Bài Luận
Giải pháp kinh tế giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ hoạt động
sản xuất và chế biến bột dong xã Tứ Dân huyện Khoái Châu
tỉnh Hưng Yên
Phần I: Mở đầu
1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường hiện nay đang là tâm điểm của mọi sự quan tâm, toàn thế giới kêu gọi bảo vệ môi trường, nguyên nhân là
do tình trạng ô nhiễm môi trường đang ngày một gia tăng, trái đất đang nóng dần, đất và nước bị ô nhiễm, tầng ozon bị thủng,
ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn … tất cả đều ảnh hưởng tới đời sống của con người. Ngày nay công nghiệp chế biến phát
triển mạnh kéo theo sự gia tăng lượng thải: khí thải, chất thải, nước thải làm cho môi trường xuống cấp đe dọa tới mọi mặt của
xã hội.
Nước ta hiện nay có rất nhiều làng nghề truyền thống trong đó có nhiều làng nghề sản xuất và chế biến đặc biệt là chế
biến các sản phẩm từ nông nghiệp. Đi kèm với sự nâng cao thu nhập cho người dân, giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời
sống cho người nông dân thì một hệ quả kéo theo đó là chất thải từ sản xuất và chế biến không được xử lý gây ra ô nhiễm môi
trường tại địa bàn làng nghề và các khu vực lân cận.
Chất thải làng nghề không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng đất, nước, khí hậu làm ảnh hưởng tới năng suất trồng trọt, mà
nghiêm trọng hơn ô nhiễm môi trường còn gây nguy hiểm cho con người. Ảnh hưởng trực tiếp tới hệ hô hấp, mắt, gây ra các
căn bệnh như ung thư, khối u … Những chất thải tùy loại, mức độ mà gây ảnh hưởng tới đời sống của con người. Một thực tế
đáng buồn là đã từng có làng ung thư ở Phú Thọ do công ty hóa chất và phân bón Lâm Thao tạo ra, đó là một ví dụ điểm hình
cho ô nhiễm môi trường tại nước ta.
Vậy đâu là nguyên nhân gây ra tình trạng ô nhiễm ở các làng nghề như hiện nay? Nguyên nhân từ nhiều phía. Do quy
mô sản xuất nhỏ lẻ nên không có điều kiện và vốn để đầu tư xử lý chất thải; công nghê sản xuất lạc hậu; sự kém hiểu biết của
người dân; chính sách bảo vệ môi trường chưa chặt chẽ và thống nhất; sự thờ ơ, thiếu quan tâm của các cấp chính quyền. Tất
cả đều kìm hãm sự phát triển của làng nghề và làm giảm đi chất lượng sản phẩm cũng như thương hiệu và uy tín về sản phẩm
trên thị trường, và quan trọng hơn đó là môi trường bị ô nhiễm ảnh hưởng trực tiếp tới con ngời và xã hội.
Làng nghề sản xuất và chế biến bột dong tại xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên cũng đang trong tình trạng
ô nhiễm. Nghề làm bột ở đây đã có từ rất lâu , khi sản xuất bột dong ra đời đã giúp rất nhiều cho cuộc sống của người dân nơi
đây. Nhưng hiện nay tình trạng ô nhiễm đang ảnh hưởng lớn tới người dân trong xã và các xã lân cận cả thành phố Hưng Yên
cũng bị ảnh hưởng bởi chất thải của làng nghề này.
2
Vấn đề đặt ra là làm thế nào giảm thiểu ô nhiễm môi trường đồng thời người dân vẫn mở rộng sản xuất và xây dựng
cho bột dong nơi đây một thương hiệu mạnh và bền vững? Những giải pháp nào khả thi nhất để hạn chế tác hại của ô nhiễm
môi trường đã gây ra? Giải pháp nào để chính người dân thực hiện bảo vệ môi trường sống và làm việc của mình? Xuất phát
từ thực tế trên tôi lựa chọn đề tài “ Giải pháp kinh tế giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ hoạt động sản xuất và chế biến bột
dong xã Tứ Dân huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên” nhằm tìm được giải pháp thực tế nhất.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
• Mục tiêu chung: đánh giá thực trạng ô nhiễm từ hoạt động sản xuất và chế biến bột dong, đề xuất các giải pháp kinh tế
phù hợp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong sản xuất và chế biến bột dong ở xã Tứ Dân huyện Khoái Châu tỉnh Hưng
Yên.
• Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về làng nghề và các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường làng nghề.
- Thực trạng ô nhiễm môi trường trên địa bàn từ hoạt động sản xuất và chế biến bột dong.
- Các yếu tố gây ra ô nhiễm môi trường.
- Phân tích tình hình sử dụng các biện pháp kinh tế nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các biện pháp kinh tế qua đó giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi
trường trên địa bàn.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
• Những yếu tố nào dẫn tới ô nhiễm trường ở địa bàn?
• Sản xuất bột ở xã Tứ Dân đã gây ra ô nhiễm môi trường và gây ra ảnh hưởng như thế nào tới dân cư địa bàn xã và lân
cận?
3
• Chính quyền địa phương, các hộ gia đình, các tổ chức xã hội đã có những biện pháp gì để giảm thiểu ô nhiễm môi
trường?
• Cần có những biện pháp gì để nâng cao hiệu quả sử dụng các biện pháp kinh tế góp phần giảm thiểu tình trạng ô nhiễm
môi trường?
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng:
- Các hộ nông dân sản xuất và chế biến bột dong tại xã Tứ Dân huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên.
- Qúa trình phát thải gây ô nhiễm môi trường.
- Nghiên cứu các giải pháp.
• Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung: tập trung phân tích các yếu tố gây ra ô nhiễm, thực trạng ô nhiễm và các hậu quả kéo theo; nghiên
cứu các giải pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường làng nghề sản xuất và chế biến bột dong.
- Phạm vi không gian: làng nghề sản xuất và chế biến bột thuộc hai thôn Phương Đường và Phương Trù xã Tứ Dân huyện
Khoái Châu tỉnh Hưng Yên.
- Phạm vi thời gian: số liệu tình hình chung của địa phương từ năm 2009 tới năm 2011; Số liệu điều tra hộ năm 2011;
thời gian hoàn thành khóa luận từ tháng 1 năm 2012 đến tháng 5 năm 2012.
Phần II: Cơ sở thực tiễn và lý luận về đề tài
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số khái niệm
4
Môi trường
Ô nhiễm môi trường
Sản xuất
Chế biến
2.1.1.1. Khái niệm môi trường
“Môi trường là hậu quả của quá khứ có tác động ảnh hưởng đến hiện tại nhưng có ý nghĩa quyết định tương lai”.
Đầu tiên môi trường được hiểu là tất cả những yếu tố tự nhiên và vật chất bao quanh chúng ta, có ảnh hưởng đến đời sống, sản
xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật (tại khoản 1, điều 3 Luật BVMT Việt Nam, 2005).
Bách khoa toàn thư về môi trường (1994) đưa ra một định nghĩa ngắn gọn và đầy đủ hơn về môi trường: “Môi trường là tổng
thể các thành tố sinh thái tự nhiên, xã hội - nhân văn, các điều kiện tác động trực tiếp hay gián tiếp lên phát triển, lên đời sống
và hoạt động của con người trong thời gian bất kỳ”.
Như vậy môi trường là nơi con ngươi tồn tại bằng cách sống, lao động, học tập, giao tiếp với mọi người thông qua tất cả
những yếu tố xung quanh chúng ta. Môi trường là không gian sinh sống cho con người và thế giới sinh vật, là nơi cung cấp
tài nguyên, nơi chứa đựng các phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất. Nơi lưu trữ và cung cấp
thông tin cho con người. Thế hệ hiện tại cần phải bảo vệ môi trường không những cho hiện tại mà còn cho tương lai. Chính vì
tầm quan trọng trên mà chất lượng môi trường là điều mà chúng ta đều cần phải quan tâm.
2.1.1.2. Ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm là sự hiện diện của các vật chất ở các dạng lỏng, rắn, khí và năng lượng có nguồn gốc tự nhiên và nhân tạo với một
hàm lượng vượt quá ngưỡng tiêu chuẩn, làm ảnh hưởng đến chất lượng môi trường. Như vậy ô nhiễm môi trường là sự thay
đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường. Ô nhiễm môi trường phụ thuộc vào hai yếu tố: tác động lý – hóa
– sinh của chất thải và phản ứng của con người đối với tác động ấy.
5
Ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng
gây hại đến sức khỏe con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Môi trường bị ô nhiễm
do các tác nhân như chất thải dạng lỏng, rắn, khí chứa hóa chất hoặc các tác nhân vật lý, sinh, hóa học và các dạng năng lượng
như bức xạ, nhiệt xạ…
Ô nhiễm môi trường được chia làm ba loại chính. Đó là ô nhiễm môi trường nước, ô nhiễm môi trường đất và ô nhiễm môi
trường không khí.
2.1.2. Mối quan hệ giữa sản xuất và chế biến nông sản với môi trường
Hiện nay môi trường chịu tác động của rất nhiều yếu tố rác thải công nghiệp, rác thải sinh hoạt, các chất thải từ làng
nghề…. Tất cả khiến môi trường đang ngày một xuống cấp, một thực tế là ngay trong sản xuất nông nghiệp cũng gây ảnh
hưởng xấu tới môi trường. Trong sản xuất nông nghiệp những loại phân hóa học, thuốc trừ sâu tồn dư trong đất, nước làm
thoái hóa đất làm giảm sức sản xuất của đất, ô nhiễm nguồn nước, không khí. Trong sản xuất chế biến nông sản, để tạo ra các
sản phẩm nông sản con người cũng thải ra môi trường rất nhiều phế thải gồm cả các chất thải rắn, lỏng, khí … Những phế thải
này nếu không được xử lý sẽ gây ảnh hưởng trầm trọng tới môi trường.
Khối lượng phát sinh và mức độ độc hại của các chất thải (rắn, lỏng và khí) không đựợc xử lý triệt để khi thải ra nguồn
môi trường xung quanh ngày càng gia tăng
Những năm qua, thực trạng các cơ sở chế biến nông sản đã và đang ảnh hưởng đến môi trường, gây bức xúc trong dư luận.
Đây cũng là một trong những yếu tố tác động đến đời sống, sức khỏe của nhân dân và sự phát triển bền vững của địa phương.
Hiện nay báo trí, dư luận vẫn xôn xao các câu chuyện; Sản xuất “quên” bảo vệ môi trường.
Theo báo cáo hiện nay nước ta có khoảng 3.856 cơ sở chế biến nông sản đang trực tiếp xả thải gây ô nhiễm môi trường. Điều này
chứng tỏ, quá trình phát triển ngành kinh tế chế biến nông sản đã và đang tác động không nhỏ đến vấn đề môi trường xung quanh,
mà nguyên nhân chính vẫn là thiếu kinh phí đầu tư xây dựng hệ thống xử lý chất thải.
Thời gian qua, một số cơ sở, nhà máy chế biến nông sản trên địa bàn cả nước gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống và sức khỏe người dân như Nhà máy Chế biến tinh bột sắn Thành Vũ (tỉnh Gia Lai). Theo kết quả
kiểm tra tại mương xả nước, các chỉ tiêu BOD, COD vượt hơn 480 lần, chỉ tiêu độc hại cyanur vượt gấp 3 lần cho phép, chất rắn lơ
lửng vượt hơn 8 lần. Nghiêm trọng nhất là nhà máy đã xả thải xuống suối Cạn (nguồn nước sinh hoạt chủ yếu của người dân địa
phương) các chất độc hại vượt chỉ tiêu cho phép nhiều lần. Hay Nhà máy Chế biến tinh bột sắn Quán Quân – Tây Nguyên nước
6
thải ra từ nhà máy đã “đầu độc” các con suối xung quanh khiến đời sống sản xuất, sinh hoạt của hơn 200 hộ dân lân cận gặp rất
nhiều khó khăn, phiền toái… Bên cạnh đó, các khu công nghiệp như Tân An, Hòa Phú (TP. Buôn Ma Thuột) do thiếu đầu tư hệ
thống xử lý chất thải đã gây ô nhiễm môi trường nguồn nước sông Sêrêpôk, hồ Ea Trum và người dân sống xung quanh khu vực
này.
Ở các công ty, cơ sở chế biến cà phê áp dụng quy trình công nghệ chế biến ướt, do quy trình này cần một lượng nước khá
lớn để thực hiện các công đoạn như rửa, phân loại quả, xát tươi, đánh nhớt, rửa nhớt nên vấn đề xả thải ra môi trường là một điều
không tránh khỏi. Để sản xuất ra 1 tấn cà phê nhân phải cần từ 7 đến 10 m3 nước, theo đó một cơ sở sản xuất trong thời kỳ cao
điểm, lượng nước thải ra lên đến 1.500 đến 2.000 m3 nước/ngày đêm và nước thải này trực tiếp thải ra ao hồ, dòng chảy tự nhiên.
Với những cơ sở sản xuất “quên” xử lý chất thải như trong thời gian qua, thì vấn đề bảo vệ môi trường ở địa phương sẽ đi về đâu
và cuộc sống người dân sẽ ra sao trước những thách thức từ ô nhiễm môi trường sống.
Hiện nay các làng nghề truyền thống, các kàng nghề chế biến nông sản cũng đang không ngừng đe dọa tới của môi trường. Điển
hình là các làng nghề chế biến miến nông sản thực phẩm ( bột sắn, bột dong, miến, mạch nha…) xã Dương Liễu, huyện Hoaid Đức
thành phố Hà Nội, mỗi năm thải vào môi trường gần 2triệu m
3
nước thải, và hơn 150 nhìn tấn bã thải, gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng.
Hay làng nghề chế biến miến Lại Trạch xã Yên Phú huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên, hàng năm thải ra mô trường hàng ngàn
m3 nước thải chứ các chất phụ gia hóa học như KMnO
4,
NaSO
3,
H
2
SO
4,
Phèn chua, chất tạo màu, và đất cát, sạn, bột giả…
2.1.3. Tiêu chuẩn môi trường và các công cụ quản lí
Đánh giá chất lượng môi trường được căn cứ vào hệ thống các tiêu chuẩn môi trường. Tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn
mực, giới hạn cho phép được quy định dùng làm căn cứ để quản lý môi trường.
Hệ thống tiêu chuẩn môi trường bao gồm:
• Tiêu chuẩn môi trường nước: nước mặt nội địa, nước ngầm, nước thải…
• Tiêu chuẩn môi trường không khí: khí thải, khói bụi…
7
• Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ đất canh tác, sử dụng phân bón trong sản xuất nông nghiệp.
• Tiêu chuẩn bảo vệ thực vật, sử dụng thuốc trừ sâu, diệt cỏ.
• Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, các di tích văn hóa lịch sử.
• Tiêu chuẩn liên quan đến môi trường do các hoạt động khai thác khoáng sản trong lòng đất, trong lòng đại dương.
Theo Luật BVMT thì hiện nay nước ta có trên 200 tiêu chẩn môi trường quy định chất lượng môi trường. Từ những tiêu chuẩn
này chúng ta kiểm định mức độ chuẩn của môi trường cũng như mức độ vi phạm của môi trường.
Quản lý môi trường
Quản lý môi trường là một hoạt động nhằm vào việc tổ chức thực hiện cũng như giám sát các hoạt động bảo vệ, cải tạo và phát
triển các điều kiện môi trường và khai thác sử dụng tài nguyên tối ưu.
Quản lý môi trường được thực hiện bằng tổng hợp các biện pháp luật pháp, chính sách, kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, văn hóa,
giáo dục Các biện pháp này có thể đan xen, phối hợp, tích hợp với nhau tùy theo điều kiện cụ thể của vấn đề đặt ra
nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Có thể nêu tóm tắt, quản lý môi trường là một hoạt động trong lĩnh vực quản lý xã hội; có tác động điều chỉnh các hoạt động
của con người dựa trên sự tiếp cận có hệ thống và các kỹ năng điều phối thông tin đối với các vấn đề môi trường có liên quan
đến con người; xuất phát từ quan điểm sử dụng hợp lý tài nguyên và hướng tới phát triển bền vững.
Công cụ quản lý môi trường
Công cụ quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp hoạt động về luật pháp, chính sách, kinh tế, kỹ thuật và xã hội nhằm
bảo vệ môi trường và 2phát triển bền vững kinh tế - xã hội ( Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh (2000), “Quản lý môi trường
cho sự phát triển bền vững”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội).
Có 3 loại công cụ chính thường được sử dụng nhiều nhất trong quản lý môi trường, đó là: Các công cụ pháp lý, công cụ kinh
tế và các công cụ kỹ thuật, tuyên truyền vận động, thuyết phục.
8
Công cụ kinh tế
Công cụ kinh tế là một nhóm biện pháp trong số nhiều công cụ của quản lý môi trường. Chúng có thể được sử dụng thay thế
hoặc bổ sung cho các công cụ khác của quản lý môi trường. Sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường chính là sử
dụng sức mạnh của thị trường để bảo vệ tài nguyên môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái.
Công cụ kinh tế là những công cụ chính sách nhằm thay đổi chi phí và lợi ích của các hoạt động kinh tế thường xuyên tác
động đến môi trường, ngăn ngừa các tác động tới môi trường (Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường/Cục Môi trường
(2000), Báo cáo của Chính phủ Việt Nam tại hội nghị các bên đối tác trong lĩnh vực môi trường, Hà Nội).
Các công cụ kinh tế gồm các loại thuế, phí đánh vào thu nhập bằng tiền của hoạt động sản xuất kinh doanh. Các công cụ này
chỉ áp dụng có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường ( Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh (2000), “Quản lý môi trường cho sự
phát triển bền vững”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội).
Để hiểu rõ hơn về công cụ kinh tế trong quản lý môi trường, chúng ta sẽ xem xét bản chất, vai trò của công cụ kinh tế trong
quản lý môi trường và một số loại công cụ kinh tế được áp dụng trong quản lý môi trường ở các phần tiếp theo.
Công cụ kinh tế và các công cụ quản lý môi trường khác
Các công cụ kinh tế: là các biện pháp khuyến khích về kinh tế, được xây dựng trên cơ sở các quy luật thị trường và cơ
chế giá, được sử dụng để gây ảnh hưởng đối với hành vi của người gây ô nhiễm ngay từ giai đoạn chuẩn bị cho đến khi thực
hiện quyết định.
Các biện pháp khuyến khích kinh tế cho phép cân nhắc, trù tính kỹ lưỡng giữa cái “được” và cái “mất” của từng phương án
hành động, nhằm tạo điều kiện cho việc lựa chọn phương án có lợi nhất cho môi trường, so với khi không sử dụng công cụ
khuyến khích đó.
Khác với công cụ pháp lý là những điều khoản mà người gây ô nhiễm bắt buộc phải thực hiện, các công cụ kinh tế cho phép
người gây ô nhiễm có nhiều khả năng lựa chọn hơn, linh hoạt hơn trong khi ra các quyết định về các phản ứng cần phải có đối
với các tác động từ bên ngoài. Hiểu theo nghĩa hẹp, các công cụ kinh tế là các khuyến khích về tài chính nhằm làm cho người
gây ô nhiễm tự nguyện thực hiện các hoạt động có lợi hơn cho môi trường. Bởi các công cụ kinh tế được sử dụng đúng mục
đích sẽ giúp cho bản thân những người gây ô nhiễm giảm thiểu những tác hại này, vì quyền lợi của chính họ.
9
Trong trường hợp ngân sách nhà nước còn eo hẹp, nhất là các khoản dành chi cho các mục tiêu môi trường còn chưa lớn, thì
các công cụ kinh tế có thể được coi là các biện pháp vừa giúp tăng các nguồn thu cho ngân sách, vừa giúp đạt được các mục
tiêu môi trường với những chi phí nhỏ hơn. Thông thường các công cụ kinh tế được sử dụng nhằm các mục tiêu sau:
- Tăng nguồn thu cho việc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường;
- Khuyến khích thực hiện tốt hơn các quy định về bảo vệ môi trường;
- Tác động tích cực đến năng lực sáng tạo và khuyến khích tinh thần đổi mới trong các hoạt động bảo vệ môi trường.
Các công cụ pháp lý: là các biện pháp mang tính thể chế (luật, các quy chế, hệ thống các tiêu chuẩn hoặc quy phạm pháp luật
khác) được thực hiện nhằm mục đích gây ảnh hưởng đối với các hoạt động liên quan đến môi trường của các chủ thể kinh tế,
thông qua việc điều chỉnh bằng các quy định pháp luật đối với quy trình sản xuất, hoặc các sản phẩm được sử dụng. Tức là các
biện pháp bắt buộc người gây ô nhiễm phải huỷ bỏ toàn bộ, hoặc hạn chế bớt một số hoạt động gây tổn hại đối với môi trường
trong phạm vi một khoảng thời gian, một vùng lãnh thổ hay một lĩnh vực hoạt động. Các biện pháp cụ thể thường được sử
dụng là cấp phép, xác lập các tiêu chuẩn, khoanh vùng lãnh thổ, các quy định về thưởng, phạt vv Nói cách khác, đây là các
công cụ điều chỉnh trực tiếp đối với quan hệ tương tác giữa con người và môi trường. Các quy định pháp lý này tác động trực
tiếp đến hành vi của các cá nhân, của các tổ chức, đến hoạt động của các nhà máy, công xưởng, các quy trình kỹ thuật, và các
sản phẩm đầu vào, đầu ra của sản xuất.
So với các công cụ chính sách khác, thấy rằng các công cụ luật pháp có những ưu điểm là: ảnh hưởng của chúng đối với môi
trường chắc chắn hơn, trực tiếp hơn; đối với các cơ quan, tổ chức, các thể chế nhà nước.
Các công cụ tuyên truyền, vận động, thuyết phục: là các công cụ nhằm gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đối với chủ
thể gây ô nhiễm, với mục đích nâng cao nhận thức và tinh thần trách nhiệm cá nhân của họ về bảo vệ môi trường khi ra quyết
định, hoặc nhằm vào việc đạt được các quyết định có lợi hơn cho môi trường. Các công cụ này được sử dụng rộng rãi ở nhiều
nước đã được chứng minh là có những tác động rất đáng kể.
Từ trước đến nay, nhiều chính phủ đã có xu hướng thực hiện các chính sách môi trường thông qua các công cụ điều chỉnh
bằng pháp luật, chủ yếu giảm sát và xử phạt khi có vi phạm. Lợi thế của các biện pháp điều chỉnh bằng pháp luật là ở chỗ
chúng cho phép chính quyền có thể trực tiếp kiểm soát hành vi của các đối tượng, giám sát hậu quả của các hành vi này đối
10
với môi trường. Chính vì vậy, các công cụ pháp luật hiện nay vẫn được duy trì để bảo đảm tính bắt buộc đối với việc tuân thủ
các quy định luật pháp. Trong khi đó các công cụ kinh tế và các công cụ tuyên truyền, thuyết phục có thể đảm bảo ở mức cao
hơn tính mềm dẻo, linh hoạt và tính hiệu quả trong việc thực thi các biện pháp bảo vệ môi trường, nhất là trong lĩnh vực kiểm
soát ô nhiễm.
Tuy nhiên, phải nói rằng trên thực tế, không phải lúc nào cũng có thể phân biệt một cách rõ ràng giữa các loại hình công cụ
nói trên. Cụ thể là có nhiều trường hợp, các công cụ được sử dụng vừa mang tính chất của các công cụ kinh tế, lại vừa mang
tính chất của những quy định về luật pháp. Hơn nữa, kinh nghiệm thực tế khi thực hiện các chính sách bảo vệ môi trường của
nhiều nước cho thấy các loại hình công cụ này cũng thường được phối hợp với nhau để đạt mục tiêu cuối cùng là cải thiện chất
lượng môi trường. Chính vì thế các nhà hoạch định chính sách thường không chỉ sử dụng các công cụ kinh tế, các công cụ luật
pháp, hay các biện pháp tuyên truyền, vận động một cách riêng rẽ, mà thường đưa ra các lựa chọn sao cho các loại hình công
cụ này có thể bổ sung cho nhau, hỗ trợ lẫn nhau, để đạt được giải pháp tối ưu cho môi trường.
Bảng 2.1: So sánh một số công cụ kinh tế với công cụ pháp lý áp dụng cho chính sách quản lý môi trường.
Loại công cụ Ưu điểm Nhược điểm
Các công cụ kinh tế
Phí đánh vào người sử dụng Tăng nguồn thu cho các mục tiêu bảo vệ
môi trường
Chi phí thực hiện cao; Dễ dẫn đến việc bán phá
giá hoặc đổ bỏ sản phẩm không đúng quy định.
Phí đánh vào sản phẩm Tăng nguồn thu cho các mục tiêu bảo vệ
môi trường; khuyến khích sản xuất sản
phẩm an toàn
Đòi hỏi phải phát triển các sản phẩm thay thế
Phí hành chính Tăng nguồn thu Hạn chế trong việc áp dụng
11
Thuế cấp sai Khuyến khích sản xuất hoặc tiêu thụ các
sản phẩm có ích cho môi trường; giảm chi
phí hành chính
Khó khăn khi áp dụng
Trợ cấp cho người sản xuất Trực tiếp khuyến khích các hoạt động
chống ô nhiễm; chi phí sản xuất thấp; thúc
đẩy đổi mới công nghệ
Người đóng thuế (chứ không phải người gây ô
nhiễm) phải chịu chi phí; vẫn cho phép các
ngành gây ô nhiễm tồn tại
Chế độ kỹ quỹ - hoàn trả Khuyến khích việc tái chế hoặc sử dụng lại;
có thể lôi cuốn sự tham gia của người dân
Khó quản lý
Các công cụ pháp lý
Tiêu chuẩn chất lượng môi
trường xung quanh
Cung cấp cơ sở để đánh giá mức độ hiệu
quả của các biện pháp kiểm soát ô nhiễm
hiện hành
Đòi hỏi tri thức kỹ thuật cao và phức tạp
Các tiêu chuẩn công nghệ Cho phép có những biện pháp giám sáttối
đa từ phía Chính phủ
Không có sự mềm dẻo trong công nghệ giámsát,
đòi hỏi chi phí giám sát và cưỡng chế cao
Các tiêu chuẩn vận hành Linh hoạt trong công nghệ giám sát Chi phí giám sát và vận hành cao
Các tiêu chuẩn sản phẩm Hạn chế hoặc loại bỏ hẳn các chất ô nhiễm
ngay trước khi vận hành phương tiện
Đòi hỏi phải có những sản phẩm thay thế
Giấy phép Bảo đảm các tiêu chuẩn được tuân thủ từ
trước khi vận hành phương tiện
Chi phí giám sát và thực hiện cao
Giám sát sử dụng đất và nước Ngăn ngừa những sai sót trong việc bố trí Tạo điều kiện cho sự can thiệp quá mức của các
12
địa điểm cơ quan chính quyền
Nguồn: Ngân hàng Thế giới – Chương trình quản lý đô thị, 1993.
2.1.4. Nguyên tắc và công cụ kinh tế áp dụng trong quản lí môi trường
2.1.4.1 Các nguyên tắc cơ bản của việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường được áp dụng dựa trên các nguyên tắc cơ bản đã được quốc tế thừa nhận là
nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” (PPP) và “Người hưởng thụ phải trả tiền” (BPP). (Bộ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường/Cục Môi trường (2000), Báo cáo của Chính phủ Việt Nam tại hội nghị các bên đối tác trong lĩnh vực môi trường,
Hà Nội).
Nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” (PPP): Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền bắt nguồn từ các
sáng kiến do Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đề xuất vào các năm 1972 và 1974. Nguyên tắc PPP “tiêu chuẩn”
năm 1972 cho rằng, những tác nhân gây ô nhiễm phải trả mọi chi phí cho hoạt động kiểm soát và phòng chống ô nhiễm.
Nguyên tắc PPP “mở rộng” năm 1974 cho rằng, các nhân tố gây ô nhiễm ngoài việc phải tuân thủ các chi phí khắc phục ô
nhiễm, còn phải bồi thường cho những người bị thiệt hại do ô nhiễm gây ra. Theo nguyên tắc PPP thì người gây ra ô nhiễm
phải chịu mọi khoản chi phí để thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do chính quyền tổ chức thực hiện.
Nguyên tắc PPP xuất phát từ những luận điểm của Pigou về nền kinh tế phúc lợi. Trong đó, nội dung quan trọng nhất
đối với một nền kinh tế lý tưởng là giá cả các loại hàng hoá và dịch vụ có thể phản ánh đầy đủ các chi phí xã hội, kể cả các chi
phí môi trường. Giá cả phải “phản ánh đúng” về những chi phí sản xuất và tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ. Nếu không, sẽ dẫn
đến việc sử dụng bừa bãi các nguồn tài nguyên, làm cho ô nhiễm trở nên trầm trọng hơn đối với xã hội. Việc buộc người gây ô
nhiễm phải trả tiền là một trong những cách tốt nhất để làm giảm bớt các tác động của ngoại ứng gây tác động xấu đến thị
trường.
13
Nguyên tắc PPP chủ trương sửa chữa “thất bại thị trường” do tính thiếu hoặc không tính chi phí môi trường trong sản
xuất hàng hoá và dịch vụ bằng cách bắt buộc những người gây ô nhiễm phải “tiếp thu” đầy đủ chi phí sản xuất. Cuối cùng
những chi phí này ở một mức độ nhất định, sẽ lại chuyển sang người tiêu dùng thông qua việc tăng giá hàng hoá và dịch vụ.
Nguyên tắc “người hưởng thụ phải trả tiền” (BPP): chủ trương tạo lập một cơ chế nhằm đạt được các mục tiêu về
môi trường. Đối nghịch với việc người trực tiếp gây ô nhiễm phải trả tiền, người hưởng thụ một môi trường đã được cải thiện
cũng phải trả một khoản phí. Có thể hiểu nguyên tắc BPP một cách tổng quát hơn là: tất cả những ai hưởng lợi do có được môi
trường trong lành, không bị ô nhiễm, thì đều phải nộp phí.
Nguyên tắc BPP đưa ra các giải pháp bảo vệ môi trường với một cách nhìn nhận riêng. Thay vì PPP, nguyên tắc BPP
chủ trương rằng việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường cần được hỗ trợ từ phía những người muốn thay đổi hoặc
những người không phải trả giá cho các chất thải gây ô nhiễm môi trường.
Thực hiện nguyên tắc BPP cũng sẽ tạo ra một khoản thu nhập đáng kể. Mức tính phí theo đầu người càng cao và càng
có nhiều người nộp phí, thì số tiền thu được càng nhiều. Số tiền thu được theo nguyên tắc BPP có thể do các cá nhân muốn
bảo vệ môi trường, hoặc do những cá nhân không phải trả tiền cho việc thải ra các chất ô nhiễm trong giá thành sản phẩm. Tuy
nhiên, vì tiền không phải do các công ty gây ô nhiễm trực tiếp trả, nên nguyên tắc BPP không tạo ra bất kỳ một sự khuyến
khích nào đối với việc bảo vệ môi trường một cách trực tiếp.
Về thực chất, nguyên tắc BPP có thể được sử dụng như là một định hướng hỗ trợ nhằm đạt được các mục tiêu môi
trường, cho dù đó là mục tiêu bảo vệ hay là phục hồi môi trường. Nếu mức phí có thể được thu đủ để dành cho các mục tiêu
môi trường, thì lúc đó chính sách này có thể được coi là chính sách có hiệu quả về môi trường. Đích hướng tới của BPP là
nhằm bảo vệ môi trường, do đó nó được công chúng ủng hộ rộng rãi.
Xét về mặt hiệu quả kinh tế, thì nguyên tắc BPP là nguyên tắc có tính phù hợp cao, vì rằng hiệu quả kinh tế chỉ có thể
đạt được, nếu các nguồn lợi được sử dụng ở mức độ tối ưu. Do vậy, nếu việc xác định mức phí, lệ phí môi trường đưa ra ở
mức tối ưu và khoản phí, lệ phí thu được chủ yếu phục vụ cho các biện pháp cụ thể có liên quan đến bảo vệ môi trường thì
nguồn lợi tài nguyên được sử dụng hợp lý, đạt hiệu quả kinh tế cao.
Nếu xét theo tính công bằng kinh tế, thì nguyên tắc BPP không đáp ứng được, bởi lẽ tính công bằng kinh tế đòi hỏi
mọi người phải trả đầy đủ chi phí cho hàng hoá và dịch vụ mà họ sử dụng. Vì các công ty có thể sử dụng nguồn lợi môi trường
14
để sản xuất hàng hoá và dịch vụ, mà họ không phải trả tiền, và ngược lại người khác phải chịu chi phí đó. Như vậy là họ đã
không phải trả đủ chi phí cho hàng hoá và dịch vụ mà họ tiêu thụ trên thị trường (Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường/Cục
Môi trường (2001),“Giới thiệu về công cụ kinh tế và khả năng áp dụng trong quản lý môi trường ở Việt Nam”, Hà Nội).
2.1.4.2 Một số công cụ kinh tế được áp dụng trong quản lý môi trường
- Thuế tài nguyên
Mục đích thuế tài nguyên là nhằm xác lập mức tối đa về sử dụng tài nguyên thiên nhiên, khuyến khích những hành vi đảm bảo
cuộc sống bền vững.
Thuế tài nguyên phải được sử dụng từng bước để tránh làm mất cân bằng kinh tế, phải hợp lý và dễ điều chỉnh có lợi
cho kinh tế xã hội. Nếu muốn giảm suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường, Chính phủ cần tăng mức thuế, nếu muốn tăng
việc làm, giảm thất nghiệp cần giảm mức thuế. Đối với thuế tài nguyên có phân biệt giữa các sản phẩm cùng loại với những
mức độ tác động khác nhau lên môi trường theo hướng càng gây tác hại tới môi trường thuế càng nặng. Thuế tài nguyên gồm
các thuế chủ yếu: thuế sử dụng đất, thuế sử dụng nước, thuế rừng, thuế tiêu thụ năng lượng (Đặng Như Toàn (1996), “Kinh tế
môi trường”, NXB Giáo dục).
- Quỹ môi trường
Nguồn vốn của quỹ môi trường quốc gia là từ ngân sách nhà nước, các khoản thu từ phí, lệ phí môi trường, đóng góp
của nhân dân, của các tổ chức quốc gia, tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ Mục đích chính của quỹ môi trường là tài
trợ kinh phí cho việc phòng tránh, khắc phục, xử lý các vấn đề môi trường, bảo vệ môi trường.
Tiền chi quỹ có thể dưới dạng cho vay (không lãi hoặc lãi xuất thấp, ưu đãi), hỗ trợ không hoàn lại.
Cơ quan điều hành quỹ là ngân hàng, cơ quan tài chính hoặc cơ quan quản lý môi trường (Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002),
“Khoa học Môi trường”, NXB Giáo dục).
- Thuế môi trường
15
Thuế môi trường dùng để khuyến khích , bảo vệ và nâng cao hiệu suất sử dụng các yếu tố môi trường, hạn chế các tác
nhân gây ra ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn quy định. Nguyên tắc đánh thuế: thuế phải lớn hơn chi phí để giải quyết phế thải và
khắc phục ô nhiễm. Biện pháp đánh thuế sẽ gây sức ép, buộc nhà sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu suất sử dụng
nguyên, nhiên liệu hoặc thay thế bằng nguyên, nhiên liệu ít gây ô nhiễm hơn, áp dụng công nghệ không gây ô nhiễm. Các loại
thuế môi trường chủ yếu:
Thuế đối với việc gây ô nhiễm bầu không khí.
Thuế đối với việc gây ô nhiễm tiếng ồn.
Thuế đối với việc gây ô nhiễm các nguồn nước.
Chính phủ các nước còn áp dụng các biện pháp miễn giảm thuế nhằm khuyến khích các hoạt động có lợi cho môi trường như
giảm thuế cho các ngành sản xuất phân bón vi sinh thay cho phân hoá học, các ngành công nghiệp xử lý nước thải, rác thải,
sản xuất “sản phẩm xanh” (Đặng Như Toàn (1996), “Kinh tế môi trường”, NXB Giáo dục).
- Các loại phí và lệ phí
Các loại phí và lệ phí có thể coi là “cái giá” phải trả cho sự gây ô nhiễm. Những người gây ô nhiễm phải chi trả cho
các hoạt động xử lý ô nhiễm, phục hồi môi trường.
Nguồn thu phí đối với việc gây ô nhiễm có thể được sử dụng một phần để chi phí cho các hoạt động như: nghiên cứu
và áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ xử lý ô nhiễm, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường.
Lệ phí môi trường được áp dụng cho các trường hợp như: lệ phí thẩm định. Những loại lệ phí này được thu khi cơ
quan quản lý Nhà nước về môi trường thực hiện nhiệm vụ về bảo vệ môi trường đã được Luật bảo vệ môi trường quy định.
- Phạm vi áp dụng của các loại phí môi trường
+ Phí đánh vào nguồn ô nhiễm
Đây là phí đánh vào các chất gây ô nhiễm được thải ra môi trường nước, khí quyển, đất hoặc hoạt động gây tiếng ồn,
ảnh hưởng tới môi trường xung quanh. Phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm được xác định trên cơ sở khối lượng và hàm lượng
16
(nồng độ) chất ô nhiễm. Biện pháp này có tác dụng khuyến khích các tác nhân gây ô nhiễm giảm lượng chất ô nhiễm thải ra
môi trường và tăng thêm nguồn thu cho ngân sách Chính phủ để sử dụng vào việc cải thiện chất lượng môi trường.
+ Phí sử dụng
Đây là số tiền phải trả do được sử dụng các hệ thống xử lý và cải thiện chất lượng môi trường ở nơi công cộng như: hệ thống
thoát nước, thu gom rác thải… Các khoản thu từ phí này được dùng để góp phần bù đắp chi phí bảo đảm cho hệ thống này
hoạt động. Mục đích chính của loại phí này chủ yếu là nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách Chính phủ và đối tượng thu là
những cá nhân hay đơn vị trực tiếp sử dụng hệ thống dịch vụ công cộng.
+ Phí đánh vào sản phẩm
Đây là loại phí được dùng đối với những loại sản phẩm gây tác hại tới môi trường một khi chúng được sử dụng trong
các quá trình sản xuất, tiêu dùng hay loại bỏ chúng.
Loại phí này được áp dụng đối với những sản phẩm chứa chất độc hại và với khối lượng lớn nhất định, chúng sẽ gây
tác hại lâu dài tới môi trường. Giống như phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm, phí đánh vào sản phẩm nhằm hai mục đích là
khuyến khích giảm ô nhiễm bằng việc giảm sử dụng, tiêu dùng các sản phẩm bị đánh phí và tăng nguồn thu cho Chính phủ.
Phí ô nhiễm môi trường chỉ phát huy tác dụng nếu có được một bộ máy hành chính tốt và hiệu quả, những hiện tượng
như trốn, lậu phí, tham nhũng đối với các khoản phí phải nộp do có sự thông đồng giữa các nhà chức trách về thuế hoặc quan
chức về môi trường với các doanh nghiệp, người gây ô nhiễm sẽ làm cho phí môi trường bị vô hiệu hoá. Ngoài ra, việc xác
định phí ô nhiễm đòi hỏi phải có hệ thống giám sát hữu hiệu đối với ô nhiễm môi trường để giám sát được lượng chất thải,
chất thải gây ô nhiễm, mức độ ô nhiễm… có như vậy mới có cơ sở thực tế để xác định được một cách đúng đắn phí ô nhiễm
môi trường.
- Trợ cấp tài chính
Tiền trợ cấp được dùng để nghiên cứu khoa học, áp dụng kỹ thuật mới về bảo vệ môi trường, quản lý đất rừng, phục
hồi rừng. Hình thức trợ cấp là chi phí đầu tư trực tiếp từ ngân sách, ưu đãi về thuế, tín dụng…
- Các biện pháp tài chính ngăn ngừa ô nhiễm
17
+ Giấy phép chuyển nhượng: Giấy này cho phép được đổ phế thải hay sử dụng một nguồn tài nguyên đến một mức độ nhất
định trước do pháp luật qui định và được chuyển nhượng bằng cách đấu thầu hoặc trên cơ sở quyền sử dụng đã có sẵn. Các
hãng kinh doanh được phép mua và bán giấy phép sử dụng này. Những giấy phép chuyển nhượng này thuận tiện hơn việc
đánh thuế trong trường hợp cần xác lập một mức độ tối đa số rác thải hoặc định mức sử dụng tài nguyên. Bất cứ một hệ thống
giấy phép chuyển nhượng nào cũng phải dựa trên những tiêu chuẩn thích hợp và bền vững đối với chất lượng môi trường xung
quanh và bảo vệ những nguồn tài nguyên tái tạo được. Giấy phép chuyển nhượng sẽ không có hiệu lực nữa khi những phế thải
bị hạn chế đến một tỷ lệ rất nhỏ so với toàn bộ chi phí sản phẩm, lúc đó sẽ không có sự khuyến khích tham gia nữa. Nó cũng
không áp dụng đối với những chất phế thải độc hại vì những thứ này cần phải được xử lý đặc biệt nghiêm ngặt. Nói chung, nó
được coi là một biện pháp tạm thời trong khi chờ để có được những tiêu chuẩn chính xác hơn.
+ Hệ thống đặt cọc – hoàn trả: Công cụ này được sử dụng trong hoạt động bảo vệ môi trường bằng cách quy định các đối
tượng tiêu dùng các sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi trường phải đặt cọc một khoản tiền khi mua hàng, nhằm bảo đảm
cam kết sau khi tiêu dùng sẽ đem sản phẩm đó (hoặc phần còn lại của sản phẩm đó) trả lại cho các đơn vị thu gom phế thải hoặc
tới địa điểm đã quy định để tái chế, tái sử dụng hoặc tiêu hủy theo cách an toàn với môi trường. Nếu thực hiện đúng, người tiêu
dùng sẽ được hoàn trả lại khoản đặt cọc trước đó.
Hệ thống đặt cọc – hoàn trả được coi là một trong những công cụ hiệu quả, được ưu tiên hàng đầu trong những chính sách bảo
vệ môi trường vì nó đảm bảo tính tuần hoàn, khép kín của quy trình sản xuất không xả thải.
Tóm lại công cụ kinh tế là một trong số các công cụ của quản lý môi trường, chúng được sử dụng nhằm tác động tới
chi phí và lợi ích trong hoạt động của tổ chức kinh tế để tạo ra các tác động tới hành vi ứng xử của nhà sản xuất theo hướng có
lợi cho môi trường.
Công cụ kinh tế trong quản lý môi trường được áp dụng dựa trên hai nguyên tắc cơ bản là “người gây ô nhiễm phải
trả tiền” và “người hưởng thụ phải trả tiền”, những nguyên tắc này yêu cầu người gây ô nhiễm phải trả những phí tổn cho khắc
phục môi trường, đền bù cho những người bị hại do ô nhiễm môi trường, đồng thời yêu cầu ngững người được hưởng môi
trường trong lành cũng phải trả một khoản phí để dùng cho việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường.
2.2. Cơ sở thực tiễn
18
2.2.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
2.2.1.1 Kinh nghiệm QLNN về BVMT của Trung Quốc
Là một quốc gia đông dân nhất thế giới (trên 1,3 tỷ người), trong những năm qua, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu
đáng kể trong công tác bảo vệ môi trường. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng, bảo vệ môi trường là việc lớn, làm cho dân
giàu, nước mạnh, đất nước ổn định và liên quan tới an ninh môi trường của nhà nước. Thực chất của bảo vệ môi trường tức là
bảo vệ sản xuất. Phải thiết lập, hoàn thiện cơ chế quyết sách tổng hợp về môi trường và phát triển, cán bộ địa phương phải
đích thân nắm bắt và chịu trách nhiệm về vấn đề môi trường. Tăng cường việc quản lý và giám sát thống nhất môi trường,
tăng thêm vốn đầu tư cho BVMT, khuyến khích công chúng tham gia công tác BVMT. Phải kiên trì song song phòng chống
việc gây ô nhiễm và bảo vệ sinh thái. Kinh nghiệm từ thực tế kiểm soát nạn ô nhiễm môi trường cho thấy: chính quyền Trung
Quốc đã có những biện pháp cứng rắn và kiên quyết đối với những cơ sở sản xuất gây ô nhiễm nghiêm trọng, những năm gần
đây, Trung Quốc đã đóng cửa và xóa sổ hơn 84.000 doanh nghiệp nhỏ gây ô nhiễm nghiêm trọng. Trên 90% trong số 238.000
doanh nghiệp gây ô nhiễm đã đạt tiêu chuẩn chất thải chủ yếu. Đối với các doanh nghiệp, xí nghiệp đăng ký mới, luật pháp
Trung Quốc yêu cầu phải giải trình về các biện pháp chống ô nhiễm môi trường. Đối với hệ thống văn bản pháp luật về
BVMT: hiện nay, Trung Quốc đã ban hành 6 bộ luật về BVMT, 10 văn bản pháp luật về tài nguyên và hơn 30 đạo luật
BVMT, công bố hơn 90 quy tắc BVMT, ấn định 430 tiêu chuẩn BVMT quốc gia, 1.020 văn bản pháp quy BVMT địa phương.
Đối với công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về môi trường: giáo dục BVMT ở Trung Quốc đã được đưa vào nội dung
giáo dục nghĩa vụ 9 năm, hoạt động xây dựng nhà trường xanh và cộng đồng trung cư xanh đã có ảnh hưởng xã hội ngày càng
to lớn. Trung Quốc khuyến khích công chúng tham gia BVMT, đặt đường dây điện thoại tố giác những người có hành vi xâm
phạm môi trường mang số 12369. Tăng cường việc công bố thông tin môi trường, lần lượt dự báo và công bố chất lượng
không khí mỗi ngày của 47 thành phố quan trọng, mỗi tuần thông báo về chất lượng nước mặt sông, ra thông báo về tình hình
chất lượng môi trường cả nước trong 1 năm nhân ngày môi trường thế giới 5/6 hàng năm (Nguyễn Việt Sáng (2006), “Tăng
cường quản lý nhà nước nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm để thúc đẩy phát triển bền vững các làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường đại học Kinh tế quốc dân– Hà Nội).
2.2.1.2 Kinh nghiệm sử dụng công cụ thuế của các nước trong nhóm G8
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong nhóm các nước công nghiệp phát triển (Group 8, gồm Mỹ, Đức, Pháp, Anh,
Nhật, Italia, Canada và Nga) cho thấy họ phải sử dụng một hệ thống tổng thể các chính sách, biện pháp và các công cụ rất đa
19
dạng để thực hiện xử lý rác thải để bảo vệ môi trường, nhưng nhìn chung được phân thành các nhóm: nhóm các biện pháp
hành chính kết hợp với giáo dục và truyền thông môi trường, nhóm các biện pháp kinh tế, tài chính. Trong đó thuế và phí là
hai công cụ quan trọng.
Kinh nghiệm thực tiễn áp dụng thuế và phí BVMT của nhóm G8 đã chỉ ra rằng không có riêng một loại thuế BVMT để áp
dụng chung cho tất cả các loại chất thải (rắn, lỏng, khí). Để xử lý đối với từng loại chất thải, cần sử dụng các công cụ phù hợp,
cụ thể như sau:
Đối với các chất thải rắn và chất thải lỏng, thường là dễ xác định đối tượng phát thải, địa điểm phát thải và thu gom. Bằng các
quy định hành chính, buộc các đối tượng phát thải phải xử lý chất thải trước khi thải ra môi trường. Vì thế, đối với các chất
thải rắn và chất thải lỏng, hiện nay các nước nhóm G8 đều áp dụng thu phí nhằm bù đắp trực tiếp chi phí BVMT.
Đối với các chất thải khí, do nguồn phát thải di động hoặc khó xác định được lượng khí thải, nồng độ các chất độc hại, vì thế
việc xác định cụ thể các đối tượng và căn cứ thu phí là rất khó. Hiện nay chưa thể tính toán xác định được các chi phí cho việc
xử lý, khắc phục các chất thải khí, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến khắc phục các tác hại của khí thải tới môi trường và
sức khỏe con người. Vì vậy, không thể quy định mức thu phí để bù đắp chi phí xử lý đối với khí thải, mà chỉ có thể áp dụng
thu thuế nhằm tác động đến ý thức và hành vi của đối tượng phát thải, từ đó ngăn ngừa và hạn chế lượng khí thải ô nhiễm môi
trường không khí. Từ lý do này, các nước G8 đã xây dựng và áp dụng thuế BVMT không khí đối với khí thải được gọi
là “thuế Cacbon”.
Thuế BVMT không khí – “thuế Cacbon” được áp dụng để giảm thiểu lượng khí CO
2
, các loại khí thải từ sử dụng các thiết bị điện
lạnh (điều hòa, tủ lạnh ) và các chất bụi không khí gây hiệu ứng nhà kính (Nguyễn Phương Mai (2007), “Nghiên cứu giảm thiểu
ô nhiễm môi trường các làng nghề trên địa bàn huyện Từ Sơn – tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Nông
nghiệp, Hà Nội).
2.2.2. Thực tế tại Việt Nam
2.2.2.1 Dự án “Xây dựng mô hình chăn nuôi lợn kết hợp với bảo vệ môi trường cho năng suất cao”
Năm 2006, Viện Chăn nuôi thực hiện Dự án “Xây dựng mô hình chăn nuôi lợn kết hợp với bảo vệ môi trường cho năng suất
cao” đã đạt kết quả tốt trong việc ứng dụng các giải pháp kỹ thuật tổng hợp vào xây dựng mô hình chăn nuôi nông hộ, kết quả
20
đã giảm thiểu hàm lượng một số chỉ tiêu đặc trưng cho ô nhiễm môi trường từ 27,0- 63,45%; giảm tỷ lệ viêm phổi và tiêu chảy
ở lợn con, viêm tử cung ở lợn nái, góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi và giảm giá thành/1 kg lợn con 2 tháng tuổi từ 5,83-
6,34%; mức giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khu vực chuồng nuôi và cải thiện năng suất chăn nuôi; nâng cao thu nhập
cho người chăn nuôi.
2.2.2.2 Dự án “Chương trình Khí sinh học cho Ngành Chăn nuôi Việt Nam 2007 – 2011”
Cục Chăn nuôi, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổ chức hợp tác phát triển Hà Lan (SNV) thực hiện dự
án“Chương trình Khí sinh học cho Ngành Chăn nuôi Việt Nam 2007 – 2011”. Mục tiêu tổng thể của Dự án là góp phần phát
triển nông thôn thông qua việc sử dụng công nghệ khí sinh học, xử lý chất thải chăn nuôi, cung cấp năng lượng sạch và rẻ tiền
cho bà con nông dân, góp phần bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, tạo thêm công ăn việc làm ở nông thôn và giảm thiểu sử dụng
nguyên liệu hoá thạch, giảm hiện tượng phá rừng và giảm phát thải khí nhà kính.
Dự án góp phần khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình phát triển kinh tế trang trại, mở rộng chăn nuôi ở
nhiều loại hình và quy mô, trong đó công nghệ khí sinh học có thể giúp xử lý phân chuồng và chất thải, đồng thời sản xuất ra
nguồn năng lượng tái tạo từ quá trình xử lý chất thải. Ngoài ra, bã thải khí sinh học khi sử dụng đúng cách sẽ loại “phân hữu cơ”
sạch và giàu dinh dưỡng giúp nâng cao năng suất, chất lượng rau, quả và cải tạo đất, kiểm soát sâu bệnh. Dự án gián tiếp góp
phần vào xoá đói giảm nghèo, giảm chi phí lao động nội trợ và tạo việc làm hữu ích cho lao động nông thôn như thợ xây dựng,
bảo hành, lắp đặt công trình, chăn nuôi và làm vườn.
Đến cuối năm 2007, dự án đã hỗ trợ xây dựng trên 37.000 công trình khí sinh học, đào tạo hơn 300 kỹ thuật viên tỉnh
và huyện, 600 đội thợ xây khí sinh học và tổ chức hàng ngàn hội thảo tuyên truyền và tập huấn người sử dụng khí sinh học.
2.2.2.3 Chương trình Năng suất xanh tại Việt Nam
Từ năm 1998, Trung tâm Năng suất Việt Nam (VPC) thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng đã bắt đầu tiến
hành thực hiện dự án điểm về Năng suất xanh thông qua việc thực hiện dự án SPE-GPDP-98-2058 do Tổ chức Năng suất
Châu Á (APO) tài trợ. Chính phủ Việt Nam chỉ đạo Trung tâm Năng suất Việt Nam tiến hành áp dụng dự án Năng suất xanh
tại cộng đồng. Với sự hỗ trợ về tài chính và chuyên gia của APO, sự tham gia và ủng hộ tích cực của Sở Khoa học, Công nghệ
và Môi trường các tỉnh, sự nỗ lực hết mình của các cán bộ VPC, các đơn vị nghiên cứu khoa học, kỹ thuật trong nước, và nhất
là sự ủng hộ, đồng tình của những người đứng đầu địa phương cũng như của người dân nơi thực hiện dự án mà dự án đã được
21
thực hiện rất thành công. Những kết quả thu được từ dự án là rất tích cực, được APO và các tổ chức năng suất quốc gia trong khu
vực đánh giá rất cao. Chương trình thực hiện thành công ở 72 làng nghề trong toàn quốc, đã giúp người dân tại cộng đồng biết
cách tổ chức, quản lý bảo vệ môi trường, triển khai áp dụng tiến bộ kỹ thuật và đóng góp kinh phí cho hoạt động này.
2.2.2.4. Nghiên cứu chất lượng nước thải làng nghề dệt đũi Nam Cao, làng nghề làm bún, bánh Vũ Hội và làng nghề
chạm bạc Đồng Xâm
Viện Địa Chất, Trung tâm Phân tích và Thí nghiệm Địa chất, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đã tiến hành nghiên cứu
chất lượng nước thải ba làng nghề, đó là: làng nghề dệt đũi Nam Cao, làng nghề làm bún, bánh Vũ Hội và làng nghề chạm bạc
Đồng Xâm. Các kết quả phân tích mẫu nước cho thấy nước thải của các làng nghề này đang trong tình trạng bị ô nhiễm
nghiêm trọng bởi các chất hữu cơ, chất kiềm, các kim loại độc hại.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng ô nhiễm này là do các làng nghề chưa đầu tư đúng mức vào khâu xử lý nước thải
trước khi đổ ra môi trường xung quanh.
Qua công tác nghiên cứu cụ thể các tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm góp phần tìm ra các giải pháp cải thiện chất lượng
nước thải cho các làng nghề như sau:
Nước thải của các hộ sau khi thu gom vào một khu vực chung cần phải được xử lý ngay tại đầu nguồn để tiết kiệm chi phí, rồi
sau đó mới được đưa vào hệ thống thoát nước chung của khu vực.
Phát triển hơn nữa công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho các chủ hộ sản xuất, cho công nhân và từng người dân
sống trong khu vực.
Cần có những quy định về xử phạt thật nghiêm đối với những hộ sản xuất nào không chịu xử lý nước thải trước khi đổ ra kênh
mương (Đoàn Thị Thu Trà, Nguyễn Trung Minh, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn thị Phương (2001), “Hiện trạng môi trường
làng nghề ở Thái Bình và một số giải pháp xử lý khả thi những làng nghề bị ô nhiễm nặng”, Viện Địa Chất, Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam, Trung tâm Phân tích và Thí nghiệm Địa chất).
2.2.2.5 Kinh nghiệm của Thái Bình
22
Nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề đang trở nên bức xúc, trong những năm qua, Ủy ban nhân dân
tỉnh Thái Bình đã có những biện pháp hiệu quả để lại những kinh nghiệm quý báu về quản lý nhà nước đối với vấn đề bảo vệ
môi trường, đó là:
Xây dựng quy chế cho các làng nghề truyền thống.
Xây dựng các dự án, quy hoạch tổng thể phát triển các làng nghề.
Đầu tư, bố trí hợp lý cơ sở hạ tầng: giao thông, cấp thoát nước,
Dùng vốn khuyến công lấy từ ngân sách của tỉnh để hỗ trợ cho một số doanh nghiệp sản xuất lớn trong các làng nghề để cải
tiến công nghệ nấu, tẩy nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường.
Xây dựng các dự án áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật giảm ô nhiễm môi trường như dự án “áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật xây dựng mô hình xưởng mạ bạc quy mô nhỏ bảo đảm an toàn vệ sinh môi trường tại xã Lê Lợi, huyện Kiến
Xương” (Nguyễn Phương Mai (2007), “Nghiên cứu giảm thiểu ô nhiễm môi trường các làng nghề trên địa bàn huyện Từ Sơn
– tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Nông nghiệp, Hà Nội).
2.2.2.6 Kinh nghiệm của Quảng Nam
Một kinh nghiệm đáng chú ý được rút ra trong công tác bảo vệ môi trường của Quảng Nam đó là việc đầu tư ngân sách cho
phát triển và giải quyết những vấn đề môi trường bức xúc trong các làng nghề, đồng thời xây dựng mô hình làng nghề gắn với
phát triển khu du lịch và dịch vụ.
Tổng vốn đầu tư hiện nay đã lên tới trên 20 tỷ đồng. Nguồn vốn này được hỗ trợ trong các làng nghề mở rộng phát triển sản
xuất và áp dụng các biện pháp cải thiện môi trường. Nhờ đó mà nhiều cơ sở sản xuất ở các làng nghề đã chủ động đầu tư đổi
mới thiết bị, công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạn chế phát thải vào môi trường. Hiện nay toàn tỉnh có
19/51 làng nghề được công nhận đạt tiêu chuẩn về môi trường, trong đó có 3 làng nghề mộc Kim Bồng (Hội An), ươm tơ dệt
lụa Mỹ Châu (Duy Xuyên) và đúc đồng Phước Kiều (Điện Bàn) được chọn làm thí điểm xây dựng mô hình làng nghề gắn với
phát triển du lịch và dịch vụ với tổng nguồn vốn đầu tư trên 5 tỷ đồng (Nguyễn Phương Mai (2007), “Nghiên cứu giảm thiểu
ô nhiễm môi trường các làng nghề trên địa bàn huyện Từ Sơn – tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Nông
nghiệp, Hà Nội).
23
2.2.2.7. Kinh nghiệm của làng nghề chế biến nông sản thực phẩm Dương Liễu huyện Hoài Đức Thành phố Hà Nội
Đây là làng nghệ chế biến nông sản thực phẩm lớn hàng năm cung cấp hàng ngàn tấn nông sản thực phẩm ra thị trường, các
mặt hàng chủ yếu của làng nghề là bột sắn, bột dong, mạch nha, miến, đậu xanh … Hàng năm làng nghề tiêu thụ hết hơn 300.000
tấn nguyên liệu (khoảng 155 nghìn tấn sắn củ; 60 nghìn tấn dong củ; 140 nghìn tấn bột sắn, dong, bột mì;…) và thải vào môi trường 1,8 triệu
m
3
nước thải; khoảng 167 nghìn tấn bã thải, rác thải, (trung bình khoảng 435 tấn bã thải và hơn 6000 m
3
nước thải/ngày đêm). Trong đó
nguồn gây ô nhiễm lớn nhất là từ chế biến bột sắn và bột dong. Người dân địa phương đã thu gom bã sắn làm thức ăn gia súc, bã dong thì
được ủ làm phân bón, phần còn lại được đóng thành than sinh học.
Phần III: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
3.1.1 Đặc điểm tự nhiên
3.1.1.1 Vị trí địa lý
Tứ Dân là xã phía tây nằm ở phía tây huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam và nằm triền đê tả ngạn sông hồng thuộc
huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên Việt Nam.Tứ Dân cách trung tâm thủ đô Hà Nội 22 km về phía Đông Nam,cách thành phố
Hưng Yên 30 km về phía Tây Bắc, cách thị trấn Khoái Châu 6,5 km về phía tây. Vị trí địa lý của xã Tứ Dân rất thuận lợi cho
việc buôn bán, giao thương với các trung tâm kinh tế xã hội lớn.
- Phía Đông Bắc giáp xã Hàm Tử.
- Phía Tây và Tây Bắc giáp các xã Tự Nhiên, Chương Dương, Lê Lợi thuộc huyện Thường Tín, Hà Nội.
- Phía Đông Nam và Nam giáp xã Đông Kết
- Phía Tây Namgiáp xãTân Châu
Tứ Dân là xã đồng bằng nằm tả ngạn sông Hồng, không rừng, không núi, không biển.
Điểm Cực Bắc 20°50'51" vĩ độ Bắc - thôn Phương Đường.
Điểm Cực Nam 20°49'35" vĩ độ Bắc - thôn Mạn Xuyên.
Điểm Cực Đông 105°56'48" kinh độ Đông - thôn Mạn Xuyên.
24
Điểm Cực Tây 105°54'54" kinh độ Đông - thôn Năm Mẫu.
Điểm Trung tâm xã Tứ Dân - Trường Trung Học Cơ Sở Xã Tứ Dân.
3.1.1.2 Địa hình
Tứ Dân có địa hình khá phức tạp, cao thấp xen kẽ nhau. Vùng ngoài bãi có địa hình bán lòng chảo dốc dần từ dải cao ven bối
xuống vùng trũng ven đê. Vùng nội đồng nhìn chung có hướng dốc từ bắc xuống nam và từ tây sang đông. Thôn ngoài đê :
Năm Mẫu còn lại nằm trong đê sông Hồng .Tứ Dân là điểm đầu của hệ thống bối ven sông Hồng của huyện Khoái Châu qua
các xã Tân Châu, Đông Ninh, Đại Tập và một phần xã Chí Tân. Tứ Dân có 3km tuyến bối ven sông ngăn nước sông bảo vệ
các xã trên và bãi trồng trọt.
3.1.1.3 Khí hậu
Tứ Dân nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). Mùa mưa kéo dài từ cuối tháng
4 đến tháng 10 hàng năm. Lượng mưa trong mùa mưa chiếm tới 70% tổng lượng mưa cả năm.
- Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.450 – 1.650 mm
- Nhiệt độ trung bình: 23,2°C
- Số giờ nắng trong năm: 1.519 giờ
- Độ ẩm tương đối trung bình: 85 – 87%.
3.1.1.4 Tình hình sử dụng đất đai của xã Tứ Dân
Toàn xã có 920 mẫu(1 mẫu = 3.600m2) đất canh tác, trong đó có 450 mẫu ngoài đê.
Số liệu Bảng 3.1 cho thấy tổng diện tích đất tự nhiên của toàn xã là 609,79 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp năm 2009 là
388,12 ha, chiếm 63,65% tổng diện tích đất tự nhiên. Nhìn chung diện tích đất nông nghiệp khá ổn định trong 3 năm, xu
hướng giảm bình quân trong 3 năm giảm 1,47%. Trong đất nông nghiệp chủ yếu là đất sản xuất nông nghiệp, năm 2009 là
362,83ha, chiếm 93,48% tổng diện tích đất nông nghiệp và có xu hướng giảm 3,32%. Đất trồng cây dong giềng có xu hướng
giảm từ 75,9ha năm 2009 xuống còn 33,7ha năm 2011, giảm 55,59%. Diện tích đất trồng cây hoa quả và đất mặt nước nuôi
trồng thủy sản chiếm tỷ trọng lớn và tăng dần trong các năm, đặc biệt là đất trồng cây ăn quả tăng 11,06%. Đất thổ cư và đất
25