Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển và năng suất lạc vụ xuân 2009 tại htx kim long- t.p huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.47 KB, 56 trang )

Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam, một nước mà gần 80% dân số tham gia sản xuất nông nghiệp
đang trên đà hội nhập và phát triển. Cùng với những thay đổi nhanh chóng của
thế giới thì Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Sự phát triển vượt bậc
của những thành tựu khoa học kỹ thuật đang đặt ra cho con người nhiều thách
thức, trong số đó nổi cộm hiện nay là vấn đề ô nhiễm môi trường,chiến tranh
thiên tai và đặc biệt là gia tăng dân số. Trước vấn đề đó đã đặt ra những khó
khăn trong việc đáp ứng nhu cầu lương thực và an ninh lương thực. Để có biện
pháp giải quyết những vấn đề nói trên không còn cách nào khác là phải tăng vụ,
đầu tư thâm canh, dùng giống mới chất lượng cao, trong đó biện pháp dùng phân
hoá học đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tăng năng suất cây trồng. Bên
cạnh việc dùng phân đa lượng để bón cho cây trồng thì hiện nay nhiều nước trên
thế giới trong đó có Việt Nam đã sử dụng phân bón lá để bổ sung thêm dinh
dưỡng giúp tăng nhanh năng suất cây trồng.
Lạc (Arachis hypogaea L.) là cây họ đậu, cây công nghiệp, cây lấy dầu có
giá trị kinh tế cao. Hiện nay lạc đứng thứ 2 sau đậu tương về sản lượng và diện
tích gieo trồng.
Lạc là nguồn nguyên liệu quan trọng hàng năm cung cấp cho ngành công
nghiệp thực phẩm.Trong sản xuất thì mỗi hecta trồng lạc có thể để lại cho đất
40-80 kg đạm, đồng thời lượng lá rụng và thân lá dùng làm nguồn phân hữu cơ
tốt có hàm lượng NPK tương đương với phân chuồng. Vì vậy lạc là một loại cây
trồng luân canh xen canh cải tạo đất tốt.
Ở Việt Nam lạc được coi là cây trồng đóng vai trò chủ đạo và chiếm vị trí
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cho đến nay lạc được trồng phổ biến
khắp cả nước nhưng năng suất lại chênh lệch khá lớn giữa các vùng.Nhìn chung
năng suất lạc nước ta vẫn còn thấp so với tiềm năng của nó điều đó được chứng
minh là trong hơn 25 quốc gia trồng lạc ở Châu Á, Việt Nam đứng thứ 5 về sản
lượng nhưng năng suất vẫn còn thấp.
Thực tế cho thấy nếu trên diện tích rộng hàng chục ha, gieo trồng giống
mới có kỹ thuật tiên tiến thì năng suất sẽ cao hơn nhiều so với trồng đại trà, điều


này chứng tỏ rằng nếu áp dụng rộng rãi các biện pháp kỹ thuật thì sẽ cải thiện
đáng kể năng suất thu hoạch được.
1
Hiện nay người dân sử dụng rất nhiều loại phân bón khác nhau để bón cho
lạc nhưng bón loại phân gì cho phù hợp và bón như thế nào để đạt hiệu quả cao
là một vấn đề đáng quan tâm.Cho dù có coi trọng những vấn đề khác như đất đai
hoặc giống tốt mà xem nhẹ yếu tố phân bón thì đối với cây trồng nói chung, cây
lạc nói riêng sẽ không bao giờ phát huy hết tiềm năng năng suất.Chính vì vậy
phân bón là một trong những yếu tố góp phần tăng năng suất cây trồng.
Vấn đề sử dụng phân hoá học liên tục trên những vùng đất thâm canh
không những làm mất cân bằng sinh thái, sâu bệnh phát sinh nhiều mà còn làm
suy thoái dần độ màu mỡ của đất làm cho đất chai sạn dẫn đến cây trồng khó
hút được dinh dưỡng qua rễ. Chính vì vậy bón phân qua lá cho lạc hiện nay là
một hướng đi mới có ý nghĩa quan trọng trong kỹ thuật trồng lạc, ngoài bổ sung
lượng dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng chúng còn giúp cây sinh trưởng khoẻ,
ít sâu bệnh, đáp ứng kịp thời nhu cầu dinh dưỡng, năng suất ổn định đem lại
hiệu quả cao cho ngành trồng lạc.
Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại phân bón lá, một số ít trong đó
không đảm bảo chất lượng gây ảnh hưởng xấu đến cây trồng.Đa số đảm bảo
chất lượng nhưng do người dân chưa quen với biện pháp mới, phun không đúng
kỹ thuật cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất cây trồng .
Tuy nhiên hiện nay việc nghiên cứu phân bón qua lá đối với cây lạc còn
nhiều hạn chế và việc sử dụng nó vẫn chưa rộng rãi ở các tỉnh miền Trung nói
chung và trên địa bàn Thừa Thiên Huế nói riêng.
Để tìm ra một loại phân bón lá phù hợp và sử dụng chúng một cách hợp lý
đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất là một vấn đề cấp thiết.Trên cơ sở đó chúng tôi
tiến hành đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến
sinh trưởng, phát triển và năng suất lạc vụ Xuân 2009 tại HTX Kim Long-
T.P Huế’’
Mục đích của đề tài: Tìm hiểu ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến

sinh trưởng,phát triển và năng suất lạc từ đó xác định loại phân nào có hiệu quả
nhất đối với cây lạc nhằm khuyến cáo sử dụng rộng rãi trong sản xuất đem lại
hiệu quả kinh tế cao cho những hộ trồng lạc ở Thừa Thiên Huế nói riêng và cả
nước nói chung.
2
Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN DỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Mối quan hệ đất - cây trồng - phân bón
Quan hệ đất- cây trồng - phân bón là mối quan hệ biện chứng tác động
qua lại lẫn nhau và được thể hiện qua sơ đồ dưới đây:
Đất
Phân bón Cây trồng
Đất là môi trường sống , nơi tổng hợp các chất dinh dưỡng cần thiết cho
cây trồng.Cây trồng cung cấp một lượng lớn sinh khối từ thân, rễ, lá…tạo nên
một tầng thảm mục trên bề mặt đất. Đây là nguồn phân bón hữu cơ hết sức quan
trọng giúp tăng độ phì nhiêu đất.Chính vì vậy mà cây trồng có thể sinh trưởng
phát triển được trên đất mà không cần bón phân.
Cây trồng có thể duy trì quá trình sinh trưởng phát triển của mình nhờ sự
cung cấp dinh dưỡng từ đất mà không cần phân bón.Tuy nhiên để đạt năng suất
cao, ổn định, chất lượng nông sản tốt thì bên cạnh các yếu tố như khí hậu, thời
tiết, giống, kỹ thuật thâm canh…Chúng ta cần phải thêm các loại phân vô cơ
nhằm hỗ trợ các phân bón hữu cơ.
2.2. Bón phân cân đối và hợp lý
2.2.1. Khái niệm về bón phân cân đối và hợp lý
*Bón phân cân đối:
Là việc cung cấp đầy đủ các nguyên tố với tỷ lệ thích hợp trong từng vùng
sinh thái nhất định để đạt được năng suất cao nhất.
Bón phân cân đối phải đảm bảo các yếu tố dinh dưỡng cân đối:
Cân đối giữa các nguyên tố đa lượng, trung lượng, vi lượng.
Cân đối giữa hàm lượng vô cơ và hữu cơ.

Cân đối với từng lại cây trồng.
*Bón phân hợp lý:
Là sử dụng lượng phân bón thích hợp bón cho cây trồng đảm bảo tăng
năng suất cây trồng với hiệu quả kinh tế cao nhất, không để lại hậu quả tiêu cực
lên nông sản và môi trường sinh thái.
Bón phân hợp lý là thực hiện bón phân cân đối và đảm bảo bốn đúng:
đúng liều lượng, đúng loại phân, đúng tỷ lệ, đúng thời kỳ.
Theo tổng kết của FAO có mười nguyên nhân chính làm giảm hiệu lực
phân bón, trong đó bón phân không cân đối làm giảm năng suất từ 20-50%.[20]
3
2.2.2.Tác dụng của bón phân cân đối và hợp lý
Có nhiều quan niệm khác nhau về phân bón và cách bón phân cho cây
trồng. Bên cạnh những quan niệm cho rằng phân bón có ảnh hưởng tích cực
đến cây trồng thì cũng không ít ý kiến cho rằng phân bón là hoá chất có ảnh
hưởng xấu đến cây trồng và môi trường sinh thái.
Tất cả những ý kiến trên đều có lập luận có phần đúng nhưng chưa phải hoàn
toàn bởi nếu chúng ta biết sử dụng phân bón một cách cân đối và hợp lý thì
không những không huỷ hoại môi trường mà còn làm tăng năng suất, sản
lượng và chất lượng nông sản phẩm.
Thực tế cho thấy bón phân cân đối và hợp lý có tác dụng:
- Ổn định và cải thiện độ phì nhiêu của đất do không làm cây trồng phải
khai thác triệt để các chất dinh dưỡng mà con người không cung cấp đủ
cho nó.
- Tăng năng suất cây trồng, nâng cao hiệu quả sản xuất: Khi bón phân
cân đối và hợp lý cây trồng có thể phát huy hết tiềm năng năng suất sẵn
có.
- Tăng phẩm chất nông sản: Tăng hàm lượng protein trong hạt ngũ cốc,
vitamin trong rau quả, đường trong mía, giảm tích luỹ nitrat trong rau,
làm hình dáng nông sản hấp dẫn hơn…
- Bảo vệ nguồn nước, hạn chế khí thải độc hại làm ảnh hưởng đến môi

trường.
2.3. Định luật yếu tố dinh dưỡng hạn chế năng suất cây trồng
Năm 1840, Liebig phát hiện ra yếu tố dinh dưỡng hạn chế năng suất
cây trồng. Nội dung định luật như sau: “Năng suất cây trồng tỷ lệ với nguyên
tố khoáng có tỷ lệ thấp nhất so với yêu cầu của cây trồng”.
Khi cây trồng không thể phát triển hoặc phát triển không bình thường thì
cây trồng đó không cho năng suất hoặc năng suất thấp hơn so với bình thường,
hoặc không đạt chỉ tiêu về chất lượng (protein, đườngs vi lượng ) ta nói rằng
trong đất có yếu tố hạn chế. Sự thiếu hụt một nguyên tố khoáng sớm muộn cũng
dẫn tới yếu tố hạn chế.
4
Việt Nam là quốc gia nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa nên đất
thường bị chua, thiếu lân, kali, magie và lưu huỳnh ở những vùng đất ẩm. Đất
thường có khả năng hấp thu và lưu trữ chất dinh dưỡng thấp, thiếu đạm, các
chất hữu cơ chóng bị vô cơ hóa[4]. Mặt khác, hơn một nửa diện tích đất trồng
trọt có hàm lượng các chất dinh dưỡng thấp và nhiều yếu tố hạn chế cần khắc
phục như: độ chua, hàm lượng nhôm, độ mặn và kiềm cũng như khả năng giữ
chất dinh dưỡng kém.
Trong số các thiếu hụt về dinh dưỡng trong đất Việt Nam, lớn nhất và quan
trọng nhất là thiếu hụt về đạm, lân, kali. Đây cũng là những chất dinh dưỡng
mà cây trồng hấp thụ với lượng lớn nhất. Trong các vùng đất chua phèn, đất
trũng thiếu lân trầm trọng; đất bạc màu, đất xám thiếu đạm, lân và kali. Đất
đỏ bazan, đất cát biển thì sự thiếu hụt lưu huỳnh trở nên quan trọng. Về vi
lượng có một số các yếu tố đáng chú ý, theo Phạm Đình Thái phân tích 216
mẫu đất, 92 mẫu cây cho thấy đa số đất Việt Nam nghèo nguyên tố vi lượng,
tình trạng cân bằng âm trong đất ở mức trầm trọng.
5
Bảng 1: Nguyên tố dinh dưỡng thiếu hụt hoặc dư thừa ở những
nhóm đất chính trên thế giới
Nhóm đất Thiếu hụt Dư thừa

Phù sa - Al; Mn; Fe
Xám, xám bạc màu Hầu hết các chất Al; Mn; Fe
Đỏ vàng P; Ca; Mg; Fe -
Phèn P; Ca; B; Mo Al; Fe
Cát Hầu hết các chất -
Glây Mn Fe; Mo
Mặn, mặn kiềm N; P; K; Zn; Fe; Mn; Cu Na; B; Cl
Đen N; P S
Podzon N; P; K và vi lượng Al
Than bùn Cu -
Xám nâu bán khô hạn P; K; Mg; Zn; Fe; Mn; Cu Na
Xói mòn trơ sỏi đá P; Mn; Zn; Fe -
(Nguồn: Dudal 1976, Clar 1982)
2.4. Xu hướng sử dụng phân bón cho cây trồng hiện nay
2.4.1. Trên thế giới
Theo thống kê của các nhà khoa học thì phân bón đóng góp trên 50%
trong việc tạo năng suất cây trồng. Xu hướng sử dụng phân bón trên thế giới
cho cây trồng ngày càng tăng. Nếu năm 1905, 1906 tiêu thụ phân bón trên thế
giới là 1,9 triệu tấn (tính theo nguyên chất) thì đến năm 1998, 1999 lên đến
138,22 triệu tấn so với 31 triệu tấn năm 1961, 1962 tăng 4,5 lần.
Châu Á là khu vực có mức tiêu thụ phân hoá học lớn nhất, từ 3,12 triệu
tấn năm 1961 tăng lên 17 triệu tấn năm 1973, 59 triệu tấn năm 1989 đến năm
1993 đã tăng lên 60,91 triệu tấn.Tính riêng khu vực Đông Nam Á, nơi có sản
lượng lương thực theo đầu người tăng nhanh nhất nên phân bón cũng tăng
mạnh nhất khoảng 20 lần trong vòng 20 năm.
6
Ngược lại với Châu Á thì Châu Phi là khu vực có mức tiêu thụ phân
bón thấp nhất thế giới.Trong những năm 90 mức tiêu thụ phân bón của khu
vực này tiếp tục giảm. Năm 1994, 1995 giảm 14,3% so với những năm trước,
do đó năng suất các loại cây trồng ở Châu Phi mà đặc biệt là cây ngũ cốc có

năng suất thấp nhất thế giới.[22].
Phân hóa học là sản phẩm của công nghệ khai khoáng cung cấp dinh
dưỡng thiết yếu cho cây trồng đem lại năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất
nếu biết sử dụng hợp lý.Sử dụng phân hoá học cũng là con đường ngắn nhất
cải thiện vấn đề nghiêm trọng là nạn đói và thiêú lương thực thường xuyên
xảy ra ở một số nước kém phát triển. Theo tính toán của FAO năng suất lúa
của Châu Á phải đạt bình quân 3,2 tấn/ha năm 2010 và 4,75 tấn/ha năm 2030
mới đảm bảo nhu cầu lương thực tối thiểu cho người dân. Như vậy ở Châu Á
với khả năng sử dụng phân bón như hiện nay của các nước đang phát triển
trong vùng này thì số lượng phân bón để đạt năng suất 3,5 tấn/ha ngũ cốc vào
năm 2010 là 230 kg (N + P
2
O
5
+ K
2
O)/ha, 5,5 tấn/ha vào năm 2003 là 475 kg
(N + P
2
O
5
+ K
2
O)/ha.Với những nước đang phát triển thì ít hơn 160 kg/ha để
đạt 3,5 tấn/ha và 380 kg/ha để đạt năng suất 5,5 tấn/ha[7].
Gần đây ở một số nước phát triển các nhà xã hội học và các nhà môi
trường đang kêu gọi dụng rộng rãi nông nghiệp hữu cơ vì họ coi đây là giải
pháp cân đối dinh dưỡng tối ưu,vừa đảm bảo tăng năng suất vừa an toàn môi
trường sinh thái.Tuy nhiên thực tế đã chứng minh phân hữu cơ chỉ bổ sung
dinh dưỡng và cải thiện đất chứ không thể thay thế phân vô cơ được[1]. Thực

tế cho thấy nếu tận thu hết phân chuồng và tàn dư thực vật trong một trang
trại để trả lại cho đồng ruộng, không sử dụng phân hoá học thì năng suất cây
trồng giảm 30%, cân bằng dinh dưỡng bị phá vỡ và đất sẽ bị bạc màu. Về mặt
lý thuyết, cần 23,6 tấn tàn dư thực vật mới có thể cung cấp đủ lượng đạm
ngang với 100 kg urê, 24,2 tấn tàn dư thực vật mới có thể cung cấp đủ lượng
P
2
O
5
ngang 100 kg tripsupe (TSP) và 12,3 tấn tàn dư thực vật mới có thể
cung cấp đủ lượng K
2
O ngang với 100 kg KCl. Khoảng 20 - 25 tấn tàn dư
thực vật mới có thể cung cấp được 150 kg NPK tương đương với 300 kg phân
khoáng. Nếu dựa vào tàn dư thực vật để bón trả lại cho cây trồng thì phải
7
dùng tàn dư của 6-10 ha mới có thể cung cấp đủ cho dinh dưỡng cho 1ha
thâm canh(A.L Anger,1993).
Như vậy ta có thể thấy được tầm quan trọng của phân hoá học như
thế nào. Do đó việc sử dụng và sự tăng nhanh sử dụng phân hoá học là
con đường tất yếu phải đi của nông nghiệp nước ta và các nước đang
phát triển. Sử dụng hợp lý phân hoá học và đi đúng hướng là một trong
những việc làm nhằm cải thiện năng suất cây trồng và hạn chế ô nhiễm
môi trường do phân hoá học gây ra.
2.4.2. Ở Việt Nam
Theo các chuyên gia nông nghiệp, trong một vài năm gần đây, xu
hướng sử dụng phân bón của nông dân đã có sự thay đổi. Nông dân giảm dần
việc sử dụng phân đơn, nhất là phân urê và chuyển qua sử dụng ngày càng
nhiều các loại phân bón tổng hợp NPK, phân vi sinh, phân hữu cơ đa số được
sản xuất trong nước. Cục Trồng trọt - Bộ NN&PTNT cho biết, 10 tháng đầu

năm 2006, các nhà máy đã sản xuất và tiêu thụ trên 1,7 triệu tấn phân bón
tổng hợp, vi sinh , tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2005.
Tuy nhiên với việc sử dụng phân bón như vậy nhưng trong khi các
nước phát triển, việc sử dụng phân bón có chiều hướng đi xuống thì tại các
nước đang phát triển lại chiều hướng tăng mạnh, trong đó có Việt Nam. So
với các nước sử dụng nhiều phân bón trên thế giới, Việt Nam mới sử dụng
phân bón ở mức 2%. Tuy nhiên mức này lại chiếm một nguồn đầu vào khá
lớn đối với sản xuất nông nghiệp.
Theo các chuyên gia cho biết từ nay đến hết 2010, mỗi năm Việt Nam
sẽ phải nhập khoảng trên 500 nghìn tấn phân bón như: DAP, lân, kali và việc
nhập khẩu chỉ có khả năng chấm dứt vào năm 2020 khi các nhà máy trong
nước sản xuất đủ lượng phân bón theo nhu cầu của thị trườn.[29].
Là nước nhập khẩu phân bón với lượng tương đối lớn nhưng bên cạnh
đó vẫn còn tồn tại tình trạng nông dân sử dụng phân bón lãng phí. Điều này
do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng
này là do trình độ nông dân còn nhiều hạn chế, do quan niệm tập quán canh
tác và hơn thế nữa do chưa hiểu hết tác dụng to lớn của việc bón phân cân đối
và hợp lý chính vì vậy mà hiệu suất sử dụng phân bón hiện nay rất thấp, phân
8
đạm đạt mức 35-40%, phân lân và kali đạt mức 50%. Như vậy chỉ tính riêng
phân urê,hàng năm chúng ta bón khoảng 2 triệu tấn thì hao tổn khoảng 1,2-1,3
triệu tấn. Do vậy chỉ cần tăng hệ số sử dụng thêm 5% thì hàng năm chúng ta
tiết kiệm được ít nhất 100000 tấn urê[5].
Sử dụng phân hoá học hiện nay ở Việt Nam có thể chia thành 4 giai
đoạn:
- Từ năm 1961 - 1970: Giai đoạn này sử dụng phân hoá học còn thấp.
Tổng số NPK bón cho một ha là 30 kg nguyên chất. Hiệu suất phân đạm cũng
như phân lân chưa cao. Hiệu suất 1kg P
2
O

5
chỉ đạt 0,6 - 1kg thóc.
- Từ năm 1971 - 1975: Giai đoạn này sử dụng phân hoá học có tăng
lên. Tổng số bón cho 1 ha canh tác là 50 kg nguyên chất.Trong đó đạm bình
quân bón đến 38 ka. Hiệu quả phân bón trong thời ký này khá cao, nhất là
đạm. Hiệu suất 1 kg đạm từ 10 - 15 kg thóc.
- Từ 1976 - 1980: Là giai đoạn chuyển tiếp, số lượng phân khoáng tuy
có giảm song phải phục vụ cho toàn quốc nên luợng bón bị giảm khá nhiều.
Tổng số NPK bón cho một ha chỉ đạt 34 kg nguyên chất.
- Từ 1981 đến nay: Sử dụng phân hoá học tăng lên đáng kể, nhất là
đạm, nhưng một thiếu sót quan trọng là tỉ lệ N:P:K không cân đối, số lượng
phân lân và kali bón quá thấp. Ước tính tổng diện tích gieo trồng ở nước ta
đến năm 2010 vào khoảng 12.285.000 ha, trong đó cây hàng năm là
9.855.500 ha và cây lâu năm khoảng 2.431.000 ha. Để thoả mãn nhu cầu
phân bón cho các loại cây trồng trên các diện tích này, đến năm 2010 ta cần
có 2.100.000 tấn phân urê, 300.000 tấn DAP, 3 triệu tấn phân NPK các loại,
1.400.000 tấn lân dạng super và nung chảy, 400.000 tấn phân kali [4].
9
Bảng 2: Nhu cầu phân bón ở Việt Nam
Năm Chỉ tiêu N P
2
O
5
K
2
O Tổng
2000
Nhu cầu
(10
3

tấn)
1371,2 728,6 534,0
2633,8
Tỷ lệ
N:P:K
1 0,516 0,378
2005
Nhu cầu
(10
3
tấn)
1504,0 813,0 598,0
2915,0
Tỷ lệ
N:P:K
1 0,541 0,398
2010
Nhu cầu
(10
3
tấn)
1627,0 892,0 669,0
3118,0
Tỷ lệ
N:P:K
1 0,548 0,411
2.5. Cơ sở lý luận của đề tài
2.5.1. Vai trò của cây lạc
Lạc là cây trồng có giá trị kinh tế nhiều mặt bởi nó là cây họ đậu ngắn
ngày, các chất dinh dưỡng trong hạt khá đầy đủ các nguyên tố dinh dưỡng và

có hàm lượng cao. Cây lạc là cây trồng quan trọng xếp thứ 13 trong số các
cây thực phẩm trên thế giới [7].
*Về giá trị dinh dưỡng:
Sản phẩm chính của cây lạc là hạt lạc và thành phần dinh dưỡng chính
của hạt là lipit chiếm 40,2 - 60,7%. Dầu lạc chỉ thua kém dầu ôliu là dầu thực
vật tốt nhất. Hàm lượng protein trong hạt lạc khá cao chiếm từ 20 - 37,2%.
Chất lượng protein của lạc chỉ kém của đậu tương. Trong protein lạc có chứa
tới 13 axit amin quan trọng cần thiết cho hoạt động sống của con người.
Ngoài ra nó còn chứa rất nhiều các vitamin và các nguyên tố khoáng quan
trọng khác[8].
*Về vai trò cải tạo đất :
10
Cây lạc đóng vai trò to lớn trong hệ thống luân canh cây trồng nhờ bộ
rễ có khả năng cố định đạm vì vi khuẩn nốt sần cộng sinh với rễ cây họ đậu
đã làm giàu thêm cho đất khoảng 500-600 kg N/ha, trung bình là 25 - 200 kg
N/ha/năm[6].
*Về giá trị xuất khẩu:
Trên thị trường thương mại thế giới lạc là mặt hàng xuất khẩu đem lại
kim nghạch xuất khẩu cao của nhiều nước. Theo số liệu của FAO, hiện đang
có khoảng 100 nước trồng lạc. Ở Xênêgan, giá trị từ lạc chiém 1/2 tổng thu
nhập, chiếm 80% giá trị xuất khẩu. Ở Nigiêria chiếm 60% giá trị xuất
khẩu[8].
Sản phẩm chính của lạc được sử dụng làm nguyên liệu cho công nghiệp
chế biến. Các sản phẩm phụ của lạc cũng được sử dụng nhiều trong nông
nghiệp, vì vậy đã nâng cao giá trị nhiều mặt khi sản xuất lạc.
2.5.2. Nhu cầu dinh dưỡng của cây lạc
Cây lạc cần có một lượng dinh dưỡng rất lớn, nhất là đạm. Tuy nhiên,
trên thực tế, nhu cầu bón đạm cho cây lại rất thấp. Do cây có vi khuẩn cộng
sinh trong nốt sần ở rễ, có khả năng đồng hóa được đạm khí trời để cung cấp
cho cây. Nếu sản lượng thu hoạch khoảng 3 tấn quả /ha, cây lạc lấy đi cho cả

quả và thân lá là 192 kg N, 48 kg P
2
O
5
, 80 kg K
2
O, 79 kg CaO. Ngoài ra, cây
còn cần rất nhiều các nguyên tố trung lượng và vi lượng khác như magiê, lưu
huỳnh, đồng, kẽm, bo, molypđen, mangan, sắt…
Như vậy, nếu xét về tỷ lệ phân bón đa lượng cho cây, thì lạc có nhu
cầu tỷ lệ N:P
2
O
5
:K
2
O là xấp xỉ 4-1-2. Tuy nhiên, trên thực tế, bón phân cho
lạc thì lượng đạm cần bón được hạ thấp rất nhiều, do đặc điểm tự tổng hợp
đạm khí trời nhờ vi khuẩn cộng sinh. Lượng canxi cây cần và lấy đi từ đất
cũng tương đương lượng kali, do vậy, cần chú ý đặc điểm này. Lượng magiê
cây hút cũng tương đương hoặc cao hơn lượng canxi. Ngoài ra, cây lạc cũng
rất cần lưu huỳnh như những cây lấy dầu khác[28].
Đạm (N): Lạc có nhu cầu cao về đạm song nhờ hệ thống nốt sần ở bộ rễ
cung cấp một lượng đạm đáng kể. Tuy nhiên, nốt sần của cây chỉ hình thành
sau khi cây mọc 1 tuần, hơn nữa, hệ vi sinh vật trong nốt sần có nhu cầu sử
dụng phân đạm để phát triển nên cần bón lót đạm và bón thúc sớm để lạc phát
11
triển ngay từ đầu và tạo nhiều nốt sần hữu hiệu. Trên các chân đất bạc màu,
nghèo dinh dưỡng nếu không bón phân đạm thì hệ vi sinh vật cộng sinh ở nốt
sần phát triển kém vì vậy năng suất sẽ thấp. Thiếu đạm, thân lá có màu xanh

vàng, lá nhỏ, khả năng vươn cao, đâm cành kém. Thiếu đạm trong giai đoạn
đầu cây cằn cỗi, khó hình thành nốt sần và tỷ lệ nốt sần hữu hiệu thấp.
Lân: Lân có tác dụng kích thích bộ rễ phát triển, rất cần cho sự hình
thành nốt sần, tăng cường khả năng hút đạm của cây, thúc đẩy ra hoa, hình
thành quả sớm, giảm tỷ lệ lép. Do vậy lân cần được bón sớm. Thiếu lân xuất
hiện sắc đỏ trên lá, thiếu nhiều lá chuyển qua màu nâu, cây còi cọc.
Kali: Kali đóng vai trò quan trọng trong quá trình quang hợp và sự phát
triển quả (củ) làm tăng số nhân, tăng tỷ lệ hạt chắc, tăng năng suất và hàm
lượng dầu trong hạt. Hàm lượng kali trong lá cao nhất ở thời kỳ ngay trước ra
hoa sau đó giảm đi ở thời kỳ hình thành quả. Vì vậy cần bón kali sớm và kết
thúc trước khi cây ra hoa. Thiếu kali xuất hiện những đốm vàng ở mép lá sau
lan ra thành mảng và dần chết khô, thường ở lá non xuất hiện những vết đốm
vàng nâu. Thiếu kali làm quả một nhân nhiều, tỷ lệ dầu thấp.
Canxi: Là một trong những yếu tố không thể thiếu khi trồng lạc. Bón
vôi cho lạc giúp làm tăng pH đất, tạo môi trường thích hợp cho vi khuẩn cố
định đạm và là chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình tạo quả và hạt. Cây lạc
hút canxi, magiê mạnh nhất là thời kỳ đâm tia.
Molipden (Mo:) Có tác dụng tăng hoạt tính vi khuẩn nốt sần, tăng khả
năng đồng hóa nitơ.
Bo (B): Giúp quá trình phát triển rễ, tăng khả năng chịu hạn, giúp cho
quả không bị nứt, hạn chế nấm bệnh xâm nhập. Thiếu B làm giảm tỷ lệ đậu
quả, hạt lép nhiều, giảm sức sống hạt giống[1].
Ở các thời kỳ khác nhau khả năng hút dinh dưỡng của lạc cũng khác
nhau, điều này được thể hiện ở bảng 3:
12
Bảng 3: Dinh dưỡng cây lạc hút ở các thời kỳ
Thời kỳ
Dinh dưỡng cây hút (%)
Đạm Lân Kali Canxi Magiê
Cây con 10 10 19 11 10

Ra hoa 42 39 28 48 53
Quả chín 48 51 53 41 27
(Nguồn :IFA - Longanathan & Krishnamoorthy, 1997)
2.5.3. Cơ sở của việc bón phân qua lá
2.5.3.1. Các yếu tố cản trở sự hút dinh dưỡng của các tế bào lông hút
Trong thực tế ta thấy rằng nếu đất bị dí chặt, mặt đất bị đóng váng, đất
chứa nhiều chất hữu cơ chưa phân huỷ, trong đất tích tụ các chất độc đối với
hô hấp của rễ , đất phèn , mặn ngập úng lâu ngày có thể gây ra hô hấp yếm
khí dẫn đến cản trở sự hút dinh dưỡng của rễ và người ta gọi đây là hiện
tượng “nghẹt rễ”.
Ở các điều kiện gây ra nghẹt rễ cho cây, dù trong đất có thừa chất dinh
dưỡng cây cũng chỉ hút dược một phần. Khả năng lựa chọn "hút theo nhu
cầu" của cây bị phá hủy.
Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hút dinh dưỡng của cây gồm:
*Dinh dưỡng trong đất: Các chất dinh dưỡng ở trong đất không phải
chất nào cũng ở dạng “dễ tiêu”, vì vậy rễ cây cũng không thể hút được một số
chất dinh dưỡng này, mặc dù cây đang rất cần. Có rất nhiều hiện tượng xảy ra
hàng ngày hàng giờ trong đất làm cho các chất dinh dưỡng trở nên khó tiêu,
hoặc bị mất đi.
Lân dễ bị các nguyên tố như nhôm, sắt kết tủa, ở vùng đất chua phèn
làm cho cây luôn bị thiếu lân. Kali dễ bị rửa trôi do nước mưa, nước tưới. Urê
bón và đất nhanh chóng bị các vi sinh vật trong đất chuyển hóa thành dạng
đạm nitrat. Ở dạng này, đạm dễ bị rửa trôi hoặc bị chuyển hóa tiếp thành nitơ
phân tử và bay vào khí quyển. Vi sinh vật và cỏ dại cũng cạnh tranh dữ dội
với cây trồng để hút dinh dưỡng. Một gam đất có hàng tỷ vi khuẩn, nấm
chúng hút chất dinh dưỡng và chỉ khi chúng chết đi mới hoàn trả lại các chất
này cho vùng rễ.
13
*Đất: cây cần đất để sống nhưng chúng ta biết rằng trong một gram đất
có chứa hàng tỷ vi sinh vật thuộc nhiều loài khác nhau và các động vật hạ

đẳng khác. Có loài có ích nhưng cũng có loài có hại cho hệ rễ, đặc biệt là
tuyến trùng, khi chúng phát triển tới một số lượng cao thì toàn bộ rễ tơ và
lông hút của rễ bị hủy diệt. Sau khi đoàn tuyến trùng đã chén no nê các đầu
rễ có chứa nhiều tế bào lông hút nhất, chúng mở cửa cho các vi sinh vật gây
bệnh (nấm, vi khuẩn, vi rút) vào cây qua rễ và có thể gây tác hại nghiêm trọng
đến sinh trường và phát triển của cây.
*pH đất: pH đất là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với sự hút dinh dưỡng
của rễ cây. Ở đất kiềm (pH >7) hầu hết các vi lượng đều trở nên “khó tiêu”
cây cần mà không hút được. Còn ở đất chua quá (pH < 4) một số kim loại độc
cho rễ được giải phóng ở mức độ dư thừa làm tổn hại đối với các tế bào lông
hút.Ở đất quá chua phèn, người ta thấy số lông hút trên mặt rễ tơ giảm đi rất
nhiều so với đất có pH từ 6-6,5. Ở đất ngập úng, sự phân huỷ các chất hữu cơ
dẫn đến hình thành các chất độc như H
2
S, cản trở hô hấp của rễ, do đó cản trở
hút chất dinh dưỡng.
* Ẩm độ đất: Ở đất có độ ẩm quá thấp hoặc quá cao cây không hút
được nước từ đất, sự hút dinh dưỡng từ đó cũng đình chỉ luôn.
*Nhiệt độ: Nhiệt độ thay đổi cũng ảnh hưởng mạnh đến hoạt động của
tế bào lông hút. Ở vùng nhiệt đới như nước ta, nếu nhiệt độ xuống dưới 15
o
C
là việc hút dinh dưỡng của cây bị chậm lại.
Ngoài các yếu tố kể trên thì sự hút dinh dưỡng của bộ rễ còn bị ảnh
hưởng của nhiều yếu tố ngoại cảnh khác nữa như con người, vi sinh vật, cỏ
dại.
Vì các yếu tố gây trở ngại nói trên mà gần đây người ta đã tìm hiểu các
con đường khác để đưa chất dinh dưỡng vào cây để phụ thêm cho hoạt động
của hệ rễ khi cần thiết. Con đường dinh dưỡng ngoài rễ hữu hiệu nhất đối với
cây trồng đó chính là con đường dinh dưỡng qua lá.

14
2.5.4.Vai trò của phân bón lá đối với cây trồng
Cũng giống như những loại phân bón nói chung, phân bón lá cung cấp
dinh dưỡng cho cây trồng, ngoài ra còn có những vai trò và ưu điểm mà các
loại phân bón khác không có được, đó là:
+ Đáp ứng nhanh nhu cầu dinh dưỡng của cây, giúp cây mau chóng
phục hồi.
+ Giúp cây sinh trưởng phát triển ổn định, chắc khỏe, ít sâu bệnh,
chống được các điều kiện bất thuận (ngập úng, hạn, mặn, phèn, ) và cho năng
suất cao.
+ Phân bón lá ít bị mất đi so với phân bón qua rễ, nên hiệu quả sử dụng
phân bón cao hơn.
+ Tăng chất lượng nông sản và giá trị thương phẩm.
+ Có thể sử dụng khắc phục tình trạng thiếu dinh dưỡng của cây khi bộ
rễ gặp trở ngại.
2.5.5. Phân loại các loại phân bón lá
Các chế phẩm phân bón lá trên thị trường hiện nay rất phong phú. Tuy
nhiên có thể chia các chế phẩm phân bón lá ra làm 3 nhóm:
+ Nhóm chỉ có các yếu tố đa lượng và vi lượng phối hợp hoặc riêng rẽ.
+ Nhóm có thêm các chất kích thích sinh trưởng nhằm thúc đẩy sinh
trưởng hoặc thúc đẩy ra hoa tạo quả, giảm tỷ lệ rụng quả, thúc đẩy quá trình
chín, làm nhanh ra rễ.
+ Nhóm có các loại thuốc hóa học phòng trừ sâu bệnh được pha trộn
theo tỷ lệ thích hợp.
2.5.6. Các biện pháp để nâng cao hiệu quả của phân bón lá
Để sử dụng phân bón lá có hiệu quả cao phải:
+ Chọn đúng loại phân thích hợp: Từng loại cây trồng cần phải có loại
phân bón lá riêng. Ví dụ muốn kích thích cây ra hoa trái mùa, kích thích đâm
chồi, chín sớm, thì phải lựa chọn đúng loại kích thích sinh trưởng phù hợp
cho từng loại cây cụ thể.

15
+ Cần phun đúng thời kỳ cần thiết của cây: Mỗi cây trồng đều có
những thời kỳ quan trọng trong sinh trưởng và phát triển cần được đáp ứng đủ
dinh dưỡng thì cây mới sinh trưởng tốt, cho năng suất cao.
+ Phun đúng nồng độ, liều lượng: Tránh phun quá đậm đặc hay quá
loãng, tránh phun quá nhiều làm lãng phí phân.
+ Phun đúng thời điểm: Nên chọn lúc râm mát hoặc nắng nhẹ để phun;
tránh phun lúc nắng gắt, lúc lá còn ướt do sương hoặc mưa.
Bảng 4: Ngưỡng chịu đựng của lá cây với phân phun qua lá
Loại phân Dạng phân
Kg/400 lít nước phun cho
1 ha
Đạm Co(NH
2
)
2
, (Urê) 3 – 5
(NH
4
)HPO
4
(DAP) 2 – 3
(NH
4
)
2
SO
4
(SA) 2 – 3
NH

4
Cl (Amonclorua) 2 – 3
Lân
NH
4
HPO
4
(MAP) 2 – 3
H
3
PO
4
(Axit photphoric) 1,5 – 2,5
Dạng DAP, MAP như trên 2 – 3
Kali
KNO
3
(Kalinitrat) 3 – 5
K
2
SO
4
(Kalisunphat) 3 – 5
KCl (Kaliclorua) 3 – 5
Canxi
CaCl
2
(Canxiclorua) 3 – 6
Ca(NO
3

)
2
(Canxinitrat) 3 – 6
Magie MgSO
4
(Magiesunphat) 3 – 12
Mg(NO
3
)
2
(Magienitrat) 3 – 12
Sắt FeSO
4
(sắt sunphat) 2 – 12
Mangan MnSO
4
(Mangan sunphat) 2 – 3
Kẽm ZnSO
4
(Kẽm sunphat) 1,5 – 2,5
Bo Na
3
BO
4
(Borat natri) 0,25 – 1,0
Molipden Na
2
MoO
4
(Natri Molypdat) 0,1 – 0,15

(Nguồn: Witter, 1967)
16
2.6. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.6.1.Tình hình sản xuất lạc trên thế giới
Theo số liệu của FAO thì hiện nay có trên 100 nước trồng lạc từ 40 vĩ
độ Bắc đến 40 vĩ độ Nam với diện tích 23,38 triệu ha và sản lượng đạt 34,85
triệu tấn (năm 2007)[28].
Trong các niên vụ gần đây diễn biến về năng suất sản lượng lạc của
một số nước trên thế giới được trình bày ở bảng 5:
Bảng 5: Diện tích năng suất sản lượng lạc trên thế giới từ 2005 - 2007
Nước
Diện tích (triệu ha) Năng suất (tấn/ha) Sản lượng (triệu tấn)
2005 2006 2007 2005 2006 2007 2005 2006 2007
Thế giới 23,61 22,36 23,38 1,61 1,55 1,49 38,09 34,47 34,85
Ấn Độ 6,73 5,64 6,70 1,18 0,87 0,98 7,99 4,91 6,60
Trung Quốc 4,68 4,72 4,69 3,07 3,12 2,79 14,39 14,73 13,09
Nigieria 2,18 2,22 2,23 1,59 1,72 1,72 3,48 3,82 3,83
Indonexia 0,72 0,71 0,70 2, 04 2,08 2,10 1,46 1,47 1,47
Mỹ 0,66 0,49 0,48 3,35 3,22 3,51 2,21 1,57 1,69
Xenegan 0,77 0,59 0,60 0,91 0,77 0,70 0,70 0,46 0,43
Xu Đăng 0,96 0,96 0,92 0,54 0,38 0,50 0,52 0,36 0,46
Myanma 0,65 0,65 0,66 1,40 1,40 1,50 0,91 0,91 1,00
Cammơrun 0,31 0,31 0,30 0,76 0,53 0,53 0,23 0,16 0,16
Việt Nam 0,27 0,25 0,25 1,81 1,86 1,98 0,49 0,46 0,51
(Nguồn: FAOSTAT ,2009)
Cây lạc được trồng tập trung ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ. Trong
đó, châu Á có diện tích trồng lạc lớn nhất chiếm 63,17%; châu Phi chiếm
30,8%; châu Mỹ chiếm 5,8% diện tích trồng lạc trên thế giới. Qua số liệu
bảng 5 ta thấy Ấn độ là nước đứng đầu thế giới về diện tích trồng lạc là 6,70
triệu ha (năm 2007) có giảm so với năm 2005 và tăng so với năm 2006. Sản

lượng lạc của Ấn Độ giảm từ 7,99 triệu tấn (năm 2005) xuống còn 6,60 triệu
tấn (năm 2007). Trung Quốc, nước đứng thứ 2 trên thế giới sau Ấn Độ về
diện tích trồng lạc là 4,69 triệu ha nhưng sản lượng lại vươn lên đứng đầu thế
17
giới với 13,09 triệu tấn. Nhờ có sự quan tâm đặc biệt đến công tác nghiên cứu
và áp dụng những chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nhiều năm qua
đã làm cho sản xuất lạc ở Trung Quốc có bước phát triển lớn, trong khi năng
suất lạc bình quân của thế giới là 1,49 tấn/ha thì ở Trung Quốc đạt 2,79 tấn /
ha. Bên cạnh đó vẫn có nhiều nước diện tích trồng lạc còn ít như Myanma
(0,66triệu ha), Camerun (0,30), Việt Nam (0,25 triệu ha) Năng suất và sản
lạc của các nước chênh lệch nhau khá lớn và không ổn định qua các năm
nhưng nhìn chung năng suất lạc của các nước có chiều hướng gia tăng.
2.6.2. Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam
Ở Việt Nam, hơn 10 năm trở lại đây việc thực hiện chính sách chuyển
đổi cơ chế quản lý trong sản xuất nông nghiệp đã giải quyết được vấn đề
lương thực. Vì vậy người dân có điều kiện chủ động để chuyển dần một phần
diện tích trồng lúa thiếu nước sang trồng các loại cây trồng có giá trị kinh tế
cao hơn, trong đó cây lạc có vị trí quan trọng trong nền sản xuất nông nghiệp
hàng hoá, cũng như góp phần cải tạo và sử dụng tài nguyên đất đai, nhằm
khai thác lợi thế của vùng khí hậu nhiệt đới. Những năm gần đây diện tích và
sản lượng lạc ở Việt Nam đã tăng lên rõ rệt được thể hiện ở bảng 6:
Bảng 6: Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam từ 1997 - 2007
Năm Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
1997 253,5 13,9 351,3
1998 269,4 14,3 386,0

1999 247,6 12,8 318,1
2000 249,9 14,5 355,3
2001 244,6 14,8 363,1
2002 246,7 16,2 400,4
2003 243,8 16,7 406,2
2004 263,7 17,8 469,0
2005 269,6 18,1 489,3
2006 249,3 18,6 464,8
2007 254,6 19,8 505,0
(Nguồn : Niên giám thống kê, 2008)
18
Qua bảng 6 cho thấy: Trong vòng 10 năm qua diện tích, năng suất, sản
lượng của cả nước đã tăng lên.Tuy nhiên so với mức sản lượng tăng lên khá
cao từ 351,3 nghìn tấn năm 1997 tăng lên 505,0 nghìn tấn năm 2007thì diện
tích mở rộng thêm nhưng tăng không đáng kể, trong vòng 10 năm chỉ tăng
thêm được 1,1 nghìn ha.
Từ năm 1998 - 2001 năng suất lạc không tăng, đến năm 2002 mới tăng
thêm (đạt 16,2 tạ/ha), năm 2007 đạt 19,8 tạ/ha.
Như đã nói ở trên diện tích trồng lạc ở nước ta trong những năm gần
đây không mở rộng nhiều nhưng do áp dụng được các tiến bộ kỹ thuật nên
sản lượng lạc đã tăng lên nhiều.
Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy: trên diện tích rộng hàng chục
hecta gieo trồng giống mới và biện pháp canh tác tiên tiến, năng suất lạc có
thể đạt từ 4-5 tấn/ha, gấp 3 lần so với năng suất bình quân trong sản xuất đại
trà[3,8]. Từ đó cho thấy tiềm năng để nâng cao năng suất lạc ở nước ta còn
rất lớn. Chính vì vậy ứng dụng tiến bộ kỹ thuật một cách rỗng rãi trong sản
xuất, tạo điều kiện để mọi người dân có thể tiếp thu một cách nhanh chóng
nhằm góp phần đưa năng suất lạc của Việt Nam sánh kịp với các nước bạn và
trên hết là nâng cao được đời sống cho nhân dân.
2.6.3. Tình hình sản xuất lạc Thừa Thiên Huế

Thừa Thiên Huế là một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Đây là một tỉnh
có nhiều tiềm năng để phát triển cây lạc.
Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2010 đã xác định
diện tích trồng lạc là 8000 ha và có sản lượng dự kiến là 16000 tấn[2]. Hiện
nay diện tích trồng lạc hàng năm khoảng 4300 ha, năng suất bình quân đạt
1,4 tấn/ha. Trong những năm gần đây ở một số vùng nông nghiệp của Thừa
Thiên Huế, cây lạc được xem là cây chủ lực có hiệu quả kinh tế cao so với
các loại cây khác. Nông dân đã từng bước thay thế cây trồng có hiệu quả kinh
tế thấp băng cây lạc. Vì vậy đã góp phần làm cho diện tích lạc ở Thừa Thiên
Huế ngày càng được mở rộng.
Diện tích, năng suất, sản lượng lạc ở Thừa Thiên Huế đến năm 2004
được thể hiện ở bảng 7:
19
Bảng 7: Tình hình sản xuất lạc ở Thừa Thiên Huế từ năm 1997 - 2007

Năm Diện tích
( ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
( tấn)
1997 3800 15,0 5700
1998 4300 13,5 5800
1999 4100 14,1 5800
2000 3900 14,1 5500
2001 4800 12,3 5900
2002 4900 14,9 7300
2003 4500 15,9 7300
2004 4600 17,0 8200
2005 4800 17,6 8400

2006 4700 18,6 8800
2007 4763 20,0 9549
(Nguồn : Niên giám thống kê Thừa Thiên Huế, 2008)
Qua số liệu bảng 7 ta thấy: Diện tích trồng lạc ở Thừa Thiên Huế có xu
hướng ngày càng mở rộng, trong vòng 10 năm từ năm 1997 là 3800 ha đến
năm 2007 là 4763 ha với sản lượng tăng từ 5700 tấn lên 9549 tấn. Diện tích
trồng lạc tăng từ 3800 ha lên 4100 ha. Cụ thể, về sản lượng tăng từ 5700 tấn
lên 5800 tấn từ năm 1997 - 1999. Riêng từ năm 1999 - 2000 thì cả về diện
tích lẫn sản lượng đều giảm. Tuy nhiên từ năm 2001 - 2004 thì cả về diện tích
lẫn sản lượng lạc lại có xu hướng tăng lên. Và diện tích đến năm 2005 - 2007
lại giảm trở lại song sản lượng tăng lên từ 8400 tấn lên 9549 tấn. Nhìn chung,
mặc dù diện tích trồng lạc của tỉnh Thừa Thiên Huế ngày càng được mở rộng
nhưng năng suất chưa cao. Năng suất bình quân vẫn còn thấp do nhiều
nguyên nhân nhưng chủ yếu là do trình độ thâm canh còn hạn chế, sản xuất
chưa tập trung, chưa có quy trình kỹ thuật phù hợp cho từng địa phương, việc
áp dụng những tiến bộ kỹ thuật còn chưa phổ biến. Bên cạnh đó, việc sử dụng
giống cũ, mất sức sống và đặc biệt là nông dân chưa chú ý đến việc bón phân
cân đối và hợp lý cũng là một trong những yếu tố góp phần ảnh hưởng đến
năng suất và sản lượng lạc trên địa bàn tỉnh.
20
2.7. Những nghiên cứu về phân bón lá trên thế giới và ở Việt Nam
2.7.1. Những nghiên cứu về phân bón lá trên thế giới
Lạc là loài cây trồng rất khó dự đoán về năng suất vì bộ phận thu hoạch
chính của lạc là quả lạc nằm bên dưới mặt đất. Để góp phần nâng cao năng
suất lạc, các nghiên cứu về phân bón đã đạt được những thành tựu đáng kể
đặc biệt là các nghiên cứu về phân bón lá.
Phân bón lá được phát hiện tại Viện đại học Michigan từ năm 1954
nhưng mãi đến thập niên 70 - 80 các nhà khoa học nhiều nơi, nhiều nước mới
xác nhận là bón phân qua lá hiệu lực cao hơn, nhanh hơn, kinh tế hơn và tránh
được nạn hoá chất làm ô nhiễm, chai cứng đất đai. Sau đó các cơ quan nguyên

tử năng lượng bằng cách dùng I - giô - tôp phóng xạ trộn vào phân bón lá rồi
phun cho ướt một cái lá của cây mà thôi. Sau đó dùng máy đo phóng xạ dò
tìm thì chất phân bón lá I- giô - tôp (Isotopes) đã di chuyển khắp tất cả các lá,
cành, tận từng đọt non cho đến rễ lớn nằm sâu dưới đất [21]. Như vậy hiệu
quả sử dụng của phân bón lá rất cao.
Ở Ấn Độ, khi phun 22kg N/ha lên lá vai tuần, vào thời gian 4 - 6 tuần lễ
sau gieo tăng được năng suất lạc có tưới và người ta cho rằng nó giúp cho
việc hấp thu dinh dưỡng, đặc biệt là canxi[7].
Theo (Joshi,1975), nếu bón 10kg P
2
0
5
/ha lên lá lạc trồng nhờ nước trời
cho năng suất tương đương với bón 40 - 60 kg trên đất limong sét đen ở
Dhawai[7].
Theo Khargon, năng suất lạc quả cao một cách có ý nghĩa khi bón NPK
theo lượng 20 : 80 : 20 làm phân bón lót và 20 kg SSP(là gi) phun lên lá.
Không chỉ có nguyên tố đa lượng, các nguyên tố vi lượng cũng rất cần thiết
đối với lạc. Theo kết quả nghiên cứu của Tirupari (Ấn Độ) cho thấy, muốn
sản xuất được 1 tạ lạc cần:4,38kg N + 0,4kg P
2
0
5
+ 2,6kgK
2
0 + 1,32kg Mg0
và 4g ZnS0
4
[7].
Theo kết quả nghiên cứu của SoLanKey(1973), phun lên lá 1 dung dịch

ZnSO
4
0,6% 32 ngày sau gieo cho năng suất 1280 kg quả khô so với 1140
kg/ha ở đối chứng trên đất đen trung bình về kết cấu[7].
21
Tình trạng thiếu Fe, Bo thường hay xảy ra trên ruộng lạc. Khi thiếu Bo
gây ra "quả rỗng". Khi thừa Bo gây ra ngộ độc vì không hấp thụ được Fe.
.Khi thiếu sắt, giải pháp tạm thời là bón sắt dưới dạng Chelat (Har Tzook,
1971) nhưng biện pháp này tốn kém. Phun dung dịch Sunfat ferơ (Sắt II
sunfat + 1% Nitratamon) 40 - 60 ngày sau khi gieo cũng chữa được tình trạng
thiếu sắt (Fe).
Như vậy, qua các nghiên cứu về phân bón lá trên thế giới ta thấy rằng:
Mặc dù đang là phương pháp bổ sung dinh dưỡng nhưng nó đã cung cấp kịp
thời, nhanh chóng chất dinh dưỡng cho lạc, loại bỏ được các bệnh sinh lý do
thừa hoặc thiếu chất dinh dưỡng của đất. Đây là một biện pháp hiệu quả giúp
cho cây trồng hấp thụ các nguyên tố dinh dưỡng tốt hơn.
2.7.2. Những nghiên cứu về phân bón lá ở Việt Nam
Không chỉ trên thế giới mà ở Việt Nam trong thời gian gần đây những
nghiên cứu về phân bón lá cho lạc ngày càng được quan tâm nhiều nhằm đáp
ứng nhu cầu thâm canh để tăng năng suất cho lạc. Từ năm 1995 - 1997, diện
tích lạc có sử dụng phân bón lá tăng từ 17 - 33%.
Mặc dù chỉ cần số lượng ít nhưng các nguyên tố vi lượng không thể
thiếu đối với sự sinh trưởng, phát triển của cây lạc giúp cho quá trình hình
thành quả lạc được tốt, tỉa quả không bị nứt, hạn chế nấm bệnh xâm nhập.
Thiếu B làm giảm tỉ lệ đậu quả, hạt lép, sức sống hạt giống giảm. Phun dung
dich axit boric có thể làm tăng năng suất 4 - 10%. Sử dụng Sunfat mangan
cũng đã góp phần làm tăng năng suất lạc[3]. Theo thống kê phần lớn đất trồng
lạc ở nước ta đều thiếu molipđen. Khi phun molipden đã tăng năng suất lạc
lên 16%. Hiệu quả của phân vi lượng đến năng suất lạc đã thể hiện rõ khi
phun kết hợp cả Mo, B, Mn với liều lượng một lần phun là 100g

molipdatamon, 100g axit boric và 100g sunfat mangan/ha (nồng độ 1/1000)
[3,128]. Theo kết quả nghiên cứu của Ngô Thế Dân (1999), phun dung dịch
Mo khi lạc ra hoa không có hiệu quả rõ rệt. Phun riêng lẻ Zn và Cu khi lạc bắt
đầu ra hoa năng suất tăng từ 3,2 - 7,1%. Nhưng nếu phun kết hợp cả 4 nguyên
tố Zn, Cu, Mo, B năng suất có thể tăng từ 19,1 đến 21,3%, hạt mẩy, to, hàm
lượng prôtêin tăng lên rõ rệt.
22
Các nghiên cứu trên cho thấy hiệu quả của việc sử dụng các nguyên tố
vi lượng phun qua lá làm tăng năng suất lên đáng kể. Theo TS.Trần Văn Đạt
(chuyên viên FAO tại Roma) sử dụng phân bón lá nếu áp dụng đúng phương
pháp có thể mang lại lợi ích kinh tế vì hiệu quả của sự hấp thụ phân bón cho
đến 80% so với 20 - 50% phân bón được hấp thụ ở rễ[28] .
Các nghiên cứu trên không chỉ đơn thuần sử dụng các nguyên tố vi
lượng trong các loại phân bón lá, trong thành phần có chứa thêm các nguyên
tố khác sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Theo Công ty sinh hoá nông nghiệp và
Thiên nông thành phố Hồ Chí Minh, phân KOMIX có thành phần chủ yếu là
Polyhumat, được bổ sung cân đối các chất cần thiết như Cu, Zn, B, Mg, Fe,
Mo… các enzime, axit amin và một số hợp chất sinh học khác ở dạng dễ tiêu
nên cây trồng dễ hấp thụ qua lá[27].
23
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Địa điểm và thời gian tiến hành thí nghiệm
Thí nghiệm tiến hành trong vụ Xuân 2009 tại HTX Kim Long - TP.Huế
3.2. Đối tượng nghiên cứu
3.2.1.Giống lạc
Giống lạc được trồng trong thí nghiệm là giống L14
3.2.2. Phân bón lá sử dụng trong thí nghiệm: gồm 4 loại phân bón lá
* SEAWEED – RONG BIỂN 95%
Thành phần: Chất khô 95%, N: 1-2%, P

2
O
5
: 2-4%, K
2
O: 18-22%
Các loại khoáng vi lượng
Các Carbohydrates: Acid Alginic, Mannitol, Laminarin
Các chất kích thích sinh trưởng: Cytokinin,Auxin, Gibberllin
Các amino acid (đến đây)
Tỷ lệ pha: 10 gr/16 lít nước.
Nơi sản xuất: Công ty TNHH Thương mại Quốc Bảo L3 - 6 Phùng
Khắc Khoan Quận 1- Tp.Hồ Chí Minh.
* HVP - 1610WP
- Thành phần: N:15%; P
2
O
5
:30%; K
2
O:15%; Mg:0,05%; Cu:0,07%;
Zn:0,06%, Fe:0,15%, Mn:0,05%, Bo:0,02% ; Mo:0,0008%
- Tỷ lệ pha: 10 gr/16 lít nước.
- Nơi sản xuất: Công ty CP dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp TP.Hồ Chí Minh , số
2 đường Tăng Nhơn Phú,P. Phước Long B, Quận 9 - Tp.Hồ Chí Minh.
*ATONIK 1.8 DD
- Thành phần: Hợp chất Nitro thơm
Chất kích thích sinh trưởng Atonik
- Tỷ lệ pha: 150ml/ha ( hoà vào 500 lít nước)
- Nơi sản xuất: Công ty ADC 101 Phan Đình Phùng – T.P Cần Thơ.

24
* KALI – HUMAT
- Thành phần: N:2%; P
2
O
5
:4%; K
2
O:13%; Zn:0,01%, Bo:0,01%;
Humat acid 9%.
- Tỷ lệ pha: 50ml/16 lít nước
- Nơi sản xuất:Công ty hợp danh sinh học nông nghiệp Sinh Thành, 625/2
KP.3, P.HBP, Quận Tân Bình - Tp.Hồ Chí Minh.
3.3. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của 4 loại phân bón lá trên đến:
- Khả năng sinh trưởng, phát triển của lạc.
- Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất.
- Một số chỉ tiêu sinh lý.
- Hiệu quả kinh tế của 4 loại phân bón lá.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1.Các công thức thí nghiệm
Công thức I(Đ/C):Nền + Phun nước lã.
Công thức II: Nền + phun SEAWEED – RONG BIỂN 95%
Công thức III: Nền + phun HVP - 1610WP
Công thức IV: Nền + phun ATONIK 1.8 DD
Công thức V: Nền + phun KALI – HUMAT
* Nền gồm (6 tấn phân chuồng +10 kg N + 90 kg P
2
O
5

+ 60 kg K
2
O +500 kg
vôi)/ha.
*Các loại phân bón lá được phun vào các thời kỳ:
Lúc lạc 5 - 7 lá
Lúc lạc bắt đầu ra hoa
Lúc lạc kết thúc ra hoa đợt 1
Lúc lạc kết thúc ra hoa
*Liều lượng phun:600 lit/ha/1 lần phun
3.4.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm gồm 5 công thức, 3 lần nhắc lại, được bố trí theo phương
pháp khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCB).
25

×