Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Thực trạng phát triển của thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (958.05 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG 4
CHỨNG KHOÁN 4
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG 13
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 13
KẾT LUẬN 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
Lời mở đầu
Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển. Do đó, nhu cầu về tích vốn
trong xã hội tăng lên và trở nên đa dạng, phong phú; người thì cần vốn cho mục đích
tiêu dùng hay đầu tư, người thì có vốn nhàn rỗi muốn cho vay để sinh lời. Đầu tiên, họ
tìm gặp nhau trực tiếp trên cơ sở quen biết. Tuy nhiên sau đó, khi cung cầu vốn không
ngừng tăng lên thì hình thức vay, cho vay trực tiếp dựa trên quan hệ quen biết không
đáp ứng được. Vậy cần phải có một thị trường cho cung và cầu gặp nhau, đáp ứng các
nhu cầu tài chính của nhau – Đó là thị trường tài chính. Thông qua thị trường tài chính,
nhiều khoản vốn nhàn rỗi được huy động vào tiêu dùng, đầu tư, tạo đòn bẩy cho phát
triển kinh tế. Theo thời gian, cùng với sự phát triển kinh tế, nhu cầu về vốn dài hạn cho
đầu tư phát triển ngày càng cao. Chính vì vậy, Thị trường vốn đã ra đời để đáp ứng các
nhu cầu này. Để huy động được vốn dài hạn, bên cạnh việc đi vay ngân hàng thông
qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và doanh nghiệp còn huy động vốn thông
qua hình thức phát hành chứng khoán. Khi một bộ phận các chứng khoán có giá trị
nhất định được phát hành, thì xuất hiện nhu cầu mua, bán chứng khoán; và đây chính
là sự ra đời của Thị trường chứng khoán với tư cách là một bộ phận của Thị trường
vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua, bán và trao đổi chứng khoán các loại.
Thị trường chứng khoán Việt Nam mới ra đời đầu năm 2000. Thuật ngữ “Thị
trường chứng khoán” còn khá mới mẻ đối với công chúng Việt Nam. Trong khi đó ở
nhiều nước trên thế giới thị trường chứng khoán đã phát triển rất sôi động. Đầu tư vào
chứng khoán đã trở nên quan trọng đối với mọi người.
Để tham gia vào thị trường chứng khoán, mọi người đều phải có những kiến thức


nhất định về thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ có thể phát triển nếu
có sự tham gia ngày càng đông của những người có đầy đủ kiến thức về thị trường
chứng khoán. Do đó, kiến thức của mọi người dân về thị trường chứng khoán ở Việt
Nam cần được nâng cao. Thị trường chứng khoán có sự hấp dẫn vốn có của nó. Nó
không chỉ quan trọng đối với nền kinh tế của một nước mà còn quan trọng đối với mỗi
người bởi khả năng sinh lợi của nó. Vì vậy, mỗi người tùy theo điều kiện, khả năng
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
2
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
của mình mà cần phải tiếp cận thật nhanh để tham gia đầu tư có hiệu quả vào thị
trường chứng khoán.
Với tư cách là một sinh viên kinh tế chuyên ngành tài chính-một nhà đầu tư tương
lai, em rất quan tâm đến vấn đề này. Để giúp bản thân và mọi người nắm rõ hơn về thị
trường chứng khoán Việt Nam, em đã chọn đề tài “ Tình hình thị trường chứng khoán
Việt Nam” cho đề án của mình.
Nội dung chính của đề án gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán
Chương 2: Thực trạng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời
gian đến
Do hạn chế về lý luận, điều kiện nghiên cứu, nên đề án không tránh khỏi những
thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
3
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN

1.1. Khái niệm và chức năng của thị trường chứng khoán (TTCK)
1.1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán
Vào khoảng giữa thế kỉ XV, ở các thành phố trung tâm thương mại của các
nước phương tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán café để bàn bạc về việc
mua bán, trao đổi các loại hàng hóa (chủ yếu là nông sản, khoáng sản, ngoại tệ và giá
khoán động sản…). Những cuộc bàn bạc này lúc đầu chỉ là những nhóm nhỏ, dần dần
số người gia tăng, rồi hình thành một “khu chợ riêng”. Tại những cuộc bàn bạc này, họ
trao đổi, thương lượng, nhưng chỉ là những lời nói miệng với nhau, không có hàng
hóa, ngoại tệ, giá khoán động sản hay bất cứ một loại giấy tờ, hàng mẫu nào trong tay
cả. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau các hợp đồng mua bán,
trao đổi thực hiện ngay, và những hợp đồng cho tương lai 3 tháng, 6 tháng hay 1 năm
sau mới thực hiện. Cuối thế kỉ 15, “khu chợ riêng” trở thành một “thị trường”, ở đó họ
thống nhất với nhau những quy ước cho các cuộc thương lượng. Dần dần những quy
ước đó được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung. Giao
lưu kinh tế ngày càng phát triển, những phiên chợ cách nhau cả tháng không còn phù
hợp nên họ đã rút ngắn xuống hàng tuần và sau đó là hàng ngày. Phiên chợ đầu tiên
diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình Vanber ở Bruges (Bỉ). Sau đó xuất
hiện ở Anh năm 1773, ở Đức 1778, ở Mỹ 1792, ở Thụy Sỹ 1876, ở Nhật Bản 1878, ở
Pháp 1801, ở Hương Cảng 1946, ở Hàn Quốc 1956, ở Thái Lan 1962, ở Malaysia và
Philippines 1963.
Lịch sử ghi nhận rằng, thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách rất
tự phát và sơ khai, xuất phát từ một nhu cầu đơn lẻ ở buổi ban đầu với sự tham gia của
các nhà đầu cơ, dần dần về sau mới có sự tham gia của công chúng đầu tư. Khi phát
triển đến một mức độ nhất định, thị trường bắt đầu phát sinh những trục trặc dẫn đến
việc phải thành lập cơ quan quản lí nhà nước và hình thành hệ thống pháp lí để điều
chỉnh hoạt động của thị trường. Lịch sử phát triển của thị trường chứng khoán thế giới
trải qua nhiều thăng trầm, lúc lên lúc xuống. Cho đến nay, thị trường chứng khoán
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
4
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN

ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
phát triển ở mức có thể nói là không thể thiếu trong đời sống kinh tế của những nước
theo cơ chế thị trường và nhất là những nước đang phát triển đang cần thu hút nguồn
vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế quốc dân.
1.1.2. Khái niệm về thị trường chứng khoán
Thị trường vốn là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính, hoạt động
của nó nhằm huy động những khoản vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung thành
những nguồn vốn lớn tài trợ dài hạn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và nhà
nước để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư. Công cụ trao
đổi trên thị trường vốn đa số là các chứng khoán, nên thị trường vốn còn được gọi là
thị trường chứng khoán. TTCK là thị trường có tổ chức, là nơi mà các chứng khoán
được mua bán theo các quy tắc đã được ấn định.
TTCK là thị trường vốn dài hạn, tập trung các nguồn vốn cho đầu tư và phát
triển kinh tế, do đó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và nền kinh tế
nói chung. Mặt khác, TTCK là một thị trường cao cấp, nơi tập trung nhiều đối tượng
tham gia với các mục đích, sự hiểu biết và lợi ích khác nhau; các giao dịch, các sản
phẩm tài chính được thực hiện với giá trị rất lớn. Đặc tính đó khiến cho TTCK cũng là
môi trường dễ xảy ra các hoạt động kiếm lợi không chính đáng thông qua các hoạt
động gian lận, không công bằng, gây tổn thất cho các nhà đầu tư, tổn thất cho thị
trường và cho toàn bộ nền kinh tế.
Mỗi thị trường có cơ chế điều hành và giám sát thị trường riêng, phù hợp với
các tính chất và đặc điểm của riêng nó.
1.1.3. Chức năng của thị trường chứng khoán
- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán
do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào sản xuất kinh doanh và
qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của
công ty, TTCK đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy
động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế,
phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.

GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
5
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: TTCK cung cấp cho công chúng
một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng
khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các
nhà đầu tư có thể lựa chọn các loại hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở
thích của mình.
- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô: Các
chỉ số của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác.
Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng
và ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế.
Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng
giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ
có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân
sách, thực hiện chính sách tiền tệ. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số
chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự
phát triển cân đối của nền kinh tế.
- Tạo tính thanh khoản cho chứng khoán: Nhờ có TTCK, các nhà đầu tư có thể
chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác
khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng
khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu
tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì càng nâng cao tính thanh
khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường.
- Đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp: Thông qua giá chứng khoán, hoạt
động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho
việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận
tiện, từ đó tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. Sự biến động không ngừng

của giá chứng khoán, đặc biệt là giá của cổ phiếu giúp nhà đầu tư có thể đánh giá doanh
nghiệp một cách khách quan và khoa học tại bất kỳ thời điểm nào. Ngoài ra, các công ty
niêm yết phải công khai thông tin trên TTCK, giúp các nhà đầu tư, các nhà quản lý thị
trường có thể đánh giá sự tăng trưởng ổn định hay suy thoái của các công ty.
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
6
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
- Hỗ trợ và thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và phát triển: TTCK hỗ trợ
chương trình cổ phần hóa cũng như việc thành lập và phát triển của công ty cổ phần
qua việc quảng bá thông tin, định giá doanh nghiệp, bảo lãnh phát hành, phân phối
chứng khoán, tạo tính thanh khoản cho chúng và như thế thu hút các nhà đầu tư góp
vốn vào công ty cổ phần. Ngược lại, chính sự phát triển của mô hình công ty cổ phần
đã làm phong phú và đa dạng các loại hàng hóa trên TTCK, thúc đẩy sự phát triển sôi
động của TTCK. Có thể nói TTCK và công ty cổ phần là 2 định chế song hành hỗ trợ
nhau cùng phát triển.
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: TTCK không những thu hút các nguồn vốn
nội địa mà còn giúp Chính phủ và các doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu hoặc
cổ phiếu của công ty ra thị trường vốn quốc tế để thu hút thêm ngoại tệ. Việc thu hút
vốn đầu tư nước ngoài qua kênh chứng khoán (FPI) là rất an toàn và hiệu quả vì các
chủ thể phát hành được toàn quyền sử dụng vốn huy động cho mục đích riêng mà
không bị ràng buộc bởi bất kỳ điều kiện nào của các nhà đầu tư nước ngoài.
1.1.4. Các hình thức của thị trường chứng khoán
- Thị trường chứng khoán chính thức (The stock exchange) hay còn gọi là thị
trường chứng khoán tập trung: là thị trường hoạt động theo các quy định pháp luật, là
nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng kí và chứng khoán ngoại lệ (chứng
khoán đăng kí là loại chứng khoán được cơ quan có thẩm quyền cho phép mua bán,
chứng khoán ngoại lệ là loại chứng khoán được miễn giấy phép của cơ quan có thẩm
quyền do các cơ quan công quyền phát hành và đảm bảo). Thị trường chứng khoán
chính thức có địa điểm và thời điểm mua bán rõ rệt, giá cả được quy định theo thể thức

đấu giá công khai, có sự kiểm soát của ủy ban chứng khoán. Thị trường chứng khoán
chính thức được thể hiện bằng các sở giao dịch chứng khoán (Stock exchange).
- Thị trường chứng khoán phi chính thức (Over the counter market-OTC), hay
còn gọi là thị trường chứng khoán phi tập trung: là thị trường mua bán chứng khoán
ngoài sở giao dịch, không có địa điểm tập trung những người môi giới, những người
kinh doanh chứng khoán như ở Sở giao dịch chứng khoán, không có sự kiểm soát của Ủy
ban chứng khoán, không có ngày giờ hay thủ tục nhất định mà do sự thỏa thuận của người
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
7
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
mua và người bán. Các loại chứng khoán giao dịch trên thị trường này thường là các loại
chứng khoán không được đăng kí, ít người biết hay ít được mua bán.
1.2. Cơ cấu, mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
1.2.1. Cơ cấu của thị trường chứng khoán
- Căn cứ vào phương thức giao dịch:
+ Thị trường giao ngay (Thị trường thời điểm): thị trường giao dịch mua bán
theo giá của ngày giao dịch, việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra sau đó vài ngày
(tùy theo mỗi thị trường chứng khoán quy định riêng số ngày).
+ Thị trường tương lai: thị trường mua bán chứng khoán theo những hợp đồng
mà giá cả được thỏa thuận ngay trong ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và giao
hoán sẽ diễn ra trong một kì hạn nhất định trong tương lai.
- Căn cứ vào quá trình luân chuyển của chứng khoán:
+ Thị trường sơ cấp: là nơi diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán mới phát
hành lần đầu. Thị trường sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành.
+ Thị trường thứ cấp: là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán đến
tay người thứ hai, tức là thị trường diễn ra việc mua đi bán lại các chứng khoán đã
được phát hành qua thị trường sơ cấp.
- Căn cứ vào đặc điểm hàng hóa lưu thông trên thị trường:
+ Thị trường cổ phiếu

+ Thị trường trái phiếu
+ Thị trường chứng khoán phái sinh
1.2.2. Mục tiêu quản lí và điều hành thị trường chứng khoán
- Hoạt động hiệu quả
- Điều hành công bằng
- Phát triển ổn định
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
8
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
1.2.3. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
- Nguyên tắc đấu giá: theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ
cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị
trường sơ cấp các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình
cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục
tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm
kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức
đấu giá.
- Nguyên tắc công bằng: nguyên tắc này nhằm đảm bảo lợi ích cho tất cả những
người tham gia thị trường. Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều
phải tuân thủ những qui định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và
trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó.
- Nguyên tắc công khai: chứng khoán là các hàng hóa trừu tượng, người đầu tư
không thể kiểm tra trực tiếp các chứng khoán như các hàng hóa thông thường mà phải
dựa trên cơ sở các thông tin có liên quan. Vì vậy TTCK phải được xây dựng trên cơ sở
hệ thống công bố thông tin tốt. Theo Luật định, các bên phát hành chứng khoán có
nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực và kịp thời những thông tin có liên quan tới tổ
chức phát hành, tới đợt phát hành. Công bố thông tin được tiến hành khi phát hành lần
đầu cũng như theo các chế độ thường xuyên và đột xuất, thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng, Sở giao dịch chứng khoán, các công ty chứng khoán và các tổ

chức có liên quan khác. Nguyên tắc này nhằm bảo vệ người đầu tư, song đồng thời nó
cũng hàm nghĩa rằng, một khi đã được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và chính
xác thì người đầu tư phải chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình.
- Nguyên tắc trung gian: theo nguyên tắc này, trên TTCK, các giao dịch được
thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ
cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của các nhà phát hành mà mua từ các
nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới,
kinh doanh, các công ty chứng khoán mua bán chứng khoán giúp các khách hàng,
hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng
khoán trên tài khoản của mình.
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
9
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
1.3. Chủ thể tham gia và cơ chế điều hành thị trường chứng khoán
1.3.1. Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
- Nhà phát hành: Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua
TTCK. Nhà phát hành là người cung cấp chứng khoán-hàng hóa của TTCK. Chính
phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu
địa phương. Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các tổ chức
tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ
hưởng… phục vụ cho các hoạt động của họ.
- Nhà đầu tư: Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên
TTCK. Nhà đầu tư có thể chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ
chức. Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn tạm thời nhàn rỗi, tham gia mua bán
trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận lại
luôn gắn liền với rủi ro, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại. Chính vì
vậy các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả
năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình. Nhà đầu tư có tổ chức, hay còn gọi
là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị

trường. Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia
có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Một số nhà
đầu tư chuyên nghiệp chính trên TTCK là các công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm,
các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu
tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hóa các danh mục đầu tư và các quyết định đầu
tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm.
- Nhà môi giới – Công ty chứng khoán: Công ty chứng khoán là những công ty hoạt
động trong lĩnh vực chứng khoán có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ
chính là bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý quỹ đầu tư và tư vấn đầu tư
chứng khoán. Để có thể thực hiện mỗi nghiệp vụ, các công ty chứng khoán phải đảm bảo
được một số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền.
1.3.2. Cơ chế điều hành thị trường chứng khoán
Nhìn chung, các tổ chức tham gia quản lý và giám sát thị trường gồm 2 nhóm:
các cơ quan quản lý của Chính phủ và các tổ chức tự quản.
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
1
0
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
- Các cơ quan quản lý của Chính phủ: Đây là các cơ quan thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước đối với hoạt động của TTCK. Nhìn chung, các cơ quan quản lý thị
trường của Chính phủ chỉ thực hiện các chức năng quản lý chứ không trực tiếp điều
hành và giám sát thị trường. Các cơ quan này có thẩm quyền ban hành các quy định
điều chỉnh các hoạt động trên TTCK tạo nên cơ sở cho các tổ chức tự quản trực tiếp
thực hiện các chức năng điều hành và giám sát thị trường của mình. Ủy ban chứng
khoán là cơ quan quản lý chuyên ngành của Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán với
các chức năng sau:
+ Thực hiện các qui định quản lý ngành chứng khoán của Bộ Tài chính, phối hợp
với các tổ chức tự quản để điều hành và giám sát có hiệu quả hoạt động của TTCK.
+ Kiểm soát mọi vấn đề trong hoạt động thị trường như đăng kí chứng khoán,

giám sát các công ty niêm yết, phát hiện và xử lý các trường hợp gian lận.
+ Quản lý trực tiếp các tổ chức tự quản, giám sát hoạt động của các tổ chức này,
xử lý các vi phạm nếu các tổ chức tự quản không xử lý được.
+ Thanh tra đối với các cá nhân hay tổ chức để bảo vệ lợi ích chung của công
chúng trong trường hợp có vi phạm pháp luật.
- Các tổ chức tự quản: Các tổ chức tự quản gồm có Sở giao dịch và Hiệp hội các
nhà kinh doanh chứng khoán.
+ Sở giao dịch là tổ chức tự quản bao gồm các công ty chứng khoán thành viên,
trực tiếp điều hành và giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán thực hiện trên Sở.
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện một số chức năng sau:
* Điều hành các hoạt động giao dịch diễn ra trên Sở thông qua việc đưa ra và
đảm bảo thực hiện các qui định cho các hoạt động giao dịch trên thị trường Sở giao
dịch.
* Giám sát, theo dõi các giao dịch giữa các công ty thành viên và các khách hàng
của họ. Khi phát hiện các vi phạm, Sở giao dịch tiến hành xử lý, áp dụng các biện
pháp cưỡng chế thích hợp.
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
1
1
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
* Hoạt động điều hành và giám sát của Sở giao dịch phải được thực hiện trên cơ
sở phù hợp với các qui định pháp luật có liên quan đến ngành chứng khoán.
+ Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty chứng
khoán được thành lập với mục đích tạo ra tiếng nói chung cho toàn ngành kinh doanh
chứng khoán và đảm bảo lợi ích chung của TTCK. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng
khoán thực hiện các chức năng điều hành và giám sát TTCK như sau:
* Điều hành và giám sát thị trường giao dịch phi tập trung. Các công ty muốn
tham gia thị trường này phải đăng ký với Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán và
phải thực hiện các qui định do Hiệp hội đưa ra.

* Đưa ra các quy định chung cho các công ty chứng khoán thành viên trong các
lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và đảm bảo thực hiện các quy định này.
* Thu nhận các khiếu nại của khách hàng và điều tra các công ty chứng khoán
thành viên để tìm ra các vi phạm, sau đó chuyển các kết quả điều tra tới công ty chứng
khoán đó để giải quyết.
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
1
2
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1. Các giai đoạn phát triển của TTCK Việt Nam
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi, thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời
ngày 11-7-1998 sau khi Chính phủ ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán.
Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Thực ra, việc chuẩn bị cho TTCKVN đã được thể
hiện bằng Nghị định 75/CP ngày 28-11-1996 của Ủy ban Chứng khoán Việt Nam.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM) được thành
lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt
động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000.
Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức chào đời
vào ngày 8/3/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao dịch
chứng khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho các DN nhỏ
và vừa (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
2.1.1. Giai đoạn 2000 – 2005: Giai đoạn chập chững biết đi của TTCKVN
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa
vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và
thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ
có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và

một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch. Từ đó cho đến 2005, thị
trường luôn ở trong trạng thái “ngủ gà ngủ gật”, loại trừ cơn sốt vào năm 2001, chỉ số
VN-Index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng chỉ trong vòng chưa
đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị,
chỉ số VN Index sụt từ 571,04 điểm vào ngày 25/4/2001 xuống chỉ còn khoảng 200
điểm vào tháng 10/2001. Trong 4 tháng “hoảng loạn” này, trong khi nhiều nhà đầu tư
tháo chạy khỏi thị trường với “lời thề” không bao giờ quay lại thì một số nhà đầu tư
khác vẫn bình tĩnh bám trụ, âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm được lợi nhuận. Lý do
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
1
3
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
chính là ít hàng hoá, các doanh nghiệp niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng, không hấp
dẫn nhà đầu tư trong nước.
Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCKHN) chính
thức đi vào hoạt động. Giai đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỉ lệ nắm giữ
của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng).
Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự
quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo
ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng
như tới cuộc sống của mỗi người dân.
Sau đây là bảng số liệu tình hình hoạt động chứng khoán 5 năm đầu tiên:
Theo thống kê của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết năm 2005,
tổng giá trị thị trường chứng khoán việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng, chiếm 0,69%
tổng thu nhập quốc nội (GDP).
2.1.2. Giai đoạn 2006 – 2007: Sự đột phá và bùng nổ của TTCKVN
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột
phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt
động giao dịch sôi động tại cả 3 sàn: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao

dịch Hà Nội và thị trường OTC. Không thể phủ nhận rằng trong năm 2006 thị trường
chứng khoán Việt Nam non trẻ đã có “màn trình diễn” tuyệt vời và có thể sẽ không
bao giờ có lại được với khối lượng vốn hoá tăng gấp 15 lần trong vòng 1 năm.
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
1
4
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
Diễn biến giao dịch trên HOSE-2006
Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006, thị trường chứng
khoán Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới, chỉ sau
Dim-ba-buê. Và sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng “hút hồn” các
nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Bước sang năm 2007, Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã
góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị
trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được
tăng cường.
Sau đây là bảng số liệu chi tiết về sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán
qua 2 năm 2006 và 2007:
2006 2007
VN-Index 809,86 điểm. 927,02 điểm
Mức tăng trưởng VN-Index 166% 23%
Mức vốn hoá TTCP (% GDP) 22,7% GDP 39% GDP
Số lượng công ty niêm yết 193
250
Số lượng tài khoản khách hàng 120.000 200.000
TK nước ngoài 2000 8000
2.1.3. Giai đoạn 2008: Cùng với xu thế chung của nền kinh tế, TTCKVN khép lại
năm 2008 với sự sụt giảm mạnh
Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, TTCK Việt Nam khép lại năm 2008

với sự sụt giảm mạnh: VN-Index giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh
(nhiều mã cổ phiếu rơi xuống dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của
khối ngoại, sự can thiệp của các cơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các nhà
đầu tư.
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
1
5
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
Khởi đầu năm tại mức điểm 921,07, VNI-ndex đã mất đi gần 60% giá trị và trở
thành một trong những thị trường giảm điểm mạnh nhất trên thế giới trong nửa đầu
năm 2008. Nhờ vai trò dẫn dắt của một số cổ phiếu blue-chip và sức cầu hỗ trợ từ đối
tác nước ngoài, cả hai sàn chứng khoán đã có được những phiên tăng điểm mạnh từ
tháng 6 đến tháng 9. VN-Index tăng được 168,55 điểm. Khối lượng giao dịch bình
quân đạt 16,9 triệu CP&CCQ, tương đương 599,18 tỷ đồng/phiên. Thời điểm cuối năm
2008 VN-Index rơi trở lại xu hướng giảm, thậm chí đã phá vỡ đáy thiết lập được đầu
năm. VN-Index mất 223,48 điểm, tương đương 41,45%. Khối lượng giao dịch trung
bình đạt 15,82 triệu CP&CCQ, tương đương 497,58 tỷ đồng/phiên.

GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
1
6
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
Nguyên nhân chính tác động lớn nhất tới TTCK trong giai đoạn này chính là sự
lan tỏa mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới. Hòa cùng xu thế giảm
điểm của TTCK các nước, 2 chỉ số chứng khoán tại sàn HOSE và HaSTC liên tiếp
giảm điểm. Trong 86 phiên giao dịch tại HOSE, 49 phiên VN-Index mất điểm. Đáy
mới thiết lập trong giai đoạn này là 286,85 điểm vào ngày 10/12/2008.
2.1.4. Giai đoạn 2009 đến nay

Mặc dù về những tháng cuối năm 2009 thị trường chứng khoán Việt Nam đã có
điều chỉnh giảm do chính sách thắt chặt tiền tệ của Chính phủ, nhưng nhìn chung với
một chu kỳ tăng điểm kéo dài hơn 8 tháng thì cả năm 2009, thị trường chứng khoán
Việt Nam có một năm tăng trưởng rất ấn tượng.
Nếu tính từ ngày 1/1/2009 đến ngày 31/12/2009 thì VN-Index đã tăng thêm
171,96 điểm từ 312,9 điểm lên 494,77 điểm tương đương với mức tăng là 58%. Nếu
tính từ đáy thấp nhất trong năm khi VN-Index ở mốc 234,66 điểm vào ngày 24/2/2009
và đỉnh cao nhất là 633,21 điểm vào ngày 23/10/2009 thì Vn-Index đã tăng 2,69 lần.
Thị trường hình thành 2 đợt sóng tăng lớn là từ đầu tháng 3 đến đầu tháng 6 và
từ đầu tháng 8 đến cuối tháng 10. Trong khoảng thời gian này, thanh khoản liên tục đạt
kỷ lục trên cả hai sàn. Đối với sàn HOSE, phiên giao dịch ngày 23-10 được coi là
"siêu thanh khoản" khi lập kỷ lục cao nhất từ trước đến nay cả về khối lượng và giá trị
giao dịch với hơn 136 triệu đơn vị được chuyển nhượng, tương ứng giá trị giao dịch
lên đến 6,414 nghìn tỷ đồng; sàn HNX đạt kỷ lục với hơn 67,23 triệu cổ phiếu được
chuyển nhượng cùng 3,04 nghìn tỷ đồng được giải ngân. TTCK tăng trưởng mạnh mẽ,
nằm ngoài dự đoán của giới chuyên gia và trở thành điểm sáng ấn tượng khi có tốc độ
phục hồi nhanh nhất châu Á.
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
1
7
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
Quy mô giao dịch của thị trường chứng khoán từ năm 2006-2009
Thị trường chứng khoán năm 2010 không tăng ồ ạt và mạnh mẽ như năm 2009
mà chỉ có những con sóng “lăn tăn”, suy giảm mạnh nhưng phục hồi yếu. Nguyên
nhân của tình trạng này là do những tác động của kinh tế vĩ mô, việc ban hành Thông
tư 13, sức ép lãi suất cũng như lực hút từ thị trường tiền tệ, bất động sản và vàng đã
làm suy giảm đáng kể dòng tiền vào TTCK. Các cổ phiếu có sự biến động lớn về giá,
tuy nhiên chỉ số HNX-Index và VN-Index không có những cơn sóng đáng kể nào. Gần
nửa đầu năm 2010 là chu kì tăng của VN-Index, phần lớn thời gian còn lại VN-Index ở

mức 450-500 điểm. Hai đợt sụt giảm mạnh vào quý III đã khiến HNX-Index có lúc chỉ
còn xấp xỉ 97 điểm, còn VN-Index cũng đã 2 lần tìm đến mốc hỗ trợ 420 điểm. Mặc
dù TTCKVN đã có sự phục hồi khá nhanh ở nửa đầu tháng 12, song sự phục hồi của
các chỉ số chứng khoán cũng không cao nếu so sánh với TTCK quốc tế. Về khối lượng
giao dịch, mức bình quân 40 triệu cổ phiếu một ngày không phải là thấp so với mức
trung bình năm 2009. Khối ngoại đóng vai trò rất lớn trong việc điều tiết thị trường với
giá trị mua ròng trên cả hai sàn HSX và HNX là trên 10.000 tỷ đồng tính đến tháng 9.
Tình hình thị trường chứng khoán 6 tháng đầu năm 2011 diễn biến khá ảm đạm.
Chỉ số VN-Index đã có lúc giảm xuống mức 371 điểm ngày 26/05/2011 và HNX-
Index cũng đã thiết lập mức đáy mới trong lịch sử của mình với 69 điểm ngày
25/5/2011. Chỉ số VN-Index bị thao túng bởi một nhóm cổ phiếu có vốn hóa lớn, tiêu
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
1
8
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
biểu là BVH, MNS, VIC, DPM, VCB, CTG, VNM, đây cũng là những cổ phiếu chiếm
tỷ trọng lớn trong danh mục đầu tư của khối ngoại. Động thái này đã giúp cho VN-
Index neo tại khu vực 450 – 480 điểm trong một thời gian khá dài trước khi sụt giảm
mạnh từ giữa tháng 5. Trong khi đó, chỉ số HNX phản ánh trung thực hơn so với VN-
Index do không bị bóp méo bởi một số cổ phiếu vốn hóa lớn, do đó nhiều cổ phiếu tại
đây đã sụt giảm khá sâu, đa số mất giá từ 50 – 100% thị giá so với mức đầu năm và
theo thống kê có tới 2/3 cổ phiếu có thị giá dưới mệnh giá. Với việc sụt giảm trong
suốt thời gian trên thì chỉ số P/E toàn thị trường chỉ còn khoảng 8.5, mức khá thấp so
với các thị trường chứng khoán các nước trên thế giới. Thực tế, nếu loại bỏ nhóm 03
cổ phiếu BVH, MSN, VIC thì thực tế VN-Index hiện đang ở mức 300 điểm, khá gần
với mức đáy thiết lập trong tháng 2/2009.
2.2. Thực trạng phát triển của TTCK Việt Nam hiện nay
Với lịch sử trên 500 năm thị trường chứng khoán thế giới, 10 năm TTCKVN
chỉ như là một đứa trẻ sơ sinh. Nhưng 10 năm đầu tiên, TTCKVN đã có sự phát triển

thần kỳ, vượt xa những dự tính ban đầu của nhiều người trong cuộc.
Đến nay, chúng ta có 2 sở giao dịch (SGD) và một thị trường UPCoM, với gần
600 loại cổ phiếu niêm yết, 105 công ty chứng khoán (CTCK), trên 50 quỹ đầu tư của
46 công ty quản lý quỹ, gần 1 triệu tài khoản giao dịch trên cả ba thị trường, trong đó
khoảng 25% là của người đầu tư nước ngoài, với gần 4.000 phiên giao dịch diễn ra an
toàn… Những thành tích đó trên thị trường thứ cấp đã tác động tích cực đến thị trường
phát hành. 10 năm qua, nhiều công ty đại chúng, đặc biệt là các công ty niêm yết đã
phát hành chứng khoán tăng vốn lên hàng chục, hàng trăm lần. Riêng 2 năm 2008-
2009 đã có 35.000 tỷ đồng giá trị cổ phiếu (tính theo mệnh giá) được phát hành ra
công chúng, góp phần làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp, thúc đẩy kinh tế phát
triển.
Ngoài những con số cụ thể rất ấn tượng đó, về phương diện vĩ mô, sự hình
thành và phát triển TTCK thể hiện nền kinh tế Việt Nam đã và đang chuyển đổi nhanh
chóng sang cơ chế thị trường. TTCK tạo ra những hình ảnh trực quan sinh động cho
người Việt Nam, là nhân tố quan trọng bước đầu tạo lập một “nền văn hóa chứng
khoán” trong công chúng.
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
1
9
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
2.2.1. Quy mô thị trường ngày càng mở rộng
Tính đến ngày 20/7/2010 – tròn 10 năm kể từ ngày thành lập, giá trị vốn hóa
toàn thị trường đạt hơn 40% GDP (khoảng 700.000 tỉ đồng). Từ 7 công ty chứng
khoán năm 2000 và 1 công ty quản lý quỹ, đến thời điểm hiện tại trên cả hai sàn có
tổng cộng 557 công ty niêm yết, 105 công ty chứng khoán, 45 công ty quản lý quỹ.
Toàn thị trường có 926 nghìn tài khoản của các NĐT tổ chức và cá nhân, trong đó
riêng NĐT nước ngoài có hơn 13.000 tài khoản với danh mục đầu tư nắm giữ đạt gần
7 tỉ USD. Sau 10 năm hoạt động, với quy mô thị trường tăng gấp hơn 30 lần, thị
trường chứng khoán là một nhân tố quan trọng của nền kinh tế Việt Nam và là một tác

nhân quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển cũng như quá trình hội nhập kinh tế
của đất nước. Thể hiện trên một số nội dung:
- Quy mô thị trường tăng trưởng mạnh, mở ra một kênh dẫn vốn quan trọng cho
nền kinh tế. Trong 5 năm đầu, giá trị giao dịch bình quân chỉ là 55 tỷ đồng/phiên. Tuy
nhiên, trong 5 năm tiếp theo giá trị giao dịch bình quân đã đạt 1.300 tỷ đồng/phiên.
Đặc biệt trong thời gian từ cuối năm 2009 đến nay, giá trị giao dịch bình quân đã đạt
trên 3.000 tỷ đồng/phiên. Số lượng công ty niêm yết cũng tăng lên liên tục, trong phiên
giao dịch đầu tiên chỉ có cổ phiếu của 2 công ty niêm yết, đến nay có trên 530 công ty
niêm yết, mức vốn hoá đạt trên 700 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 40% GDP.
- Cấu trúc của thị trường chứng khoán từng bước được hoàn thiện theo hướng
tách chức năng quản lý với chức năng tổ chức và vận hành thị trường, góp phần nâng
cao khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước. Phát triển thị trường cổ phiếu niêm yết
các cấp độ tại hai SGDCK, bảo đảm TTCK có tính thanh khoản cao, đáp ứng nhu cầu
của thị trường. Xây dựng và vận hành hệ thống giao dịch Trái phiếu Chính phủ chuyên
biệt tách khỏi thị trường cổ phiếu. Đưa vào vận hành hệ thống giao dịch cổ phiếu của
các công ty đại chúng chưa niêm yết UpCom, đưa cổ phiếu phát hành bởi các doanh
nghiệp nhà nước được cổ phần hóa và các công ty cổ phần thuộc khu vực tư nhân đang
giao dịch trên thị trường tự do vào giao dịch trên thị trường có sự quản lý, giám sát bởi
cơ quan quản lý nhà nước nhằm mở rộng thị trường có tổ chức, có sự quản lý và thu
hẹp dần thị trường tự do.
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
2
0
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
- Hệ thống các định chế tài chính trung gian của TTCK Việt Nam tăng mạnh về
số lượng cũng như chất lượng, tiềm lực tài chính và năng lực hoạt động của các tổ
chức này ngày càng được hoàn thiện.
- Hệ thống các nhà đầu tư trong và ngoài nước phát triển mạnh cả về số lượng
và chất lượng. Từ 3.000 tài khoản năm 2000, đến nay đã đạt gần 950.000 tài khoản.

Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các công ty chứng
khoán, các công ty quản lý quỹ, các doanh nghiệp bảo hiểm, quỹ đầu tư tích cực tham
gia trên TTCK, góp phần hình thành một hệ thống các nhà đầu tư chuyên nghiệp.
- Hệ thống văn bản pháp lý, khuôn khổ quản lý được phát triển một cách đồng
bộ, thống nhất, phù hợp với thực tiễn phát triển TTCK Việt Nam cũng như kinh
nghiệm và các thông lệ quốc tế, từ đó giúp cho TTCK hoạt động tốt hơn, đảm bảo tính
công bằng, công khai và minh bạch.
- Hàng hóa trên thị trường chứng khoán ngày càng đa dạng và phong phú. Hiện
nay, theo thống kê từ Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh thì có hơn 12.282
triệu chứng khoán đang niêm yết.
- Giá trị giao dịch tăng cao qua các năm, nhất là năm 2009, giá trị giao dịch các
cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đạt hơn 1,7 ngàn tỷ đồng/phiên. Tốc độ luân chuyển bình
quân đạt 85%, là mức có thể cạnh tranh với thị trường các nước trong khu vực. HOSE
luôn mạnh dạn và tích cực trong việc đầu tư cải tiến phương thức giao dịch, hạ tầng
công nghệ, nâng cao mặt bằng công nghệ chung cho toàn thị trường. Cũng kể từ đầu
năm 2009, HOSE đã chính thức triển khai giao dịch trực tuyến. Đến nay, gần 100%
công ty chứng khoán thành viên đã tham gia phương thức giao dịch mới này.
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
2
1
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
2.2.2. Thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn hiệu quả
Đầu tư chứng khoán đã trở thành mối quan tâm của đại đa số người dân và
TTCK Việt Nam bước đầu trở thành kênh huy động vốn hiệu quả. Nhiều doanh nghiệp
đã tận dụng cơ hội này để huy động vốn thông qua TTCK với chi phí rẻ nhất. Mặt
khác, năm 2010 khẳng định sự phục hồi nền kinh tế với mục tiêu tăng trưởng kinh tế là
6,2%, chỉ thấp hơn mức dự báo 9,3% của Trung Quốc và 7,4% của Ấn Độ. Đây chính
là lý do thị trường Việt Nam trở nên hấp dẫn không những đối với nhà đầu tư trong
nước mà còn với các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, nhà đầu tư chắc chắn sẽ lựa chọn

TTCK như là một kênh huy động vốn hiệu quả, thay thế cho kênh truyền thống là vay
vốn ngân hàng.
Nhìn lại năm 2009, thị trường chứng khoán đánh dấu sự lên sàn của hàng loạt
doanh nghiệp lớn như Eximbank, Bảo Việt, Vietcombank, Vietinbank Sự góp mặt
của các “đại gia” này đồng nghĩa với việc kênh huy động vốn trên thị trường ngày
càng đa dạng hơn. Trong đó, Vietcombank giao dịch 112,3 triệu cổ phiếu, là doanh
nghiệp có vốn hóa lớn nhất thị trường, với trên 56.000 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần "quán
quân" trước đó là ACB (28.000 tỷ đồng). Trong khi đó, Bảo Việt (BVH) niêm yết toàn
bộ 573 triệu cổ phiếu và Vietinbank có 121,2 triệu cổ phiếu. Các doanh nghiệp này
đều chào sàn thành công, đáp ứng được mong đợi của nhà đầu tư. Giá cổ phiếu các
doanh nghiệp bảo hiểm và ngân hàng nhờ vậy đã tăng trong một thời gian khá dài và
trở thành những cổ phiếu "nóng" trên thị trường.
Không chỉ dừng lại ở trong nước, TTCK Việt Nam còn thu hút được sự quan
tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Chỉ tính riêng giao dịch cổ phiếu và chứng chỉ
quỹ, từ thời điểm năm 2008 đến nay, nhà đầu tư nước ngoài luôn trong trạng thái mua
ròng. Cụ thể, năm 2008 mua ròng hơn 6.300 tỷ đồng, năm 2009 mua ròng 3.400 tỷ
đồng và trong 3 tháng đầu năm 2010 mua ròng hơn 1.700 tỷ đồng.
2.3. Một số hạn chế của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay
2.3.1. Việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp niêm yết chưa hiệu quả
Các doanh nghiệp hầu hết đều tận dụng tối đa cơ hội TTCK tăng trưởng trong
năm 2007 để thực hiện liên tiếp các đợt phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng, điều
này tạo ra một lượng cung hàng có thể nói là đột biến trong năm 2007. Nhưng trên
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
2
2
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
thực tế, lượng vốn huy động được sử dụng chưa thật hiệu quả. Có những doanh nghiệp
tranh thủ phát hành cổ phiếu nhưng thay vì sản xuất kinh doanh thì lại đi trả nợ, gửi
ngân hàng, dẫn đến kế hoạch phát hành không đem lại hiệu quả. Bên cạnh đó, còn có

nhiều doanh nghiệp phát hành cổ phiếu nhưng đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, tài
chính là những lĩnh vực đầy rủi ro và không phải chuyên môn của mình.
2.3.2. Quy mô của các công ty niêm yết còn nhỏ
Ngoại trừ một số công ty lớn, kinh doanh và tăng trưởng tương đối ổn định,
phần lớn các công ty niêm yết/đăng ký giao dịch chưa phải là những công ty tiêu biểu
cho các ngành kinh tế, đóng góp lớn vào GDP của Việt Nam.
2.3.3. Thị trường bị chi phối bởi nhà đầu tư lớn, nhà đầu tư nước ngoài
Số lượng tài khoản đầu tư gia tăng nhanh nhưng chủ yếu là nhà đầu tư mua bán
cổ phiếu ngắn hạn, bị chi phối bởi các nhà đầu tư lớn và nhà đầu tư nước ngoài. Sự
tham gia của các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, bảo hiểm, quỹ đầu tư) còn
hạn chế, chỉ chiếm khoảng 20% thị trường.
2.3.4. Công tác giám sát chưa hiệu quả
Việc quản lý, giám sát các hoạt động và tuân thủ pháp luật trên TTCK còn
nhiều bất cập, đặc biệt là giám sát công bố thông tin, hoạt động của các công ty chứng
khoán, tuân thủ quy chế giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài. Các tổ chức đầu tư nước
ngoài ủy thác cho cá nhân đầu tư mà không thực hiện chế độ đăng ký và báo cáo. Tình
trạng này có thể dẫn đến khó kiểm soát được luồng vốn, việc rửa tiền, thao túng thị
trường, … đồng thời gây sức ép lên đồng bản tệ và nguy cơ đảo chiều rút vốn gây
khủng hoảng thị trường.
2.3.5. Cơ sở hạ tầng yếu kém
Hệ thống hạ tầng cơ sở của SGDCK TP.HCM, TTGDCK Hà Nội và các thành
viên thị trường còn nhiều bất cập trước sự phát triển quá nhanh của thị trường. Hệ
thống công nghệ thông tin lạc hậu, đội ngũ nhân viên hành nghề hạn chế về số lượng
và chất lượng; kiểm soát nội bộ, quản trị công ty còn yếu, chất lượng dịch vụ chưa cao.
2.3.6. Nhà đầu tư “nội” chưa chuyên nghiệp
Việc tăng trưởng của thị trường vẫn còn mang những yếu tố chưa tích cực, việc
đầu tư theo phong trào của các nhà đầu tư cá nhân còn phổ biến, đặc biệt đầu tư không
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
2
3

SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
dựa trên cơ sở thông tin chính thức là một nguy cơ đối với sự bền vững của TTCK và
lợi ích của nhà đầu tư.
Tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở nước ta mang tâm lý “đám đông” vẫn còn, cả
người có kiến thức và hiểu biết, cả những người mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy
TTCK vào tình trạng “nóng”.
2.3.7. Đầu cơ, thao túng thị trường
Hành vi đầu cơ, thao túng TTCK đã có dấu hiệu tăng đáng kể. Ủy ban chứng
khoán Nhà nước trong năm 2009 đã phát hiện và xử phạt hơn 20 trường hợp vi phạm
hoặc có hành vi thao túng TTCK. Tuy nhiên, bản thân cơ quan này cũng thừa nhận
TTCK đúng là còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro trong giao dịch; công tác giám sát và xử lý
vi phạm còn hạn chế.
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN ĐẾN
3.1. Hoàn thiện khung pháp lý
Có thể xem thị trường chứng khoán cũng như là một “sân chơi” dành cho các nhà
đầu tư, vì vậy, ngoài các điều kiện về “sân bãi” (hệ thống giao dịch, hệ thống thanh
toán, hệ thống công bố thông tin ), để thị trường có thể tồn tại, cần phải có “luật chơi”
(các văn bản pháp quy và các quy định pháp lý khác) để các “cầu thủ” (các nhà phát
hành, các nhà đầu tư) có thể khép mình vào khuôn khổ, để “trọng tài” (Uỷ ban chứng
khoán, Hiệp hội các nhà môi giới) có thể điều chỉnh các hoạt động, các mối quan hệ
đan xen, phức tạp diễn ra hàng ngày hàng giờ trên thị trường. Có thể xem khung pháp
lý là rào chắn bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động nhịp nhàng, có hiệu quả.
Sau đây là một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý trong thời gian đến:
- Khắc phục các khiếm khuyết đã và đang bộc lộ trong hệ thống các văn bản pháp
quy hiện hành.
- Loại bỏ dần sự chia cắt và phân đoạn thị trường theo kiểu mỗi một dịch vụ tài
chính chỉ có một định chế tài chính chuyên phục vụ.
- Che chắn các khe hở hiện có.

GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
2
4
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN
ĐỀ ÁN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Thị trường chứng khoán Việt Nam
- Hạn chế tính mơ hồ, tăng tính nhất quán và minh bạch trong các văn bản pháp
luật hiện hành.
- Tổ chức nghiên cứu, xây dựng và ban hành các bộ Luật có liên quan khác: Luật
khuyến khích phát triển thị trường vốn, Luật kinh doanh tư vấn đầu tư, Luật lưu ký và
thanh toán chứng khoán, Luật bảo vệ các nhà đầu tư chứng khoán
- Pháp chế hoá các luật chơi trên thị trường chứng khoán bằng hệ thống luật rõ
ràng, bằng các quy chế quản lý và giám sát hợp lý.
3.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Trong bất cứ một lĩnh vực hoạt động nào, nhân tố giữ vai trò quyết định trong
mọi hoàn cảnh, tình huống không phải là ở máy móc thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật
mà là ở nhân tố con người. Là thị trường cao cấp, thị trường chứng khoán cũng rất cần
đội ngũ chuyên viên có trình độ cao trong nhiều lĩnh vực để tồn tại và phát triển.
Rõ ràng, để có thể giúp người dân hiểu rõ về bản chất các loại chứng khoán và
lựa chọn một tổ hợp các chứng khoán tối ưu, ngoài việc am hiểu các luật lệ mua bán,
nhân viên làm việc tại các công ty chứng khoán phải thật sự là các chuyên gia giỏi
trong các lĩnh vực quản trị tài chính, quản trị đầu tư, phân tích đầu tư, tiếp thị
Tại các quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển, việc sát hạch và tuyển
chọn các chuyên viên chứng khoán được thực hiện theo một quy trình nghiêm ngặt và
những tiêu chuẩn hết sức khắt khe. Muốn hành nghề trên thị trường chứng khoán,
ngoài tiêu chuẩn phải có là có óc phân tích nhạy bén trong kinh doanh, khả năng phán
đoán và biết đưa ra quyết định đúng lúc, người tham gia dự tuyển phải được đào tạo
và huấn luyện theo một chương trình đặc biệt. Quy định này hoàn toàn hợp lý và dễ
hiểu bởi sẽ là hết sức nguy hiểm và không có cơ sở gì để đảm bảo an toàn tài sản của
người đầu tư nếu như có sự buông lỏng trong quản lý đào tạo, dễ dãi trong việc cấp
giấy phép hành nghề cho các cá nhân và tổ chức không hội đủ năng lực chuyên môn

cần thiết để hành nghề trên thị trường chứng khoán. Do đó, để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cho thị trường chứng khoán ở Việt Nam, các giải pháp cần triển khai
trong thời gian đến là:
GVHD: Ths. Võ Hoàng Diễm Trinh Page
2
5
SVTH: Lê Quý Phương_Lớp 31k7.1ĐN

×