đến lĩnh vực tài chính tiền tệ, dẫn đến sự hình
thành hệ thống tiền tệ quốc tế mới với tên gọi là hệ thống Bretton Woods.
- Hệ thống tiền tệ quốc tế mới được xây dựng chủ yếu trên cơ sở kế hoạch
do đoàn đại biểu Mỹ đưa ra (một kế hoạch khác do Anh đưa ra đã không
được chấp thuận) theo đó hệ thống phải đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản sau
đây:
Các tổ chức quốc tế - hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đòi
hỏi phải thành lập một tổ chức quốc tế với những chức năng và quyền hạn
nhất định.


 Chế độ tỷ giá hối đoái - tỷ giá hối đoái phải được xác định cố định về
mặt ngắn hạn, nhưng có thể được điều chỉnh khi xuất hiện tình trạng “mất cân đối
cơ bản”.
Dự trữ quốc tế - để giúp chế độ tỷ giá cố định điều chỉnh hoạt động một
cách có hiệu quả, các quốc gia cần tới một lượng dự trữ quốc tế lớn, vì vậy phải có
sự gia tăng vàng và các nguồn dự trữ bằng tiền.
 Khả năng chuyển đổi của đồng tiền – vì lợi ích kinh tế chung mà tất cả
các quốc gia phải tham gia vào mọi hệ thống thương mại đa phương tự do,
trong đó các đồng tiền chuyển đổi tự do được sử dụng

Cơ chế vận hành của hệ thống
- Các nước : Chính phủ các nước có nghĩa vụ duy trì tỷ giá cố định theo vàng (+/-
1%) thông qua chính sách tiền tệ quốc gia. Tỷ giá này chỉ được phép điều chỉnh
tối đa 10% khi kinh tế quốc gia bị mất cân đối nghiêm trọng.
- Mỹ : Bảo đảm khả năng chuyển đổi USD ra vàng ở tỷ lệ cố định. Bảo đảm nguồn
cung USD theo nhu cầu thanh khoản và dự trữ của các nước khác trên thế giới
- IMF : Giúp các quốc gia khắc phục trạng thái mất cân bằng đối ngoại tạm thời.
Tham vấn chính sách điều chỉnh cấu trúc kinh tế quốc gia, tái lập cân bằng đối nội,
đối ngoại của nền kinh tế thành viên.
Vận hành thực tế
- Các nước : Cố định tỷ giá nội tệ theo USD, sử dụng USD như tài sản dự trữ quốc
tế. Dự trữ USD tại các nước tăng nhanh theo dòng tài trợ USD ồ ạt để tái thiết
kinh tế thời kỳ hậu chiến và đà tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của các nước suốt 2
thập niên 50-60.
- Mỹ : Nguồn cung ứng USD duy nhất cho cả thế giới. Thâm hụt BOP liên tục 
và cạn kiệt nguồn dự trữ.
- IMF : Thụ động trong vai trò cứu trợ tài chính và mất cân bằng BOP của các nước
do lệ thuộc Mỹ.
- Hệ thống BW vận hành tốt cho đến khi phát sinh trạng thái mất cân đối nghiêm
trọng giữa các nền kinh tế các cường quốc từ cuối thập niên 50. Từ 1970, các giới

kinh doanh tiền tệ hoài nghi khả năng tiếp tục duy trì hệ thống BW, cho rằng Mỹ
tất yếu sẽ phải phá giá USD và/hoặc đình chỉ khả năng chuyển đổi USD ra vàng.
Các cuộc tấn công đầu cơ tiền tệ liên tục nhắm vào U.S.Dollar buộc Mỹ phải đình
chỉ khả năng chuyển đổi Dollar ra Vàng (1971) và phá giá USD.

Hạn chế của hệ thống:
- Cơ chế điều chỉnh cán cân thanh toán thiếu sự ổn định, chắc chắn và tự động của
hệ thống bản vị vàng và tính linh hoạt của hệ thống tỷ giá thả nổi.
- Các hoạt động đầu cơ bắt nguồn từ khả năng phá giá và nâng giá của các đồng tiền
và điều này dễ dàng gây bất ổn cho hệ thống.
- Cơ chế tạo thanh khoản có vấn đề: “Triffin Dilemma – Nghịch lý Triffin” Để
tránh tình trạng thiếu hụt thanh khoản, Mỹ phải chịu sự thâm hụt của cán cân thanh
toán và điều này làm suy giảm lòng tin vào USD. Để phòng ngừa đầu cơ đối với
USD, mức thâm hụt cán cân thanh toán Mỹ phải thu hẹp và điều này lại gây nên sự
thiếu hụt thanh khoản cho hệ thống.

Đặc điểm của hệ thống tiền tệ quốc tế dựa trên bản vị Dollar Mỹ
- Thừa nhận $ là đồng tiền chuẩn ,làm trụ cột cho chế độ tiền tệ này.
=> Đồng Dollar Mỹ là phương tiện dự trữ và thanh toán quốc tế, đóng vai trò
quan trọng trong các quan hệ tiền tệ, thanh toán và tín dụng quốc tế.
=> chế độ tiền tệ Bretton Woods còn được gọi là chế độ bản vị $.
Thực chất:
=>Các nước đã cố định tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước minh theo đồng
Dollar Mỹ
=>Các nước vẫn phải xác định nội dung vàng của đồng tiền nước mình
nhưng chỉ là hình thức.
=>Đồng tiền các nước không tự do chuyển đổi ra vàng.muốn có vàng trước
hết phải chuyển thành Dollar Mỹ, rồi từ Dollar Mỹ chuyển ra vàng theo tỷ giá
chính thức 35$/1ounce vàng.
- Chế độ tỷ giá cố định:

=>Phải xác định và công bố cho IMF nội dung vàng của đòng tiền nước
mình.
=>Không được tăng giảm nội dung vàng của đồng tiền nước mình trong
phạm vi ±10% nếu không được IMF đồng ý.
Trong trường hợp mất cân bằng nghiêm trọng trong cán cân thanh toán, các
quốc gia có thể tiến hành phá giá hay nâng giá đồng tiền với biên độ nhỏ hơn 10%
trước khi IMF can thiệp.
=>Ngân hàng trung ương các nước thành viên của IMF phải can thiệp đẻ
cho tỷ giá hối đoái trên thị trường biến động không vượt quá biên độ ±1% .
- Dự trữ quốc tế:
=>Các quốc gia cần có lượng dự trữ đủ lớn về vàng và ngoại tệ.
IMF cung cấp cho các nước thành viên một mức hạn mức tín dụng thường
xuyên để tài trợ cho cán cân thanh toán,tránh tình trạng phá giá hay nâng giá đồng
tiền.
=>Các quốc gia đóng góp vào IMF theo tỷ lệ ¼ là tài sản dự trữ(chủ yếu là
vàng), ¾ là đồng tiền quốc gia.
=> Khi gặp khó khăn, mỗi thành viên được rút 25% hạn mức trong lần
đầu,sau đó muốn rút them phải tuân thủ nghiêm ngặt các chính sách do IMF đưa
ra,có thể rút trong 4 lần, mỗi lần 25%.
- Khả năng chuyển đổi của các đồng tiền:
Các quốc gia tham gia vao IMF hay hiệp định chung về thương mại và thuế
quan GATT phải cam kết chuyển đổi không hạn chế đồng nội tệ đòi với những
giao dich trong cán cân vãng lai(có thể hạn chế kiểm soát chu chuyển vốn nhưng
không kiểm soát các chuyển đổi tiề tệ phục vụ cho mục đích thương mại.
II. Hoạt động của hệ thống tiền tệ quốc tế dựa trên chế độ bản vị Dollar
Mỹ
Thời gian tồn tại của hệ thống BW có thể chia thành hai giai đoạn: giai đoạn
“đói Đôla” (1940 – 1958) và giai đoạn “bội thực Đôla” ( 1959 – 1971).
1. Giai đoạn “đói Đô la” (1940-1958):
Trong chiến tranh thế giới II, Mỹ đó thu được nguồn vàng lớn từ bên ngoài

bằng việc buôn bán vũ khí cho các nước tham chiến. Sau chiến tranh, Mỹ đó có 1
nguồn dự trữ vàng lên tới 26 tỉ đôla chiếm 60% dự trữ vàng trên toàn thế giới. Do
đó, đồng đôla của Mỹ được coi là tốt như vàng.
Trong khi đó, do bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên các nước Tây Âu có một
nhu cầu tín dụng lớn để nhập khẩu những gì cần thiết cho công cuộc tái thiết. Theo
kế họach Marshall, vẫn được biết đến là kế hoạch tái thiết Châu Âu, từ 1948 đến
1954, $ 17 tỉ Mỹ đó được đưa vào 16 nước Tây Âu.
Hơn nữa, trong giai đoạn này, những bất đồng lớn trong phe đồng minh chống
phát xít bắt đầu xuất hiện. Mặc dù Liên Xô có tham gia vào hộI nghị Bretton
Woods năm 1944 nhưng Liên Xô lại từ chối tham gia vào quỹ tiền tệ thế giới. Đặc
biệt trong không khí căng thẳng của chiến tranh lạnh, Mỹ đó phải chi trả một
khoản lớn cho quân sự, do đó vào cuối những năm 50 đầu những năm 60 nền kinh
tế Mỹ bắt đầu xuất hiện một số dấu hiệu của khủng hoảng.
2. Giai đoạn “bội thực đôla” (1959-1971):
Trong giai đoạn này, nền kinh tế ở các nước Tây Âu dần đi vào ổn định và
phát triển. Nguồn dự trữ đụla ở ngân hàng các nước tăng lên nhanh với tốc độ
không mong muốn, các ngân hàng đó bắt đầu tìm cách chuyển đổi đụla lấy vàng.
Thêm vào đó, thị trường vàng kép xuất hiện mà khoảng cách giữa giá vàng
trên thị trường tự do với giá vàng của ngân hàng nhà nước là rất lớn, mức giá vàng
trên thị trường tự do là $35/ounce, còn mức giá trên thị trường tự do biến động
theo quy luật cung - cầu. Điều này dẫn đến tình trạng những nhà đầu cơ mua vàng
ở ngân hàng trung ương và bán vàng trên thị trường tự do.
Lúc này, nền kinh tế của Tây Âu và Nhật Bản phát triển mạnh mẽ. Do đó, giá
trị đồng tiền của các nước này cũng tăng. Lòng tin vào đồng đụla cũng giảm sút,
nguồn vốn khổng lồ bằng đồng đụla dần được chuyển sang các đồng tiền mạnh
hơn.
Đến năm 1971, Mỹ phải tuyên bố ngừng đổi đồng đụla sang vàng và phá giá
lần thứ nhất đối với đồng đụla. Bằng việc ký thỏa thuận Smith mà theo đó giá vàng
chính thức được tăng từ 35 đôla lên $38/ounce, và đồng tiền của một số nước
như Mac Đức, Yên Nhật, Franc Thụy Sỹ được nâng giá. Mức dao động xung

quanh ngang giá được nâng lên từ 1% lên 2,25%. Do việc chuyển đổi đôla thành
vàng không được phục hồi cho nên trong thời gian đó gọi là “chế độ bản vị đôla”
tuy nhiên hiệp ước Smith chỉ tồn tại được 15 tháng.
Vào đầu năm 1973 do khủng hoảng của đồng $ nên các quốc gia công nghiệp
chủ chốt đó bãi bỏ các mức ngang giá chính thức với đồng $ và thực hiện thả
nổi độc lập (hoặc tập thể) đồng tiền của mình, sau khi Mỹ phá giá đồng $ lần thứ
hai. Điều này đánh dấu sự thất bại hoàn toàn trong việc cải tổ hệ thống Bretton
Woods và sự sụp đổ của hệ thống bản vị $ này.
3. Đánh giá hoạt động của hệ thống Bretton Woods
Tháng 12/1971, Hoa Kỳ tuyên bố bãi bỏ hệ thống Bretton
Woods, đồng nghĩa với việc bãi bỏ chế độ tỷ giá cố định giữa các
đồng đôla Mỹ (gián tiếp gắn với vàng).
Tuy có nhiều khiếm khuyết nhưng hệ thống đã thành công
trong việc thúc đẩy hoạt động kinh tế thế giới đặc biệt trong giai
đoạn từ sau Thế chiến II đến giữa những năm 60. Quãng thời gian
có lại tuy có những khủng hoảng tài chính lặp đi lặp lại nhưng
cũng được đánh dấu bởi sự tăng trưởng chưa từng thấy trong sản
lượng, thu nhập và thương mại thế giới. Các hoạt động hợp tác
kinh tế đa phương cũng được thúc đẩy mạnh mẽ.
Nguyên nhân trực tiếp của sự sụp đổ của hệ thống là việc Mỹ
phá giá đồng đôla. Tuy nhiên nguyên nhân cơ bản là ở chỗ hệ
thống chứa đựng trong nó mầm mống của sự đổ vỡ. Sự tồn tại của
hệ thống Bretton Woods phụ thuộc vào sự tin tưởng rằng nội dung
vàng của đồng đôla phải được duy trì. Tuy nhiên, trước nguy cơ
dự trữ vàng có thể biến mất để đáp ứng nhu cầu của ngân hàng
trung ương các nướcvà bù đắp thiếu hụt trong cán cân thanh toán
(duy trì các mức ngang giá với đồng đôla), Mỹ đã chấm dứt cam
kết đổi đôla ra vàng, và sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống là tất yếu.
Sau khủng hoảng của đồng đôla năm 1973, thế giới chuyển
sang áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Các quốc gia thực

hiện các biện pháp can thiệp trên thị trường hối đoái để loại trừ
những dao động tỷ giá ngắn hạn nhưng làm ảnh hưởng đến các xu
hướng dài hạn của chúng. Vào năm 1978 tại hội nghị uỷ ban lâm
thời của IMF, chế độ thả nổi tỷ giá có quản lý được chính thức
thừa nhận. Các nước được quyền lựa chọn chế độ tỷ giá tùy ý với
điều kiện không gây tác động tiêu cực tới các bạn hàng buôn bán
và nền kinh tế thế giới. Năm 1978, tại Jamaica, dự thảo về một hệ
thống tiền tệ quốc tế mới cùng với hàng loạt điểm bổ sung khác
được thông qua chính thức, đánh dấu sự ra đời của hệ thống tiền
tệ Jamaica.
III.Các cơ chế liên quan đến hệ thống Bretton Woods
Tại hội nghị Bretton Woods, bên cạnh việc đưa ra một loạt
các biện pháp liên quan tới lĩnh vực tài chính tiền tệ, dẫn đến sự
hình thành hệ thống tiền tệ quốc tế mới - hệ thống Bretton Woods,
hai tổ chức tài chính quốc tế được thành lập, đó là Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF) và Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế hay
Ngân hàng thế giới (WB).
1. Ngân hàng thế giới.
 Giới thiệu.
Mục tiêu chính của ngân hàng là trợ giúp việc tái thiết và phát
triển lãnh thổ của các thành viên bằng sự đầu tư về tư bản, thúc
đẩy các khoản đầu tư cá nhân từ nước ngoài, bổ sung thêm vào các
khoản đầu tư tư nhân bằng việc cung cấp tài chính cho những mục
đích hữu ích từ nguồn từ bản của tổ chức.
Ngân hàng chỉ cho các thành viên vay nợ đối với những kế
hoạch cụ thể. Trước khi một nước nhận được khoản vay, những
chuyên gia và các nhà tư vấn đại diện cho ngân hàng phải quyết
định về khả năng của bên vay. Hầu hết những điều kiện được đưa
ra nhằm đảm bảo khoản vay sẽ được sử dụng hợp lý và sẽ được
hoàn trả đúng thời hạn. Ngân hàng yêu cầu rằng bên vay không

được vay thêm từ nguồn khác và kế hoạch đưa ra phải khả thi va
có cơ sở về mặt kinh tế. Để đảm bảo việc hoàn trả, chính phủ
thành viên phải bảo hiểm cho khoản vay trong lãnh thổ của mình.
Sau khi đã đồng ý cho vay, báo cáo hàng quý của của bên vay và
của những đại diện của ngân hàng về việc sử dụng khoản vay và
tiền trình của kế hoạch sẽ được gửi tới ngân hàng.
Trong thời kì đầu, hầu hết các khoản dành cho các nước Châu
Âu để tái thiết nền kinh tế đã bị phá hủy nặng nề sau Thế chiến II.
Từ cuối những năm 60, hầu hết các khoản vay là của các nước
đang phát triển ở Châu Phi, Châu á và Châu Mỹ Latin. Trong
những năm 80 ngân hàng quan tâm đặc biệt tới những kế hoạch
mang lại lợi Ých trực tiếp cho những người nghèo nhất ở các nước
phát triển bằng cách giúp họ tăng năng suất và tiếp cận được với
những nhu cầu thiết yếu như nước sạch và các phương tiện xử lý
rác thải, chăm sóc sức khoẻ, kế hoạch hoá gia đình, đình dưỡng,
giáo dục và nhà cửa. Ngoài ra còn có những hoạt động về phát
triển nông nghiệp và nông thôn, những xí nghiệp quy mô nhỏ,
phát triển đô thị, năng lượng và các vấn đề sinh thái.
 Nguồn tư bản.
Ngân hàng có các cổ phần tư bản, giá trị của mỗi cổ phần là
khoảng $120.000. Số lượng tối thiểu các cổ phần mà các nước
thành viên phải mua phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế của mỗi
nước. Không phải tất cả khoản tiền nhận được sau khi bán cổ phần
đều có sẵn trong ngân hàng, chỉ khoảng 8,5% số tiền góp của mỗi
nước thành viên thực sự nằm trong ngân hàng. Phần còn lại được
đặt cọc phòng trường hợp ngân hàng cần tiền để trả những khoản
nợ riêng, và trường hợp này chưa bao giờ xảy ra. Quỹ hoạt độn g
của ngân hàng được bổ sung từ các hoạt động thu lợi nhuận trên
thị trường tư bản thế giới, từ khoản hoàn trả của các khoản vay cũ
và tư lợi nhuận của các hoạt động riêng. Từ khi ra đời vào năm

1947, hàng năm ngân hàng luôn thu được lợi nhuận.
Quản lý ngân hàng là một hội đồng quản trị, mỗi uỷ viên được
cử ra từ mỗi nước thành viên. Hội đồng họp Ýt nhất một lần trong
một năm. Các uỷ viên uỷ quyền cho 24 giám đốc quản trị, những
người này tiếp xúc thường xuyên tại trụ sở của ngân hàng ở
Washington. Năm người trong số đó có được cử ra từ 5 nước nắm
lượng cổ phần lớn nhất trong ngân hàng. Những người còn lại
được các uỷ viên bầu từ các nước thành viên khác và có nhiệm kỳ
2 năm. Giám đốc (chủ tịch) của Ngân hàng Thế giới được bầu với
nhiệm kì 5 năm, và không đồng thời là uỷ viên hay giám đốc quản
trị. Hiện nay ngân hàng có 183 thành viên.
 Các tổ chức liên quan.
Ngân hàng thế giới có hai tổ chức liên quan: Hiệp hội tài
chính quốc tế (IFC) thành lập năm 1956 và Hiệp hội Phát triển
quốc tế (IDA), thành lập năm 1960. Ba thể chế này riêng biệt về
luật pháp và tài chính, nhưng Ngân hàng thế giới và IDA có chung
ban quản trị, IFC sử dụng các dịch vụ hành chính của ngân hàng.
2. Quỹ tiền tệ Quốc tế.
 Giới thiệu.
Mục đích của Quỹ tiền tệ quốc tế là thúc đẩy hợp tác tiền tệ
quốc tế nhằm mở rộng thương mại quốc tế. IMF hoạt động như
một tổ chức chuyên biệt của Liên Hợp Quốc và là diễn đàn cho
các vấn đề về thanh toán quốc tế, trong đó các nước thành viên
được khuyến khích duy trì mô hình tỷ giá hối đoái phù hợp và hạn
chế các chính sách giới hạn trao đổi, IMF bắt đầu hoạt động từ
năm 1947 và cho tới nay, tổ chức đã có 183 nước là thành viên
(2001).
 Hoạt động
Các thành viên báo cáo cho IMF về những chính sách và kinh
tế liên quan tới giá trị trao đổi của đồng nội tệ đ ể các thành viên

khác có thể đưa ra những quyết sách phù hợp. Khi tham gia vào tổ
chức, mỗi thành viên có một quota về quyền rút vốn đặc biệt SDR,
đây là đơn vị tài khoản của quỹ có giá trị dựa trên giá trị trung
bình của năm đồng tiền mạnh nhất (Vào 10/20 01, SDR có giá trị
khoảng 1,29 USD) Quota của mỗi thành viên tương ứng với vị trí
hiện tại của nước đó trong nền kinh tế thế giới. Hoa Kỳcó quota
lớn nhất 37,1 tỷ SDR (2001). Lượng quota quyết định trọng lượng
của lá phiếu của mỗi nước trong các cuộc bàn l uận, lượng ngoại tệ
nước đó có thể rót ra khỏi quỹ và lượng SDR nước đó nhận được
theo quý.
Các thành viên gặp khó khăn trong cán cân thanh toán có thể
đăng ký về nhu cầu ngoại tệ để sử dụng trong một khoảng thời
gian nhất định (tối đa là 5năm) để điều chỉnh cán cân thanh toán.
Bên vay sẽ trả lãi suất cho khoản dự trữ đã dùng, phần lớn khoản
tiền đó thuộc về nước thành viên có đồng tiền được dùng đến, số
tiền còn lại sẽ được dành cho chi phí hoạt động của quỹ.
Tổ chức.
Ban quản trị bao gồm các quan chức tài chính cấp cao của mỗi
nước thành viên. Hội đồng quản trị gồm 24 thành viên sẽ chịu
trách nhiệm về các hoạt động hàng ngày của Quỹ (các thành viên
của Hội đồng này là đại diện của các nước lớn hoặc các nhóm
nước nhỏ). Chủ tịch của quỹ cũng là chủ tịch c ủa Hội đồng quản
trị. Trụ sở của IMF đặt tại Washington
IV.Sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ dựa trên chế độ bản vị Đôla
1. Nguyên nhân sụp đổ của hệ thống
Không thể phủ nhận rằng hệ thống BWS đã thành công phần
nào trong việc thúc đẩy hoạt động kinh tế thế giới đặc biệt trong
giai đoạn từ khi hệ thống ra đời đến giữa những năm 60. Song
BWS tồn tại nhiều khuyết điểm đưa đến sự sụp đổ của nó. Có hai
nguyên nhân chính giải thích cho sự sụp đổ của BWS là vấn đề

thanh khoản và sự thiếu vắng một cơ chế điều chỉnh phù hợp.
- Vấn đề thanh khoản:
Với cơ chế hoạt động của mình BWS, chỉ hoạt động hiệu quả
khi các ngân hàng trung ương còn niềm tin để nắm giữ USD là
m
dự trữ. Và lòng tin vào USD chỉ tồn tại c hừng nào các NHTW Mỹ
còn tiếp tục đổi USD ra vàng với giá $35/ounce.
Khi thương mại quốc tế phát triển sẽ làm tăng dự trữ ngoại
hối quốc tế, chủ yếu là USD. Dự trữ đô la của các nước (ngoài
Mỹ) tăng dẫn đến sự thâm hụt trong cán cân thanh toán của Mỹ
ban đầu sự thâm hụt này tỏ ra cần thiết nhưng sau đó nó trở nê
n
trầm trọng. Tình trạng dự trữ đô la của các ngân hàng nước ngo
ài
tăng lên nhanh chóng với tốc độ không mong muốn dẫn đến trữ
lượng đô la của các nước này nhiều hơn trữ lượng vàng Mỹ có, khi
chính phủ Mỹ béc lộ hết khả năng thanh toán (chuyển đổi USD
ra
vàng tại mức giá $35/ounce như cam kết), USD được dự tính là sẽ
mất giá so với vàng. Do đó các ngân hàng trung ương nước ngo
ài
ồ ạt chuyển đổi USD dự trữ của mình ra vàng. Do lượng vàng
không đủ nên cuối cùng chính phủ Mỹ buộc phải từ chối việc
chuyển đổi USD ra vàng, nghĩa là chấm dứt duy trì tỉ giá cố đị
nh
với USD, làm cho BWS sụp đổ. Như vậy do bị mất lòng khi lượng
vàng của Mỹ không đủ để thanh khoản các khoản nợ, nên BWS
lâmvào tình trạng tồi tệ và lối thoát cuối cùng là sự sụp đổ của nó.
- - Sự thiếu vắng một cơ chế điều chỉnh:
Bretton Wood cho phép điều chỉnh tỷ giá chính thức như là biện pháp cuối

cùng để điều chỉnh sự mất cân đối cơ bản trong BOP của các nước thành viên. Tuy
nhiên trong thực tế các quốc gia có BOP mất cân đối tỏ ra rất miễn cưỡng khi thực
hiện cac biện pháp như: phá giá, nâng giá, hay các chính sách kinh tế khác nhằm
duy trì trạng thái cân bằng của BOP.
Về phía Mỹ: Cho dù tỷ lệ lạm phát sau nhiều năm tuy có cao, nhưng chính
phủ Mỹ không thể phá giá USD đối với vàng được, bởi vì nếu phá giá sẽ làm xói
mòn lòng tin vào toàn hệ thống Bretton Woods. Hơn nữa, giả sử chính phủ Mỹ phá
giá USD so với vàng thì cũng không cải thiện được sức cạnh tranh thương mại
quốc tế nếu như các bạn hàng vẫn duy trì tỷ giá cố định đối với USD. Như vậy, để
duy trì và kiểm soát được thâm hụt BOP chính phủ Mỹ buộc phải áp dụng các
chính sách thiểu phát nền kinh tế.
Đối với các nước có BOP thâm hụt: Rõ ràng hành động phá giá là phương
thuốc cuối cùng để cải thiện BOp của các nước bị thâm hụt. Nhưng thực tế chỉ ra
rằng các nước có BOp thâm hụt lại tỏ ra rất miễn cưỡng khi phá giá đồng tiền của
mình, bởi vì phá giá thường được xem là biểu hiện yếu kém của chính phủ và của
cả một quốc gia. Một khi các quốc gia có thâm hụt BOP miễn cưỡng áp dụng các
chính sách thiểu phát nền kinh tế cũng như phá giá đồng bản tiền tệ, có nghĩa là hệ
thống Bretton Woods phải trông chờ vào các nước có thặng dư BOP làm một cái gì
đó để BOP của họ giảm xuống.
Đối với các nước có thặng dư BOP như Đức, Nhật, Thuỵ Sỹ cũng muốn
chứng tỏ rằng việc nâng giá đồng tiền của họ cũng khó khăn và miễn cưỡng chẳng
kém gì các nước phải phá giá đồng tiền. Điều này xảy ra là vì khi đồng tiền của họ
tiếp tục được định giá thấp sẽ cho phép duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong xuất
khẩu và hướng nền kinh tế vào sản xuất hàng xuất khẩu. Họ lo ngại rằng nếu nâng
giá đồng bản tệ sẽ khiến cho tăng trưởng xuất khẩu chậm lại, thất nghiệp gia tăng
bởi vì các ngành sản xuất hàng xuất khẩu phải co lại. Hơn nữa, các quốc gia này
không dễ gì áp dụng chính sách mở rộng tiền tệ như là các biện pháp giảm thặng
dư BOP bởi vì họ luôn lo ngại về những hậu quả của lạm phát có thể gây ra.
Trong chế độ tỷ giá cố định, áp lực luôn đè nặng lên con nợ phải tiến hành
biện pháp điều chỉnh nào đó bởi vì nếu không dự trữ ngoại hối sẽ cạn kiệt để bảo

vệ tỷ giá.
- Về đặc quyền phát hành USD:
Vai trò độc tôn của USD bao hàm ý rằng, nước Mỹ là người cung cấp nguồn
thanh khoản quốc tế chủ yếu dưới chế độ Bretton Woods. Để có được nguồn dự trữ
quốc tế, phần thế giới còn lại (không phải Mỹ) phải duy trì BOP luôn ở trạng thái
thặng dư, trong khi đó Mỹ phải duy trì một BOP luôn thâm hụt. Điều này có nghĩa
là phần còn lại của thế giới phải tiêu dùng ít hơn những gì mà chính nó sản xuất ra,
trong khi đó nước Mỹ có đặc quyền là có thể tiêu dùng nhiều hơn những gì mà
chính nước Mỹ sản xuất ra.

×