ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TIỂU LUẬN
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ ELEARNING
ĐỀ TÀI
CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐẠI HỌC
VÀ ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
E-LEARNING Ở GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Kim Dung
Nhóm học viên : Thăng Long – Hà Nội
Lớp : Cao học CNTT – K6
HÀ NỘI, 5-2013
3
MỤC LỤC
MỤC LỤC 4
MỞ ĐẦU 5
PHẦN 1 6
CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐẠI HỌC 6
PHẦN 2 20
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY E-LEARNING Ở GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 20
PHẦN 3 26
CÁC PHẦN MỀM ỨNG DỤNG GIẢNG DẠY E-LEARNING 26
KẾT LUẬN 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO 30
4
MỞ ĐẦU
Công nghệ thông tin đang ngày càng phát triển và có nhiều ứng dụng
trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống con người. Nhu cầu của con
người muốn tiếp thu, học tập tri thức nhân loại ngày càng cao, các tầng lớp,
mọi lứa tuổi khác nhau đều muốn tham gia học tập. Có rất nhiều khóa học
đã mở ra để đáp ứng các yêu cầu học tập, song với cách dạy học truyền
thống – học ở trường lớp – không phải mọi người đều có thể tham gia vào
khóa học mà mình mong muốn. Mô hình lớp học truyền thống không còn là
duy nhất. Một hình thức học tập mới đã ra đời, đó là E-Learning.
Với khả năng truyền đạt phong phú về nội dung, đa dạng, hấp dẫn về
hình thức; khả năng phân phát nội dung rộng rãi (nhờ sự phát triển của công
nghệ Web và Internet), hiệu quả kinh tế cao (giảm được thời gian và chi phí
đào tạo, học tập; có thể học ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào), E-Learning
đang dần được mọi người đón nhận và ưa chuộng.
Về E-Learning có rất nhiều vấn đề khác nhau. Trong khóa luận, chúng
tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu và tìm hiểu về vấn đề đào tạo từ xa bằng E-
Learning.
Ngoài phần mở đầu khóa luận gồm có 3 phần:
- Phần 1: Tổng quan về các phương pháp giảng dạy đại học
- Phần 2: Các phương pháp giảng dạy E-Learning ở đại học
- Phần 3: Các phần mềm ứng dụng giảng dạy E-Learning
Phần cuối khóa luận nêu lên những kết quả đạt được và đánh giá sơ
bộ về những kết quả đó.
Để có được kết quả này, nhóm Thăng Long – Hà Nội chân thành cảm
ơn cô giáo, tiến sĩ Nguyễn Kim Dung đã tận tình giúp đỡ, nhận xét để nhóm
có định hướng, phương pháp thảo luận tốt và hoàn thành tiểu luận này.
Nhóm cảm ơn các thành viên của các nhóm đã gửi bài thảo luận, góp ý kiến
xây dựng để nhóm chúng tôi hoàn thành bài báo cáo này.
Nhóm Thăng Long – Hà Nội:
1. Nguyễn Đạt Tiến - CH1102018 - Nhóm trưởng
2. Trần Anh Đức - CH1102015 - Thư ký
3. Lê Danh Tạo - CH1102008
4. Nguyễn Xuân Sơn - CH1102007
5. Đinh Đức Khoa - CH1102003
6. Trần Xuân Thái - CH1102009
7. Duy Tùng - CH1102011
5
PHẦN 1
CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐẠI HỌC
I. Giới thiệu và mục tiêu chung
I.1. Trường đại học cần phải đào tạo sinh viên trở thành những công dân có
tri thức cao và có động cơ học tập mạnh mẽ với tư duy logic, phân tích
các vấn đề xã hội, tìm kiếm các giải pháp cho các vấn đề đó, áp dụng
chúng và chấp nhận trách nhiệm xã hội.
I.2. Thực hiện những mục đích này, có thể cần thiết phải sửa đổi
CTĐT, sử dụng những phương pháp mới và thích hợp để có thể vượt
ra ngoài môn học. Những phương pháp dạy học (didactic – phương pháp
dạy học mang bản chất của quá trình dạy và học ND.) và sư phạm mới
cần phải có khả năng tiếp cận và được khuyến khích để tạo thuận lợi
cho việc nắm các kỹ năng, năng lực và khả năng giao tiếp, phân tích
logic và sáng tạo, độc lập suy nghĩ và làm việc tập thể trong bối cảnh đa
văn hoá, nơi mà tính sáng tạo liên quan đến việc kết hợp tri thức truyền
thống hoặc tri thức địa phương với khoa học và công nghệ tiên tiến.
I.3. Phương pháp giảng dạy mới cũng chỉ ra những hình thức mới của
phương tiện dạy - học. Những phương tiện này phải gắn với các phương
pháp kiểm tra mới mà sẽ cải thiện không chỉ khả năng nhớ mà cả khả
năng hiểu, các kỹ năng thực hành và sáng tạo.
II. Vài nét về khái niệm dạy và học
II.1.
Các
quan
niệm
truyền
thống
về
dạy
và
học
Dạy
học
là
hai
mặt
của
một
quá
trình
luôn
tác
động
qua
lại,
bổ
sung
cho nhau,
quy
định
lẫn
nhau,
thâm
nhập
vào
nhau
thông
qua
hoạt
động
cộng
tác nhằm
tạo
cho
người
học
khả
năng
phát
triển
phát
triển
trí
tuệ,
góp
phần
hoàn thiện
nhân
cách.
Cái
khác
nhau
của
các
quan
niệm
dạy
học
nằm
ở
chỗ
đã
nhấn
mạnh
hơn
yếu tố
nào
trong
các
chức
năng
của
dạy
và
học.
Theo
quan
niệm
truyền
thống
nhấn mạnh
chức
năng
truyền
đạt
của
việc
dạy
và
chức
năng
lĩnh
hội
của
việc
học
mà chưa
chú
ý
thích
đáng
chức
năng
điều
khiển
quá
trình
nhận
thức,
quá
trình
lĩnh
hội của
người
học
của
việc
dạy
và
tính
tích
cực,
chủ
động
tự
điều
khiển
quá
trình
nhận thức
của
người
học
trong
quá
trình
học
của
mình.
Ngược
lại,
theo
quan
niệm
hiện đại
về
việc
dạy
học
người
ta
rất
coi
trọng
yếu
tố
điều
khiển
sư
phạm
của
giáo
viên, ở
đây
vai
trò
của
giáo
viên
đã
có
sự
thay
đổi,
người
giáo
viên
phải
biết
gợi
mở,
hướng
dẫn,
dạy
cho
người
học
cách
tìm
kiếm
và
xử
lí
thông
tin
từ
đó
vận
6
dụng chúng.
Tuy
nhiên,
muốn
được
như
vậy
cần
coi
trọng
môi
trường
cộng
tác
giữa
việc dạy
và
việc
học
và
người
học
phải
biết
tự
điều
khiển
quá
trình
nhận
thức
của
mình thông
qua
việc
tích
cực,
chủ
động,
tự
lực
chiếm
lĩnh
lấy
nội
dung
học
với
sự
hỗ
trợ của
người
dạy.
Từ
một
số
quan
niệm
trên
về
khái
niệm
dạy
và
học,
chúng
ta
sẽ
liệt
kê
một số
quan
niệm
về
phương
pháp
dạy
học.
Nếu
quan
niệm
dạy
học
là truyền
thụ
và
thu
nhận
kiến
thức
thì
phương
pháp
dạy
học
là
cách
thức
truyền
đạt và
thu
nhận
kiến
thức,
nếu
quan
niệm
dạy
học
là
quá
trình
trợ
giúp
người
học chiếm
lĩnh
nội
dung
học
thì
phương
pháp
dạy
học
gắn
liền
với
quy
trình,
cách
thức tổ
chức
quá
trình
nhận
thức
cho
người
học.
Tuy
nhiên
dưới
nhiều
góc
độ
khác
nhau
có
thể
quan
niệm
phương
pháp
đồng nghĩa
với
“cách
tiếp
cận”,
là
tổ
hợp
những
quy
tắc,
nguyên
tắc,
quy
phạm
để
chỉ đạo
hành
động.
Cũng
có
quan
niệm
phương
pháp
có
yếu
tố
bên
trong
và
yếu
tố
bên
ngoài. Yếu
tố
bên
trong
liên
quan
đến
cách
tổ
chức
hoạt
động
nhận
thức
của
học
sinh. Yếu
tố
bên
ngoài
liên
quan
đến
các
thao
tác
hành
động
của
người
dạy
và
người
học.
Dạy
học
bao
giờ
cũng
là
một
hệ
toàn
vẹn.
Tính
toàn
vẹn
của
quá
trình
dạy học
biểu
hiện
ở
tính
thống
nhất
hai
mặt
của
các
chức
năng
của
hoạt
động
dạy
và của
hoạt
động
học.
Sự
vận
động
và
phát
triển
của
quá
trình dạy học
được
biểu
hiện
thông
qua sự
vận
động
và
phát
triển
của
các
yếu
tố
tạo
nên
quá
trình
dạy
học
như
đã
đề
cập
ở
trên.
Hiệu
quả
của
quá
trình
dạy
học
phụ
thuộc
vào
nội
hàm
của
các
yếu
tố
và
sự
tương
tác
tương
hỗ
giữa
chúng.
Quy
luật
của
quá
trình
dạy
học
liên
quan
đến
hệ thống
các
quy
luật
sau:
-
Quy
luật
của
sự
chi
phối
của
các
yếu
tố
xã
hội
đối
với
quá
trình
dạy
học.
-
Quy
luật
về
tính
thống
nhất
giữa
hoạt
động
dạy
và
hoạt
động
học.
-
Quy
luật
về
sự
phát
triển
trong
quá
trình
dạy
học.
-
Quy
luật
về
sự
thống
nhất
biện
chứng
giữa
các
yếu
tố
của
quá
trình
dạy
học trong
quá
trình
triển
khai
hoạt
động
dạy
học.
Giáo
dục
nói
chung
và
dạy
học
nói
riêng
phải
tuân
thủ
những
quy
tắc
cơ bản,
những
định
hướng
lớn
chỉ
đạo
quá
trình
triển
khai
các
hoạt
động
cụ
thể. Những
tư
tưởng
lớn
chỉ
đạo
hành
động
như
vậy
trong
quá
trình
dạy
học
gọi
là nguyên
tắc
dạy
học.
Có
thể
kể
ra
đây
một
số
nguyên
tắc.
1.
Nguyên
tắc
đảm
bảo
sự
thống
nhất
giữa
tính
khoa
học,
tính
GD
và
tính
7
hướng
nghiệp
trong
QTDH.
2. Nguyên
tắc
đảm
bảo
sự
thống
nhất
giữa
lý
luận
và
thực
tiễn,
học
đi
đôi
với hành.
3.
Nguyên
tắc
đảm
bảo
tính
sư
phạm.
II.2. Những yếu tố cơ bản của quá trình dạy học
Như
trên
đã
trình
bày
một
số
góc
nhìn
về
quá
trình
dạy
học.
Góc
nhìn
của J.Vial
nhấn
mạnh
vai
trò
của
nội
dung
dạy
học,
người
dạy
và
người
học.
Tuy
nhiên quá
trình
dạy
học
không
thể
không
có
sự
tham
gia
của
các
yếu
tố
phương
pháp
dạy học,
điều
kiện
môi
trường
và
phương
tiện
dạy
học
cũng
như
quá
trình
kiểm
tra đánh
giá
kết
quả
dạy
học.
Góc
nhìn
trong
đó
nhấn
mạnh
mối
quan
hệ
của
3
yếu
tố:
Mục
tiêu,
nội
dung và
phương
pháp.
Cũng
cần
nhấn
mạnh
thêm
vai
trò
của
người
dạy
và
người
học, điều
kiện
môi
trường
và
phương
tiện
dạy
học
cũng
như
quá
trình
kiểm
tra
đánh
giá
kết
quả
dạy
học.
Góc
nhìn
sư
phạm
tương
tương
tác
lại
coi
mối
quan
hệ
người
học
–
người dạy
và
môi
trường,
điều
kiện
là
quyết
định
mà
coi
các
yếu
tố
khác
coi
như
đã
được xác
lập.
Quan
niệm
biện
chứng
nhất
là
coi
trọng
cả
7
yếu
tố
của
quá
trình
dạy
học
đó là:
Mục
tiêu,
nội
dung,
phương
pháp,
người
học,
người
dạy,
kiểm
tra
–
đánh
giá kết
quả
dạy
học
và
điều
kiện
phương
tiện
dạy
học.
Chúng
ta
sẽ
xác
định
một
số
đặc
điểm
cơ
bản
của
các
yếu
tố
của
quá
trình
dạy học
nêu
ra
ở
trên:
a.
Về
mục
tiêu
dạy
học
Hiểu
một
cách
ngắn
gọn
mục
tiêu
dạy
học
chính
là
các
kết
quả
học
tập
cần đạt.
Thông
thường
mục
tiêu
dạy
học
của
bài
học
góp
phần
thực
hiện
mục
tiêu
dạy học
của
học
phần
và
mục
tiêu
dạy
học
cụ
thể
là
các
thành
tố
tạo
nên
mục
đích
dạy học.
C
húng
ta
hay
đề
ra
mục
tiêu
dạy
học
là
phải
tạo
ra
cho
người học
có
tri
thức,
kĩ
năng,
thái
độ
từ
đó
hình
thành
các
phẩm
chất,
năng
lực
cụ
thể nhưng
chúng
ta
thường
chưa
chú
ý
thích
đáng
đến
một
số
yêu
cầu
khi
xác
định mục
tiêu
dạy
học
đó
là:
-
Mục
tiêu
xác
định
phải
hướng
vào
người
học:
Thật
sự
họ
có
thể
làm
được sau
khi
học.
-
M
ục
tiêu
đó
có
thể
mô
tả
tường
minh
và
có
thể
quan
sát
được.
-
M
ục
tiêu
đó
có
thể
lấy
làm
bằng
chứng
cho
kết
quả
học
tập
và
đo
lường được.
-
Mục
tiêu
đó
gắn
với
phương
pháp
dạy
học
và
điều
kiện
để
đạt
được
nó.
Người
ta
khuyến
cao
nên
diễn
đạt
mục
tiêu
dạy
học
bắt
đầu
bằng
các
8
động
từ như:
Chứng
minh,
so
sánh,
áp
dụng…
b.
Về
nội
dung
dạy
học
Câu
hỏi
cần
đặt
ra
đầu
tiên
cho
việc
xác
định
nội
dung
dạy
học
là:
Người học
cần
phải
học
những
gì
để
đạt
được
các
mục
tiêu
đã
đặt
ra
trong
một
điều
kiện thời
gian,
không
gian
và
cho
một
nội
dung
cụ
thể?
Để
đạt
được
mục
tiêu
dạy
học
trong
toàn
bộ
nội
dung
cần
đặt
cho
các
phần nội
dung
các
trọng
số
ưu
tiên
trong
quá
trình
tổ
chức
lĩnh
hội
trên
lớp.
Một
gợi
ý
có
thể
tham
khảo
được
mô
tả
theo
sơ
đồ
dưới
đây:
-
Vòng
tròn
1
trong
cùng
mô
tả
những
nội
dung
cốt
lõi
của
bài
học
(hoặc
của học
phần)
mà
người
học
phải
biết.
-
Ô
vuông
2
tiếp
theo
mô
tả
những
nội
dung
mà
người
học
nên
biết.
-
Ô
vuông
số
3
mô
tả
những
nội
dung
liên
đới
mà
người
học
có
thể biết.
Việc
xác
định
nội
dung
phải
biết,
nên
biết,
có
thể
biết
có
thể
cho
một
bài
học, một
học
phần
học
hay
của
một
khóa
học,
nó
giúp
cho
ta
xác
định
phần
cứng
cốt lõi
hay
phần
mềm.
Phần
bắt
buộc
(chất
liệu
chủ
yếu
để
thực
hiện
,mục
tiêu
đã
đặt ra
cho
người
học),
phần
tự
chọn
trong
nội
dung
học
tập.
Một hình
ảnh
giúp
các
GV
liên
tưởng
khi
tổ
chức
quá
trình
dạy
học
trên
lớp
là:
Nếu
coi toàn
bộ
nội
dung
của
một
bài
học
(hay
học
phần)
là
một
cây
cổ
thụ
thì
phần
thân, rễ,
cành
GV
nên
tổ
chức
cho
người
học
“vẽ”
và
hoàn
thiện
“cây
kiến
trúc”
ở
nhà.
c.
Về
người
học
Theo
quan
điểm
truyền
thống
hoạt
động
dạy
bắt
đầu
bằng
câu
hỏi
dạy
a
i
và dạy
cái
gì?
Câu
trả
lời
dạy
ai
cho
ta
thấy
ở
đây
coi
người
học
là
đối
tượng.
Với quan
niệm
đó
người
ta
khuyến
cáo
các
GV
nên
nhận
thức
cho
được
những
đặc điểm
cơ
bản
của
đối
tượng
mà
mình
“phục
vụ”.
Những
đặc
điểm
đó
là:
- Sự
phát
triển
tâm
sinh
lí
bao
gồm
sự
phát
triển
về
thể
chất,
trí
tuệ…
- Hứng
thú,
động
cơ
học
tập:
ý
thức
về
mục
đích
học
tập,
lòng
say
mê
sự
khao khát
với
kiến
thức….
- Trình
độ
xuất
phát:
Kinh
nghiệm,
vốn
tri
thức
đã
có…
Với
vai
trò
là
chủ
thể
của
quá
trình
nhận
thức
người
học
không
chỉ
cần
được hiểu
những
đặc
điểm
nêu
trên
mà
GV
cần
nhận
thức
người
học
9
1
3
2
là
lẽ
tồn
tại
của việc
dạy
học,
họ
là
người
“thợ
chính”
của
quá
trình
đào
tạo
và
trong
mọi
hoạt
động sư
phạm
của
mình
GV
phải
lấy
nhu
cầu,
nguyện
vọng
lợi
ích
của
người
học
làm “trung
tâm”.
Từ
đó
đưa
ra
những
chiến
lược
dạy
học
sau:
-
Dạy
học
phải
xuất
phát
từ
người
học,
ví
dụ
từ
động
cơ,
đặc
điểm,
tính
chất,
điều
kiện…của
người
học.
-
P
hải
tạo
môi
trường,
điều
kiện
cho
người
học
tích
cực,
chủ
động
trong
lĩnh hội kiến thức.
-
Phải
coi
trọng
tư
tưởng
phân
hóa,
cá
thể
hóa
và
bám
sát
logic
nhận
thức
của người
học.
-
Phải
khuyến
khích
người
học
tự
kiểm
tra,
đánh
giá
mình
và
tạo
cho
họ
ý
chí, năng
lực
học
suốt
đời.
d.
Về
người
dạy:
Với
vai
trò
là
người
chủ
đạo
người
dạy
là
người
phải
thiết
kế,
tổ
chức
hoạt động
dạy
học
tức
là
GV
phải
là
người
lập
kế
hoạch
dạy
học
và
tổ
chức,
điều
khiển quá
trình
thức
cho
người
học.
Muốn
làm
tốt
vai
trò
đó
người
dạy
phải
có
năng
lực chuyên
môn
cao
và
tay
nghề
sư
phạm
giỏi.
Với
vai
trò
là
tác
nhân
người
dạy
tác
động
từ
bên
ngoài
với
tư
cách
là
người hợp
tác
và
cộng
tác:
Người
dạy
khêu
gợi,
hướng
dẫn,
hỗ
trợ,
tạo
nên
môi
trường cộng
tác;
người
dạy
đi
cùng
người
học
trong
phương
pháp
học
của
người
học
và chỉ
cho
họ
con
đường
phải
theo
suốt
cả
quá
trình.
e.
Về
điều
kiện
môi
trường
Khi
nói
đến
điều
kiện
môi
trường
trong
quá
trình
dạy
học
người
ta
hàm
ý
cả điều
kiện
tinh
thần
và
điều
kiện
vật
chất;
môi
trường
KT-XH
và
cả
môi
trường
sư phạm.
Điều
kiện
tinh
thần
gắn
với
không
khí,
tâm
lý
trong
quá
trình
dạy
học;
có
người
đã
nói
một
khi
thầy
giáo
là
thần
tượng
của
học
sinh,
một
khi
đến
lớp
là
đến với
niềm
vui
mang
đầy
lợi
ích
thì
việc
học
trở
thành
niềm
khát
khao.
Điều
kiện
vật
chất
gắn
với
cơ
sở
vật
chất,
trang
thiết
bị
cho
học
tập
đó
là
các phương
tiện
kĩ
thuật
cho
dạy
học,
các
học
liệu…
Môi
trường
ảnh
hưởng
đến
người
học
và
phương
pháp
học,
người
dạy
và phương
pháp
dạy
một
cách
tương
hỗ,
ở
đây
coi
môi
trường
như
những
tác
nhân quan
trọng
tác
động
lên
quá
trình
dạy
học!
Vai
trò
của
các
phương
tiện
dạy
học
Theo
quan
niệm
của
các
nhà
sư
phạm
nói
đến
phương
tiện
dạy
học
là
phải nói
đến
tấm
gương
của
GV
đối
với
học
sinh.
Tuy
nhiên
ở
đây
chỉ
dùng
khái
niệm phương
tiện
dạy
học
theo
nghĩa
công
cụ,
công
nghệ
dạy
10
học.
Một
số
nhà
giáo
dục
đã
đặt
tên
cho
mô
hình
dạy
học
truyền
thống
hay
hiện đại
phụ
thuộc
vào
đặc
điểm
của
3
yếu
tố:
Vai
trò
người
học,
vai
trò
người
dạy
và công
cụ,
công
nghệ
được
sử
dụng
trong
dạy
học
là
gì?
Khi
trong
phương
tiện
dạy
học
có
sự
tham
gia
của
công
nghệ
thông
tin
và lưu
thông
và
việc
dạy
học
hướng
trọng
tâm
vào
các
nhóm
thì
sự
thích
ứng
là
vai trò
cơ
bản
của
người
học
và
mô
hình
dạy
học
như
vậy
được
coi
là
hiện
đại
(Cũng có
người
cho
nó
cái
tên
là
mô
hình
Kiến
thức
hay
hợp
tác…).
f.
Về
kiểm
tra
đánh
giá
Đánh
giá
trong
dạy
học
không
chỉ
bó
hẹp
vào
việc
đánh
giá
kết
quả
học
tập
của người
học
mà
nó
còn
liên
quan
đến
việc
đánh
giá
mục
tiêu,
nội
dung
chương
trình, PPDH,
GV…
nhưng
ở
đây
chỉ
xin
nêu
một
số
vấn
đề
về
đánh
giá
kết
quả
học
tập của
người
học.
Theo
quan
niệm
của
Jamin
Bloom
nhận
thức
của
người
học
đi
từ thấp
đến
cao
theo
6
mức
độ:
1.
Nhận
biết
và
nhớ,
ở
đây
người
học
có
thể
tái
hiện
được
những
điều
đã
được học.
2.
Hiểu,
ở
đậy
người
học
đã
có
thể
diễn
đạt
lại
những
điều
đã
học
theo
ngôn ngữ
của
mình
và
cũng
có
khả
năng
liên
hệ
chút
ít.
3.
Mức
độ
ứng
dụng,
ở
đây
người
học
đã
có
khả
năng
vận
dụng
kiến
thức
của mình
để
giải
quyết
một
số
tình
huống
hay
bài
tập.
4.
Mức
độ
phân
tích
ở
đây
người
học
đã
có
khả
năng
tách
các
thành
tố
của
kiến thức
được
học
để
lĩnh
hội
và
sắp
xếp
nó
theo
logic
người
học
nhận
thức
của mình.
5.
Mức
độ
tổng
hợp,
ở
đây
trình
độ
khái
quát
hóa
cao,
người
học
có
khả
năng tích
hợp
kiến
thức
và
biến
thành
sở
hữu
của
bản
thân.
6.
Mức
độ
đánh
giá,
ở
mức
độ
này
người
học
có
khả
năng
phán
xét,
phân
loại thông
tin
và
có
thể
sử
dụng
chúng
như
công
cụ
phương
tiện
không
chỉ
để
tư duy
ma
còn
để
hành
động
trong
cuộc
sống.
g.
Về
phương
pháp
dạy
học
Trong
quá
trình
dạy
học,
phương
pháp
là
yếu
tố
phụ
thuộc
nhiều
nhất vào
6
yếu
tố
đã
nêu
ra
ở
trên.
Nó
chỉ
rõ
cách
thức
tổ chức
dạy
học
và
việc
lựa
chọn
nó
không
phải
chỉ
do
giáo
viên
thích
mà
phải
phù hợp
với
mục
tiêu,
nội
dung,
điều
kiện
phương
tiện
và
đặc
biệt
là
phải
phù
hợp
với
đặc
điểm
của
người
học.
Chính
vì
vậy
theo
GS
Trần Bá Hoành,
điều
kiện
11
để
áp
dụng các
phương
pháp
sư
pham
tích
cực
là:
-
Giáo
viên
phải
có
năng
lực
chuyên
môn,
kinh
nghiêm
và
tay
nghề
sư
phạm.
-
Học
sinh
phải
được
chuẩn
bị
tâm
thế
và
có
phương
pháp
học
phù
hợp
-
Đổi
mới
cấu
trúc
chương
trình
và
nội
dung
dạy
học
-
Bổ
sung
phương
tiện
thiết
bị
và
các
học
liệu
cho
dạy
học
-
Thay
đổi
cách
thi
cử,
đánh
giá
giáo
viên
và
học
viên
II.3. Quan hệ giữa các hành động học tập của sinh viên và phương pháp
giảng dạy của các giáo viên
Tùy
theo
quan
điểm
giảng
dạy
và
cách
tác
động
sư
phạm,
cách
giảng
dạy
mà sinh
viên
có
thái
độ
phản
ứng
khác,
cách
học
khác
nhau:
Trong
trường
hợp
người
sinh
viên
coi
mình
chỉ
là
đối
tượng
tác
động
hình
thành của
nhà
sư
phạm
thì
họ
sẽ
tri
thức
một
cách
thụ
động
các
tri
thức
có
sẵn
từ
bên ngoài.
Trong
trường
hợp
này
người
giảng
viên
sẽ
chỉ
dùng
các
phương
pháp
thông báo
mô
tả,
giải
thích.
Trong
trường
hợp
người
sinh
viên
thể
hiện
mình
vừa
là
chủ
thể
vừa
là
khách thể
của
hoạt
động
học
tập
họ
tìm
tòi
thông
tin
một
cách
có
định
hướng.
Phương pháp
chủ
yếu
là
đặt
ra
các
vấn
đề,
các
nhiệm
vụ,
là
thảo
luận,
tranh
luận.
II.4. Những vấn đề trong hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
Nghiên
cứu
khoa
học
là
một
hình
thức
giáo
dục
ở
đại
học,
một
khâu
trong quá
trình
học
tập.
Bản
chất
của
hoạt
động
nghiên
cứu
khoa
học
là
tìm
tòi,
sáng
tạo, phát
minh
nên
nhất
thiết
phải
có
hai
dấu
hiệu
cơ
bản
là:
Mới
và
có
tính
chứng minh.
Hoạt
động
nghiên
cứu
khoa
học
của
sinh
viên
có
một
số
đặc
điểm
riêng
như sau:
-
Phải
phục
vụ
mục
đích
học
tập
-
Nhận
thức
khoa
học
là
những
động
cơ
chủ
yếu
của
hoạt
động
khoa
học
-
Hoạt
động
khoa
học
phải
dưới
sự
hướng
dẫn
của
giảng
viên
-
Trong
quá
trình
hoạt
động
khoa
học
hình
thành
tính
độc
lập
về
nghề
nghiệp, năng
lực
giải
quyết
sáng
tạo
các
nhiệm
vụ
thực
tiễn,
góp
phần
mở
rộng những
tri
thức
lĩnh
hội
trong
quá
trình
học
tập.
Đây
cũng
chính
là
mục
đích tham
gia
hoạt
động
khoa
học
của
sinh
viên.
Động
cơ
hoạt
động
khoa
học
của
sinh
viên
thể
hiện
ở
chỗ:
Sinh
viên
muốn
hiểu được
ý
nghĩa
xã
hội
của
hoạt
động
và
muốn
khẳng
định
mình,
muốn
đóng
góp
sức lực
của
mình
vào
giải
quyết
các
vấn
đề
thực
tiễn
và
khoa
học;
muốn
tìm
tòi
do
ham hiểu
biết.
II.5. Một số đặc điểm cần lưu ý khi triển khai việc dạy học ở đại học:
12
a.
Về
mục
tiêu
dạy
học
Mục
tiêu
đào
tạo
của
đại
học
là
đào
tạo
người
học
có
phẩm
chất
trính
trị,
đạo
đức, có
kiến
thức
và
kĩ
năng
(
kĩ
năng
tư
duy
và
kĩ
năng
vận
dụng,
kĩ
năng
giao
tiếp…) tương
xứng
với
trình
độ
được
đào
tạo,
có
khả
năng
phát
hiện,
giải
quyết
những
vấn đề
thông
thường
thuộc
chuyên
ngành
được
đào
tạo. Từ
mục
tiêu
đào
tạo
đó
hiển
nhiên
dạy
học
ở
đại
học
phải
rất
coi
trọng mục
tiêu
năng
lực
cho
người
học.
b.
Về
nội
dung
dạy
học
Nội
dung
đào
tạo
ở
đại
học
phải
có
tính
hiện
đại
và
phát
triển,
bảo
đảm
cơ
bản
và chuyên
sâu,
đảm
bảo
cho
sinh
viên
có
những
kiến
thức
khoa
học
cơ
bản
và
chuyên ngành
cần
thiết
chú
trọng
rèn
luyền
kĩ
năng
cơ
bản
và
năng
lực
thực
hiện
công
tác chuyên
môn,
chính
vì
vậy
tính
cập
nhập
của
nội
dung
đào
tạo
ở
đại
học
cần
được quan
tâm
đúng
mức.
c.
Người
dạy
ở
đại
học
Ở
đây
xin
nhấn
mạnh
một
số
nét:
“Ở
đại
học
được
giảng
dạy
chủ
yếu
bởi
những
người
gắn
bó
với
nghiên
cứu
khoa học”.
Như
vậy
để
giảng
dạy
tốt
ở
đại
học
người
giảng
viên
phải
thỏa
mãn
đồng thời
2
năng
lực:
Năng
lực
nghiên
cứu
khoa
học
và
năng
lực
sư
phạm.
Nếu
người dạy
không
có
khả
năng
tìm
kiếm,
lựa
chọn
thông
tin;
không
có
khả
năng
phát
hiện và
giải
quyết
vấn
đề
thì
khó
mà
dẫn
dắt
người
học
theo
mục
tiêu
đã
nêu
ra
ở
trên,
khó
có
thể
dạy
“Cách
học”
cho
SV
ở
đại
học
được.
Để
có
thể
đáp
ứng
yêu
cầu
của
một
người
giáo
viên
đại
học
cần
rèn
luyên
năng lực
phẩm
chất
của
một
nhà
khoa
học
chân
chính
và
một
nhà
sư
phạm
tâm huyết.
-
Khi
dạy
học
ở
đại
học
phải
nhận
thức
đúng
đắn
đặc
điểm
đối
tượng
(đối tượng
dạy
–
người
học
và
đối
tượng
dạy
học
–
nội
dung
dạy
học).
trên
cơ
sở đó
thao
tác
đúng
đối
tượng.
-
Khi
dạy
học
phải
biết
lựa
chọn
phương
pháp
thích
hợp
với
mục
tiêu
và
nội dung
dạy
học,
phù
hợp
với
đặc
thù
của
đối
tượng
dạy
học
ở
đại
học.
-
Phải
hiểu
cấu
trúc
các
phương
pháp
dạy
học,
biết
triển
khai
đúng
quy
trình và
biết
phối
hợp
các
phương
pháp
dạy
học
trong
quá
trình
dạy
học
ở
đại
học.
d.
Người
học
ở
đại
học
Tâm
lí
học
sư
phạm
đại
học
đã
chỉ
rõ
người
học
ở
đại
học
có
những
đặc
điểm cần
lưu
ý
trong
đó
cần
chú
ý
thích
đáng
một
số
đặc
điểm
sau:
-
SV
là
những
người
trưởng
thành:
Trưởng
thành
về
thể
chất,
trưởng
thành
về nhận
thức,
trưởng
thành
về
tâm
lí
…tóm
lại
họ
là
những
người
lớn
như chúng
ta.
Do
đó
họ
phải
được
ứng
xử
như
là
những
người
lớn
13
trong
mọi
hoạt động.
-
Sinh viên
là
những
người
đã
có
định
hướng
nghề
nghiệp,
việc
họ
vào
học
một trường
nào
đó,
một
ngành
nào
đó
gắn
với
nhu
cầu
và
lợi
ích
của
họ.
Vấn
đề
là
dạy
học
làm
sao
kích
thích
được
nguyện
vọng
hướng
nghiệp
của
họ.
-
Sinh viên
hoàn
toàn
có
khả
năng
tự
học,
tự
nghiên
cứu
tuy
nhiên
khả
năng
đó nhiều
hay
ít
còn
phụ
thuộc
vào
nhiều
yếu
tố
trong
đó
có
cách
dạy
của
giáo viên.
Theo
quan
niệm
của
UNESCO
yêu
cầu
đối
với
sản
phẩm
đại
học
trong
thời đại
hiện
nay
là:
-
Có
năng
lực
trí
tuệ
và
có
khả
năng
sáng
tạo
và
thích
ứng
-
Có
khả
năng
hành
động
(các
kĩ
năng
sống)
để
có
thể
lập
nghiệp
-
Có
năng
lực
tự
học,
tự
nghiên
cứu
để
có
thể
học
thường
xuyên,
suốt
đời
-
Có
năng
lực
quốc
tế
(ngoại
ngữ,
văn
hóa
toàn
cầu…)
để
có
khả
năng
hội nhập.
e.
Về
phương
pháp
dạy
học
Từ
các
đặc
điểm
trên
dẫn
đến
một
suy
luận
logic
là
phương
pháp
dạy
học
thích
hợp nhất
ở
đại
học
là
phương
pháp
gì.
Tên
phương
pháp
có
thể
bàn
cãi
nhưng
mục
đích của
phương
pháp
dạy
học
ở
đại
học
phải
tạo
điều
kiện
cho
người
học
phát
triển
tư duy
sáng
tạo,
rèn
luyện
kĩ
năng
thực
hành,
bồi
dưỡng
năng
lực
tự
học,
tự
nghiên
cứu.
Dạy
học
ở
đại
học
phải
lưu
ý
một
số
đặc
điểm
của
phương
pháp
dạy
học
ở đại
học
sau:
-
Dạy
học
ở
đại
học
phải
lưu
ý
một
số
đặc
điểm
ngành
nghề
đào
tạo,
bám
sát thực
tiễn
kinh
tế
-
xã
hội
và
sự
phát
triển
của
khoa
học,
công
nghệ
liên
quan.
-
Dạy
học
ở
đại
học
rất
coi
trong
phương
pháp
“tìm
kiếm”
vì
vậy
rất
gần
với các
phương
pháp
nghiên
cứu
khoa
học,
phương
pháp
phát
hiện
và
giải
quyết vấn
đề.
-
Phương
pháp
dạy
học
ở
đại
học
coi
trọng
việc
phát
huy
năng
lực
tự
học,
tự nghiên
cứu
của
người
học
và
huy
động
có
hiệu
quả
vai
trò
của
các
phương tiện,
kĩ
thuật,
công
nghệ
dạy
học
hiện
đại.
II.6. Lựa chọn phương pháp dạy – học phù hợp đặc điểm cá nhân và
kiểu nhận thức.
Do
sinh
viên
thuộc
nhiều
kiểu
đặc
điểm
cá
nhân
và
kiểu
nhận
thức
khác nhau
nên
giảng
viên
cần
xác
định
phương
pháp
dạy
học
thích
hợp
để
đạt
hiệu
quả sử
phạm.
Nhà
tâm
lý
sư
phạm
Mỹ
E.Snow
(1977)
đưa
ra
bốn
14
đặc
điểm
cá
nhân
mà theo
ông
phải
tính
đến
trong
khi
lựa
chọn
phương
pháp
dạy
học.
Đó
là
khả
năng
trí tuệ
chung,
động
cơ
học
tập,
cảm
xúc
và
vốn
tri
thức
đã
có.
Cũng
như
các
bậc
học
khác,
sự
lựa
chọn
phương
pháp
dạy
học ở
đại
học
phụ
thuộc
vào
đặc
điểm
của
nội
dung,
bám
sát
mục
tiêu
dạy
học, đặc
điểm
của
sinh
viên,
các
nguồn
lực
có
sẵn
như
thời
lượng,
trang
thiết
bị,
tài
liệu
môi
trường
và
đặc
biệt
là
năng
lực
chuyên
môn, khả
năng
sư
phạm
của
giảng viên.
III. Các phương pháp dạy học đại học :
Xác
định
phương
pháp
dạy
học
như
cách
thức
hoạt
động
tổ
chức
sư
phạm, đặc
biệt
áp
dụng
kiến
thức
theo
các
quy
tắc
xác
định
để
giúp
người
học
đạt
được các
mục
tiêu
học
tập.
III.1.Phương pháp thuyết trình
-
Ưu điểm:
Trong
một
khoảng
thời
gian
hạn
chế
GV
có
thể
chủ
động
truyền
tải được nhiều
nội
dung
cho
một
số
đông
người.
-
Hạn
chế:
Người
học
dễ
bị
thụ
động
-
Khuyến
cáo:
Khắc
phục
hạn
chế
bằng cách: Kích
thích
tư
duy
của
sinh
viên
thông
qua
phương
tiện
dạy
học
hay
thông qua
nêu
và
giải
quyết
vấn
đề
một
cách
logic
(bố
cục
bài
thuyết
trình
chặt
chẽ và
logic).
-
Những
điều
cấn
lưu
ý
khi
sử dụng phương pháp
thuyết
trình:
+
Nên
tìm
hiểu
đối
tượng
trước
khi
trình
bày.
+
Xác
đinh
mục
tiêu
bài
dạy
không
chỉ
vì
nội
dung
mà
còn
vì
người học.
+
Lựa
chọn
cấu
trúc
như
là
chất
liệu
thực
hiện
mục
tiêu
của
bài học.
+
Cấu
trúc
bài
giảng
phải
rõ
ràng,
logic
và
nên
có
3
phần: Mở
đầu
–
khởi
động
tư
duy,
định
hướng
chủ
đề; Thân
bài
là
tập
hợp
của
nêu
và
giải
quyết
những
vấn
đề
theo
logic
nội
dung bài
giảng
(ghi
nhớ
việc
sử
dụng
ngôn
ngữ
và
cách
trình
bày); Có
kết
luận
từng
phần
và
kết
nối
các
vấn
đề
nội
dung
với
nhau
(có
t
hể
cùng với
SV
đưa
ra
kết
luận
để
chuyển
tiếp).
Phần
kết
của
bài
là
“chốt”
những
vấn
đề
cơ
bản
của
bài
giảng
và
lấy
thông tin
phản
hồi
về
mức
độ
đạt
được
mục
tiêu
đã
đề
ra
để
điều
chỉnh
người
học.
Nên
tận
dụng
vai
trò
của
thiết
bị
dạy
học
khi
trình
bày
để
phát
huy
đa
giác quan
khi
nhận
thức.
Nên
chuẩn
bị
kĩ
các
câu
hỏi
nêu
ra
cho
SV
tư
duy
khi
trình
bày
các
nội
dung không
nên
áp
đặt.
III.2.Phương pháp tình huống
15
-
Ưu điểm:
Có
thể
“học
đi
đôi
với
hành”
-
Hạn
chế:
Không
dễ
tìm
được
các
tình
huống
để
SV
“học
đi
đôi
với
hành”
-
Một
số
lưu
ý
khi
sử
dụng
phương
pháp
này:
Yêu
cầu
của
tình
huống
chọn:
+ Phù
hợp
với
nội
dung
bài
giảng
+ Mục
tiêu
dạy
học
thông
qua
tình
huống
phải
rõ
+ Các
dữ
kiện
trong
tình
huống
phải
logic
và
tính
nhân
quả
phải
rõ
Khi
triển
khai
dạy
học
theo
tình
huống
phải:
+ Nêu
tình
huống
như
một
“vấn
đề”
cần
giải
quyết
thông
qua
nó
để
dạy
học.
+ Nên
có
đủ
thời
gian
cho
SV
hoặc
độc
lập
hoặc
theo
nhóm
hiểu
và
phải
tìm lời
giải
cho
tình
huống.
+ Giảng
viên
nên
làm
tốt
vai
trò
trọng
tài,
cố
vấn
của
mình
và
đưa
ra
kết
luận
thỏa
đáng.
III.3.Phương pháp đóng vai
-
Ưu:
Phát
huy
kinh
nghiệm
thực
tế
-
Hạn
chế:
Phải
suy
nghĩ
“kịch
bản”,
“diễn
viên”,
thời
gian,
phương
tiện
-
Khi
thực
hiện
phương
pháp
này
cần
lưu
ý:
+
Chọn
vấn
đề
đóng
vai
có
mục
tiêu
dạy
học
rõ
ràng
+
Chọn
người
đóng
vai
có
kiến
thức
hay
kinh
nghiệm
tương
tự
vai
hay
chọn tình
huống
cho
cả
lớp
đóng
vai
phải
sát
thực
và
đáp
ứng
mục
tiêu
dạy
học.
+
GV
giới
thiệu
“vai
diễn”
rõ:
mục
đích,
thống
nhất
kịch
bản
(tình
huống); phân
công
vai
trò
của
các
học
viên
(diễn
viên+khán
giả
=
Người
học
–
để học)
và
lường
các
khó
khăn
khi
thực
hiện.
+
Rút
ra
được
kết
luận
sư
phạm:
Ý
đồ
đưa
ra
tình
huống
để
đóng
vai;
mục đích
của
kịch
bản…,
kết
quả
sư
phạm
thu
được.
III.4.Phương pháp nhóm
a.
Những
mặt
mạnh
của
phương
pháp
dạy
học
theo
nhóm
-
Người
học
có
cơ
hội
để
trao
đổi
những
kinh
nghiệm,
hiểu
biết
về
các
vấn
đề học
tập,
để
cọ
xát
các
thông
tin
mà
người
học
đã
có
để
kiến
thức
dạy
học biến
thành
sở
hữu
của
người
học.
-
Việc
cọ
xát
các
kiến
thức
trong
quá
trình
dạy
học
theo
nhóm
sẽ
đánh
thức tiềm
năng
của
người
học
trong
lĩnh
hội.
Nó
còn
có
tác
dụng
giúp
cho
học viên
trao
đổi,
tranh
luận
với
nhau,
học
tập
lẫn
nhau,
bổ
sung
kiến
thức
cho nhau,
tạo
nên
kĩ
năng
làm
việc
theo
nhóm
và
giao
tiếp
trong
công
việc.
16
b. Những hạn chế có thể có của phương pháp học tập theo nhóm:
+ Nội
dung
hoạt
động
nhóm
có
xác
đáng
không
+ Người
học
đã
được
chuẩn
bị
tốt
cho
phương
pháp
học
tập
này
chưa.
+ Giảng viên
có
khả
năng
làm
tốt
vai
trò
trọng
tài
cố
vấn
không
-
Một
số
lưu
ý:
+
Nhiệm
vụ
đặt
ra
cho
nhóm
phải
rõ ràng
+
Chia
nhóm,
tổ
chức
nhóm
phải
có
tiêu
chí
rõ
+
Tổ
chức
hoạt
động
nhóm:
Mọi
người
đều
có
thể
tham
gia
và
phải
tham
gia thảo
luận;
phương
tiện
cho
hoạt
động
nhóm;
tổ
chức
và
giám
sát
sao
cho
SV
tích
cực
thảo
luận;
GV
làm
tốt
vai
trò
trọng
tại
cố
vấn
và
luôn
bám
sát
nhóm–
lớp.
+
Tận
dụng
việc
trình
bày
kết
quả
thảo
luận
nhóm
để
dạy
học
+
GV
tổng
kết
và
kết
luận
vấn
đề
nhằm
thực
hiện
được
mục
tiêu
dạy
học
của các
vấn
đề
đã
cho
nhóm
thảo
luận
và
mục
tiêu
bài
học
thông
qua
thảo
luận nhóm.
III.5.Giảng dạy dựa theo mô tả riêng
Nguồn gốc của việc giảng dạy theo mô tả riêng thể hiện trong các đặc
trưng chính sau đây:
- Giảng viên viết và xếp hạng các mục tiêu học tập riêng của mỗi môn học
- Giảng viên thiết kế những buổi kiểm tra nhằm đo mức độ đạt được của
các mục tiêu riêng trong mỗi đơn vị học trình.
- Tất cả các giảng viên thông tin đều đặn cho mỗi sinh viên về sự tiến bộ
và gợi ý các cách (“điều đã được mô tả”) để đạt tới các mục tiêu thực tế,
hoặc để theo đuổi. Vì thế, mỗi sinh viên biết rõ mình thông qua sự phân
tích sâu sắc về hồ sơ học tập của mình từ đầu khoá học; phương pháp và
các hoạt động cá nhân được đặt ra (quy định) cho các sinh viên sao cho
tất cả các mục tiêu của khoá học được đáp ứng.
III.6.Giảng dạy từ xa
Giảng dạy từ xa hoặc giảng dạy trên ti vi là một dạng tiên tiến của
cái gọi là “khoá học tương tác”. Trong khoá học dựa trên phương pháp
giảng dạy như vậy, sinh viên làm việc một mình, ở ngoài trường đại học, đa
số thời gian là ở nhà. Khi đã đăng ký vào khoá học mà họ lựa chọn, sinh
viên nhận được các tài liệu của khoá học theo đường bưu điện. Trong đa số
các trường hợp có kèm theo một bản hướng dẫn chỉ ra những việc phải làm
với các tài liệu này.
III.7.Thuyết giảng/ Thảo luận
17
Phương pháp này giả thiết rằng kiến thức của giảng viên về chủ đề
môn học cao hơn kiến thức của học viên. Trong cách thức giảng bài thuần
tuý, giảng viên truyền tải thông tin cho sinh viên người được định trước phải
chủ động ghi chép những chú ý và “thâm nhập” vào nội dung coi là phong
phú từ phía giảng viên. Hiếm có cơ hội dành cho sinh viên hỏi và bàn luận.
Ưu
đ
i
ểm
- Tiết kiệm được thời gian; chương trình khoá học được tiến hành trong
thời gian khá ngắn.
- Sinh viên tận dụng được cơ hội “hiệu chỉnh” thông tin từ giảng viên.
Nhượ
c
đ
i
ểm
- Nó thuận lợi cho các sinh viên có năng khiếu.
- Có thể bị độc quyền bởi giảng viên
- Quá trừu tượng và tập trung vào giảng viên
- Khuyến khích học vẹt
III.8.Phương pháp dự án
Phương pháp dự án có liên quan một cách kinh điển đến việc chia
nhỏ chủ đề. Các nhóm sinh viên được giao cho các chủ đề con để thực hiện
điều tra và xây dựng các báo cáo. Vai trò của người thầy là cung cấp
những hướng dẫn khi được yêu cầu và giám sát quá trình làm việc
của mỗi nhóm. Mỗi nhóm sinh viên được tự do lựa chọn một phương pháp
luận bất kỳ được cho là phù hợp để giải quyết nhiệm vụ.
Ưu
đ
i
ểm
- Khuyến khích độc lập nghiên cứu và mang lại những khám phá mới
- Sinh viên thu được các kỹ năng về điều tra nghiên cứu
- Làm cho sinh viên bận rộn với học tập
- Giảng viên có nhiều thời gian hơn cho các việc thường ngày của lớp học
- Làm cho việc học có ý nghĩa và giúp nhanh hiểu biết hơn
Nhượ
c
đ
i
ểm
- Có thể khó khăn khi thiếu các tư liệu nghiên cứu như sách, nguồn khác.
- Tiêu tốn thời gian
- Sinh viên chép bài của người khác hoặc thuê người khác làm bài hộ.
- Không quan tâm đến sự khác nhau về cá nhân sinh viên.
- Sinh viên có thể hướng trệch chủ đề.
- Sinh viên có thể không có khả năng thu thập đủ thông tin nếu như
không được hướng dẫn.
18
19
PHẦN 2
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY E-LEARNING Ở GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
I. Tổng quan về E-Learning :
1. Lịch sử phát triển
Gắn với sự phát triển của công nghệ thông tin và phương pháp giáo
dục đào tạo, quá trình phát triển của E-Learning có thể chia ra thành 4 thời kỳ
như sau :
- Trước năm: 1983: Thời kỳ này, máy tính chưa được sử dụng rộng rãi,
phương pháp giáo dục “Lấy giảng viên làm trung tâm” là phương pháp
phổ biến nhất trong các trường học. Học viên chỉ có thể trao đổi tập trung
quanh giảng viên và các bạn học. Đặc điểm của loại hình này là giá thành
đào tạo rẻ.
- Giai đoạn: 1984 - 1993: Sự ra đời của hệ điều hành Windows 3.1, Máy
tính Macintosh, phần mềm trình diễn powerpoint, cùng các công cụ đa
phương tiện khác đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên đa phương
tiện. Bài học được phân phối đến người học qua đĩa CD-ROM hoặc đĩa
mềm. Tuy nhiên sự hướng dẫn của giảng viên là rất hạn chế.
- Giai đoạn: 1994 – 1999: Khi công nghệ Web được phát minh ra, các nhà
cung cấp dịch vụ đào tạo bắt đầu nghiên cứu cách thức cải tiến phương
pháp giáo dục bằng công nghệ này.
- Giai đoạn: 2000 – 2005: Các công nghệ tiên tiến bao gồm JAVA và các
ứng dụng mạng IP, công nghệ truy nhập mạng và băng thông Internet
được nâng cao, các công nghệ thiết kế Web tiên tiến đã trở thành một cuộc
cách mạng trong giáo dục đào tạo.
Cùng với xu hướng chung của thế giới, ở Việt Nam, E-Learning cũng đã
được một số cơ quan và tổ chức đào tạo truyền bá và triển khai ứng dụng.
Điển hình là dịch vụ luyện thi trực tuyến trên mạng của công ty phát triển
phần mềm VASC với trang web ; Trung tâm đào
tạo kỹ thuật viên mạng CISCO qua trang Web ,… Một
số trường đại trong nước cũng đã và đang áp dụng từng phần hình thức E-
Learning.
2. Khái niệm
Elearning bao gồm tất cả các hình thức điện tử hỗ trợ cho việc giảng
dạy. Hệ thống công nghệ thông tin, dù có nối mạng hay không, phục vụ như
một phương tiện truyền thông cụ thể thực hiện quá trình học tập.
E-learning (viết tắt của Electronic Learning) là thuật ngữ mới, tạm
dịch là dạy và học trực tuyến. Hiểu theo nghĩa rộng, E-learning là một thuật
20
ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin và
truyền thông. Hiểu theo nghĩa hẹp, E-learning là sự phân phát các nội dung
học tập sử dụng các phương tiện điện tử và mạng viễn thông.
Một số hình thức e-learning
- Đào tạo dựa trên công nghệ (TBT - Technology-Based Training)
- Đào tạo dựa trên máy tính (CBT - Computer-Based Training)
- Đào tạo dựa trên web (WBT - Web-Based Training)
- Đào tạo trực tuyến (Online Learning/Training)
- Đào tạo từ xa (Distance Learning): Thuật ngữ này nói đến hình thức đào
tạo trong đó người dạy và người học không ở cùng một chỗ, thậm chí
không cùng một thời điểm.
3. Mô hình tổng thể E-Learning
Trung tâm của hệ thống e-Learning là hệ thống quản lý học tập LMS
(Learning Management System). Theo đó, người dạy, người học và người
quản trị hệ thống đều truy cập vào hệ thống này với những mục tiêu khác
nhau đảm bảo hệ thống hoạt động ổn định và việc dạy học diễn ra hiệu quả.
Để tạo và quản lý một khóa học, người dạy ngoài việc làm trực tiếp
trên hệ thống quản lý học tập, còn cần sử dụng các công cụ xây dựng nội
dung học tập (Authoring Tools) để thiết kế, xây dựng nội dung khóa học và
được đóng gói theo chuẩn (thường chuẩn là SCORM) gửi tới hệ thống quản
lý học tập. Trong một số trường hợp, nội dung khóa học có thể được thiết kế
và xây dựng trực tiếp không cần các công cụ Authoring tools. Những hệ
thống làm được việc đó có tên là hệ thống quản lý nội dung học tập LCMS
(Learning Content Management System).
Mô hình hệ thống e-Learning
21
4. Ưu điểm và hạn chế E-Learning
4.1. Ưu điểm của e-Learning
So sánh với lớp học truyền thống, e-Learning có những lợi thế sau đây:
- Về sự thuận tiện: Học dựa trên e-Learning được thực hiện phù hợp với
tiến độ học tập, hoàn cảnh của người học, đảm bảo học mọi lúc, mọi nơi,
hỗ trợ hợp tác trong môi trường mạng. Với người quản trị, dễ dàng quản
lý lợp học với số lượng lớn.
- Về chi phí và sự lựa chọn: Chi phí theo học một khóa học không cao. Bên
cạnh đó, có thể lựa chọn các khóa học phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng
của bản thân đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của xã hội.
- Về sự linh hoạt: Khi tham gia một khóa học mới, người học có thể không
cần phải học tất cả các nội dung (trong trường hợp đã biết một số phần).
Qua đó, có thể đẩy nhanh tiến độ học tập. Các khóa học dễ dàng được cập
nhập thường xuyên và nhanh chóng.
4.2 Hạn chế của e-Learning
Bên cạnh những ưu điểm nổi trội của e-Learning kể trên, hình thức
dạy học này còn tiềm ẩn một số hạn chế sau:
a. Về phía người học
- Tham gia học tập dựa trên e-Learning đòi hỏi người học phải có khả năng
làm việc độc lập với ý thức tự giác cao độ. Bên cạnh đó, cũng cần thể hiện
khả năng hợp tác, chia sẻ qua mạng một cách hiệu quả với giảng viên và
các thành viên khác.
- Người học cũng cần phải biết lập kế hoạch phù hợp với bản thân, tự định
hướng trong học tập, thực hiện tốt kế hoạch học tập đã đề ra.
b. Về phía nội dung học tập
- Trong nhiều trường hợp, không thể và không nên đưa ra các nội dung quá
trừu tượng, quá phức tạp. Đặc biệt là nội dung liên quan tới thí nghiệm,
thực hành mà Công nghệ thông tin không thể hiện được hay thể hiện kém
hiệu quả.
- Hệ thống e-Learning cũng không thể thay thế được các hoạt động liên
quan tới việc rèn luyện và hình thành kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng thao tác
và vận động.
c. Về yếu tố công nghệ
- Sự hạn chế về kỹ năng công nghệ của người học sẽ làm giảm đáng kể hiệu
quả, chất lượng dạy học dựa trên e-Learning.
- Bên cạnh đó, hạ tầng công nghệ thông tin (mạng internet, băng thông, chi
phí…) cũng ảnh hưởng đảng kể tới tiến độ, chất lượng học tập.
22
5. Một số hình thức E-Learning :
1) Đào tạo dựa trên công nghệ (TBT - Technology-Based Training) là hình
thức đào tạo có áp dụng công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin.
2) Đào tạo dựa trên máy tính (CBT - Computer-Based Training). Là hình
thức đào tạo nào có sử dụng máy tính, nhưng thông thường thuật ngữ này
được hiểu theo nghĩa hẹp để nói đến các ứng dụng (phần mềm) đào tạo trên
các đĩa CD-ROM hoặc cài trên các máy tính độc lập, không nối mạng, không
có giao tiếp với thế giới bên ngoài.
3) Đào tạo dựa trên web (WBT - Web-Based Training): Là hình thức đào tạo
sử dụng công nghệ web. Nội dung học, các thông tin quản lý khoá học, thông
tin về người học được lưu trữ trên máy chủ và người dùng có thể dễ dàng truy
nhập thông qua trình duyệt Web.
4) Đào tạo trực tuyến (Online Learning/Training): là hình thức đào tạo có sử
dụng kết nối mạng để thực hiện việc học: lấy tài liệu học, giao tiếp giữa
người học với nhau và với giáo viên
5) Đào tạo từ xa (Distance Learning): Thuật ngữ này nói đến hình thức đào
tạo trong đó người dạy và người học không ở cùng một chỗ, thậm chí không
cùng một thời điểm.
II. Phân tích một số hình thức E-Learning :
2.1. Đào tạo dựa trên web :
Trước một khả năng hùng hậu của web, việc dạy học dựa trên web sẽ
là một xu thế tất yếu không thể đảo ngược trên phạm vi toàn thế giới, trong
đó có Việt Nam. Học tập dựa trên web và những mô hình giáo dục mới phù
hợp với sự phát triển của công nghệ web chúng ta hiện nay.
Sự ra đời World Wide Web vào những năm 1990 đã tạo ra khả năng
cung cấp thông tin tức thời cùng kiến thức tổng hợp trực tiếp tới những ai có
máy tính cá nhân. Giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng internet toàn cầu.
Những thành phần làm nên cuộc cách mạng học tập của thế kỷ XXI đang toả
sáng trên thế giới dưới những biểu tượng mang tên Google, Wikipedia,
Skype, iPod, YouTube, Facebook, Nokia, Yahoo, eBay, Flickr và Myspace.
Giai đoạn tiếp theo, sự kết hợp của những công nghệ khiến cho những đổi
thay được lan ra trên quy mô toàn cầu, tức thời, miễn phí và mang tính chất
mở, cá nhân và không phụ thuộc vào địa điểm, mang tính tương tác, được
đồng sáng tạo và dễ dàng chia sẻ bởi hàng tỉ người.
2. 2. Sử dụng Web hình thành những công nghệ giáo dục mới
a. Ứng dụng công nghệ truyền thông tương tác – đa phương tiện vào dạy và
học tạo nên công nghệ giáo dục mới theo hướng cá nhân hóa.
23
Những phát minh đột phá trong truyền thông và công nghệ số đang
thách thức thế giới cải tổ lại giáo dục, hình thành công nghệ giáo dục mới dựa
trên chính thành quả công nghệ số. Mô hình trường học dựa vào sách giáo
khoa một cỡ vừa cho tất cả đã hoàn toàn lỗi thời. Dự đoán năm 2019 có 50%
chương trình trung học sẽ thực hiện qua mạng trực tuyến. Những giáo viên
giỏi và chuyên gia đa phương tiện có thể xây dựng các chương trình học trực
tuyến dựa trên những mô đun phù hợp với phong cách học tập cá nhân.
b. Biến trò chơi điện tử thành công cụ học tập
Mặt trái của web là sinh ra nhiều trò chơi điện tử, thu hút nỗi đam mê
của giới trẻ. Nếu không có biện pháp điều chỉnh sẽ ảnh hưởng không tốt đến
kết quả học tập của giới trẻ.
Nội dung của các trò chơi điện tử mang tính giáo dục được hoàn thiện
bởi chính người chơi (người học) và hành động tương tác là điều then chốt.
Ví dụ SimCity giả lập công việc thiết kế một thành phố, người chơi có thể đối
mặt với trận bão, lốc xoáy, đám cháy trong thành phố.
c. Hình thành kỷ nguyên sáng tạo đại chúng và chia sẻ thông tin
Đây là khía cạnh nổi bật của cuộc cách mạng web 2.0. Một số hoạt
động đồng sáng tạo (cùng sáng tạo, không phụ thuộc địa lý) nổi bật là đầu thế
kỷ 21, các công ty Mỹ tiến hành mọi nghiên cứu trong nội bộ công ty. Ngày
nay các công ty này đang khai thác chất xám trí tuệ của các chuyên gia trên
toàn thế giới.
Wikipedia là mô hình đồng sáng tạo kể từ năm 2001, được thực hiện
bởi sự cộng tác đại chúng của hàng nghìn chuyên gia trong các lĩnh vực khác
nhau trên thế giới. Tất cả các bài viết được sử dụng miễn phí bởi 1,4 tỉ người
sử dụng máy tính di động đa phương tiện đã làm thay đổi bộ mặt của nền
kinh tế thế giới.
Hình thành Trung tâm Học tập ảo toàn cầu, khi đó mọi người đều có cơ
hội tham gia vào bất cứ lúc nào, và được thường xuyên cập nhật và mở rộng
bởi tất cả mọi người - bằng mọi thứ tiếng. Mạng này còn cung cấp các công
cụ để việc học tập có thể diễn ra vào bất kỳ lúc nào và tại bất cứ nơi đâu.
2.3. Đào tạo từ xa :
Diễn đạt một cách đơn giản, giáo dục từ xa là một loại hình học tập
mà sinh viên không trực diện với giảng viên của họ.
Người ta đã biết một cách khác biệt với từng trường hợp như ‘học
bằng thư’, ‘học tại nhà’, học ngoài trường’, ‘học độc lập’, ‘học từ xa’,
‘giảng dạy từ xa’, ‘hệ thống bên ngoài’, cái mà chúng ta gọi là học từ xa và
mở có nghĩa là chúng giống nhau cho tất cả mọi người trên toàn thế giới.
Đây là sự cung cấp giáo dục bằng phương thức khác với phương pháp trực
24
tiếp thông thường nhưng mục đích của chúng là giống nhau, về ý nghĩa và
thực tế cũng giống như các trường đại học trực tiếp dài hạn tại trường.
Lịch sử và sự phát triển của giáo dục từ xa đã được đánh dấu bởi ba
vấn đề cơ bản (Gough, 1980). Trước tiên là quyền được vào học: cho phép
sinh viên những người có thể bị từ chối các cơ hội giáo dục khác được nhận
vào học. Thứ hai là sự tương đương và tin cậy: sinh viên được dạy từ xa có
thể nhận được giáo dục và trình độ tương đương với cùng một chất lượng
như phương thức thông thường. Thứ ba là sự vượt trội: tìm kiếm sự vượt
trội trong chất lượng của tài liệu học tập, việc dạy học, các dịch vụ trợ
giúp, các hệ thống chuyên môn học thuật và hành chính hoặc sự bồi dưỡng
đội ngũ giảng viên.
Giáo dục từ xa dựa vào tài liệu, radio, máy thu hình, máy ghi băng,
các bài học, điện thoại, máy tính, và vệ tinh truyền thông. Một số cơ sở đào
tạo quản lý các chương trình của họ thông qua giáo dục từ xa tổ chức thực
hành trực tiếp và các chuyến đi thực tế.
Ở nhiều nước, đặc biệt những nơi nhà nước phải chịu gánh nặng tài
chính của học bổng sinh viên, tuổi tác là một nhân tố quan trọng. Những
sinh viên lớn tuổi ít cơ hội học tập bởi lẽ người ta cho rằng khoảng thời gian
làm việc của họ trước khi về hưu quá ngắn. Giáo dục từ xa không đặt ra giới
hạn trên của tuổi. Sự linh hoạt này của giáo dục từ xa đã mang lại cho rất
nhiều người “cơ hội thứ hai” để có được giáo dục đại học bởi vì họ đã không
có đủ khả năng cho việc học sớm hơn trong cuộc đời của họ.
25
PHẦN 3
CÁC PHẦN MỀM ỨNG DỤNG GIẢNG DẠY E-LEARNING
Một câu hỏi tự nhiên đặt ra là những phần mềm nào có thể giúp bạn
thành công trong lĩnh vực đầy mới mẻ e-Learning? Trong phần này chúng tôi
sẽ giới thiệu các loại sản phẩm khác nhau, có thể giúp bạn phát triển nội dung
e-Learning, tương tác với học viên, quản lý quá trình học tập của học viên.
1. Công cụ tạo website
Công cụ tạo website trực quan hoặc chỉ là bộ soạn thảo HTML đơn giản sẽ
là công cụ hữu ích để tạo các trang web. Tuy nhiên, nó sẽ không phải là cách
nhanh nhất vì bạn đòi hỏi phải biết các kiến thức cơ bản về lập trình.
Dreamweaver Công cụ sọan website
2. Công cụ soạn bài điện tử
Công cụ tạo bài giảng điện tử đắt tiền hơn nhưng rất phù hợp cho những
người phát triển bài giảng không có kiến thức sâu về IT. Ngoài ra, một số
công cụ cũng giúp chúng ta xuất ra các bài giảng theo định dạng tuân theo
chuẩn SCORM, AICC.
Authorware
3. Công cụ mô phỏng
Rất nhiều nội dung của e-Learning là liên quan tới IT. Dùng các hoạt hình
và các mô phỏng sẽ giúp nâng cao hiệu quả học ập một cách rõ rệt. Những
công cụ này giúp bạn tạo các hoạt hình và các mô phỏng mà không đòi hỏi
nhiều kiến thức tin học.
RoboDemo
26