Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC CÔNG BỐ THÔNG TIN MÔI TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP: TRƯỜNG HỢP CÁC DOANH NGHIỆP CỦA TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.27 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: KINH TẾ MÔI TRƯỜNG
ĐỀ TÀI
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC CÔNG BỐ THÔNG
TIN MÔI TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP: TRƯỜNG
HỢP CÁC DOANH NGHIỆP CỦA TRUNG QUỐC
GVHD: TS. Nguyễn Hữu Dũng
Thành viên tham gia: Lê Thị Liên
Đinh Thị Tâm
Trần Cẩm Linh
Lớp: Cao học kinh tế phát triển Đêm – K21
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 12 NĂM 2012
TÓM TẮT
Để tìm hiểu về việc công bố thông tin về môi trường của các doanh
nghiệp, bài viết này xác định các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông
tin môi trường của doanh nghiệp trên cơ sở lý thuyết của các bên liên quan, và
đưa ra một quan sát thực nghiệm về các doanh nghiệp Trung Quốc đã được
niêm yết. Mức độ công bố thông tin môi trường của các doanh nghiệp trong bối
cảnh hiện nay ở Trung Quốc rất thấp. Gần 40% trong tổng số mẫu không có dữ
liệu môi trường và vấn đề này được xác định rõ trong việc phân tích thông tin
được công bố. Trong điều kiện hiện nay, chiến lược công bố thông tin môi
trường của các doanh nghiệp nhằm đáp ứng sự quan tâm của Chính phủ. Sự nổ
lực đáng kể của các doanh nghiệp trong việc công bố thông tin môi trường là
tương đối nhạy cảm và phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp. Về vai trò giữa
các bên liên quan, yếu tố cổ đông và chủ nợ doanh nghiệp được thử nghiệm
trong nghiên cứu này tác động đến EID còn rất yếu. Một khám phá thú vị khác
trong nghiên cứu này, các doanh nghiệp được chọn mẫu công bố thông tin về
môi trường của mình. Các doanh nghiệp hoạt động ven biển Đông, nơi mà kinh


tế khá phát triển thì có khả năng công bố thông tin về khí thải môi trường hơn
so với các doanh nghiệp ở khu vực khác. Các doanh nghiệp có hiệu suất hoạt
động tốt, thì việc công bố thông tin về đầu tư và chi phí kiểm soát ô nhiễm thì
thuận lợi và dễ dàng hơn. Mối quan ngại của các bên liên quan về vấn đề môi
trường của doanh nghiệp được thúc đẩy khuyến khích nhằm tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp Trung Quốc chủ động hơn trong việc công bố thông tin môi
trường nhằm cải thiện chất lượng môi trường xung quanh doanh
nghiệp.
1. Giới thiệu
Nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng nhanh và liên tục, chủ yếu do lượng
vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng mang lại, đã gây tác động xấu đến môi trường. Các
công cụ lập pháp và hành chính của Chính phủ đóng vai trò quan trọng để điều
chỉnh hành vi về bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp.Tuy nhiên, do khuôn
khổ pháp lý về môi trường hiện tại và năng lực thực thi pháp luật bộc lộ nhiều
yếu kém, nhiều doanh nghiệp hoạt động thể hiện sự không thân thiện với môi
trường. Cơ quan môi trường quốc gia đang nỗ lực để phát triển các phương
pháp tiếp cận mới nhằm khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động thân thiện
hơn với môi trường. Theo đó, dựa trên một số thị trường ưu đãi, như bảo hiểm
tín dụng xanh và bảo hiểm xanh bước đầu được triển khai. Hơn nữa, việc tiếp
cận các thông tin môi trường của doanh nghiệp dễ dàng tạo điều kiện thu hút sự
quan tâm của các tổ chức xã hội đồng thời tạo rào cản đối với các doanh nghiệp
có công nghệ lạc hậu và khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng công nghệ
thân thiện với môi trường.
Chiến lược quản lý môi trường có thể được thực hiện bằng cách gắn kết
giữa các bên liên quan, việc công bố thông tin môi trường doanh nghiệp đóng
vai trò quan trọng đối với trách nhiệm phủ xanh của doanh nghiệp. Phụ thuộc
vào cách thức thông tin được chuyển tải, việc công bố thông tin môi trường
doanh nghiệp (EID) có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như
chứng nhận của sản phẩm, của các doanh nghiệp, quy trình và quy trình quản lý
của bên thứ ba, hoặc bằng cách tự báo cáo mà không có đánh giá tổng quan,

hoặc bằng cách cung cấp dữ liệu với một vài lời giải thích và dự báo. EID dựa
trên sự tự nguyện của các doanh nghiệp, bao gồm báo cáo môi trường, công bố
bởi các công ty, nhìn chung là chưa được kiểm toán ở các nước đang phát triển.
Việc công bố thông tin môi trường doanh nghiệp ở Trung Quốc mới chỉ là bước
đầu, việc công bố không mang tính bắt buộc. Tuy nhiên, một vài tập đoàn lớn ở
Trung Quốc (PetroChiNa, Sinopec, Bao Steel) đã xuất bản các báo cáo hàng
năm với nội dung bảo vệ môi trường bền vững và trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp. Mặt khác, từ năm 2011, các doanh nghiệp nộp đơn xin niêm yết trên thị
trường phải chỉ ra các tác động tiêu cực đến môi trường từ hoạt động của doanh
nghiệp trong bản báo cáo bạch. Một chương trình đánh giá đã được khởi xướng
trên toàn quốc vào năm 2005, phân loại các tác động môi trường của doanh
nghiệp thành 5 cấp bậc khác nhau được thể hiện bằng các màu sắc khác nhau và
cho thấy một bức tranh tổng thể về các tác động môi trường của các doanh
nghiệp. EID góp phần giúp doanh nghiệp thể hiện trách nhiệm xã hội của mình
về việc phủ xanh và làm sạch môi trường tuy nhiên trên thực tế đa số các báo
cáo môi trường có nội dung kém chất lượng và không rõ ràng nhất là trên cơ sở
tự giác công bố. Để giúp cho các doanh nghiệp nhận thức đúng đắn về việc
công bố thông tin môi trường doanh nghiệp, bài viết này nhằm mục đích xác
định các yếu tố tác động đến việc công bố thông tin môi trường doanh nghiệp và
minh họa bằng ví dụ cụ thể là các doanh nghiệp Trung Quốc được niêm yết.
2. Tổng quan tài liệu
Về các yếu tố tác động đến việc công bố thông tin môi trường doanh
nghiệp, chúng được xem như là các hoạt động có liên quan đến môi trường của
doanh nghiệp, và chúng có thể được nhóm lại thành các yêu tố bên trong và các
yếu tố bên ngoài, các nhà nghiên cứu chưa khẳng định nhóm nào là chiếm ưu
thế. Một số điểm nhấn của các yếu tố bên ngoài, chẳng hạn như các quy định,
cơ chế cạnh tranh và áp lực từ các tổ chức phi chính phủ. Cơ cấu tổ chức doanh
nghiệp, năng lực học tập cũng tác động đến khả năng tổ chức quản lý môi
trường phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp.
Nghiên cứu thực nghiệm kiểm tra sự xuất hiện của EID có thể chia thành

ba loại. Một là quan sát số lượng và chất lượng các nội dung của thông tin môi
trường được công bố. Xem xét các báo cáo hàng năm của 127 doanh nghiệp
được niêm yết trong thời gian 1992-2002 ở Trung Quốc, và thấy rằng thông tin
môi trường là khá hạn chế và chung chung. Các doanh nghiệp có xu hướng
cung cấp những thông tin môi trường có lợi cho hoạt động của mình. Loại
nghiên cứu thực nghiệm thứ hai là phân tích các mối quan hệ giữa số lượng
thông tin môi trường công bố và các yếu tố, sự kiện có liên quan. Bằng chứng từ
những tài liệu môi trường được tiết lộ này chủ yếu là ở các nước phương Tây,
cho rằng sự tự nguyện tiết lộ thông tin môi trường của doanh nghiệp tăng theo
quy mô doanh nghiệp và các thành viên trong ngành công nghiệp môi trường
nhạy cảm như dầu khí, hóa chất và các sản phẩm giấy.v.v. Số lượng các cuộc
công bố thông tin môi trường doanh nghiệp được phát hiện tăng lên đáng kể
theo sau các sự kiện tiêu cực về môi trường như tràn dầu và thiên tai, hoặc dưới
sự cưỡng chế của cơ quan bảo vệ môi trường. Theo nghiên cứu trường hợp ở
Canada, các yếu tố liên quan đến việc công bố thông tin môi trường được phát
hiện là được phổ biến rộng rãi ở các doanh nghiệp với các phương tiện thông tin
được bảo hộ hơn là mang tính chính trị.
Trong bối cảnh ở Pháp, Cormier và Magna cho thấy chi phí sở hữu (đòn
bẩy, lợi nhuận) và chi phí thông tin là yếu tố quyết định quan trọng của báo cáo
môi trường trong chiến lược của một doanh nghiệp. Ví dụ Đức cho thấy những
rủi ro, quyền sở hữu, độ tuổi tài sản cố định, quy mô doanh nghiệp cũng như
quy trình doanh nghiệp xác định mức độ của việc công bố môi trường trong một
năm. Mặc dù kết quả vẫn còn gây tranh cãi, nhóm thứ ba nghiên cứu khám phá
các mức độ công bố về môi trường có liên quan đến hoạt động môi trường của
doanh nghiệp. Kết quả là, Freedman và Jaggi kết luận rằng việc công bố thông
tin môi trường không thể được sử dụng như là một giấy ủy quyền cho hoạt động
môi trường.
Tuy nhiên, gần như tất cả các nghiên cứu phát triển lý thuyết và phân tích
thực nghiệm đã được tiến hành ở các nền kinh tế phát triển trong khi việc phân
tích định lượng còn hạn chế ở các nước đang phát triển như Trung Quốc.

Nghiên cứu này được nhóm vào loại thứ 2 được đề cập ở trên và nội dung
nghiên cứu là nghiên cứu việc công bố thông tin môi trường doanh nghiệp trên
cơ sở mở rộng phạm vi nghiên cứu của một công trình nghiên cứu trước đây
trong bối cảnh của một nước đang phát triển. Một khung phân tích các yếu tố
quyết định là cơ sở để doanh nghiệp công bố thông tin môi trường phù hợp với
đặc điểm của mình. Bao gồm thông tin tài chính và phi tài chính.
3. Phát triển khung phân tích và giả thuyết nghiên cứu
3.1. Khái niệm cơ bản về lý thuyết giữa các bên liên quan
Dựa trên lý thuyết kinh tế bị phản đối vì tập trung vào lợi ích cá nhân và
tối đa hóa sự giàu có là không phù hợp trong quan điểm về tầm quan trọng của
môi trường như là một lợi ích công cộng. Từ đó về sau, quan điểm kinh tế chính
trị, bao gồm cả lý thuyết bên tham gia và lý thuyết tính hợp pháp, được xem
như là các quan điểm lý thuyết chủ đạo cho việc phân tích các EID.
Lý thuyết các bên liên quan khẳng định sự tồn tại của tổ chức đòi hỏi sự
hỗ trợ của các bên liên quan và sự chấp thuận phải được tìm kiếm.
3.2. Khung phân tích và giả thuyết nghiên cứu
Như đã giải thích ở trên, sự thành công của một doanh nghiệp dựa trên
việc quản lý mối quan hệ với các bên liên quan của nó như là một tổng thể. Nếu
một doanh nghiệp tin rằng các bên liên quan bên ngoài của nó là quan tâm nhiều
hơn đến vấn đề môi trường, doanh nghiệp sẽ có thêm động lực công bố thông
tin liên quan đến môi trường. Do đó, một giả thuyết chung được nêu rõ như sau:
“Giả thuyết chung: sức mạnh của các bên liên quan bên ngoài của một
doanh nghiệp có liên quan với mức độ công bố thông tin môi trường của doanh
nghiệp.”
Nghiên cứu này đã chọn đại diện các bên liên quan bên ngoài của các
doanh nghiệp niêm yết, cụ thể là: (a) chính phủ, có khả năng can thiệp thông
qua các quy định, (b) các cổ đông là những người chủ yếu cung cấp vốn cho các
doanh nghiệp niêm yết, và (c) các chủ nợ, có khả năng cung cấp sức mạnh kinh
tế cho doanh nghiệp thông qua việc cho vay nợ.
Các giả thuyết có thể kiểm chứng cụ thể của các bên liên quan có thể

được giải thích như dưới đây.
Sức ép của
chính phủ
Tự nguyện công bố
thông tin về môi
trường (EID)
Các yếu tố bên ngoài Các yếu tố bên trong
Hình 1. Phân tích mô hình và các yếu tố của EID
3.2.1.Ha: Sức ép của Chính phủ (GP)
Sức ép của Chính phủ như là một bên liên quan được thể hiện trong cơ
chế thực thi của nó. Các doanh nghiệp có thể gắn hoạt động của mình với công
tác bảo vệ môi trường nhằm làm giảm khả năng can thiệp của Chính phủ đến
doanh nghiệp. Do đó, Chính phủ được xem là một đối tác có trọng lượng. Các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp rất nhạy cảm với môi
trường như ngành công nghiệp kim khí, công nghiệp hóa chất,… sẽ phải đối
mặt với những quy luật nghiêm ngặt về bảo vệ môi trường. Các nghiên cứu
trước đây cho thấy rằng, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công
nghiệp nhạy cảm với môi trường thường công bố thông tin môi trường của
doanh nghiệp mình nhằm giảm thiểu hoặc tránh các biện pháp cưỡng chế của
Chính phủ, do đó đây là mối quan hệ tích cực. Do vậy, giả thuyết đầu tiên của
nghiên cứu này là:
Ha: Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nhạy cảm
với môi trường có nhiều khả năng công bố thông tin môi trường hơn so với
những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phi công nghiệp.
Sức ép từ phía
cổ đông
Yếu tố kiểm soát
- Quy mô doanh nghiệp
- Vị trí doanh nghiệp
- Số năm niêm yết

- Hoạt động kinh tế
- Năng lực học tập
Sức ép từ
chủ nợ
3.2.2. Hb: Sức mạnh cổ đông (SP)
Sức mạnh của cổ đông có thể được đo bằng cách định lượng mức độ sở
hữu cổ phần. Việc cổ phiếu của một doanh nghiệp phân tán rộng hơn, khả năng
doanh nghiệp công bố thông tin môi trường nhiều hơn. Điều này được thể hiện
qua giả thuyết Hb:
“Hb: Mức độ tập trung của các cổ đông trong doanh nghiệp ảnh hưởng
đến việc công bố thông tin môi trường doanh nghiệp.”
Trong nghiên cứu này, mức độ tập trung quyền sở hữu chứng khoáng
được đo bằng tỷ lệ vốn chủ sở hữu với sở hữu vốn của 10 cổ đông hàng đầu.
Tập trung cổ phiếu cao hơn, SP sẽ khuyến khích các doanh nghiệp công bố
thông tin môi trường. Những dữ liệu về cổ đông được thu thập từ báo cáo hàng
năm của các doanh nghiệp niêm yết.
3.2.3. Hc: Sức ép chủ nợ (CP)
Sức ép chủ nợ được đo lường bằng khoản nợ mà doanh nghiệp đã vay.
Rất nhiều nghiên cứu cho thấy rằng thị trường quan tâm đến tình hình của môi
trường doanh nghiệp khi đánh giá trách nhiệm môi trường và rủi ro vay nợ của
doanh nghiệp.
Điều này đã được khẳng định bởi một nghiên cứu gần đây rằng: một
doanh nghiệp càng vay nợ, sẽ càng phấn đấu để kết hợp một chiến lược chủ
động về môi trường. Điều này dẫn đến giá thuyết thứ ba:
“Hc: Đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp có liên quan đến việc công bố
thông tin môi trường.”
Trong nghiên cứu này, mức độ đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp được
chủ nợ thông qua. Theo đó, tỷ lệ nợ/tài sản của các doanh nghiệp lấy mẫu có
nguồn gốc phân tích.
4. Phương pháp

4.1. Mẫu nghiên cứu
Các mẫu và các dữ liệu cho nghiên cứu này được thu thập từ các doanh
nghiệp Trung Quốc niêm yết trong ba bước. Bước 1: lấy danh sách các doanh
nghiệp niêm yết trên website Danh sách này được
sắp xếp theo các lĩnh vực công nghiệp và khối lượng vốn đăng ký của doanh
nghiệp. Cứ 5 doanh nghiệp trong danh sách được sắp xếp thành một nhóm, mỗi
doanh nghiệp được lựa chọn ngẫu nhiên như là một ứng cử viên đại diện. Bước
2: thu thập các thông tin cơ bản của các doanh nghiệp ứng cử viên. Các dữ liệu,
chẳng hạn như trở lại của vốn chủ sở hữu (ROE) mức độ và tỷ lệ sở hữu cổ
phần trách nhiệm hữu tài sản (D / A) trong năm 2006, cũng nhận được từ cơ sở
dữ liệu đánh giá kinh tế của các doanh nghiệp Trung Quốc niêm yết trên cùng
một trang web. Nghiên cứu này xác định phương pháp định lượng chủ quan
giữa số lượng truy cập thông tin môi trường từ dữ liệu diễn biến môi trường
thực tế của doanh nghiệp, tuy nhiên số liệu này không có sẵn để kiểm tra chất
lượng các thông tin tự báo cáo. Sự phân bố ngành công nghiệp của các mẫu
được chỉ ra ở bảng 1.
Bảng 1: Phân bố số lượng mẫu theo các khu vực công nghiệp
Yếu tố Số lượng mẫu Tỷ lệ (%)
Khai thác mỏ 6 3.4
Hàng dệt may 9 5.1
Thực phẩm và đồ uống 9 5.1
Giấy 5 2.9
Dầu khí, hóa chất và nhựa 28 16
Điện tử 6 3.4
Kim loại và phi kim 26 14.9
Máy móc thiết bị 25 14.3
Dược phẩm 15 8.6
Phát điện 11 6.3
Khác 35 20
Tổng số 175 100

4.2. Xác định mô hình kinh tế lượng
Chúng tôi cho rằng việc công bố thông tin môi trường của các doanh
nghiệp phụ thuộc vào sức ép của các bên liên quan bên ngoài và các đặc trưng
của doanh nghiệp (quy mô, vị trí địa lý, năng lực học tập, hoạt động kinh tế,…)
được xác định trong khung phân tích.
Các giả thuyết này được kiểm định và dự báo bằng các mô hình hồi quy
OLS. Mô hình này được thể hiện ơ phương trình (1), dự báo mức độ cung cấp
thông tin môi trường doanh nghiệp (được tính toán bằng chỉ số công bố thông
tin tích hợp hoặc điểm số của các mục thông tin môi trường của từng doanh
nghiệp).
EID level = b
0
+ b
1
GP + b
2
SP + b
3
CP + b
4
LC + b
5
AGE + b
6
PLACE + b
7
ROE + b
8
LSIZ + e ( 1 )
Trong đó:

Mức độ EID: mức độ công bố thông tin môi trường của doanh nghiệp tại thời
kỳ t;
b
0
: Hệ số gốc;
GP: nhận giá trị là 1 đối với các doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp
nhạy cảm về môi trường; nhận giá trị là 0 nếu ngược lại;
SP: phần trăm cổ phần nổi của doanh nghiệp sở hữu bởi top 10 cổ đông tại thời
gian t;
CP: tỷ lệ trách nhiệm hữu tài sản của doanh nghiệp ở thời kỳ t;
LC: phần trăm của các nhân viên có trình độ giáo dục đại học trên tổng nhân
viên;
TUỔI: tuổi kể từ khi doanh nghiệp được niêm yết trên thị trường chứng khoán
tại thời gian t;
PLACE: nhận giá trị là 1 đối với các doanh nghiệp trong khu vực ven biển phía
Đông, nhận giá trị là 0 nếu ngược lại;
ROE: lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp ở thời kỳ t;
LSIZ: cập nhật nguồn tài nguyên thiên nhiên của doanh nghiệp ở thời kỳ t;
e: phần dư
4.3. Giải thích các biến
4.3.1. Biến phụ thuộc
Biến phụ thuộc trong nghiên cứu này là mức độ EID doanh nghiệp. Việc
xác định mức độ EID của các mẫu dựa theo hướng dẫn của GRI và báo cáo đo
lường mức độ công bố thông tin môi trường của SEPA. Các mặt hàng, được đề
nghị theo hướng dẫn của GRI, gồm 5 đặc trưng chính và 30 chỉ số được xác
định từ vòng đời của sản phẩm. Chỉ có 9 mặt hàng được quy định cụ thể trong
thông báo của SEPA mà chủ yếu là liên quan đến các tác động môi trường của
quá trình sản xuất và các biện pháp kiểm soát ô nhiễm. Thích ứng với tình trạng
thực tế năng lực quản lý môi trường và tập trung ở Trung Quốc, sáu hạng mục
này được xác định để đánh giá mức độ EID của các mẫu. Các mặt hàng cốt lõi

theo hướng dẫn của GRI, các hạng mục theo quy định của SEPA và những hạng
mục được chọn cho nghiên cứu này được thể hiện trong Bảng 2.
Bảng 2: Các mục quy định trong hướng dẫn GRI
Đặc trưng Mẫu
Vật liệu, năng lượng và nước EN1:Vật liệu được sử dụng theo trọng lượng và khối lượng
EN2: Tỷ lệ phần trăm nguyên vật liệu đầu vào tái chế
EN3: Năng lượng tiêu thụ trực tiếp bởi nguồn năng lượng chính
Đa dạng sinh học EN11: Vị trí và diện tích đất sở hữu, cho thuê, quản lý, hoặc liền kề, khu bảo tồn
và các khu vực có giá trị đa dạng sinh học cao bên ngoài các khu bảo tồn
Khí thải, nước thải và chất thải EN16: tổng số khí phát thải nhà kính trực tiếp và gián tiếp tính theo trọng lượng
EN20: NOx, SOx và khí thải quan trọng khác theo loại và trọng lượng
EN21: Tổng lượng nước xả bằng chất lượng và điểm đến
EN22: Tổng trọng lượng của rác thải bằng phương pháp loại và xử lý
Sản phẩm và dịch vụ EN27: Tỷ lệ phần trăm các sản phẩm bán ra và các vật liệu bao bì được thu hồi
theo thể loại
Tuân thủ EN28: tiền tệ giá trị của tiền phạt đáng kể và tổng số phi tiền tệ xử phạt đối với
việc không tuân thủ luật pháp và các quy định môi trường
Các mục theo quy định của SEPA
1. Chính sách bảo vệ môi trường của doanh nghiệp, mục tiêu và thành tựu.
2. Tổng mức tiêu thụ các nguồn tài nguyên hàng năm.
3. Đầu tư phát triển công nghệ môi trường của doanh nghiệp.
4. Nồng độ và số lượng phát thải.
5. Tổ chức và hoạt động của cơ sở môi trường.
6. Xử lý chất thải và tái chế sử dụng chất thải.
7. Tự nguyện thoả thuận với cơ quan môi trường để thực hiện cải thiện
8. Thông tin về các hoạt động trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
9. Thông tin khác liên quan đến việc công bố thông tin môi trường doanh nghiệp.
Các mục được lựa chọn trong nghiên cứu này
I1: Chính sách bảo vệ môi trường của doanh nghiệp, chiến lược và mục tiêu.
I2: Tiêu thụ năng lượng, nước và các nguồn tài nguyên khác

I3: Phân loại, số lượng và tác động ảnh hưởng của khí thải, nước thải
I4. Tổ chức và hoạt động của cơ sở môi trường
I5. Đầu tư và chi phí kiểm soát ô nhiễm môi trường
I6. Thông tin khác liên quan đến môi trường
4.3.2. Biến độc lập
Nhắc lại khung phân tích và mô hình kinh tế lượng, biến độc lập GP, SP,
CP đại diện cho các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến mức độ EID. Thông qua
thực tiễn kinh tế, có thể xác định mỗi yếu tố này có thể giải thích cấp độ EID
được bao nhiêu .
Sức mạnh của chính phủ (GP) được định nghĩa như là một biến giả đại
diện cho sự nhạy cảm môi trường của ngành công nghiệp nơi mà doanh nghiệp
hoạt động, ví dụ: nhận giá trị là 1 đối với các doanh nghiệp hoạt động nhạy cảm
với môi trường và nhận giá trị là 0 đối với các doanh nghiệp không nhạy cảm.
Các ngành công nghiệp nhạy cảm với môi trường ở Trung Quốc bao gồm khai
thác mỏ, nhiệt điện, vật liệu xây dựng, bột giấy và sản phẩm từ giấy, luyện kim,
dầu khí, nhà máy bia, lên men, dệt may, dược phẩm, thuộc da và các ngành
công nghiệp hóa chất. Những ngành khác được coi là không thuộc ngành công
nghiệp nhạy cảm với môi trường. Phần trăm cổ phiếu thả nổi sở hữu bởi top 10
cổ đông được sử dụng như đại diện cho quyền lực cổ đông (SP). Đối với áp lực
chủ nợ (CP), trách nhiệm tài sản pháp lý (Nợ / tài sản) được sử dụng như sự ủy
quyền.
Hình 2 : Kết quả các hạng mục công bố thông tin môi trường
4.3.3. Các biến kiểm soát
4.3.3.1. Kích cỡ (LSIZ)
Các tài liệu cho thấy rằng các doanh nghiệp quy mô càng lớn thì khả năng
công bố thông tin môi trường doanh nghiệp của mình càng cao. Các doanh
nghiệp lớn cũng có khả năng có nguồn lực tốt hơn cho những nỗ lực bảo vệ môi
trường. LSIZ được định nghĩa là giá trị đăng nhập tự nhiên của tài sản ròng của
công ty.
4.3.3.2. Tuổi (AGE)

TUỔI là số năm kể từ khi doanh nghiệp được niêm yết tại thị trường
chứng khoán Trung Quốc (ví dụ như, Thượng Hải hay Thẩm Quyến thị trường
chứng khoán) đến cuối năm 2006.
4.3.3.3. Địa điểm (PLACE)
Vị trí của công ty, thể hiện như PLACE, được định nghĩa là một biến giả,
tức là nhận giá trị là 1 đối với các doanh nghiệp nằm ở vùng ven biển phía
Đông, nơi nền kinh tế tương đối phát triển, và nhận giá trị là 0 đối với các
doanh nghiệp nằm ở vùng Đông Bắc, các tỉnh Trung và Tây của Trung Quốc nơi
mà nền kinh tế kém phát triển hơn.
Hình 3 : Phân bố của các chỉ số công bố thông tin môi trường (mức EID)
(z= 0,816 trong thử nghiệm K-S và có thể vượt qua các kiểm nghiệm thông thường)
Bảng 3 : Tóm tắt thống kê các biến
4.3.3.4. Năng lực học tập (LC)
Năng lực học tập của một doanh nghiệp được cho là quan trọng để nâng
cao năng lực của nó. Trình độ học vấn của người lao động có thể cho thấy năng
lực của doanh nghiệp để tìm hiểu và thực hiện cách tiếp cận quản lý môi trường
mới.
4.3.3.5. Trả lại vốn chủ sở hữu (ROE)
Nghiên cứu này sử dụng yếu tố trả lại vốn chủ sở hữu (ROE) để trình
bày các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp niêm yết. ROE của năm trước
cũng được thu thập cho việc kiểm tra đánh giá tác động làm chậm hiệu suất kinh
tế đến mức EID.
5. Kết quả và thảo luận
5.1. Đánh giá kết quả cấp EDI
Khoảng 30% của 175 doanh nghiệp trong mẫu đã chỉ ra rằng đầu tư cho
môi trường và chi phí kiểm soát ô nhiễm của họ trong năm 2006. Gần 37%
trong tổng số mẫu mô tả nỗ lực về môi trường nhất định như chứng nhận
ISO14001 và kiểm toán minh bạch hơn, vv các doanh nghiệp dường như là
miễn cưỡng để nêu ra những tác động của họ đến môi trường như thông tin về
các loại khí thải, số lượng và các điểm đến. Chỉ có 15% số mẫu giải thích mục

tiêu và chính sách môi trường của họ. Điều này chỉ ra rằng các doanh nghiệp
Trung Quốc chưa kết hợp chiến lược phát triển kinh doanh với yếu tố môi
trường.
Về cấp độ phân phối của EDI, được trình bày dưới dạng chỉ số thông tin
môi trường được thể hiện trong hình.3. Gần 40% các doanh nghiệp trong mẫu
không công bố thông tin phổ biến nào liên quan đến môi trường. Theo kết quả
đánh giá, thông tin môi trường của các doanh nghiệp Trung Quốc được cung
cấp một cách nhỏ giọt.
Bảng 4: Tương quan hệ số Pearson
5.2. Thống kê mô tả các biến
Thống kê mô tả các biến (số liệu năm 2006) được thể hiện trong Bảng 3.
Bảng A thể hiện biến phụ thuộc EDI và các biến liên tục trong khi bảng B thể
hiện các biến độc lập và các biến điều khiển. Biến phụ thuộc EDI cho thấy điểm
tối thiểu là 0,200 và tối đa là 0,867 với một giá trị trung bình là 0,288 thể hiện
sự thiếu hiệu quả của các doanh nghiệp Trung Quốc được liệt kê. Sức mạnh cổ
đông (SP) có tối thiểu là 0,75%, tối đa là gần 94,5% và trung bình 10,1% cho
thấy các cổ đông tập trung ở các mẫu có mức độ khác nhau. Sức mạnh chủ nợ
(CP) đã có một loạt từ mức thấp 8,8% lên mức cao nhất 97,5%. Trung bình là
51,1% cho thấy rằng đa số các doanh nghiệp lấy mẫu được đánh giá cao tín
dụng. Kết quả ROE, như một biện pháp của hoạt động kinh tế, chỉ ra rằng các
doanh nghiệp lấy mẫu có một sự trở lại trung bình là 9,0%. Độ tuổi của các
doanh nghiệp niêm yết dao động từ tối thiểu là nửa năm đến tối đa là 15 năm, có
nghĩa là hầu hết các doanh nghiệp Trung Quốc được liệt kê vẫn còn trẻ trong thị
trường chứng khoán. Trung bình năng lực học tập (LC), với trung bình 32,6%,
cho thấy rằng phần lớn các doanh nghiệp niêm yết có nhân viên với trình độ học
vấn cao hơn.
Bảng B cho thấy rằng khoảng một nửa (52%) của các doanh nghiệp được
phân loại với môi trường nhạy cảm. Xét về địa điểm của các mẫu, 54,9% trong
số họ đến từ các vùng ven biển phía Đông với các nền kinh tế tương đối phát
triển. Điều này cũng hỗ trợ việc phân phối mẫu tốt khi quan sát từ các ngành

công nghiệp và từ vị trí địa lý.
5.3. Ma trận tương quan và kết quả biến nhị phân
Tương quan hạng Pearson được sử dụng trong nghiên cứu này để khám
phá mối quan hệ giữa các yếu tố bên ngoài đã được xác định, đặc điểm của
doanh nghiệp và mức độ EID. Kết quả cho tương quan hạng Pearson được thể
hiện trong Bảng 4.
Chưa có dấu hiệu cho thấy có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc
lập và kiểm soát như hệ số tương quan cao nhất là 0.367 cho năng lực học tập
(LC) và sức ép chính phủ (GP). Mức độ gây hại của đa cộng tuyến được dự kiến
sẽ không trình bày cho đến khi hệ số tương quan đạt 0.8 hoặc đạt 0.9.Ma trận
tương quan trong Bảng 4 cũng cho thấy kết quả biến nhị phân giữa mức độ EDI
biến phụ thuộc và tất cả các biến độc lập. Kết quả chỉ ra rằng tác động của GP là
đáng kể và tích cực liên kết với EID mức p <0,01. Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu trước tài liệu mà doanh nghiệp hoạt động trong các ngành công
nghiệp nhạy cảm về môi trường báo cáo thông tin môi trường hơn. Một biến
khác đó là hiển thị mối tương quan thuận với mức độ EID, đáng kể tại p <0,01,
là quy mô của doanh nghiệp (LSIZ). Điều này là phù hợp với các nghiên cứu
của Đức đã đề cập trước đó.
Bảng 5: Kết quả hồi quy cho EID mức độ dữ liệu của năm 2006
Bảng 6: Kết quả hồi quy cho các mục thông tin cá nhân bởi các dữ liệu của năm 2006.
5.4. Phân tích đa biến và thảo luận cho mức EID
Hồi quy OLS được sử dụng để hồi quy biến phụ thuộc EID theo tất cả các
biến độc lập và biến kiểm soát bằng cách sử dụng các dữ liệu của năm 2006.
Các kết quả được thể hiện trong Bảng 5. Mô hình này giải thích khoảng 40,7%
sự biến thiên về EID, có ý nghĩa tại p ¼ 0,000. Giả thuyết (Ha) hỗ trợ mạnh mẽ
trong kết quả đa biến với biến sức ép chính phủ (GP) cho thấy một mối quan hệ
đáng kết hợp với mức độ EID p ¼ 0,000. Yếu tố chính góp phần dẫn đến công
bố thông tin môi trường của doanh nghiệp Trung Quốc là để nâng cao hình ảnh
doanh nghiệp và hỗ trợ các chính sách của chính phủ.
Giả thuyết b và c (Hb và Hc) không được hỗ trợ. Sức mạnh cổ đông (SP)

cho thấy không có liên quan đáng kể và hệ số là âm, có nghĩa là mức độ của cổ
đông phân tán có mối quan hệ rất nhẹ và nghịch biến với doanh nghiệp công bố
thông tin môi trường. Tương tự như vậy, sức mạnh chủ nợ (CP) cũng cho thấy
không có liên quan đáng kể.
5.5. Phân tích đa biến và thảo luận
Trong nghiên cứu này, hồi quy được lặp đi lặp lại bằng cách thay thế cấp
độ EID trong biểu thức (1) với số điểm của mục thông tin cá thể EID như là
biến phụ thuộc. Các kết quả cho các khoản 1, 2 và 6 không được liệt kê ở đây vì
chúng có một mối quan hệ đáng kể với GP và LSIZ, mà là tương tự như các kết
quả cho EID tại mục 5.4. Các kết quả mục 3 và 5 được liệt kê trong Bảng A và
B của Bảng 6, tương ứng, trong đó chỉ ra rằng các doanh nghiệp được chọn lọc
công bố các thông tin về môi trường của họ.
Bên cạnh GP và LSIZ, mục định nghĩa thứ ba của thông tin môi trường
cũng có mối quan hệ tích cực với PLACE. Điều này có nghĩa là các doanh
nghiệp niêm yết hoạt động ở khu vực ven biển phía Đông có nhiều khả năng để
công bố các dữ liệu phát thải. Điều này có thể gán cho cấp độ tương đối cao hơn
của môi trường công cộng nâng cao nhận thức về môi trường trong các khu vực
này. Việc gây ô nhiễm cho biết rằng các lượng khí thải của cộng đồng láng
giềng có thể đáp ứng với các tiêu chuẩn môi trường quốc gia hoặc địa phương.
Các mục thứ năm của thông tin về môi trường có mối quan hệ tích cực với ROE
có ý nghĩa ở mức 0,05, và có yếu mối quan hệ tích cực hơi yếu với CP. Hiệu
suất kinh tế của một doanh nghiệp tốt hơn, thêm thông tin về môi trường đầu tư
và chi phí kiểm soát ô nhiễm sẽ được mở ra. SP xuất hiện trong một quan hệ
nghịch biến hơi yếu với số điểm của mục này, có nghĩa là áp lực cổ đông mạnh
mẽ hơn, doanh nghiệp sẽ dè dặt hơn để công bố các chi phí môi trường.
5.6. Kiểm tra độ mạnh
Để kiểm tra độ mạnh của kết quả, hồi quy đa biến được tính toán lại cho
các cấp độ EID bằng cách sử dụng các giá trị độ trễ cho các biến liên tục lợi
nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và đăng nhập tự nhiên của tài sản (LSIZ),
năm 2005.

Bảng 7 Kết quả hồi quy cho EID cấp bởi dữ liệu trễ của năm 2005
6. Kết luận
Nghiên cứu này đã phát triển một bộ khung giữa các bên liên quan và
phân tích các hành vi công bố thông tin môi trường của các doanh nghiệp Trung
Quốc. Các kết quả thực nghiệm cung cấp những hiểu biết quan trọng vào các
yếu tố quyết định cho EID ở Trung Quốc. Mức độ nhạy cảm môi trường và quy
mô của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng chính ảnh hưởng đến EID. Hiệu suất
kinh tế là không đáng kể liên quan đến các hoạt động công bố thông tin môi
trường. Trong bối cảnh hiện nay, các doanh nghiệp Trung Quốc đang cung cấp
các thông tin về môi trường chủ yếu là để làm giảm bớt những mối quan tâm
của chính phủ.
Nghiên cứu này có một vài hạn chế như hạn chế về sự lựa chọn của các
bên liên quan và các giấy ủy quyền được thông qua, và kết quả có thể được sử
dụng như một tiền đề cho các nghiên cứu sâu hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Pan Y. Seven environmental economic policies should be the priorities.
Outlook Weekly September, 2007;10.
[2] SustainAbility/UNEP. Trust us, the global reporters 2002 survey of
corporate sustainability reporting. London: SustainAbility/UNEP; 2002.
[3] Lopez JG, Sterner T, Afsah S. Public disclosure of industrial pollution: the
PROPER approach for Indonesia. Washington D.C.: Resources for Future;
October, 2004. Discussion Paper, 04–34.
[4] Mathews MR, Perera MHB. Accounting theory and development. 3rd ed.
Nelson, Melbourne: Victoria; 1995.
[5] Guo PY. Corporate environmental reporting and disclosure in China: CSR
in Asia 2005. Beijing: Tsinghua University; June, 2005.
[6] SEPA (State Environmental Protection Administration). Announcement on
promoting the evaluation of corporate environmental performance. Available at:
< 2005 [accessed 30.05.08] [in Chinese].
[7] Christmann P, Taylor G. Globalization and the environment: determinants

of firm self-regulation in China. J Int Bus Stud 2001;32(3):439–58.
[8] Dean TJ, Brown RL. Pollution regulation as a barrier to new firm entry:
initial evidence and implication for future research. Acad Manage J 1995;38(1):
288–303.
[9] Delmas M. In search of ISO: an institutional perspective on the adoption of
international management standards. Stanford GSB research paper: no. 1784.
Santa Barbara: University of California; 2003.
[10] Lawrence AT, Morell D. Leading-edge environmental management:
motivation, opportunity, resources, and processes. In: Collins D, Starik M,
editors. Research in corporate social performance and policy. Greenwich, CT:
JAI Press; 1995. p. 99–126.
[11] Ramus C, Steger U. The roles of supervisory support behaviors and
environmental policy in employee eco-initiatives at leading-edge Europe
companies. Acad Manage J 2000;43(4):605–26.
[12] Sharma S. Managerial interpretation and organizational context as
predictors of corporate choice of environmental strategy. Acad Manage J
2000;43(4): 681–97.
[13] Deegan C. Introduction – the legitimizing effect of social and
environmental disclosures – a theoretical foundation. Account Audit Account
J 2002;15(3):282–311.
[14] Shang HJ, Liu CC, Geng JX. Case study on current status of corporate
environmental information disclosure in China. Environ Prot 2007;4B:15–21 [in
Chinese].
[15] Deegan C, Rankin M. Do Australian companies report environmental news
objectively? An analysis of environmental disclosure by firms prosecuted
successfully by the environmental protection authority. Account Audit Account
J 1996;9(2):52–69.
[16] Cormier D, Gordon IM. An examination of social and environmental
reporting strategies. Account Audit Account J 2001;14(5):587–616.
[17] Deegan C, Rankin M, Voght P. Firms’ disclosure reactions to major social

incidents: Australian evidence. Account Forum 2000;24(1):101–30.
[18] Li Y, Richardson G, Thornton D. Corporate disclosure of environmental
liability information: theory and evidence. Contemp Account Res
1997;14(3):435–74.
[19] Cormier D, Magnan M. Corporate environmental disclosure strategies:
determinants, costs and benefits. J Account Audit Financ 1999;14(3):429–51.
[20] Bewley K, Li Y. Disclosure of environmental information by Canadian
manufacturing companies: a voluntary disclosure perspective. Adv Environ
Account Manage 2000;1:20126.
[21] Cormier D, Magnan M. Environmental reporting management: a European
perspective. J Account Public Pol 2003;22:43–62.
[22] Cormier D, Magnan M, Van Velthoven B. Environmental disclosure
quality: do firms respond to economic incentives, public pressures or
institutional conditions? Eur Account Rev 2005;14(1):1–37.
[23] Wiseman J. An evaluation of environmental disclosures made in corporate
annual reports. Account Org Soc 1982;7(1):53–63.
[24] Hughes SB, Anderson A, Golden S. Corporate environmental disclosures:
are they useful in determining environmental performance? J Account Public
Pol 2001;3(20):217–40.
[25] Patten DM. The relation between environmental performance and
environmental disclosure: a research note. Account Org Soc 2002;27:763–73.
[26] Rockness J. An assessment of the relationship between US corporate
environmental performance and disclosure. J Bus Finance Account
1985;12(3):339–54.
[27] Freedman M, Jaggi B. Association between environmental performance
and environmental disclosures: an assessment. Adv Account 1996;14:161.
[28] Gray R, Kouhy R, Lavers S. Methodological themes: constructing a
research database of social and environmental reporting by UK companies.
Account Audit Account J 1995;8(2):78–101.
[29] Guthrie J, Parker L. Corporate social disclosure practice: a comparative

international analysis. Adv Publ Interest Account 1990;3:159–73.
[30] Deegan C. Financial accounting theory. Sydney: McGraw Hill; 2000.
[31] Ullmann A. Data in search of a theory: a critical examination of the
relationships among social performance, social disclosure, and economic
performance of US firms. Acad Manage Rev 1985;10(3):540–57.
[32] Wilmhurst T, Frost G. Corporate environmental reporting: a test of
legitimacy theory. Account Audit Account J 2000;13(1):10–26.
[33] Roberts RW. Determinants of corporate social responsibility disclosure: an
application of stakeholder theory. Account Org Soc 1992;17(6):595–612.
[34] Freeman R. Strategic management: a stakeholder approach. Adv Strateg
Manage 1983;I:31–60.
[35] Chan C, Kent P. Application of stakeholder theory to the quantity and
quality of Australian voluntary corporate environmental disclosures. Paper
presented to the Accounting and Finance Association of Australia and New
Zealand (AFAANZ). Brisbane, July 2003.
[36] Elijido-Ten E. Determinants of environmental disclosure in a developing
country: an application of stakeholder theory. Paper presented to the Asia
Pacific Interdisciplinary Research in Accounting (APIRA). Singapore, July
2004.
[37] Clarkson PM, Li Y, Richardson GD. The market valuation of
environmental capital expenditures by pulp and paper companies. Account Rev
2004.
[38] Hughes KE. The value relevance of non-financial measures of air pollution
in the electric utility industry. Account Rev 2000 April:209–28.
[39] Cormier D, Magnan M. Investors’ assessment of implicit environmental
liabilities: an empirical investigation. J Account Public Pol 1997;16:215–41.
[40] Wallace R, Naser K. Firm specific determinants of the comprehensiveness
of stock mandatory disclosure in the annual reports of firms listed on the stock
exchange of Hong Kong. J Account Public Pol 1995;14:311–68.
[41] SEPA (State Environmental Protection Administration). Announcement on

environmental protection auditing to the companies applying to be listed or for
refinancing. Available at: 2003 [accessed 28.05.08] [in
Chinese].
[42] Elijido-Ten E Applying stakeholder theory to analyze corporate
environmental performance: evidence from Australia’s top 100 listed
companies. In: Gray P, Margiolis E, editors. Proceedings of the 2005
Accounting and Finance Association of Australia and New Zealand (AFAANZ)
Annual Conference. Melbourne, Victoria, Australia: John Wiley and Sons. 30pp.
3–5 July 2005.
[43] Farrar D, Glauber R. Multi-collinearity in regression analysis: the problem
revisited. Rev Econ Stat 1967:92–107.
[44] Aerts W, Cormier D, Magnan M. Corporate environmental disclosure,
financial markets and the media: an international perspective. Ecol Econ
2008;64(3):643–59.
[45] Guo PY, Zhang XB, Wei ND. Study of sustainability reporting in China: a
journey to discover values. Available at: <>;
2007 [accessed 15.09.07].
[46] SEPA (State Environmental Protection Administration), PBC (the People’s
Bank of China), CBRC (the China Banking Regulatory Commission). Notes on
reducing loan risk by enforcing environmental protection policies and
regulations. Available at: < 2007 [accessed 28.05.08].

×