Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Tính toán và lựa chọn kết cấu nhà lưới trồng rau an toàn quy mô nhỏ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.16 MB, 67 trang )

PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rau xanh là loại thực phẩm không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày
của mỗi người trên khắp hành tinh, đặc biệt khi lương thực và các loại thức ăn
giàu đạm đã được đảm bảo thì nhu cầu về rau xanh lại càng gia tăng, như một
nhân tố tích cực trong cân bằng dinh dưỡng và kéo dài tuổi thọ. Theo tính
toán của các nhà dinh dưỡng học thì nhu cầu tiêu thụ rau bình quân hàng ngày
của mỗi người dân cần khoảng 250-300g/ngày/người tức là 90-
110kg/người/năm.Giá trị dinh dưỡng của rau được thể hiện trên các mặt. Rau
cung cấp cho cơ thể nhiều loại vitamin như : A, B, C, PP, nhiều chất là sinh tố
C, tiền vitamin A(Provitamin A). Trong rau còn chứa các chất khoáng như:
Ca, P, Fe và các chất năng lượng như Protit, Lipit, Gluxit. Ngoài ra rau còn
cung cấp các nguồn dinh dưỡng khác như các Axit hưu cơ, hợp chất thơm,
các vi lượng và Xenlulo.[1]
Sản xuất rau là ngành quan trọng của nền Nông nghiệp ở nhiều nước
trên thế giới và đối với Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới và xây dựng Đất nước, về lĩnh vực Nông
nghiệp, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ: Phải nhanh chóng đưa công nghiệp hóa,
hiện đại hóa vào Nông nghiệp. Một trong những hướng công nghiệp hóa Nông
nghiệp là áp dụng hình thức sản xuất kiểu Công nghiệp- thực hiện thâm canh
hiệu quả cao và bền vững bằng phương thức sản xuất Nông nghiệp hiện đại.
Ở nước ta, rau và hoa không chỉ cung cấp cho thị trường nội địa mà đã
trở thành mặt hàng với nhu cầu ngày càng lớn trên thị trường nước ngoài. Rau
và hoa phát triển khắp các vùng trong nước, chiếm khoảng 56% diện tích đất
canh tác ở các tỉnh phía Bắc và khoảng 44% ở các tỉnh phía Nam, trong đó
diện tích trồng rau và hoa trong nhà kính, nhà lưới hiện nay khoảng trên
1000ha và không ngừng phát triển ở hầu hết các tỉnh.
Nhà lưới có vai trò quan trọng trong việc sản xuất rau an toàn cho
năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao do nhà lưới chống mưa, sương,
giảm nhiệt về mùa hè, tăng nhiệt về mùa đông, hạn chế côn trùng xâm nhập từ
bên ngoài. Điều đó cho phép kiểm soát đầy đủ và chặt chẽ hầu hết các thông


1
số kỹ thuật trong quá trình sản xuất, kể cả đáp ứng được yêu cầu sinh trưởng
và phát triển tốt nhất của cây trồng như: Nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, khí CO
2
,
khí O
2
… cũng như kiểm soát được sâu bệnh hại cây trồng.
Việc nhập các mẫu nhà lưới của nước ngoài ứng dụng ở nước ta không
phát huy được tính ưu việt do không phù hợp với điều kiện khí hậu, giá thành
cũng như chí phí và việc vận hành. Việc nghiên cứu, lựa chọn, cải tiến nhà
lưới của các nước cho phù hợp với điều kiện khí hậu, kinh tế và kĩ thuật cũng
như ứng dụng và phát triển ở nước ta là rất cần thiết.
Khi tính toán thiết kế nhà lưới trồng rau cần phải đáp ứng các yêu cầu
nông học của cây trồng, đó là các yếu tố : nhiệt độ, ánh sáng, khí CO
2
, khí O
2
và kiểm soát sâu bệnh… Như vậy yêu cầu chung khi tính toán thiết kế nhà
lưới là lựa chọn cấu trúc, hệ thống thiết bị, vật liệu đảm bảo tính năng kiểm
soát khí hậu môi trường(là yếu tố chủ đạo), giá thành hợp lý.
Xuất phát từ tình hình trên, tôi chọn đề tài: “ Tính toán và lựa chọn
kết cấu nhà lưới trồng rau an toàn quy mô nhỏ”.

2
PHẦN 2
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình sản xuất rau trên thế giới và trong nước
2.1.1. Tình hình trồng rau và tiêu thụ rau trên thế giới
1/ Tình hình trồng rau trên thế giới

Theo số liệu gần đây, năm 2005 diện tích trồng rau trên thế giới khoảng
17.999.009ha, năng suất đạt 138,829 tạ/ha, sản lượng đạt 249,879 triệu tấn.
Nước có diện tích trồng rau lớn nhất là Trung Quốc với 8.266.500ha.
Bảng 1: Diện tích, năng suất, sản lượng rau của một số nước trên thế giới.[4]
Quốc gia
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
( triệu tấn)
Toàn thế giới 17.999.009 138,829 249,879
Trung Quốc 8.266.500 171,790 142,000
Ấn Độ 3.400.000 102,941 35,000
Việt Nam 525.000 133,500 6,600
Philippin 500.000 88,000 4,400
Liên Bang Nga 207.000 162,802 3,370
Hàn Quốc 195.000 318,966 3,700
Brazil 195.000 115,385 2,250
Băngladet 150.000 62,800 0,942
Thái Lan 145.000 162,8,2 1,005
Italy 144.000 180,556 2,600
Nhật Bản 110.000 280,412 2,700
Phần Lan 75.000 200,000 1,500
Hoa Kỳ 11.050 771,801 2,840
(Nguồn: Recorts copyright Fao 2006)
Về sản lượng rau thì Trung Quốc vẫn dẫn đầu với 142 triệu tấn chiếm
56,82% tổng sản lượng rau toàn thế giới, sau Trung Quốc là Ấn Độ đạt 35
triệu tấn (chiếm 14%). Như vậy chỉ riêng 2 nước Trung Quốc và Ấn Độ đã
chiếm 70,82% tổng sản lượng rau toàn thế giới.

3
Bên cạnh đó, việc áp dụng nhiều tiến bộ KHKT cùng với việc tạo ra
nhiều chủng loại cây trồng đạt năng suất cao đã làm cho năng suất rau ở một
số nước tăng lên đáng kể. Năng suất lớn nhất là Hoa Kỳ (771,801 tạ/ha), kế
đến là Hàn Quốc (318,966 tạ/ha), Nhật Bản (280,412 tạ/ha), Phần Lan
(200,000 tạ/ha), Italy (180,566 tạ/ha).[10]
2/ Tình hình tiêu thụ rau trên thế giới.
Theo tính toán của các nhà dinh dưỡng học thì mức tiêu dùng rau tối
thiểu cho mỗi người là 90kg/người/năm. Hiện nay ở nhiều nước đã vượt quá
mức quy định này. Năm1969, sản lượng rau bình quân tính theo đầu người
của các nước Bungari là 178kg; hungari là 161kg; Balan là 100kg; Rumani là
98kg; Liên Xô (cũ ) là 76kg. Năm 1988, các nước có lượng rau tiêu thụ cao
nhất trên đầu người như Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên là 244,6kg;
Nam Triều Tiên là 141,1kg ; New Zeland là 136,7kg.[20]
Trước nhu cầu rau ngày càng tăng như vậy, một số nước trên thế giới đã
có những chính sách nhập khẩu rau khác nhau. Năm 2005, nước nhập khẩu rau
nhiều nhất thế giới là Pháp đạt 145,422 nghìn tấn; sau Pháp là các nước như:
Canada (143,332 nghìn tấn), Anh (140,839 nghìn tấn), Đức (116,866 nghìn
tấn). Trong khi đó, 5 nước chi tiêu cho nhập khẩu rau lớn nhất thế giới là:
Đức (149.140 nghìn USD); Pháp (132.942 nghìn USD);Canada (84.496 nghìn
USD ); Trung Quốc (80.325 nghìn USD); Nhật Bản (75.236 nghìn USD).[4]
Bảng 2: Cán cân xuất nhập khẩu rau quả thế giới ( năm 2003).[10]
Tên nước Hàng hóa sản xuất trong nước đáp ứng (1000 tấn)
Nước Sản lượng Nhập khẩu Dự trữ Xuất khẩu Tổng số
Thế giới 848161 47197 415 49242 846531
Châu phi 50310 1232 483 1227 50798
Bắc Mỹ 56294 9069 7 9395 55975
Nam Mỹ 20637 819 1 1372 20084
Châu Á 618243 9556 -190 13405 614204
Châu Âu 99357 26102 121 23153 102427

Châu Đại Dương
3321 419 -7 691 3042
( Nguồn: Recorts Copyright FAO,2006 )
4
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới ngày càng có nhiều chủng loại rau,
tăng diện tích và năng suất để đáp ứng nhu cầu về rau xanh ngày một
tăng.Theo FAO, dự đoán thị trường rau của thế giới thì thị trường rau quả
cung vẫn không đủ cầu. Thời kỳ 2000-2010 nhu cầu nhập khẩu rau quả của
các nước trên thế giới sẽ tăng do mức tăng tiêu thụ bình quân, dự đoán nhu
cầu tăng 3,6% trong khi mức tăng sản lượng rau quả chỉ đạt 2,8%.
Bảng 3: Diện tích, năng suất và sản lượng một số loại rau chủ lực trên
thế giới năm 2007.[4]
Loại rau
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(tấn)
Cà chua 20.648 17,34 357.210
Dưa chuột 19.874 16,88 33.537
Dưa hấu 18.140 17,82 322.890
Đậu rau 7.681 6,87 52.760
Cải các loại 26.184 22,64 592.805
Hành tỏi 14.678 15,84 232.500
(Nguồn: GTCR 2009, tr15)
2.1.2. Tình hình trồng rau và tiêu thụ rau ở trong nước
Nước ta có lịch sử trồng rau lâu đời, quá trình phát triển của nghề trồng
rau gắn với công cuộc xây dựng và phát triển, và bảo vệ đất nước qua nhiều
thời đại: Theo sổ sách ghi chép, từ đời vua Hùng, bầu bí đã được trồng trong

các vườn rau gia đình. Rau được nhập vào nước ta thời nhà Lý. Thế kỉ X (dời
đô về Thăng Long). Năm 1721 – 1783 Lê Quý Đôn đã tiến hành tổng kết các
vùng phân bố rau và cho thấy trước thế kỉ XIX rau được trồng nhiều ở các
vùng phụ cận thủ đô Thăng Long nay là Hà Nội. Nước ta là một nước có
truyền thống trồng rau, có điều kiện khí hậu, đất đai phù hợp với hầu hết các
loại rau trồng trên thế giới. Rau có thể sản xuất quanh năm, rất phong phú về
chủng loại (có tới 70 loài) trong đó có khoảng 40 loài rau chính.[4]
Với kinh nghiệm lâu đời của người sản xuất, ngành sản xuất nước ta
không chỉ cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng nội địa mà còn xuất khẩu sang
các nước có vĩ độ thấp ở châu Âu, Bắc Mĩ, và các nước trong khu vực châu Á.
5
Theo số liệu tổng cục thống kê 2006, diện tích trồng rau là
644.000ha, tăng 29,5% so với năm 2000 (452.900ha). Năng suất đạt 149,9
tạ/ha; là năm có năng suất trung bình cao nhất từ trước đến nay . Tổng sản
lượng rau cả nước đạt 9,65 triệu tấn, đạt giá trị 144.000 tỉ đồng (tương
đương 900 triệu USD) chiếm 9% GDP của nông nghiệp Việt Nam, trong
khi diện tích chỉ chiếm 6%, với khối lượng trên, bình quân sản lương rau
sản xuất trên đầu người =115Kg/người/năm, tương đương mức bình quân
toàn thế giới và đạt loại cao trong khu vực, gấp đôi trung bình của các nước
ASEAN (57Kg/người /năm).
Năm 2007 diện tích trồng rau trên đất nông nghiệp của cả nước đạt gần
670.000 ha. Với năng suất 150 tạ/ha,chúng ta có sản lượng 10,05 triệu tấn
đảm bảo cho bình quân đầu người 130kg/năm bằng số trung bình toàn thế giới
và gấp đôi các nước trong ASEAN. Tuy nhiên, do sản lượng rau tập trung chủ
yếu vào vụ Đông Xuân (trừ những nơi có độ cao 750m so với mặt nước biển
trở lên có thể trồng quanh năm nhiều loại rau ôn đới), một nửa thời gian còn
lại ( từ tháng 4 đến tháng 9) chủng loại rau đơn điệu, phần lớn là rau nước.
Rau trồng trong mùa mưa, nắng nóng, thường cho năng suất, chất lượng thấp,
giá cả cao, và mức độ an toàn thực phẩm suy giảm do sử dụng nhiều hóa chất
để phòng trừ sâu bệnh và phân hóa học được hấp thụ triệt để hơn. Việc nghiên

cứu các giải pháp khoa học trồng rau trái vụ được nhiều tổ chức chuyên môn
quốc tế và các nước phát triển nghiên cứu và chuyển giao cho sản xuất . Ở
nước ta, vấn đề này mới đề cập đến khoảng 10 năm trở lại đây.
Cả nước trồng hơn 80 loại rau thuộc 25 họ thực vật, trong đó có 25 - 30
loài rau chủ lực, có diện tích trên khoảng 10.000ha (chiếm 73 - 75% diện tích
và xấp xĩ 80% sản lượng).
Có 2 vùng trồng rau chủ yếu ở nước ta hiện nay:
+ Vùng rau tập trung chuyên canh ven thành phố và khu công nghiệp
với khoảng 40% diện tích; 38% sản lượng, chủng loại rau rất phong phú (hơn
60 loại), sản phẩm chủ yếu phục vụ cho cư dân phi Nông nghiệp nên yêu cầu
về chất lương (đa dạng về chủng loại và mức độ an toàn) ngày càng gia tăng.
6
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
T1 T3 T5 T7 T9 T11
2005
2006
+ Vùng rau luân canh với 2 vụ lúa và vụ rau Đông Xuân, chiếm 60% diện
tích và gần 2/3 sản lượng rau cả nước. Đây là vùng rau hàng hóa có năng suất và
chất lượng cao, có tiềm năng lớn cung cấp nguyên liệu cho Công nghiệp chế
biến và cho xuất khẩu, đặc biệt tại đồng bằng Sông Hồng và tỉnh Lâm Đồng.
Diện tích, năng suất, sản lương rau Việt Nam được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 4: Diện tích, năng suất, sản lương rau Việt Nam qua các năm.[10]
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2005 Năm 2006

Diện tích (ha) 23.465 40.000 40.000
Năng suất ( tấn/ha) 193,43 175 175
Sản lượng (nghìn tấn) 454 700 700
(Nguồn: FAOSTAR)
Theo số liệu thống kê chính thức của tổng cục hải quan: Năm 2004 tổng
kim ngạch xuất khẩu rau, hoa, quả của Việt Nam 186,778 triệu USD, trong đó
rau là 115,32 triệu USD tỉ trọng rau/rau hoa quả, chiếm 62,00% trong đó rau
tươi chiếm khoảng 70 - 80% còn lại là rau chế biến, kim ngạch xuất khẩu hàng
rau quả qua các tháng 2005 – 2006 được mô tả như hình dưới.[2]
(Đơn vị tính: 1.000$)
Hình 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả qua các năm 2005 – 2006
7
Cũng theo thống kê, kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả cả nước trong
tháng 4/2008 đạt 29,6 triệu USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả
trong 4 tháng năm 2008 lên 118,1 triệu USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm
2007.[23]
Theo các chuyên gia, rau quả Việt Nam hiện đã được xuất khẩu hơn
50 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.Phần lớn mặt hàng rau quả của
nước ta được xuất khẩu chủ yếu vào thị trường Trung Quốc với kim ngạch đạt
2,36 triệu USD năm 2007, tăng trên 7% so với tháng 11/2006 nhưng vẫn giảm
tới 40% so với cùng kỳ năm 2005.[4]
Kế tiếp là các nước Đài Loan, Nhật Bản, Nga, Singapore… trong đó
lượng hàng xuất khẩu vào thị trường EU chiếm 1 tỷ trọng rất nhỏ.
Về tổng thể, hiện Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã quy
hoạch diện tích trồng rau và quả trong cả nước đến năm 2010 khoảng 1 triệu
ha, sản lượng khoảng 10 triệu tấn. Trong đó, diện tích dành cho xuất khẩu
khoảng 250.000 ha. Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, thời gian tới, Bộ sẽ rà soát lại quy hoạch và tập trung ưu tiên cho khâu
nghiên cứu, lai tạo các giống rau quả năng suất và chất lượng tốt và tạo thuận
lợi cho doanh nghiệp xây dựng, phát triển cấp thương hiệu, đổi mới công

nghệ. Đồng tình với ý kiến này, mới đây Bộ Công thương đã khuyến cáo
ngành Nông nghiệp và các địa phương cần tăng cường trợ giúp nông dân áp
dụng tiến bộ KHKT mới , đẩy mạnh kiểm tra, giám sát để nâng cao chất
lượng sản phẩm và đặc biệt là đáp ứng yêu cầu kiểm định nghiêm ngặt của
các thị trường xuất khẩu.[22]
Theo nhận định của các nhà kinh tế, nhiều loại rau quả của Việt Nam
đang tiếp tục được ưa chuộng tại thị trường quốc tế với số lượng ngày càng
tăng trong những tháng đầu năm 2008 là dấu hiệu tốt để hướng tới mục tiêu
đạt giá trị xuất khẩu rau quả khoảng 700 triệu USD vào năm 2010.
Tuy có nhiều loại rau xuất khẩu hay tiêu dung đều dưới dạng khá
phong phú nhưng nhìn chung, các loại rau xuất khẩu còn mang tính đơn điệu,
nhỏ lẻ, số lượng ít, thiếu tính cạnh tranh. Phản ánh tình trạng sản xuất còn
manh mún, mặt hàng chế biến rau cho xuất khẩu còn ít…Đây là điểm yếu cơ
bản của xuất khẩu rau của Việt Nam hiện nay.
8
* Tình hình sản xuất rau an toàn trong nhà lưới ở Việt Nam
Nhận thức rõ về tác hại của rau bị ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khỏe của
người sản xuất và tiêu dùng cũng như ảnh hưởng đến môi trường, nhiều tỉnh,
thành phố đã có giải pháp, chính sách trong việc đầu tư, phát triển rau an toàn
đặc biệt là các khu vực ven các đô thị lớn. Đi đầu trong việc phát triển thị
trường rau là:
- Thành phố Hồ Chí Minh: hiện có trên 3.200ha sản xuất rau an toàn,
đã xây dựng phòng thí nghiệm công nghệ cao để sản xuất cao giống rau F1.
Đầu tư máy chẩn đoán dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và ứng dụng xe lưu
động để kiểm tra nhanh dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tại các chợ đầu mối.
Thành phố đã phát triển hơn 100 nhà lưới với diện tích bình quân 500-
1000m
2
/1 nhà lưới.
- Tại Đà Lạt: là vùng cung cấp rau an toàn chính cho khu vực phía Nam

và xuất khẩu, ở đây đã sớm hình thành các mô hình sản xuất rau an toàn trong
nhà lưới với từ đơn giản đến có quy mô và mới đây đã hình thành nhà lưới có
công nghệ cao sản xuất rau, hoa xuất khẩu.
Khí hậu thời tiết đặc trưng nên có rất nhiều chủng loại rau đặc trưng đa
dạng mà các khu vực khác không có nên rất thuận lợi cho phát triển rau an toàn.
- Tại Sóc Trăng: được UBND tỉnh đầu tư trồng 80ha rau an toàn ở thị
xã Sóc Trăng, xã Đại Tây (Mỹ Xuyên), xã An hiệp (Mỹ Tú) với khoảng
400ha. Nông dân được tham gia tập huấn đào tạo kỹ thuật sản xuất.
- Tại Nam Định: đã chuyển đổi một số diện tích trồng cây không hiệu
quả sang trồng rau và theo tính toán thì với một vụ trồng rau xuất khẩu cho
thu nhập từ 40-80 triệu đồng/ ha. Điển hình có hợp tác xã Minh Tần- huyện
Vụ Bản trồng 10ha rau xuất khẩu vụ Xuân và 15ha trồng vụ Đông.
Tại huyện Nghĩa Hưng, HTX Nghĩa Hưng đã mạnh dạn đưa 25ha
trồng lúa sang trồng rau xuất khẩu, trong đó có 14ha cà chua, 11ha dưa
bao tử xuất khẩu.
9
- Tại Hà Nội: theo dự báo quy hoạch phát triển Nông nghiệp Hà Nội
đến năm 2010 của UBND thành phố Hà Nội, thì diện tích rau sạch là 10.500-
12.500 ha, năng suất 207-208 tạ/ha, đạt sản lượng 220-260 nghìn tấn. Tập
trung phát triển rau an toàn chủ yếu huyện ngoại thành: Sóc Sơn, Đông Anh,
Gia Liên, Từ Liên, Thanh Trì…
- Tại Ba Rịa- Vũng Tàu: đã xây dựng 25 tổ chức sản xuất rau an toàn
với diện tích 92ha. Mỗi năm cung cấp cho thị trường 27 tấn rau an toàn,
tương đương 9.600 tấn/ năm. Tỉnh đã đầu tư thêm 28 mô hình sản xuất rau an
toàn đạt tiêu chuẩn gồm: 11ha rau ăn lá, 7 ha rau ăn quả giàn leo và 11 ha rau
ăn lá, rau ăn quả trồng trong nhà lưới có hệ thống tưới phun.[13]
Đối với các tỉnh Miền Trung có diện tích trồng rau trung bình mỗi năm
khoảng 70.000ha, với sản lượng khoảng 370 nghìn tấn/năm. Sản xuất rau ở
các tỉnh Miền Trung ít thuận lợi hơn so với các tỉnh Miền Bắc và Miền Nam
do khó khăn về nhiều yếu tố như khí hậu thời tiết do đó năng suất bình quân

thấp hơn so với trung bình năng suất rau của cả nước. Trong các năm gần đây
các tỉnh đã có sự cố gắng trong việc đẩy mạnh sản xuất rau, quả nhằm phục
vụ nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, đồng thời đã có những sản phẩm
xuất khẩu (Dưa hấu, ớt, hành tỏi) song diện tích tăng không đáng kể, phân bố
không đồng đều; năng suất có tăng nhưng không cao, trong khi đó dan số
không ngừng tăng lên, khách du lịch ngày càng tăng nên diện tích đất trồng
rau ngày càng thu hẹp lại, song nhờ có chính sách đầu tư cùng với sự tiến bộ
của KHKT nên có nhiều mô hình sản xuất rau tiên tiến được áp dụng ở các
tỉnh, đặc biệt là các thành phố lớn đã phát triển mạnh mô hình sản xuất rau an
toàn, rau trong nhà lưới, rau trên giá thể vụn sơ dừa, phủ luống rau, rau thủy
canh… bởi thế đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về rau hiện nay.[4]
10
Bảng 5: Diện tích, năng suất, sản lương rau của một số tỉnh Miền Trung
(bình quân 2006)
Các tỉnh
Diện tích
(ha)
Năng suất
bình quân
( tạ/ha)
Sản lượng
( tấn)
Sản lượng so với
Miền Trung
( %)
Miền Trung 81.506 78,96 572.762 100
Thanh Hóa 24.300 55,0 145.800 25,46
Nghệ An 12.100 83,0 116.200 20,29
Hà Tĩnh 6.700 60,6 30.900 5,39
Quảng Bình 4.400 70,3 30.800 5,38

Quảng Trị 1.760 50,9 9.461 1,65
TT Huế 3.970 90,7 29.914 5,22
Đà Nẵng 2.100 120,0 25.200 4,40
Quảng Nam 13.088 130,0 108.06 1,89
Quảng Ngãi 7.656 101,6 77.750 13,57
Bình Định 9.005 106,5 95.931 16,75
(Nguồn: Tổng hợp số liệu rau từ TTKN của các tỉnh MT, 2006)
2.1.3. Tình hình sản xuất rau ở Thừa Thiên Huế
Cây rau được trồng ở Thừa Thiên Huế từ rất lâu đời và đã hình thành ở
đây nhiều vùng thâm canh rau. Rau được trồng rãi rác trên nhiêu huyện thị và
ven thành phố nhằm tự cung tự cấp rau xanh cho gia đình, một phần rau còn
lại được tiêu thụ trong huyện thị hay địa phương lân cận. phương thức sản
xuất rau ở đây chủ yếu là áp dụng kinh nghiệm của từng địa phương với
những loại rau quen thuộc như rau muống, cà chua, đậu côve chỉ đươc trồng
với diện tích rất nhỏ. Cho nên ở đây chưa hình thành những vùng rau thâm
canh cao, sản xuất rau có tính hàng hóa lớn, Trong khi đó, Thừa Thiên Huế
nằm ở khu vực miền Trung có sự chuyển tiếp về khí hậu giữa miền Bắc và
miền Nam do đó cây rau ở đây có sự đa dạng và phong phú về chủng loại.
11
Tuy nhiên, do sự khắc nghiệt về khí hậu thời tiết nên tình hình sản xuất rau ở
đây gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay, Thừa Thiên Huế có đến 50 loại rau trong tổng số 70 loại
rau đã đươc điều tra ở Việt Nam bao gồm các nhóm: nhóm rau ăn lá, nhóm
rau gia vị, nhóm rau ăn quả, hạt và rau ăn củ, những loại rau này được
trồng chủ yếu ở một số huyện như Phú Vang, Phong Điền, Quảng Điền và
ven thành phố Huế với diện tích, năng suất và sản lượng của các huyện
được phân bố như sau:
Bảng 6: Diện tích, năng suất và sản lượng của các huyện tại
Thừa Thiên Huế.[10]
Tên huyện, Tp

Diện tích
(ha)
Sản lượng
(tấn)
Năng suất
( tạ/ha)
2002 2006 2002 2006 2002 2006
Tổng số 3.297 4.752 29.914 43.485 90,7 91,5
Tp Huế 560 560 7.849 6.832 140,2 122,0
Phú Vang 856 1.352 7.233 12.088 84,5 89,4
Hương Trà 424 529 3.843 5.577 90,6 105,4
Hương Thủy 280 312 2.380 2.656 85,0 85,1
A Lưới 90 158 602 1.054 66,9 66,7
Phú Lộc 156 205 1.399 1.799 89,7 88,0
Nam Đông 72 130 487 890 67,6 68,5
Quảng Điền 520 1.136 3.858 9.943 74,2 87,5
(Nguồn: Niên giám thống kê Thừa Thiên Huế 2006)
Qua bảng số liệu trên thì những năm trở lại đây diện tích trồng rau của
các huyện đều tăng lên đáng kể, tổng diện tích trên toàn huyện năm 2006 là
4.752ha đã tăng lên 44,13% so với năm 2002 là 3.297ha. sản lượng rau của
huyện Phú Vang đứng đầu toàn tỉnh năm 2006 với 12.088 tấn rau tăng
57,94%so với năm 2002, thứ 2 là Quảng Điền với 9.943 tấn rau và thứ 3 là
Thành phố Huế với 6.832 tấn rau, nhờ quá trình thâm canh cao cùng với áp
dụng nhiều tiến bộ KHKT cũng như nhờ trao đổi kinh nghiệm của bà con nông
12
dân trong quá trình sản xuất nên dù diện tích không lớn nhưng lại đạt một năng
suất không nhỏ và đứng đầu là Thành phố Huế với 122tạ/ha thứ 2 là Hương
Trà với 105,1 tạ/ha. Nhìn chung năng suất rau ở đây còn thấp tuy nhiên đã cao
hơn so với nhiều năm trước. Vì vậy hàng năm Thừa Thiên Huế phải nhập một
lượng rau lớn vào mùa khô và mùa mưa tư các tỉnh phía Bắc và Đà Lạt.

* Tình hình sản xuất rau an toàn trong nhà lưới ở Thừa Thiên Huế
Tại Thừa Thiên Huế, ngay từ năm 1995, bằng nguồn vốn khoa học, sở
Khoa học - Công nghệ và môi trường tỉnh đã xây dựng mô hình trồng 1ha rau
an toàn, trong đó có 500m
2
rau trồng trong nhà lưới, kết quả được đánh giá
cao, nhưng giá thành xây lắp khá cao, người tiêu dùng ít hiểu biết nên khó
bán, mới dừng lại ở mô hình chưa nhân rộng.
Năm 2000 đến nay, nhiều cơ quan, tổ chức đã tổ chức đầu tư xây dựng
các mô hình sản xuất rau an toàn tại các phường nội thành và các xã ven
thành phố Huế, đến nay đã hình thành các HTX sản xuất rau an toàn cung ứng
ổn định cho thị trường tiêu thụ rau ở thành phố như HTX Kim Thành, Quảng
Thành, Quảng Điền: xây dựng 4.000 m
2
nhà lưới, HTX Điền Lộc, xã Điền
Lộc, Phong Điền xây dựng 1.000 m
2
rau an toàn, HTX NN Hương Long,
thành phố Huế có 1 ha rau an toàn, các phường Thuận Thành, Tây Lộc đã
hình thành rau sạch phục vụ du lịch và tiêu dùng…
Qua đó ta thấy rằng sản xuất rau an toàn đặc biệt sản xuất rau an toàn
trong nhà lưới thực sự đã được các cơ quan nhà nước, các tổ chức, các nhà
nghiên cứu quan tâm và đầu tư phát triển, người sản xuất, người tiêu dùng
ngày càng ý thức hơn về chất lượng sản phẩm rau trong sản xuất và tiêu thụ.
2.2. Nhu cầu về rau an toàn và yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm rau quả
2.2.1. Nhu cầu về rau an toàn
1/ Tình hình bị ngộ độc do ăn rau
Nước ta trong nhiều năm trở lại đây, các vụ ngộ độc đã xảy ra thường
xuyên, với tốc độ ngày càng gia tăng. Theo thống kê của Cục Bảo vệ Thực
vật, 1993-1994 tại các Tỉnh phía nam có hơn 600 người. Xét nghiệm sữa của

47 bà mẹ đang cho con bú ở vung chuyên canh rau (Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh) 1996 thì cả 47 bà mẹ trong sữa đều có dư lượng thuốc BVTV.
Năm 1997 cả nước có 585 vụ với 6421 người bị ngộ độc thực phẩm, trong đó
13
có 6103 người bị nhiễm độc thuốc BVTV. So với năm 1996 tăng lên 50 vụ,
với 1341 người. Năm 2000 cả nước có 213 vụ ngộ độc thực phẩm, trong đó
có 3 vụ ngộ độc thuốc BVTV, với 4233 bị ngộ độc, trong đó có 59 người
chết. Tại Thừa Thiên Huế có 8 vụ ngộ độc với 104 người bị ngộ và 2 người bị
chết. Năm 2001 cả nước có 245 vụ bị ngộ độc tăng hơn năm 2000 là 32 vụ
với 3900 người bị ngộ độc, có 63 người chết. Tại Thừa Thiên Huế có 9 vụ
ngộ độc với 189 người bị ngộ độc trong đó có 49 vụ ngộ độc do thuốc BVTV,
1 người bị chết. Năm 2002 cả nước có 149 vụ bị ngộ độc với 1869 người bị
ngộ độc trong đó có 35 vụ bị ngộ độc do thuốc BVTV, 41 người bị chết [2].
Riêng Thừa Thiên Huế cũng có 2 vụ bị ngộ độc với 43 người bị ngộ độc và
được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 7: Số lượng các vụ ngộ độc thực phẩm và rau
những năm 2000 - 2002 ở Việt Nam và Thừa Thiên Huế.[2]

Năm
Chỉ tiêu
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Cả nước T.T Huế Cả nước T.T Huế
Cả
nước
T.T
Huế
Số vụ ngộ độc thực
phẩm
23 8 245 9 149 2
Số người bi ngộ độc 4.233 104 3.900 189 1.869 43

Số người chết 59 2 63 1 41 0
Số vụ ngộ độc rau 3 1 41 0 35 0
Tại thành phố Huế, theo kết quả kiểm tra của Trung tâm Y tế dự phòng
thành phố trong “ tháng hành động vì chất lượng an toàn thực phẩm ” năm
2005, đối với một số đơn vị kiểm tra có kết quả như sau: 32 cơ sở, trong đó:
căn tin cơ quan trường học: 04; hệ mầm non: 11; nhóm trẻ gia đình: 14; khối
tiểu học: 03. Qua xết nghiệm, thử tại chổ mẫu thức ăn và rau xanh: 175 mẫu
(trong đó 75 mẫu rau), không đạt 75 mẫu rau, trong đó rau không đạt do
nhiễm vi khuẩn: 25 mẫu, tỷ lệ 28,6%.[2]
14
Qua kiểm tra 708 cơ sở kinh doanh ăn uống, kết quả kiểm tra như sau:
Bảng 8: Kêt quả kiểm tra vệ sinh thực phẩm trên địa bàn
Thừa Thiên Huế năm 2005.[2]
Số cơ sở
Số cơ sở
kiểm tra
Không đạt
Tỷ lệ %
Tổng số Mẫu rau
Cơ sở sản xuất chế biến
thực phẩm
162 15 - 9,25
Cơ sở kinh doanh dịch vụ
ăn uống
532 47 27 8,8
Cơ sở giết mổ gia súc 08 04 - 50,0
Bếp ăn tập thể 06 03 01 33,0
(Nguồn: Trung tâm Y tế dự phòng thành phố Huế)
Từ số liệu bảng trên cho thấy: tình hình ô nhiểm thực phẩm là rất
nghiêm trọng, đặc biệt là trên rau vì mức ngộ độc do rau rất nguy hiểm gây

độc trực tiếp cho con người.
Như vậy rau ô nhiễm hay “rau độc” đã trở thành một quốc nạn cho dân
tộc, trong vài năm trở lại đây tình hình ngộ độc do ăn rau đã được kiềm chế
nhưng vẫn tiếp tục xảy ra nên nhu cầu về rau an toàn và việc sản xuất rau an
toàn là một giải pháp cấp bách và hết sức cần thiết.
2/ Nhu cầu về rau an toàn
Nhu cầu về rau an toàn cũng như việc sản xuất rau an toàn hay rau sạch
nhằm tránh ngộ độc do ăn rau, bảo vệ sức khỏe con người và sức khỏe cộng
đồng, giảm bớt chi phí không đáng có cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động, đặc biệt ở vùng nông thôn vành đai thực phẩm và khu
công nghiệp. Hình thành tập quán sản xuất rau an toàn, nâng cao ý thức trách
nhiệm người dân. Nâng cao thu nhập cho người trồng rau đồng thời góp phần
bảo vệ môi trường cho sự tồn tại của cộng đồng, bảo vệ cân bằng sinh thái tự
nhiên; chống hủy hoại tài nguyên đất, nước và môi trường xung quanh, phát
triển một nền nông nghiệp sạch và hệ thống nông nghiệp bền vững.
Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu về ăn uống và sức khỏe đã nêu vấn
đề rau quả và tính bình quân chung là 250-300g/người/ngày. Theo tính toán
15
thì tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh hiện tại lao động
trong 1 ngày hoạt động nặng phải dùng từ 400-500g rau, lao động nhẹ cần
300-350g rau, lưá tuổi 10-13 cần khoảng 150-200g rau.[19]
Kết quả của một khảo sát mới đây của viện Khoa học kỹ thuật Nông
nghiệp Việt Nam về sản xuất và thương mại hàng hóa rau quả cho thấy: Tổng
lượng rau tiêu thụ bình quân trên đầu người đã tăng lên 2 lần trong 10 năm
qua. Xu hướng tiêu thụ rau của người Việt Nam cũng có nhiều thay đổi, nếu
như năm 1993 khối lượng tiêu thụ bình quân đầu người là 50kg/người/năm,
thì đến năm 2002 là 111kg/người/năm. Tương tự khối lượng tiêu thụ quả bình
quân đầu người năm1993 là 18kg thì đến năm 2002 là 38kg (Bộ NN &PTNT:
Báo cáo khảo sát của viện NNKTVN về SX và TMRQ VN tháng 5/2008).
Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập WTO (Tổ chức Thương mại thế giới),

đang hội nhập với các nước trên thế giới và mới đây Quốc hội đã thông qua
luật bảo vệ môi trường, thì yêu cầu về an toàn thực phẩm nói chung, chất
lượng rau nói riêng là cần thiết hơn bao giờ hết.
Theo tính toán thì nhu cầu tiêu thụ rau vào năm 2010 là 9,4 triệu tấn (kể
cả xuât khẩu), phấn đấu đưa tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch xuống 15% thì sản
lượng rau thực tế phải cần khoảng 11 triệu tấn.
Với tình hình trên thì nhu cầu về sản xuất rau an toàn nhằm đáp ứng tốt
nhu cầu của người dân là rất cần thiết.
3/ Nhu cầu tiêu thụ rau an toàn tại Thừa Thiên Huế
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi người sản xuất phải nhạy bén, để định
hướng sản phẩm nhằm đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho người tiêu dùng với chi
phí thấp, sản phẩm đạt chất lượng, phải biết cách hướng dẫn, quãng cáo, tiếp
thị sản phẩm để người tiêu dùng biết và an tâm với sản phẩm đó. Đối với sản
xuất rau an toàn liên quan mật thiết đến sức khỏe người tiêu dùng, thì vấn đề
chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế, ổn định sản lượng, và đa dạng sản
phẩm là rất quan trọng.
Hiện trên địa bàn còn có nhiều nhà trẻ, bếp ăn tập thể (căng tin), trường
học bán trú và một số chợ đầu mối. Với lượng khách du lịch đến Huế ngày
càng tăng thì nhu cầu tiêu thụ rau an toàn là rất lớn.Tuy nhiên, khả năng đáp
ứng sản lượng rau an toàn của các vùng sản xuất rau an toàn còn hạn chế và
16
không ổn định do thời vụ, thiếu kế hoạch phân bổ diện tích, trồng rau vẫn còn
nặng về tập quán, không lấy nhu cầu thị trường để điều chỉnh cơ cấu loại rau,
vẫn còn thiếu sự liên minh, liên kết các vùng sản xuất rau an toàn với nhau.
Dẫn đến trong cùng một thời điểm có sản phẩm thì quá nhiều, có sản phẩm ít
hoặc không có, làm cho khách hàng thiếu lòng tin. Đây là hạn chế rất lớn của
các hộ nông dân trong vấn đề sản xuất rau nói chung và sản xuát rau an toàn
nói riêng và là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc mở rộng
diện tích sản xuất rau an toàn trên địa bàn tỉnh.[2]
2.2.2. Các tiêu chuẩn đánh giá về rau an toàn

Rau sạch đang là sự quan tâm đặc biệt, là yêu cầu bức xúc của xã hội
và mọi người, từ nhà sản xuất, người tiêu dùng, nhà khoa học cũng như nhà
quản lý vì nó góp phần quan trọng trong việc phát triển sản xuất, hội nhập
nông nghiệp, bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng. Hơn mười năm nay,
nước ta triển khai chương trình rau sạch, rau an toàn. Từ Chính phủ đến các
bộ ngành ở trung ương và các địa phương, đặc biệt từ năm 2005 tới nay đã có
nhiều chủ trương, biện pháp, chính sách nhằm bảo đảm vệ sinh an toàn thực
phẩm (VSATTP) nói chung và phát triển sản xuất rau quả sạch - rau quả an
toàn nói riêng.[21]
Rau an toàn là sản phẩm rau được sản xuất theo một quy trình nghiêm
ngặt, đảm bảo đúng quy định: sạch, hấp dẫn về hình thức (rau tươi, sạch bụi
bẩn tạp chất) thu đúng độ chín, thu khi có chất lượng cao nhất, không có triệu
chứng bệnh, có bao bì vệ sinh hấp dẫn. Sạch, an toàn về chất lượng: sản phẩm
không chứa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng nitrat, dư lượng kim
loại nặng và vi sinh vật gây hại vượt quá ngưỡng cho phép của tổ chức Y Tế
thế giới (WHO) về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
Trong đó yêu cầu dư lượng thuốc Bảo vệ thực vật là quan trọng nhất, vì
mức độ nguy hiểm, có thể gây ngộ độc, làm tử vong người và gia súc, gia cầm
sau khi ăn. Yêu cầu hàm lượng nitrat phụ thuộc vào môi trường canh tác và
kỹ thuật trồng trọt, là yếu tố quyết định rau an toàn hay ô nhiễm. Một số chỉ
tiêu để đảm bảo rau sạch: dư lượng nitrat, dư lượng kim loại nặng, dư lượng
thuốc trừ sâu tối đa cho phép đối với rau. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
PTNT đã cho phép áp dụng tiêu chuẩn rau sạch theo QĐKHCN 1208 ngày
15/7/1996 như sau.[4]
17
1/ Quy trình chung về sản xuất rau an toàn.[7]
+ Chọn đất
Đất trồng rau phải là đất cao, dễ thoát nước thích hợp với sinh trưởng và
phát triển của rau. Tốt nhất là đất cát pha hoặc thit nhẹ hoặc thịt trung bình, có
tầng canh tác dày. Đất để sản xuất rau an toàn không trực tiếp chịu ảnh hưởng

xấu của các chất thải công nghiệp, giao thông, khu dân cư tập trung, bệnh
viện, nghĩa trang, không nhiễm hóa chất độc hại cho người và môi trường
(đảm bảo yêu cầu tiêu chuẩn Việt Nam TCVN7209:2000).
+ Nước tưới
Vì trong rau chứa trên 90% nước nên nước tưới ảnh hưởng đến chất
lượng sản phẩm. Cần sử dụng nước sạch để tưới. Nếu có điều kiện nên sử
dụng nước giếng khoan, nhất là vùng trồng rau xà lách và các loại rau gia vị.
Ngoài ra có thể tưới nước từ các sông, ao, hồ không ô nhiễm. Tuyệt đối không
dùng trực tiếp nước thải từ công nghiệp, thành phố, bệnh viện, khu dân cư,
nước ao mương tụ động. Nguồn nước phải được giám sát hàng năm (đảm bảo
theo yêu cầu tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 6773:2000).
+ Giống
Chỉ gieo những hạt tốt và trồng cây cao khỏa mạnh, không có mầm
bệnh. Phải biết rõ lý lịch nơi sản xuất giống. Giống nhập nội phải qua kiểm
dịch thực vật. Hạt giống trước khi gieo trồng cần được xử lý hóa chất hoặc
nhiệt. Trước khi đưa cây con ra ruộng cần xử lý sherpa 0.1% để phòng trừ sâu
hại sau này.
+ Phân bón
Toàn bộ phân chuồng được ủ hoai mục và phân lân hữu cơ vi sinh được
dùng để bón lót. Mỗi loại cây có chế độ bón và lượng bón khác nhau. Tuyệt
đối không được dùng phân chuồng chưa hoai mục để loại trừ vi sinh vật gây
bệnh, tránh nóng cho rễ cây và để tránh sự cạnh tranh đạm giữa cây trồng với
các nhóm vi sinh vật trong thành phần phân vi sinh đang cần ni tơ để phân
giải nốt phân chuồng tươi.
Với những loại rau có thời gian sinh trưởng ngắn (dưới 60 ngày) bón
thúc 2 lần. kết thúc bón trước khi thu hoạch 7-10 ngày. Với loại rau có thời
gian sinh trưởng dài, có thể bón thúc 3-4 kần hoặc hơn, kết thúc bón trước khi
thu hoạch 10-12 ngày.
18
Có thể sử dụng các loại phân bón lá ngay khi cây mới bén rể. Phun 3

đến 4 lần tùy từng loại rau, nồng độ theo hướng dẫn trên bao bì chế phẩm.
Kết thúc phun ít nhất trước thu hoạch 5-10 ngày. Nếu sử dụng phân bón
lá thì giảm phân hóa học 30-40%. Tuyệt đối không dùng các loại phân tươi và
nước phân pha loãng tươi cho rau.
+ Bảo vệ thực vật
Không sử dụng thuốc hóa học BVTV nhóm độc I và II. Tuyệt đối
không dùng các loại thuốc trong danh mục thuốc cấm và thuốc hạn chế sử
dụng ở Việt Nam. Khi thật cần thiết có thể sử dụng nhóm III và IV. Chọn
các loại thuốc có hoạt chất thấp, ít độc với ký sinh thiên địch. Kết thúc phun
thuốc hóa học trước khi thu hoạch ít nhất 7-10 ngày. Ưu tiên các loại thuốc
sinh học, thuốc thảo mộc, thuốc chóng phân hủy ít ảnh hưởng đến các loại
sinh vật có ích trên đồng ruộng nằm trên danh mục các loại thuốc BVTV
được phép sử dụng trên rau theo Quyết định số 19/2005/QĐ-BNN ngày
24/3/2005 và quyết định số 21/2005/QĐ-BNN ngày 18/4/2005 của Bộ Nông
nghiệp và PTNN.
Cần áp dụng đầy đủ các biện pháp phòng trừ tổng hợ (IPM): luân canh
cây trồng hợp lý, sử dụng giống tôt, chống chịu sâu bệnh, chăm sóc cây theo
yêu cầu sinh lý, bắt sâu bằng tay, dùng bẩy sinh học trừ bướm, sử dụng các
chế phẩm sinh học, thường xuyên vệ sinh, kiểm tra đồng ruộng để theo dõi,
phát hiện sâu bệnh, tập trung phòng trừ sớm
+ Thu hoạch bao gói
Rau được thu hoạch đúng độ chín, loại bỏ lá già, héo, quả bị sâu, dị
dạng Rau được rữa kỹ bằng nước sạch để ráo nước rồi cho vào bao, túi sạch
trước khi đưa tiêu thụ. Trên bao bì phải có phiếu bảo hành, có địa chỉ nơi sản
xuất nhằm đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng.
2/ Sau đây là một số tiêu chuẩn về rau sạch an toàn
+ Dư lượng thuốc Bảo vệ thực vật: Theo tiêu chuẩn WHO/FAO năm
1993 do Cục BVTV đề nghị.
+ Dư lượng nitrat : Ngưỡng hàm lượng NO
-

3
(mg/kg sản phẩm rau
tươi) của một số rau cụ thể là:
19
Dưa chuột: 250; đậu ăn quả: 150; cải bắp: 500; su hào: 500; su lá:
300; hành lá: 160; xà lách: 1500; cà chua: 100; lá cải bắp: 500; prô: 1400;
cove leo: 200
+ Ngưỡng hàm lượng kim loại nặng (mg/kg rau tươi): đồng (Cu): 2;
niken (Ni): 3; Chì (Pb): 0.6; Thủy ngân (Hg): 0.06; Asen (As): 0.2; Kẽm (Zn):
30; Thiếc (Sn): 200; Titan (Ti): 0.3; Cadimi (Cd): 0.03; Aslatoxin: 0.005; Bo
(Bo): 0.6.
+ Vi sinh vật gây hại: Salmonella: 0; E.Coli: 10
2
khuẩn lạc/ gr
Đối với thuốc bảo vệ thực vật: chỉ dụng thuốc hạn chế thuộc nhóm IV không
được dùng thuốc thuộc nhóm I và II; đồng thời thời gian phun và thời điểm
phun trước thu hoạch ít nhất 10 ngày. Tuân thủ tuyệt đối các hướng dẫn theo
toa thuốc. Ưu tiên dùng kháng sinh thiên địch, chế phẩm sinh học (hạt củ đậu,
chế xuất từ tỏi )
Các tiêu chuẩn trên được thể hiện rõ qua các bảng sau đây:
Bảng 9: Ngưỡng giới hạn hàm lượng nitrat (NO
-
3
) trồng rau (mg/kg rau
tươi), theo tài liệu của Nga và FAO.[4]
Tên rau CHLB Nga FAO Tên rau CHLB Nga FAO
Dưa hấu 60 - Hành tây 80 80
Dưa bở 90 - Cà chua 150 300
ớt ngọt 200 - Dưa chuột 150 150
Măng tây 150 - Khoai tây 250 250

Đậu ăn trái 150 - Cà rốt 250 -
Ngô rau 300 - Hành lá 400 -
Cải bắp 500 500 Bầu bí 1500 -
Súp lơ 500 300 Cà tím - -
Su hào 500 - Xà lách - 2500
20
Bảng 10: Ngưỡng giới hạn các kim loại nặng (mg/kg) và vi sinh vật gây
bệnh trong sản phẩm rau tươi theo tiêu chuẩn của tổ chức Y Tế và tổ
chức Nông Lương thế giới
Nguyên tố
kim loại nặng
Giới hạn cho
phép (mg/1kg)
Nguyên tố kim
loại nặng
Giới hạn cho
phép (mg/1kg)
Chì (Pb)
Asen (As)
Đồng (Cu)
Thiếc (Sn)
Palutin
Titan (Ti)
0.5
0.1
30
5
0.05
1.8
Cadimi (Cd)

Thủy ngân (Hg)
Kẽm (Zn)
Alflatosin
Bo (Bo)
Antimon (Sb)
0.02
0.005
5
0.005
1.8
0.005
(WHO và FAO codex Alimentarius,1993)
Bảng 11: Dư lượng thuốc BVTV cho phép tối đa và thời gian cách ly
trong một số rau quả
Loại thuốc
Loại rau
Thời gian cách
ly (ngày)
Ăn lá Ăn quả Ăn củ
Basudin 10G
Dipterex 80
Dimethod 50EC
Carbaril 80 WP
Padan 95 WP
Sumicidin 20EC
Decis 2.5EC
Shekpa 25EC
Karatte 2.5EC
Trebon 10EC
Aplau 25WP

Oxyclorua đồng
Daconil W50
Aliette 80WP
Anvil 55C
Topsin M 70WP
Bayleton 25EC
0.5-0.7
0.5
0.1
1.0-1,5
0.2
1.0
0.1
-
0.03
-
-
20.0
-
-
-
1.0
0.1
0.5-0.7
1.0
0.1-0.5
1.0-1.5
-
2.0
-

-
0.02
-
-
20.0
-
-
-
-
-
-
-
0.5-1.0
-
-
0.2
0.2
-
-
-
-
10.0
-
-
-
-
-
14-20
7
7-10

7
14
14-21
7-10

RL; 3-4 RQ
7-10RL; 3-4RQ
4-11
3
1-3
21RL; 14RQ
7-10
14
7-10
7-10
3-7
(Theo tiêu chuẩn của WHO và FAO, 1993) *rau ăn lá**rau ăn quả)
21
Bảng 12: Ngưỡng giới hạn vi sinh vật gây bệnh trong sản phẩm rau tươi
theo tiêu chuẩn của tổ chức Y Tế và tổ chức Nông Lương thế giới.
Loại vi sinh vật gây bệnh Giới hạn cho phép (mg/1kg)
Salmonella (không có trong 25g) 0
E. coli, S. aureus Giới hạn bởi GAP
Coliforms (tế bào/1gam) 102 tế bào/gam
TSVK Giới hạn bởi GAP
Nguồn: (WHO và FAO)
3/ Một số chủ trương chính sách về sản xuất rau ở Việt Nam
Như ta đã biết thì trong thời gian tới, rau vẫn là nganh quan trọng trong
nông nghiệp, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm, tăng thu nhập,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp, nông thôn.

Dự báo dân số Việt Nam năm 2010 là gần 95,8 triệu người và khoảng 3
triệu người nước ngoài có mặt tại Việt Nam. Bình quân tiêu dùng về rau là
106 kg, nhu cầu về rau năm 2010 là 10 triệu tấn. Đây là thị trường to lớn cả
về khối lượng, chất lượng và chửng loại.
Nhu cầu tiêu thụ rau sẽ tăng nhanh, đặc biệt là nhu cầu sản phảm rau
sạch, chất lượng cao, đảm bảo vệ sinh thực phẩm ngày càng đòi hỏi khắc khe.
- Quyết định số 182/1999/QĐ-TT ngày 3 tháng 9 năm 1999 của thủ tướng
chính phủ về phê duyệt đề án phát triển rau, quả và hoa thời kì 1999-2010:
Phương hướng
+ Phát triển rau nhằm khai thác lợi thế và điều kiện khí hậu sinh thái đa
dạng ( nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đới ) của các vùng để sản xuất thực phẩm có
giá trị dinh dưỡng đa kinh tế cho con người, góp phần giải quyết việc làm,
phủ xanh đát trống, tạo cảnh quan môi trường.
+ Phát triển rau gắn liền với nhu cầu của thị trường có khả năng cạnh
tranh ở thị trường trong nước, thị trường các nước trong khu vực và trên thế
giới, cả trước măt và lâu dài.
+ Phát triển rau ở các vùng trong cả nước, trong đó quan tâm đến các
vùng có điều kiện sinh thái đặc biệt như đòng bằng sông Cửu Long, Lâm
22
Đồng, Đồng Bằng Sông Hồng, vùng cao miền núi phía Bắc. Sử dụng công
nghệ truyền thống và công nghệ sách để bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe
va đời sống nhân dân, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu.
Mục tiêu
+ Nhanh chóng thỏa mãn nhu cầu đời sống nhân dân về rau, trong đó
đẩy mạnh sản xuất chế biến với giá thành hạ.
+ Tạo việc làm cho khoảng 5 triệu người.
+ kim ngạch xuất khẩu rau quả đến năm 2010 đạt 600-700 triệu USD.
Bên cạnh đó thì mục tiêu của ngành sản xuất rau những năm tới đây theo
đề án phát triển rau- quả- hoa cây cảnh đến năm 2015 là:
- Bên cạnh việc giữ mức rau bình quân đầu người hiện nay là 115-

120kg/ năm.
- Phấn đấu tăng kim ngạch xuất khẩu rau quả lên 760 triệu USD, xuất
khẩu rau đạt 200.000tấn tương đương 115 triệu USD đạt tốc độ tăng trưởng
kim ngạch xuất khẩu bình quân giai đoạn 2006-2010 là 23-25% và đạt kim
ngạch khoảng 1,2 tỷ USD vào năm 2015.( Quyết định số 52/2007 QĐ-BNN
của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT). Bên cạnh sự gia tăng về khối lượng, chất
lượng rau được đặc biệt quan tâm trong giai đoạn tới. Ngoài việc bổ sung
thêm chủng loại rau, tăng lượng rau gia vị, rau ăn quả theo xu thế chung của
thế giới, đa dạng hóa các sản phẩm rau chế biến công nghiệp Phát triển sản
xuất rau an toàn là nội dung cơ bản làm chuyển biến nghề trồng rau của nước
ta theo hướng hội nhập với quốc tế.[7]
Ngoài các thị trường chủ yếu như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản,
Hàn Quốc, trong thời gian tới, xuất khẩu rau hoa quả Việt Nam sẻ hướng tới
các thị trường khác như Hoa Kỳ, các nước EU, Liên Bang Nga để đa dạng
hóa, giảm rủi ro về thị trường.
Theo đó thì nhu cầu tiêu thụ rau vào năm 2010 cần 9,4 triệu tấn ( kể cả
xuất khẩu ) phấn đấu đưa tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch xuống 15% thì sản
lượng rau thực tế cần khoảng 11 triệu tấn. Nếu đảm bảo năng suất trung bình
200tạ/ha thì diện tích trồng rau các loại là 590.000 ha.
23
Bảng 13: Quy hoạch trồng rau 7 vùng sinh thái đến năm 2010.[2]
(ĐVT:1000ha)
Chỉ tiêu
Sinh thái
Diện tích hiện
có năm 2003
Diện tích tăng
thêm năm
2010
Tổng diện tích

năm 2010
Cả nước 465 85 550
1. Miền núi trung du Bắc Bộ 78 15 85
2. Đồng bằng Sông Hồng 110 10 125
3. Khu 4 cũ 55 12 65
4. Duyên hải Miền Trung 33 13 45
5. Tây Nguyên 12 14 25
6. Đông Nam Bộ 81 14 95
7. ĐB S.Cửu Long 96 85 110
Từ đó, những giải pháp để phát triển xuất khẩu rau, hoa, quả Việt Nam
trong thời gian tới là:
Thứ nhất, Bộ Thương mại và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
phải cùng phối hợp gắn sản xuất với thị trường. Theo đó, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn sẽ chịu trách nhiệm trong các khâu sản xuất, còn khi đã
cho ra sản phẩm thì Bộ Thương mại phải có trách nhiệm tiêu thụ sản phẩm.
Vì vậy, Bộ Thương mại phải chỉ ra ai là người mua và mua như thế nào.
Thứ hai, cần đặc biệt quan tâm tới vấn đề tổ chức sản xuất và xuất
khẩu, tạo cơ chế hợp tác tốt giữa các địa phương, các đơn vị sản xuất và kinh
doanh, phối hợp hài hòa, linh hoạt giữa tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, tạo
nguồn cung ứng ổn định, từng bước nâng cao năng lực xuất khẩu.
Thứ ba, muốn phát triển xuất khẩu rau, hoa, quả pkải ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật với công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao năng suất, chất
lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho sản phẩm xuất khẩu.
Ngoài ra, cũng cần phải lưu ý đến một số giải pháp khác nữa, như hỗ
trợ vận hành các trung tâm giao dịch rau, hoa, quả, đẩy mạnh hợp tác quốc tế,
chấn chỉnh lại hệ thống các trung tâm kiểm tra chất lượng, hỗ trợ xây dựng
thương hiệu và xúc tiến thương mại, thành lập và liên kết các hiệp hội, thống
kê và thông tin thị trường, phát triển các hiệp hội ngành hàng.
24
2.2.3. Các lợi ích của mô hình trồng rau an toàn quy mô nhỏ

- Chủ động môi trường canh tác nên có những sản phẩm sạch, đạt dưới
ngưỡng cho phép các tiêu chuẩn quốc tế về dư lượng thuốc trừ sâu, hàm
lượng Nitrat, hàm lượng kim loại nặng và không có vi sinh vật gây hại, rau
quả tăng phẩm chất, mẩu mã đẹp, màu sắc tươi thắm.
- Nhờ đạt tiêu chuẩn rau sạch, nhờ trồng trái vụ, nhờ mẩu mã đẹp phẩm
chất ngon và ổn định nên giá cả sản phẩm rau trồng an toàn trong nhà lưới
luôn cao hơn bên ngoài.
- Đáp ứng được nhu cầu về rau sạch, rau an toàn của người dân hiện nay.
- Cung cấp cho thị trường một nguồn rau sạch, an toàn và hạn chế được
các vụ ngộ độc thực phẩm do rau không an toàn gây ra.
- Nhờ áp dụng mô hình trồng rau an toàn nên sản phẩm thường có giá
cao hơn sản phẩm rau khác thường là gấp 2-3 lần nhờ vậy sẽ tăng thêm thu
nhập cho người trồng rau.
2.3. Mục tiêu của đề tài
Tính toán, lựa chọn kết cấu của mẫu nhà lưới phù hợp với điều kiện
trồng rau và hoa tươi ở Thừa Thiên Huế, có thể áp dụng cho những vùng có
điều kiện tương tự; giá thành xây lắp thấp.
2.4. Nhiệm vụ của đề tài
- Điều tra xác định thực trạng trồng rau trên địa bàn Thừa Thiên Huế.
- Khảo sát các kiểu nhà lưới hiện có ở Việt Nam và trên thế giới.
- Tính toán và lựa chọn kết cấu nhà lưới phù hợp.
25

×