Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Những đề văn thường gặp trong các kì thi HS giỏi lớp 9 và vào trường chuyên chọn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.77 KB, 27 trang )

Đề thi chuyên văn
MONDAY, 25. JUNE 2007, 07:37:52
ĐỀ THI TUYỂN SINH THPT NĂM HỌC 2007 - 2008
TP.HCM - năm học 2007-2008
Câu 1 (2 điểm): Nêu hai tình huống thể hiện tình cha con sâu sắc trong truyện ngắn Chiếc lược ngà
(Nguyễn Quang Sáng).
Câu 2 (2 điểm): Nêu tác dụng của việc sử dụng từ láy trong những câu thơ sau:
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nấm đất bên đường,
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Câu 3 (4 điểm): Nêu suy nghĩ của em về ý nghĩa của tình yêu thương. (Học sinh không viết quá một
trang giấy)
Câu 4 (12 điểm): Tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.
GỢI Ý GIẢI ĐỀ THI
Câu 1 (2 điểm):
Học sinh cần nêu rõ hai tình huống chính thể hiện tình cha con sâu sắc trong truyện Chiếc lược ngà:
- Tình huống thứ nhất: Ông Sáu về thăm nhà, gặp con sau tám năm xa cách, nhớ thương nhưng thật trớ
trêu là bé Thu lại không nhận cha. Đến lúc bé nhận ra cha và biểu lộ tình cảm thắm thiết với cha thì ông
Sáu lại phải ra đi.
- Tình huống thứ hai: Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ con vào việc làm
chiếc lược ngà để tặng con nhưng chưa kịp trao món quà ấy cho con thì đã hy sinh.
Câu 2 (2 điểm):
Học sinh cần thể hiện một số yêu cầu sau:
- Chỉ ra những từ láy được sử dụng trong đoạn thơ: nao nao, rầu rầu.
- Nêu tác dụng của việc sử dụng từ láy trên trong đoạn thơ, cụ thể là:
+ Các từ láy nao nao, rầu rầu là những từ láy vốn thường được dùng để diễn tả tâm trạng con người.
+ Trong đoạn thơ, các từ láy nao nao, rầu rầu chẳng những biểu đạt được sắc thái cảnh vật (từ nao nao:
góp phần diễn tả bức tranh mùa xuân thanh nhẹ với dòng nước lững lờ trôi xuôi trong bóng chiều tà; từ
rầu rầu: gợi sự ảm đạm, màu sắc úa tàn của cỏ trên nấm mộ Đạm Tiên) mà còn biểu lộ rõ nét tâm trạng


con người (từ nao nao: thể hiện tâm trạng bâng khuâng, luyến tiếc, xao xuyến về một buổi du xuân, sự
linh cảm về những điều sắp xảy ra - Kiều sẽ gặp nấm mộ Đạm Tiên, gặp Kim Trọng; từ rầu rầu: thể hiện
nét buồn, sự thương cảm của Kiều khi đứng trước nấm mồ vô chủ).
+ Được đảo lên đầu câu thơ, các từ láy trên có tác dụng nhấn mạnh tâm trạng con người - dụng ý của
nhà thơ. Các từ láy nao nao, rầu rầu đã làm bật lên nghệ thuật tả cảnh đặc sắc trong đoạn thơ: cảnh vật
được miêu tả qua tâm trạng con người, nhuốm màu sắc tâm trạng con người.
Câu 3 (4 điểm):
Đề bài yêu cầu học sinh nêu suy nghĩ của bản thân về ý nghĩa của tình yêu thương. Các em có thể trình
bày dưới hình thức một bài viết ngắn, một bức thư (không quá một trang). Dù trình bày dưới hình thức
nào các em cũng cần trình bày được một số ý cơ bản sau:
- Tình yêu thương: tình cảm tốt đẹp nhất của con người. Theo nghĩa hẹp (là tình cảm gia đình, thầy cô,
bè bạn…); theo nghĩa rộng (là tình yêu đồng bào, quê hương, đất nước).
- Những biểu hiện của tình yêu thương: sự quan tâm, chở che, đùm bọc, sự dạy dỗ, ý thức trách nhiệm
đối với mọi người, với quê hương, đất nước.
- Ý nghĩa to lớn của tình yêu thương (ý chính): con người không thể sống mà không có tình yêu thương.
Tình yêu thương tạo nên sự thân ái, đoàn kết trong cộng đồng
- Nêu phương hướng, trách nhiệm của bản thân.
Trong bài viết, học sinh có thể so sánh, liên hệ với thực tế (đặc biệt là liên hệ ý nghĩa của tình yêu
thương với truyền thống nhân đạo của dân tộc) để bài viết thêm sâu sắc và thuyết phục.
1
Câu 4 (12 điểm):
Đây là bốn dạng đề mở. Vì vậy, học sinh có thể trình bày suy nghĩ, cảm nhận của bản thân về tình bà
cháu trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt. Học sinh có thể trình bày bài làm của mình dưới nhiều cách,
song cần đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản sau:
a. Giới thiệu khái quát về tác giả Bằng Việt (thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ chống Mỹ
cứu nước. Thơ Bằng Việt hấp dẫn người đọc bởi sự trong trẻo, mượt mà và chiều sâu triết lý) ; về bài
thơ Bếp lửa (chú ý hoàn cảnh sáng tác).
b. Suy nghĩ, cảm nhận của bản thân về tình bà cháu trong bài thơ:
Tình bà cháu thắm thiết, cảm động được khơi gợi qua hình ảnh bếp lửa.
- Hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm / Một bếp lửa ấp iu nồng

đượm khơi gợi kỷ niệm thời thơ ấu bên người bà. Bếp lửa hiện lên trong kí ức như tình bà ấm áp, như
sự đùm bọc của bà.
- Những suy ngẫm về người bà: đó là những suy ngẫm về cuộc đời nhiều gian khổ nhưng giàu hi sinh,
tần tảo của người bà. Bà là người nhóm lửa, cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và tỏa sáng
trong mỗi gia đình: Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ /Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm / Nhóm bếp lửa ấp
ui nồng đượm… Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa - ngọn lửa của sự
sống, của niềm tin cho các thế hệ sau: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen / Một ngọn lửa, lòng bà luôn
ủ sẵn / Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
- Đứa cháu dù đi xa, vẫn không thể quên bếp lửa của bà, không quên tấm lòng thương yêu đùm bọc của
bà. Bếp lửa ấy đã trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin, nâng bước cháu trên chặng đường dài. Kỳ
diệu hơn, người cháu nhờ hiểu và yêu bà mà thêm hiểu nhân dân, dân tộc mình. Bếp lửa và bà đã trở
thành biểu tượng cho hình ảnh quê hương xứ xở.
c. Đánh giá chung:
- Bài thơ khiến người đọc xúc động bởi tình cảm bà cháu chân thành, thắm thiết. Nhà thơ đã khéo sử
dụng hình ảnh bếp lửa. Đây là là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, có giá trị thẩm mỹ cao: vừa cụ thể,
chân thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng, góp phần thể hiện chiều sâu triết lý của bài thơ.
- Tình cảm yêu quý, biết ơn của người cháu đối với bà trong bài thơ chính là biểu hiện cụ thể của tình
yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương, điểm khởi đầu của tình yêu đất nước.
2
Ánh trăng và
Bến quê
MONDAY, 25. JUNE 2007, 02:35:19
GIÚP CÁC EM ÔN THI THPT MÔN NGỮ VĂN.
Có thể nói Nguyễn Duy và Nguyễn Minh Châu là hai cây bút tiêu biểu cho văn học Việt Nam từ năm 1954
đến nay. Mỗi tác phẩm của họ đều để lại những dấu ấn sâu sắc, những âm vang dậy lên trong ta sự xúc
động chân thành.
Có thể nói Nguyễn Duy và Nguyễn Minh Châu là hai cây bút tiêu biểu cho văn học Việt Nam từ năm 1954
đến nay. Mỗi tác phẩm của họ đều để lại những dấu ấn sâu sắc, những âm vang dậy lên trong ta sự xúc
động chân thành.
Trong văn học thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Nguyễn Duy và Nguyễn Minh Châu đã rất thành công trong

cảm hứng ngợi ca đất nước và nhân dân anh hùng. Từ sau năm 1975 đến nay, đất nước từng bước
chuyển mình để đi đến sự đổi mới toàn diện.
Trên cái nền hiện thực ấy, Nguyễn Duy và Nguyễn Minh Châu đã hướng ngòi bút của mình vào các vấn
đề có tính chân thực cao về đời sống xã hội. Một trong những đề tài được quan tâm là sự tự thức tỉnh, tự
giáo dục để hoàn thiện vẻ đẹp nhân cách.
Đọc tác phẩm “Ánh Trăng” của Nguyễn Duy và “Bến Quê” của Nguyễn Minh Châu, ta cảm nhận sâu sắc
bài học làm người mà mỗi tác giả đã gửi gắm trong hành trình tìm về nguồn cội và cuộc đấu tranh tự vấn
lương tâm để thức tỉnh chính mình.
Đôi khi giữa cuộc sống phồn hoa đô hội, con người với đầy đủ những tiện nghi sinh hoạt hiện đại, sang
trọng, bị cuốn hút bởi nhiều thú vui mới lạ, hấp dẫn dễ đánh mất đi những gì đẹp đẽ thân thương của quá
khứ mà đáng lẽ phải trân trọng nâng niu, yêu quý. Ta đã bắt gặp điều ấy qua “Ánh Trăng”. Bài thơ đã đạt
giải A trong cuộc thi thơ do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. “Ánh Trăng” là lời nhắc nhủ về những tháng
năm gian lao mà anh dũng, nghèo khổ mà nồng ấm tình thương cuả cuộc đời người chiến sĩ gắn bó với
thiên nhiên, với con người bình dị, hiền hậu, Nguyễn Duy đã gợi nhớ một miền ký ức thẳm sâu:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Dù sống ở “đồng”, ở “sông” hay ở “bể” ở “rừng” thì đi đâu nhân vật trử tình “Ta” cũng có “Trăng” bầu bạn.
Quan hệ giữa Vầng Trăng – Ta là quan hệ tri kỉ. Không gian “Đồng” “Sông” “Biển” “Rừng” gợi nhớ quá
khứ gian khổ. Ở đó Vầng Trăng đã trở thành máu thịt của Ta:
“Ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Từ Vầng Trăng Tri kỉ đến Vầng Trăng Tình nghĩa là quá trình gắn bó sâu nặng khẳng định một tình cảm
vững bền tưởng như không bao giờ thay đổi. Thế nhưng, “người ta định rồi chẳng bao giờ người ta làm
được” (lão Hạc – Nam Cao).
Nhân vật trữ tình trong Ánh Trăng đã như thế!
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
3

Vầng Trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Từ Vầng Trăng Tri kỉ, Vầng Trăng Tình nghĩa nay đã biến thành Vầng Trăng người dưng! Qủa là một sự
thay đổi không thể lường trước. Một sự phản bội?
Điều gì đã làm nên sự phản bội đáng xấu hổ ấy? Phải chăng là sự đổi thay về môi trường sống: Từ miền
gian khổ thiếu thốn, khó khăn về nơi đầy đủ, sung sướng? từ giữa thiên nhiên mộc mạc chân chất.
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây ảo”
Về với “Ánh điện cửa gương:…? phải chăng “có mới, nới cũ”? Lối sống mới, cuộc sống mới với bao
nhiêu cái mới đã làm cho Ta quên đi Ánh Trăng quá khứ, đúng là sự tự cắt bỏ đi một phần máu thịt của
chính mình! Thế nhưng, “cuộc đời vốn đa sự, con người vốn đa đoan” chỉ đến khi trong cuộc sống gặp
trắc trở khó khăn thì Ta mới có dịp để nhìn lại chính mình:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Chính trong lúc khó khăn ấy của cuộc sống, Vầng Trăng, lại đột ngột xuất hiện trọn vẹn, thủy chung. Đối
diện với “trăng tròn vành vạnh” là sự đối diện với sự vẹn tròn chân thật, yêu thương và ấm áp. Đối diện
với lòng độ lượng, khoan dung của quá khứ ân tình, ân nghĩa Ta chợt thấy giật mình:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Nhân vât trữ tình trong bài thơ “giật mình” hay chính Ta cũng phải giật mình. Hãy cảnh tỉnh mình khi chưa
quá muộn!
Bài thơ như một lời tự sự của chính tác giả, như một lời tự sự của chính mỗi chúng ta, nhắc nhở ta về
thái độ sống “uống nước, nhớ nguồn”, thủy chung cùng quá khứ.
Cũng là một bài học làm người, Nguyễn Minh Châu qua tác phẩm “Bến Quê” để lại trong ta những trăn
trở, những suy ngẫm sâu xa mang tính triết lý.
“Bến Quê” được đánh giá là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn

đổi mới nền văn học. Có nhà văn cho rằng, ông là người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa
nhất.
Bài học làm người ta bắt gặp trong “Bến Quê” được gởi gắm qua nhân vật trữ tình – tư tưởng: nhân vật
Nhĩ với nhiều nghịch lí trong cuộc đời.
Nhĩ là con người từng trải, có địa vị, đi rộng, biết nhiều. Bao cảnh đẹp chốn gần xa, của ngon vật lạ trên
thế giới anh đều được thưởng thức: “Suốt cả đời Nhĩ đã từng đi không sót một xó xỉnh nào trên trái đất”.
Thế mà những cảnh vật gần gũi nơi bến quê: “Cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông Hồng
đang phô ra trước khuôn cửa sổ gian gác nhà Nhĩ như một thứ vàng thau xen lẫn màu xanh non. Những
màu sắc thân thuộc quá như da thịt như hơi thở của đất mỡ màu” thì mãi cuối cuộc đời khi bị cột chặt
trên giường bệnh Nhĩ mới nhận ra! Cũng như lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên – vợ anh mặc tấm áo vá!
Hình ảnh người vợ tảo tần giàu đức hy sinh làm Nhĩ thật sự cảm động. Đó là tiếng lòng, tiếng đau
thương mà không phải lúc nào anh cũng nghe cũng cảm được. Đến bây giờ Nhĩ mới khám phá ra vẻ đẹp
của bến quê ư! Đến bây giờ Nhĩ mới thấy Liên mặt áo vá ư! Tại sao vậy? Phải chăng vì quá mãi mê
khám phá những gì xa xôi mới mẻ mà anh đã bỏ quên đi điều gần gũi thân thương và rất đỗi thiêng liêng!
Khát vọng cuối cùng của Nhĩ lúc biết mình sắp từ giả cõi đời là muốn đặt chân lên mảnh đất ở bãi bồi
bên kia sông, nơi ấy có bến quê của anh Nhĩ… Anh không thể tự mình làm được điều đó. Bởi vì “nhấc
mình ra được bên ngoài phiến nệm nằm, anh tưởng mình như vừa bay được nửa vòng trái đất”. Anh đã
phải cậy nhờ Tuấn – con trai anh làm điều ấy. Tuấn là sinh viên học tại một trường đại học ở tận một
thành phố phía Nam đã miễn cưỡng nhận lời cha. Thế nhưng, lời cầu xin tha thiết và thái độ khẩn khoản
của người cha ốm đau tội nghiệp đã bị anh bỏ quên ngay sau đó. Anh đã rơi vào trận chơi phá cờ thế
trên vỉa hè và để lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày về bãi bồi phía bên kia, để lỡ mất cơ hội duy nhất
thực hiện ước nguyện của người cha đáng kính!
“Suốt đời Nhĩ cũng từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật không dứt ra được. Không khéo rồi
thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày. Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường
đời thật khó tránh khỏi được những cái điều vòng vèo hoặc chùng mình, vả lại, nó đã thấy có gì hấp dẫn
ở bên kia sông đâu? Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn
4
thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét
tiêu sơ, và cái điều kiện riêng anh khám phá thấy như một niềm say mê pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn,
lời lẽ không bao giờ giải thích hết”. Những suy nghĩ mang tính trải nghiệm của Nhĩ làm cho ta cảm thấy

day dứt trăn trở! Làm sao để thoát khỏi “cái điều vòng vèo chùng chình” trong cuộc sống? Trong cuộc
đời? Bởi vì chính cái điều vòng vèo chùng chình ấy mà Nhĩ đã đau đớn ân hận vào giờ phút cuối cuộc
đời! Và Tuấn – con trai anh rồi sẽ đau đớn ân hận bên linh cữu của cha! Và cả chúng ta nữa, chúng ta
cũng có thể như thế!
Bài học làm người mà Nguyễn Minh Châu gửi gắm trong “Bến Quê” thật là sâu sắc!
“Ánh Trăng” và “Bến Quê” – hai tác phẩm với hai thể loại khác nhau nhưng cả hai là bài học quý giá cho
mỗi chúng ta. Mắc-xim-gor-ki đã từng nói: “Văn học là nhân học”. Học văn là học về con người, học cách
làm người!
Cám ơn Nguyễn Duy, cám ơn Nguyễn Minh Châu bằng văn học nghệ thuật đã cho ta bài học đạo lý làm
người. Đó là hành trang sống của mỗi chúng ta để ta vững bước trên đường đời. Đúng là: “Nghệ thuật
không đứng ngoài trỏ vẻ cho ta đường đi mà nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng ta, khiến ta phải tự bước
lên con đường ấy (Nguyễn Đình Thi, Tuyển tập, Tập II – Nhà Xuất bản Văn học)
Nghệ Thuật Tả Cảnh
của Thi Hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều
Bút pháp của đại thi hào Nguyễn Du được coi là điêu luyện, tuyệt bút trong đó nghệ thuật tả cảnh tả tình
được người đời sau khen ngợi "như máu chảy ở đầu ngọn bút" và "thấu nghìn đời". Xin giới thiệu với các
em bài viết của nhà phê bình Trần Ngọc về Nghệ Thuật Tả Cảnh của Thi Hào Nguyễn Du trong Truyện
Kiều.
Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du là một áng văn chương tuyệt tác trong
lịch sử văn học nước ta. Truyện Kiều có giá trị về mọi mặt : tư tưởng , triết lý , luân lý , tâm lý và văn
chương.
Truyện Kiều vì thế đã trở thành quyển truyện thơ phổ thông nhất nước ta: từ các bậc cao sang quyền quý
, trí thức khoa bảng , văn nhân thi sĩ , cho đến những người bình dân ít học , ai cũng biết đến truyện Kiều
, thích đọc truyện Kiều , ngâm Kiều và thậm chí bói Kiều.
Giá trị tuyệt hảo của truyện Kiều là một điều khẳng định mà trong đó giá trị văn chương lại giữ một địa vị
rất cao. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được bàn đến nghệ thuật tả cảnh của thi hào Nguyễn
Du trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều
Nghệ thuật tả cảnh của ï Nguyễn Du nói chung rất đa dạng , tài tình và phong phú. Chính Nghệ thuật tả
cảnh này đã làm tăng rất nhiều thi vị và giá trị cho truyện Kiều.
1.Lèi t¶ c¶nh diÔn t×nh .

Đây là lối tả cảnh mang tính cách chủ quan , man mác khắp trong truyện Kiều . Cảnh vật bao giờ cũng
bao hàm một nỗi niềm tâm sự của nhân vật chính hoặc phụ ẩn chứa trong đó.Nói một cách khác ,
Nguyễn Du tả cảnh mà thâm ý luôn luôn đem cái cảm xúc của người đối cảnh cho chi phối lên cảnh vật.
Điều này khiến cho cảnh vật trở thành linh hoạt như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào
đó. Chính Nguyễn Du đã tự thú nhận sự chủ quan của mình trong lúc tả cảnh qua hai câu thơ:
“ Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Trong khuynh hướng này , nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du vượt khác hẳn các thi nhân khác , kể cả
những thi sĩ Tây Phương , vốn rất thiện nghệ trong lối tả cảnh ngụ tình . Trong khi các thi sĩ này chỉ đi
một chiều , nghĩa là chỉ tìm những cảnh vật nào phù hợp với tâm trạng của con người thì mới ghi vào ,
5
còn ï Nguyễn Du thì vừa đưa cảnh đến tâm hồn con người, lại đồng thời vừa đưa tâm hồn đến với cảnh ,
tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa cảnh và người , giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai
mà một, tuy một mà hai
Ví dụ như khi chị em Kiều đi lễ Thanh Minh về , tới bên chiếc cầu bắc ngang một dòng sông nhỏ gần mé
Đạm Tiên , thì cả người lẫn cảnh đếu cảm thấy nao nao tấc dạ trong buổi chiều tà :
“Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
“Nao nao” chỉ tâm sự con người, nhưng cũng chỉ sự ngập ngừng lãng đãng của dòng nước trôi dưới
chân cầu.
Hình ảnh một mảnh trăng khuyết soi nghiêng nhìn Kim Trọng khi chàng nửa tỉnh nửa mê, chập chờn với
hình ảnh Kiều sau lần gặp gỡ đầu tiên:
‘Chênh chênh bóng Nguyệt xế mành
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu”
Chàng biếng nhác cả việc sách đèn , để phòng đọc sách lạnh tanh với tiếng gió quạnh hiu phập phồng
qua màn cửa :
Buồng văn hơi giá như đồng
Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan
Mành Tương phất phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình.

Rồi những giờ phút thề ước ba sinh đã qua, khi phải tạm xa nhau thì dòng sông kia bỗng sao trở thành
kẻ khắt khe để chia rẽ duyên tình:
Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia
Một đoạn tả cảnh khác , tình người ẩn sâu trong cảnh vật . Đó là cảnh Kim Trọng sau khi hộ tang cha , về
tìm lại Kiều nơi vườn Lãm Thúy, nhưng người xưa nay còn thấy đâu , chỉ còn cảnh vườn hoang cỏ dại
lạnh lùng dưới ánh trăng.
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời
Lần thứ hai , Kim Trọng tìm về nhà Vương Viên Ngoại để hỏi thăm Kiều thì cảnh nhà bây giờ thật sa sút ,
sân ngoài cỏ hoang mocï dại, ướt dầm dưới cơn mưa , tiêu điều như nỗi buồn tênh trong lòng chàng
Một sân đất cỏ dầm mưa
Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn dường
Khi Kiều ở lầu Ngưng Bích , nhìn qua song cửa thấy cảnh biển chiều hôm , với những cánh buồm xa xa
lại tưởng tới thân phận bọt bèo không định hướng của mình
Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Lúc Kiều theo Mã Giám Sinh về Lâm Tri , thì lòng nàng cũng chẳng thực sự là vui mà buồn hiu hắt như
hàng lau bên vệ đường:
Gió chiều như gợi cơn sầu
Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu
Và khi theo Sở Khanh để trốn Tú Bà , thì cảnh một đêm thu có trăng sáng , nhưng cũng lạnh lùng cũng
chẳng khác chi tâm sự rối bời của Kiều :
Lối mòn cỏ nhạt màu sương
Lòng quê đi một bước đường một đau
Lúc thất vọng não nề , muốn gieo mình xuông sông Tiền Đường cho rũ nợ trần, tâm sự Kiều cũng như
mảnh trăng sắp tàn , chẳng còn chút gì lưu luyến nơi thế gian:
Mảnh trăng đã gác non đoài

Một mình luống những đứng ngồi chưa xong
2.Lèi t¶ ch©n
Ngoài lối tả cảnh diễn tình, Nguyễn Du còn điểm trang cho truyện Kiều bằng nhiều bức tranh tả chân, tả
6
rất thực, và thuần túy là những họa xinh đẹp, không ngụ tình. Những bức tranh bằng thơ có khi tươi tắn,
có khi sầu mộng được viết theo lối văn tinh xảo .Chỉ cần một vài nét phác họa với những điểm chính hiện
hữu .
Đây là cảnh một túp lều tranh bên sông vắng lúc hoàng hôn , vừa giản dị , mộc mạc nhưng cũng rất nên
thơ:
Đánh tranh chụm nóc thảo đường
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Hoặc chỉ một vài nét chấm phá mà người đọc đã hình dung ra cảnh một mái tranh nghèo rách nát tơi tả
theo tháng ngày:
Nhà tranh vách đất tả tơi
Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa
Hoặc bức tranh sơn thủy của một khung trời chiều long lanh phản chiếu trên mặt sông êm ả :
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng
Hay bóng liễu rủ bên cầu và thướt tha soi bóng trên sông tạo nên một khung cảnh đẹp mộng thơ :
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Khi chị em kiều đi viếng mộ Đạm Tiên, thì cảnh vật cũng theo đó đìu hiu ảm đạm : cơn gió đìu hiu lay
động một vài cành lau trên vùng cỏ mờ nhạt theo sương chiều :
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Cảnh thanh tịnh của ngôi chùa Giác Duyên nơi Kiều đã được cứu vớt , mà đường tới thì quanh co theo
giải sông ,có khu rừng lau như cách biệt với cuộc sống rộn rã bên ngoài :
Quanh co theo giải giang tân
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật Đường
Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du tuyệt vời đến nỗi Giáo sư Nghiêm Toản đã có nhận định như sau:

“trong Đoạn Trường tân thanh, luôn luôn có những bức tranh nho nhỏ như những hạt kim cương rải rác
đính trên một tấm thêu nhung” ( Việt Nam văn Học Sử Trích Yếu)
Hãy xem cảnh bóng trăng chênh chếch soi mình trên sóng nước , đẹp lãng đãng như nỗi tưởng nhớ
miên man của Kiều về Kim Trọng sau buổi gặp gỡ lần đầu. Chỉ vài nét đon sơ giữa trăng , nước và sân
nhà đã đủ diễn tả một khung cảnh tuyệt nhã đẹp như một bức tranh :
Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước , cây lồng bóng sân
3.Lèi t¶ c¶nh tîng trng
Nguyễn Du cũng rất nhiều khi phô diễn lối tả cảnh tượng trưng, nghĩa là chỉ dùng một vài nét chấm phá,
thành một nghệ thuật đã đạt đến mức uyển chuyển và tinh tế .
Hãy nghe hai câu thơ :
Vi lô san sát hơi may
Một trời thu để riêng ai lạnh lùng
Đó là một cảnh một rừng vi lô trong mùa thu xám có gió heo may, lành lạnh. Lối tả cảnh này có thể
Nguyễn Du chỉ viết theo nghệ thuật cảm quan của mình chứ không hề nghĩ rằng mình đang tạo ra một lối
vẽ cảnh một cách tượng trưng bằng những vần thơ . Mãi đến hơn một thế kỷ sau ,tức vào thế kỷ 19 , lối
tả cảnh tượng trưng nay mới phát triển thật mau tại Pháp mà các nhà phân tích văn học gọi là
“Symbolists”. Đó là sự nhận định của Giáo sư Hà Như Chi.
Nên để ý nghệ thuật của Nguyễn Du là mang cái gì rộng lớn mênh mông , để rồi đem vào hàm chứa
trong một cái gì nhỏ bé ( luận giải của Giáo Sư Hà Như Chi trong Việt Nam Thi Văn Giảng Luận ) . Trong
hai câu thơ trên, “một trời thu”mang một ý niệm không gian rộng lớn bao la , trong khi bốn chữ “ riêng ai
một mình”lại chỉ một phạm vi nhỏ bé , một tâm tình đơn lẻ cá nhân.
Một vài câu thơ khác cũng mang cùng một khuynh hướng như :
Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng
Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình
Đó là cảnh mặt trời chiều bâng khuâng nghiêng mình soi bóng trước mái hiên nhà để rồi chuyển sang ,
ẩn vào tâm tư riêng của một cõi lòng Kiều cô đơn. ( Cần chú ý thêm là cách dùng điệp ngữ một cách tài
tình khéo léo của Nguyễn Du , với chữ “ nghiêng và “riêng”được lập đi lập lại nhiều lần mà vẫn cảm thấy
hay .)
7

Có khi Nguyễn Du lại dùng một lối tả cảnh tượng trưng ngược lại , nghĩa là đem tấc lòng nhỏ bé của con
người cho tỏa rộng bay hòa vào cái rộng lớn của trời đất.
Hãy xem cảnh Kiều và Thúc Sinh chia tay nhau:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Đó là sự phân ly buồn bã tuy chỉ giữa hai người , nhưng đã làm ảm đạm cả một vùng cảnh vật chung
quanh.
Hay cảnh Kiều thất vọng cuộc đời , mở cửa phòng nhỏ bé để gieo mình xuống dòng bao la của sông Tiền
Đường
Cửa bồng vội mở rèm châu
Trời cao sông rộng một màu bao la.
Nói về nghệ thuật tả cảnh tượng trưng này, giáo sư Dương Quảng Hàm đã viết: “ tả cảnh thì theo lối
phác họa mà cảnh nào cũng linh hoạt.”
4.Lèi t¶ c¶nh dïng mµu s¾c.
Nghệ thuật tả cảnh bằng thơ của Nguyễn Du cũng dùng rất nhiều màu sắc như bức tranh của một người
họa sĩ. Trước tiên phải là ánh sáng , một yếu tố cơ bản, rồi sau đó mới tới các màu sắc với sự c pha chế
sao cho làm nổi được cảnh chính và cảnh phụ .
Hãy xem một cảnh Xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút tả cảnh đầy màu sắc của Nguyễn Du:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thật là một bức tranh màu sắc thanh nhã tuyệt hảo: trên thảm cỏ xanh mướt bao la, nổi những bông hoa
lê trắng tinh . Chỉ có hai màu xanh và trắng như nỗi thanh khiết của tâm hồn chị em Kiều đi dự lễ Thanh
Minh . Ở đây cũng cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. Thay vì “ cành lê điểm một vài bông
hoa trắng” thì Nguyễn Du đã viết:”cành lê trắng điểm một vài bông hoa” . Tất nhiên có thể Nguyễn Du đã
phải đảo chữ chỉ vì tôn trọng luật “bằng trắc” của thơ lục bát , nhưng cũng phải công nhận đó là một lối
đảo chữ tài tình mà không phải ai cũng làm được .
Cũng một cảnh cỏ xanh nữa , nhưng lần này là màu xanh thẫm soi mình cạnh màu nước trong:
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu.
Sè sè nắm đất bên đường

Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Nói chung, Nguyễn Du chú trọng nhiều đến màu sắc của thiên nhiên, đặc biệt là của hoàng hôn ,của cây
cỏ , của trăng và của nước là những màu sắc thi vị, nhưng lại gieo ấn tượng cho một nỗi buồn xa xăm ,
cũng chỉ vì truyện Kiều mang bản chất nhiều nỗi buồn hơn vui.
Giáo sư Hà Như Chi dẵ nhận định về lối dùng màu sắc của cụ Nguyễn Du như sau :” Nguyễn Du khi tả
ánh sáng không những chỉ trực tiếp mô tả ánh sáng ấy , mà lại còn tả một cách gián tiếp , cho ta thấy sự
phản chiếu trên ngọn cỏ , lá cây mặt nước,đỉnh núi ”(Việt NamThiVăn Giảng Luận)
Đúng như thế, hãy xem cảnh khu vườn với hoa lựu nở đỏ như ánh lửa lập lòe trong mùa hạ , khi mùa
nắng đã được đón chào bởi tiếng quyên ca lúc khởi một đêm trăng :
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
5.Lèi dïng ch÷ trang nh· vµ b×nh d©n trong
t¶ c¶nh.
Nguyễn Du là một thi nhân thuộc dòng dõi quan quyền phú quý , nhưng gặp phải cảnh loạn lạc
đổi chúa thay ngôi giữa nhà Lê và nhà Nguyễn , đã phải về quê cũ ở Huyện Tiên Điền để ẩn cư.
Cụ đã trải qua những ngày sống trong phú quý và những ngày sống thanh đạm nơi thôn dã , nên
trong tâm hồn đã thu nhập được hai cảnh sống . Cụ đã hài hòa kết hợp được hai cảnh sống đó ,
nên trong lãnh vực văn chương tả cảnh trong truyện Kiều , cụ có khi dùng những chữ thật trang
nhã quý phái , có khi lại dùng những chữ thật giản dị bình dân.
Những chữ dùng trang nhã quý phái đă được kể nhiều qua những câu thơ ở trên, thiết tưởng chẳng cần
lậïp lại. Bây giờ chúng ta hãy xem những chữ rất bình dân mà Nguyễn Du dùng trong lúc tả cảnh.
8
Ví dụ chị em Kiều du Xuân ra về thì trời vừa ngả bóng hoàng hôn , Nguyễn Du dùng hai chữ “tà tà “ chỉ
một hành động chậm rãi, có thể là chị em Kiều thong thả bước chân ra về, mà cũng có thể chỉ sự xuống
chầm chậm của mặt trời chiều:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Thế rồi gặp cảnh mả Đạm Tiên đắp vội , chỉ còn một nắm đất thấp “ sè sè “ bên đường, chen lẫn vài ngọn
cỏ úa :
Sè sè nắm đấ bên đường

Rầu rầu ngon cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rồi ngọn gió gọi hồn “ ào ào “ thổi tới như muốn nhắn nhủ điều chi :
Ào ào đổ lộc rung cây
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Hay cảnh vườn Thúy khi Kim Trọng trở lại tìm Kiều mà không thấy nàng , chỉ thấy cánh én xập xè bay
liệng trên mặt đất hoang phủ đầy rêu phong:
Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giầy
Và đêm xuống ánh trăng soi “ quạnh quẽ “ lẻ loi nơi vườn vắng, tri âm chỉ còn là những cọng cỏ dại mọc
lưa thưa:
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời
Chính vì Nguyễn Du đã kết hợp được cả hai lối hành văn bác học và bình dân một cách tài tình
nên truyện Kiều đã được tất cả mọi giai tầng trong xã hội đón nhận thưởng thức một cách nhiệt
thành. Những chữ mộc mạc bình dân đã chứng tỏ một bước tiến của nền văn chương Việt Nam
trên con đường xa dần ảnh hưởng của chữ Hán chữ nôm mà ï Nguyễn Du đã tiên phong dấn
bước.
6. Lèi dïng ®iÓn tÝch trong t¶ c¶nh .
Nguyễn Du là một thi hào dùng rất nhiều điển tích trong tác phẩm của mình. Nhưng khác với những nhà
thơ khác , thường dùng điển tích chỉ vì chưa tìm được chữ quốc ngữ thích đáng để thay thế . Nguyễn Du
thì khác , cụ đã dùng điển tích để “ làm câu thơ thêm có ý vị đậm đà mà vẫn lưu loát tự nhiên, không cầu
kỳ thắc mắc “như Giáo sư Hà Như Chi đã nhận định. (Việt Nam Thi Văn Giảng Luận) Nhưng phải nói,
những điển tích mà Nguyễn Du dùng chính đã làm giàu cho nền văn chương quốc ngữ Việt Nam , thậm
chí nhiều điển tích đã trở thành ngôn ngữ hoàn toàn Việt Nam , mà nói tới ai ai cũng hiểu ý nghĩa đại
cương của nó . Chẳng hạn những chữ Biển dâu, Gót sen, Sư tử Hà Đông, kết cỏ ngậm vành , mây mưa,
ba sinh, chắp cánh liền cành v v .
Những điển tích thường nằm nhiều trong những đoạn thơ tả người, tả tình , tả tâm trạng , tả tiếng đàn ,
trải dài trong suốt truyện Kiều .
Riêng trong lãnh vực tả cảnh là chủ điểm của bài này, chúng ta không gặp nhiều điển tích cho lắm .
Nhưng cũng xin đan cử vài ví dụ.

Chẳng hạn như đoạn tả cảnh Kiều nhớ Kim Trọng bên dòng nước trong xanh phản chiếu ánh trăng ngà :
“ Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân ”
“Gương Nga”chỉ mặt trăng , do tích Hằng Nga , mỹ nhân , vợ của Hậu Nghệ , đánh cắp và uống hết
thuốc tiên mà Hậu Nghệ xin được của bà Tây Vương Mẫu . Hằng Nga hóa tiên và bay lên mặt trăng . Từ
đó người ta thường gọi mặt trăng là Gương Nga hay chị Hằng , chị Nguyệt .
Hai câu thơ khác :
Sông Tần một giải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan
Sông Tần lấy từ câu “ dao vọng Tần Xuyên, can trường đoạn tuyệt” ý nói ở xa nhìn nước sông Tần như
nát gan xé ruột . Dương Quan là tên một cửa ải xa ở phía tây nam tỉnh Cam Túc. Cả hai điển tích trên
đều mang ý nghĩa một sự nhớ nhung khi xa cách. Đó là lúc Thúy Kiều tiễn đưa Thúc Sinh trở về thăm vợ
cũ là Hoạn Thư.
Hay:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
9
Ch Khúa Xuõn ly t in tớch Chõu Du b giú ụng cn vic phúng ha t tri Xớch Bớch , nờn i
ng Tc khụng b chỏy , nhng chớnh vỡ ú m ó khúa cht tui xuõn hai ch em tờn i Kiu v Tiu
Kiu ,mt ngi v Tụn Sỏch v mt ngi v Chõu Du
ụng phong bt d Chu lang tin,
ng Tc xuõn thõm ta nh Kiu .
Hai cõu th trờn ng ý t cnh lu Ngng Bớch nh l ni ó khúa kớn tui xuõn ca Thỳy Kiu.
Mt on khỏc khi Kim Trong tr v vn Thỳy tỡm Kiu , nhng nng ó khụng cũn ú, ch cũn
ngn cỏnh hoa o hng thm ang ci nh tin bit giú ụng:
Trc sau no thy búng ngi
Hoa o nm ngoỏi cũn ci giú ụng
Hai cõu ny ly t in tớch nho sinh Thụi H i nh ng , tr v o Hoa Trang thm ngi con
gỏi nm xa ó dõng cho chng nc ung trong lỳc d hi p Thanh. Nhng ngi p ó vng búng
dự cnh c vn cũn y, chỡm ngp trong ngn cỏnh hoa o phe phy di nng xuõn . Thụi H ó viờt

hai cõu th nguyờn vn vn :
Nhan din bt tri h x kh ,
o hoa y cu tiu ụng phong
Kt lun .
Túm li , ngh thut t cnh ca Nguyn Du tht l muụn hỡnh vn trng . Ngh thut y chng khỏc gỡ
ngh thut v mt bc tranh thy mc , nhiu khi ch mt mnh tri , mt ỏnh trng, mt cnh liu , mt
dũng nc hay mt ỏng mõy hong hụn v vv . Ch th thụi , nhng ch dựng v mu sc v cỏch sp
t cnh gn xa tht ti tỡnh ó lụi cun tõm hn ngi c , nh cựng chung hũa vo cnh vt.
Mt iu khụng th chi cói c l Nguyn Du rt yờu cnh thiờn nhiờn nờn ó ban cho cnh thiờn
nhiờn mt hn ngi khin cho khụng ai c th t cnh ca Nguyn Du m khụng khi bi hi tc d
Giỏ tr vn chng t cnh ca Nguyn Du ó t ti mc tinh diu ch riờng mt lónh vc t cnh
khụng thụi, cng truyn Kiu khụng h thn xng ỏng l mt tỏc phm vn chng quc ng hay
nht trong kho tng vn hc ca nc ta.
Hóy nghe hc gi o Duy Anh nhn xột v truyn Kiu Chỳng ta s d yờu chung truyn Kiu
khụng phi nú cú th lm quyn sỏch luõn lý cho i , m ch vỡ trong sỏch y, Nguyn Du ó
dựng nhng li vn k diu rung ng tõm hn ta ( Kho Lun v Kim Võn Kiu)
Tht ỳng nh vy , nhng rung ng trong tõm hn c khi dy khi c truyn Kiu hn l mt iu
khụng ai trong chỳng ta cú th ph nhn bi vỡ chỳng ta ó tng cú nhng cm giỏc ny . Truyn Kiu vỡ
th ó sng mói vi thi gian v khụng gian , t th h ny qua th h khỏc , lỳc no cng c mi
ngi trõn trng v yờu mn .
Hay cnh lung linh ỏnh nc soi chiu mõy vng ca hong hụn:
Long lanh ỏy nc in tri
Thnh xõy khúi bic non phi ỏnh vng.
Mt cnh khỏc m mu sc li bun m m , ch cú mu nõu ca t , mu xanh vng ca c ỳa chen
chõn bờn cỏi thp lố tố ca gũ t m m Tiờn:
Số số nm t bờn ng
Ru ru ngn c na vng na xanh
Câu hỏi 1.
Hình ảnh hàng tre bên lăng Bác và ý nghĩa ẩn dụ của nó
Gợi ý:

Hình ảnh hàng tre bên lăng bác là một hình ảnh rất đẹp và độc đáo
10
Câu 1 (2 điểm)
Cách sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du ở hai câu thơ (miêu tả nỗi lòng Kiều khi rơi vào Lầu xanh)
sau đây có gì đặc biệt? Hãy phân tích ý nghĩa của cách sử dụng ấy:
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
Câu 2 (8 điểm)
Nhân vật Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ) là một phụ nữ đẹp người,
đẹp nết, luôn khát khao được sống êm ấm, hạnh phúc nhưng rồi số phận lại kết cục hết sức bi
thương. Cái chết của nhân vật này có một ý nghĩa phê phán rất sâu sắc, nhằm vào các đối tượng
sau:
a. Chiến tranh phong kiến.
b. Chế độ nam nữ bất bình đẳng của xã hội cũ.
c. Sự ghen tuông mù quáng của người đời (cụ thể là
Trương Sinh).
Bằng hiểu biết của mình, em hãy phân tích, lí giải để thấy rõ đâu là đối tượng phê phán chính của
tác giả.
Đề thi chuyên văn
MONDAY, 25. JUNE 2007, 07:37:52
ĐỀ THI TUYỂN SINH THPT NĂM HỌC 2007 - 2008
TP.HCM - năm học 2007-2008
Câu 1 (2 điểm): Nêu hai tình huống thể hiện tình cha con sâu sắc trong truyện ngắn Chiếc lược ngà
(Nguyễn Quang Sáng).
Câu 2 (2 điểm): Nêu tác dụng của việc sử dụng từ láy trong những câu thơ sau:
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nấm đất bên đường,
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Câu 3 (4 điểm): Nêu suy nghĩ của em về ý nghĩa của tình yêu thương. (Học sinh không viết quá một
trang giấy)
Câu 4 (12 điểm): Tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.
GỢI Ý GIẢI ĐỀ THI
Câu 1 (2 điểm):
Học sinh cần nêu rõ hai tình huống chính thể hiện tình cha con sâu sắc trong truyện Chiếc lược ngà:
- Tình huống thứ nhất: Ông Sáu về thăm nhà, gặp con sau tám năm xa cách, nhớ thương nhưng thật trớ
trêu là bé Thu lại không nhận cha. Đến lúc bé nhận ra cha và biểu lộ tình cảm thắm thiết với cha thì ông
11
Sáu lại phải ra đi.
- Tình huống thứ hai: Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ con vào việc làm
chiếc lược ngà để tặng con nhưng chưa kịp trao món quà ấy cho con thì đã hy sinh.
Câu 2 (2 điểm):
Học sinh cần thể hiện một số yêu cầu sau:
- Chỉ ra những từ láy được sử dụng trong đoạn thơ: nao nao, rầu rầu.
- Nêu tác dụng của việc sử dụng từ láy trên trong đoạn thơ, cụ thể là:
+ Các từ láy nao nao, rầu rầu là những từ láy vốn thường được dùng để diễn tả tâm trạng con người.
+ Trong đoạn thơ, các từ láy nao nao, rầu rầu chẳng những biểu đạt được sắc thái cảnh vật (từ nao nao:
góp phần diễn tả bức tranh mùa xuân thanh nhẹ với dòng nước lững lờ trôi xuôi trong bóng chiều tà; từ
rầu rầu: gợi sự ảm đạm, màu sắc úa tàn của cỏ trên nấm mộ Đạm Tiên) mà còn biểu lộ rõ nét tâm trạng
con người (từ nao nao: thể hiện tâm trạng bâng khuâng, luyến tiếc, xao xuyến về một buổi du xuân, sự
linh cảm về những điều sắp xảy ra - Kiều sẽ gặp nấm mộ Đạm Tiên, gặp Kim Trọng; từ rầu rầu: thể hiện
nét buồn, sự thương cảm của Kiều khi đứng trước nấm mồ vô chủ).
+ Được đảo lên đầu câu thơ, các từ láy trên có tác dụng nhấn mạnh tâm trạng con người - dụng ý của
nhà thơ. Các từ láy nao nao, rầu rầu đã làm bật lên nghệ thuật tả cảnh đặc sắc trong đoạn thơ: cảnh vật
được miêu tả qua tâm trạng con người, nhuốm màu sắc tâm trạng con người.
Câu 3 (4 điểm):
Đề bài yêu cầu học sinh nêu suy nghĩ của bản thân về ý nghĩa của tình yêu thương. Các em có thể trình
bày dưới hình thức một bài viết ngắn, một bức thư (không quá một trang). Dù trình bày dưới hình thức
nào các em cũng cần trình bày được một số ý cơ bản sau:

- Tình yêu thương: tình cảm tốt đẹp nhất của con người. Theo nghĩa hẹp (là tình cảm gia đình, thầy cô,
bè bạn…); theo nghĩa rộng (là tình yêu đồng bào, quê hương, đất nước).
- Những biểu hiện của tình yêu thương: sự quan tâm, chở che, đùm bọc, sự dạy dỗ, ý thức trách nhiệm
đối với mọi người, với quê hương, đất nước.
- Ý nghĩa to lớn của tình yêu thương (ý chính): con người không thể sống mà không có tình yêu thương.
Tình yêu thương tạo nên sự thân ái, đoàn kết trong cộng đồng
- Nêu phương hướng, trách nhiệm của bản thân.
Trong bài viết, học sinh có thể so sánh, liên hệ với thực tế (đặc biệt là liên hệ ý nghĩa của tình yêu
thương với truyền thống nhân đạo của dân tộc) để bài viết thêm sâu sắc và thuyết phục.
Câu 4 (12 điểm):
Đây là bốn dạng đề mở. Vì vậy, học sinh có thể trình bày suy nghĩ, cảm nhận của bản thân về tình bà
cháu trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt. Học sinh có thể trình bày bài làm của mình dưới nhiều cách,
song cần đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản sau:
a. Giới thiệu khái quát về tác giả Bằng Việt (thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ chống Mỹ
cứu nước. Thơ Bằng Việt hấp dẫn người đọc bởi sự trong trẻo, mượt mà và chiều sâu triết lý) ; về bài
thơ Bếp lửa (chú ý hoàn cảnh sáng tác).
b. Suy nghĩ, cảm nhận của bản thân về tình bà cháu trong bài thơ:
Tình bà cháu thắm thiết, cảm động được khơi gợi qua hình ảnh bếp lửa.
- Hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm / Một bếp lửa ấp iu nồng
đượm khơi gợi kỷ niệm thời thơ ấu bên người bà. Bếp lửa hiện lên trong kí ức như tình bà ấm áp, như
sự đùm bọc của bà.
- Những suy ngẫm về người bà: đó là những suy ngẫm về cuộc đời nhiều gian khổ nhưng giàu hi sinh,
tần tảo của người bà. Bà là người nhóm lửa, cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và tỏa sáng
trong mỗi gia đình: Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ /Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm / Nhóm bếp lửa ấp
ui nồng đượm… Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa - ngọn lửa của sự
sống, của niềm tin cho các thế hệ sau: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen / Một ngọn lửa, lòng bà luôn
ủ sẵn / Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
- Đứa cháu dù đi xa, vẫn không thể quên bếp lửa của bà, không quên tấm lòng thương yêu đùm bọc của
bà. Bếp lửa ấy đã trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin, nâng bước cháu trên chặng đường dài. Kỳ
diệu hơn, người cháu nhờ hiểu và yêu bà mà thêm hiểu nhân dân, dân tộc mình. Bếp lửa và bà đã trở

thành biểu tượng cho hình ảnh quê hương xứ xở.
c. Đánh giá chung:
- Bài thơ khiến người đọc xúc động bởi tình cảm bà cháu chân thành, thắm thiết. Nhà thơ đã khéo sử
dụng hình ảnh bếp lửa. Đây là là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, có giá trị thẩm mỹ cao: vừa cụ thể,
chân thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng, góp phần thể hiện chiều sâu triết lý của bài thơ.
12
- Tỡnh cm yờu quý, bit n ca ngi chỏu i vi b trong bi th chớnh l biu hin c th ca tỡnh
yờu thng, s gn bú vi gia ỡnh, quờ hng, im khi u ca tỡnh yờu t nc.
(Theo TTO)
Tác giả Nguyễn Thành Long gọi truyện Lặng lẽ Sa Pa là một bức chân dung. Hãy chứng
minh ý kiến ấy.
Gợi ý :
Nhà văn Nguyễn Thành Long có viết : Nghĩ cho cùng, Lặng lẽ Sa Pa là một bức chân dung,
nh tôi có nói trong đó. Truyện có nhiều nhân vật, nhng nhân vật chính là anh thanh niên một
mình công tác ở trạm khí tợng trên đỉnh Yên Sơn 2600m, và bức chân dung trong truyện chính
là hình ảnh nhân vật ấy. Nhng vì sao tác giả lại gọi truyện của mình là một bức chân dung ?
Thứ nhất, vì tác giả chỉ để cho nhân vật này xuất hiện trong một khoảnh khắc ngắn ngủi là
cuộc gặp gỡ với bác lái xe và hai ngời khách trên chuyến xe - ông hoạ sĩ già và cô kĩ s trẻ. Tác
gỉa không viết một truyện tả tỉ mỉ về cuọc sống và công việc của ngời thanh niên ấy. Những
điều đó chỉ đợc anh ta và bác lái xe kể lại vắn tắt, nó cũng hiện ra qua sự quan sát của hai ngời
khách trong cuộc đến thăm ngắn ngủi của họ ở trạm khí tợng.
Thứ hai, nhân vật anh thanh niên đợc hiện ra qua sự quan sát, cảm nhận của ngời hoạ sĩ trong
truyện và chính ông muốn nắm bắt và thể hiện bằng mọt bức chân dung.
Nhng cần hiểu bức chân dung trong truyện theo nghĩa rộng. Đây không phải là hình dáng,
khuôn mặt bên ngoài của nhân vật mà chủ yếu là hình ảnh cuộc sống làm việc và những suy
nghĩ, tình cảm của nhân vật đợc thẻ hiện và bộc lộ tập trung trong một khoảnh khắc thời gian
ngắn ngủi.
Về hình ảnh ngời thanh niên xem phân tích.

Câu 1.

Trong bài Mùa xuân nho nhỏ, Thanh Hải viết :
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa.
Kết thúc bài Viếng lăng Bác, Viễn Phơng có viết :
Mai về Miền Nam thơng trào nớc mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác.
a. Hai bài thơ của hai tác giả viết về đề tài khác nhau nhng có chung chủ đề. Hãy
chỉ ra t tởng chung đó.
b. Viết một đoạn văn khoảng 5 câu phát biểu cảm nghĩ về 1 trong hai đoạn thơ
trên.
Gợi ý :
a. Khác nhau và giống nhau:
- Khác nhau :
+ Thanh Hải viết về đề tài thiên nhiên đất nớc và khát vọng hoà nhập dâng hiến cho cuộc đời.
+ Viễn Phơng viết về đề tài lãnh tụ, thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng tha thiết
thành kính khi tác giả từ Miền nam vừa đợc giải phóng ra viếng lăng Bác.
- Giống nhau :
+ Cả hai đoạn thơ đều thể hiện ớc nguyện chân thành, tha thiết đợc hoà nhập, cống hiến cho
cuộc đời, cho đất nớc, nhân dân Ước nguyện khiêm nhờng, bình dị muốn đợc góp phần dù
nhỏ bé vào cuộc đời chung.
+ Các nhà thơ đều dùng những hình ảnh đẹp của thiên nhiên là biểu tợng thể hiện ớc nguyện
của mình.
b. HS chọn đoạn thơ để viết nhằm làm nổi bật thể thơ, giọng điệu thơ và ý tởng thể hiện trong
đoạn thơ.
13
- Đoạn thơ của Thanh Hải sử dụng thể thơ 5 chữ gần với các điệu dân ca, đặc biệt là dân ca
miền Trung, có âm hởng nhẹ nhàng tha thiết. Giọng điệu thể hiện đúng tâm trạng và cảm xúc
của tác giả : trầm lắng, hơi trang nghiêm mà tha thiết khi bộc ạch những tâm niệm của mình.
Đoạn thơ thể hiện niềm mong muốn đợc cống hiến cho đời một cách tự nhiên nh con chim
mang đến tiếng hót. Nét riêng trong những câu thơ của Thanh Hải là đè cập đến một vấn đề lớn

: ý nghĩa của đời sống cá nhân trong quan hệ với cộng đồng.
- Đoạn thơ của Viễn Phơng sử dụng thể thơ 8 chữ, nhịp thơ vừa phải với điệp từ muốn làm,
giộng điệu phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc. Đó là giọng điệu vừa nghiêm trang, sâu
lắng, vừa thiết tha th hiện đúng tâm trạng lu luyến của nhà thơ khi phải xa Bác. Tâm trạng lu
luyến của nhà thơ muốn ở mãi bên lăng Bác và chỉ biết gửi tấm lòng mình bằng cách hoá thân
hoà nhập vào những cảnh vật bên lăng : làm con chim cất tiếng hót
Câu 2.
Trong truyện Lặng lẽ Sa Pa, Nguyễn Thành Long có kể về cuộc gặp gỡ với anh thanh niên
làm công tác khí tợng đã khiến cho cô kĩ s trẻ tuổi cảm thấy nh nhận đợc, cùng với bó hoa tơi
anh hái tặng cô một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng.
Hãy phân tích để làm rõ : Vì sao cô gái trong truyện có thể nhận đợc sự háo hức và mơ
mộng từ một anh thanh niên rất đỗi bình thờng, làm một công việc thật đơn điệu giữa chốn
núi rừng quanh năm lặng lẽ.
I/ Tìm hiểu đề
- Nên hiểu háo hức và mơ mộng chính là hai tính cách tâm hồn đáng mến ở nhân vật anh
thanh niên làm công tác khí tợng trong truyện Lặng lẽ Sa Pa, hai đặc điểm dễ gây xúc động
cho ngời khác khi tiếp xúc với anh.
- Những đặc điểm này đợc biểu hiện trong tâm sự chân thành về công việc, về ý nghĩa cuộc
sống, ở nhân vật anh thanh niên và sự suy ngẫm của cô kĩ s. Cần phát hiện để phân tích.
- Tác giả thể hiện nhân vật chính, anh thanh niên, qua suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật cô kĩ
s nông nghiệp mới ra trờng. Đây là bút pháp độc đáo của Nguyễn Thành Long trong truyện
này. Cần phân tích tác dụng của cách viết đó.
II/ Dàn ý đại cơng
A- Mở bài :
- Giới thiệu chủ đề của truyện Lặng lẽ Sa Pa và nghệ thuật xây dựng nhân vật chính của
Nguyễn Thành Long.
- Nêu suy nghĩ của cô kĩ s nông nghiệp (xem đề bài).
B- Thân bài :
1. Anh luôn háo hức và mơ mộng trong công việc
- Tính chất cộng việc có vẻ đơn điệu nhàm chán, lại phải làm một mình.

- Hăng hái nhận nhiệm vụ, làm việc hết mình, luôn vơn lên những kết quả cao hơn.
- Lúc nào cũng mơ ớc, say sa về công việc, gắn bó với nó thắm thiết.
2. Anh luôn háo hức và mơ mộng trong cuộc sống
- Hăm hở, sôi nổi, hồn nhiên khi tiếp xúc với mọi ngời
- Sống đầy mộng mơ : Một mình mà trồng cả một vờn hoa to, trò chuyện với sách nh với bạn,
c xử tinh tế, sống có chiều sâu (nhiều suy ngẫm, triết lí về cuộc đời, về quan hệ với cuộc sống
chiến đấu, sản xuất của cả nớc,)
3. Những đặc điểm đó ở anh không chỉ dễ gây xúc động mà còn khiến ngời khác khi tiếp xúc
với anh phải suy nghĩ.
- Những suy nghĩ, nhận xét của bác lái xe.
- Những suy nghĩ và lời hứa quay trở lại với anh của ông hoạ sĩ.
- Nhất là những suy nghĩ rút ra bài học vào đời của cô gái.
14
4. Cách xây dựng nhân vật có chiều sâu của tác giả
- Ngoài việc để nhân vật tự biểu hiện, còn để nhân vật hiện lên qua suy nghĩ của nhân vật
khác.
- Tác dụng : Sự đánh giá khách quan và sâu sắc.
C- Kết bài
- Cuộc gặp gỡ chỉ trong nửa giờ, đợc nhà văn kể thật dung dị qua những lời tâm sự, suy
ngẫm, đối thoại.
- Qua đó thể hiện thật sinh động nhân vật chín và chủ đề của truyện tự hiện ra nhẹ nhàng, sâu
lắng
Câu 1 .
Vẻ đẹp trong lối sống, tâm hồn của nhân vật anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa của
Nguyễn Thành Long và nhân vật Phơng Định trong Những ngôi sao xa xôi của Nguyễn
Minh Khuê
Gợi ý :
a. Giới thiệu sơlợc vềđề tài viết về những con ngời sống, cống hiến cho dất nớc trong văn học.
Nêu tên 2 tác giả và 2 tác phẩm cùng nhngc vẻ đẹp của anh thanh niên và Phơng Định.
b. Vẻ đẹp của 2 nhân vật trong hai tác phẩm :

* vẻ đẹp trong cách sống :
+ Nhân vật anh thanh niên : trong Lặng lẽ Sa Pa
- Hoàn cảnh sống và làm việc : một mình trên núi cao, quanh năm suốt tháng giữa cây cỏ và
mây núi Sa Pa. Công việc là đo gió, đo ma đo năng, tính mây, đo chấn động mặt đất
- Anh làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, cụ thể, tỉ mỉ, chính xác, đúng giờ ốp thì dù cho
ma tuyết, giá lạnh thế nào anh cũng trở đậy ra ngoài trời làm việc đúng giờ quy định.
- Anh đã vợt qua sự cô đơn vắng vẻ quanh năm suốt tháng trên đỉnh núi cao không một bóng
ngời.
- Sự cởi mở chân thành, quý trọng mọi ngời, khao khát đợc gặp gỡ, trò chuyện với mọi ngời.
- Tổ chức sắp xếp cuộc sống của mình một cách ngăn nắp, chủ động : trồng hoa, nuôi gà, tự
học
+ Cô xung phong Phơng Định:
- Hoàn cảnh sống và chiến đấu: ở trên cao điểm giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đờng Tr-
ờng Sơn, nơi tập trung nhất bom đạn và sự nguy hiểm, ác liệt. Công việc đặc biệt nguy hiểm:
Chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình trong vùng máy bay địch bị bắn phá, ớc lợng
khối lợng đất đá, đếm bom, phá bom.
- Yêu mến đồng đội, yêu mến và cảm phục tất cả những chiến sĩ mà cô gặp trên tuyến đờng Tr-
ờng Sơn.
- Có những đức tính đáng quý, có tinh thần trách nhiệm với công việc, bình tĩnh, tự tin, dũng
cảm
* Vẻ đẹp tâm hồn:
+ Anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa:
- Anh ý thức về công việc của mình và lòng yêu nghề khiến anh thấy đợc công việc thầm lặng
ấy có ích cho cuộc sống, cho mọi ngời.
- Anh đã có suy nghĩ thật đúng và sâu sắc về công việc và những đóng góp của mình rất nhỏ
bé.
- Cảm thấy cuộc sống không cô dơn buồn tẻ vì có một nguồn vui, đó là niềm vui đọc sách mà
lúc nào anh cũng thấy nh có bạn để trò chuyện.
- Là ngời nhân hậu, chân thành, giản dị.
+ Cô thanh niên Phơng Định:

- Có thời học sinh hồn nhiên vô t, vào chiến trờng vẫn giữ đợc sự hồn nhiên.
- Là cô gái nhạy cảm, mơ mộng, thích hát, tinh tế, quan tâm và tự hào về vẻ đẹp của mình.
15
- Kín đáo trong tình cảm và tự trọng về bản thân mình.
Các tác giả miêu tả sinh động, chân thực tâm lí nhân vật làm hiện lên một thế giới tâm hồn
phong phú, trong sáng và đẹp đẽ cao tợng của nhân vật ngay trong hoàn cảnh chiến đấu đầy hi
sinh gian khổ.
c. Đánh giá, liên hệ.
- Hai tác phẩm đều khám phá, phát hiện ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con ngời Việt Nam trong lao
động và trong chiến đấu.
- Vẻ đẹp của các nhân vật đều mang màu sắc lí tởng, họ là hình ảnh của con ngời Việt Nam
mang vẻ đẹp của thời kì lịch sử gian khổ hào hùng và lãng mạn của dân tộc.
Liên hệ với lối sống, tâm hồn của thanh niên trong giai đoạn hiện nay.
Câu 2 :Hình tợng anh bộ đội trong thơ ca thời kỳ chống Pháp và chống Mĩ vừa mang những
phẩm chất chung hết sức đẹp đẽ của ngời lính Cụ Hồ vừa có những nét cá tính riêng khá độc
đáo Qua hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm
Tiến Duật, em hãy làm sáng tỏ nội dung vấn đề trên.
Gợi ý:
Yêu cầu: Biết làm bài văn nghị luận, bố cục rõ ràng, kết cấu hợp lý.
Nội dung:
1. Mở bài: Giới thiệu về ngời lính trong hai bài thơ.
2. Thân bài: Cần làm rõ hai nội dung:
- Những phẩm chất chung hết sức đẹp đẽ của ngời lính Cụ Hồ.
- Những nét riêng độc đáo trong tính cách, tâm hồn của ngời lính.
Nội dung 1:
- Ngời lính chiến đầu cho một lí tởng cao đẹp.
Những con ngời dũng cảm bất chấp khó khăn, coi thờng thiếu thốn, hiểm nguy.
- Những con ngời thắm thiết tình đồng đội.
- Những con ngời lạc quan yêu đời, tâm hồn bay bổng lãng mạn.
Nội dung 2:

- Nét chân chất, mộc mạc của ngời nông dân mặc áo lính (bài thơ Đồng chí).
- Nét ngang tàng, trẻ trung của một thế hệ cầm súng mới (bài thơ về tiểu đội xe không kính).
____________________________________________________________________________
____________ Câu 3. Bài làm văn
Vẻ đẹp và sức mạnh của ngời lao động trớc thiên nhiên vũ trụ trong bài thơ Đoàn thuyền
đánh cá của Huy Cận.
Gợi ý:
A. Phần thân bài
1. Bức tranh thiên nhiên trong ài thơ: đẹp, rộng lớn, lộng lẫy.
* Cảm hứng vũ trụ đã mang đến cho bài thơ những hình ảnh thiên nhiên hoành tráng.
- Cảnh hoàng hôn trên biển và cảnh bình minh đợc đặt ở vị rí mở đầu, kết thúc bài thơ vẽ ra
không gian rộng lớn mà thời gian là nhịp tuần hoàn của vũ trụ.
- Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi: không phải là con thuyền mà là đoàn thuyền tấp nập.
Con thuyền không nhỏ bé mà kì vĩ, hoà nhập với thiên nhiên, vũ trụ.
- Vẻ đẹp rực rỡ của các loại cá, sự giàu có lộng lẫy. Trí tởng tợng của nhà thơ đã chắp cánh
cho hiện thực, làm giàu thêm, đẹp thêmvẻ đẹp của biển khơi.
2. Ngời lao động giữa thiên nhiên cao đẹp
* Con ngời không nhỏ bé trớc thiên nhiên mà ngợc lại, đầy sức mạnh và hoà hợp với thiên
nhiên.
- Con ngời ra khơi với niềm vui trong câu hát.
- Con ngời ra khơi với ớc mơ trong công việc.
- Con ngời cảm nhận đợc vẻ đẹp của biển, biết ơn biển
16
- Ngời lao động vất vả nhng tìm thấy niềm vui, phấn khở trớc thắng lợi.
Hình ảnh ngời lao động đợc sáng tạo với cảm hứng lãng mạn cho thấy niềm vui phơi phới của
họ trong cuộc sống mới. Thiên nhiên và con ngời phóng khoáng, lớn lao. Tình yêu cuộc sống
mới của nhà thơ đợc gửi gắm trong những hình ảnh thơ lãng mạn đó.
B. Về hình thức:
- Bố cục bài chặt chẽ. Biết xây dựng luận điểm khi phân tích tác phẩm thơ.
- Diễn đạt ý mạch lạc, có cảm xúc.

Câu 3. Tập làm văn
Cảm về thế hệ trẻ Việt Nam trong sự nghiệp thống nhất đất nớc qua hai tác phẩm Bài thơ về
tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật và đoạn trích Những Ngôi sao xa xôi của Lê
Minh Khuê.
1. Yêu cầu về nội dung
* Đề bài để một khoảng tơng đối tự do cho ngời viết. Ngời viết có thể phân tích, bình luận
hoặc phát biểu cảm nghĩ về hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu
nớc.
* Bài viết có thể linh hoạt về kiểu bài, nhng cần làm rõ các nội dung :
- Nêu đợc hoàn cảnh của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, ác liệt và cũng đầy hi sinh mất mát
mà những ngời lính, những cô gái thanh niên xung phong phải chịu đựng.
- Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, họ vẫn vơn lên và toả sáng những phẩm chất cao đẹp tuyệt
vời.
+ Họ vẫn giữ đợc vẻ trẻ trung, trong sáng hồn nhiên của tuổi trẻ.
+ Họ luôn dũng cảm đối diện với gian khổ, chấp nhận hi sinh với thái độ hiên ngang, quả
cảm.
+ Họ có tình đồng chí, đồng đội gắn bó thân thiết, sẵn sàng sẻ chia với nhau trong cụoc sống
chiến đấu thiếu thốn và gian khổ, hiểm nguy.
+ Sống có lí tởng, có mục đích, có trách nhiệm, có trái tim yêu nớc nồng nàn, sẵn sàng hi
sinh, cống hiến tuổi xuân cho sự nghiệp giải phóng đất nớc.
+ Tâm hồn đầy lãng mạn, mơ mộng.
- Hình ảnh ngời lính hay các nữ thanh niên xung phong hiện lên trong hai tác phẩm thật chân
thực, sinh động và có sức thuyết phục với ngời đọc.
- Qua hình ảnh của họ, chúng ta càng hiểu thêm lịch sử hào hùng của dân tộc, hiểu và khâm
phục hơn về một thế hệ cha anh :
Xẻ dọc Trờng Sơn đi cứu nớc
Mà lòng phơi phới dậy tơng lai
- Có thể liên hệ với thế hệ trẻ Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng đất nớc hôm nay đang kế
tiếp và phát triển chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thế hệ cha anh đi trớc trong việc giữ gìn
và bảo vệ Tổ quốc.

2. Yêu cầu hình thức:
- Bài viết phải có bố cục 3 phần rõ ràng.
- Lập luận chặt chẽ, lời văn có cảm xúc.
- Tránh sai những lỗi diến đạt thông thờng.
____________________________________________________________
Câu 3. Tập Làm văn
(1) Những cảm nhận tinh tế, sâu sắc của nhà thơ Hữu Thỉnh về sự biến đổi của
đất trời từ cuối hạ sang đầu thu qua bài thơ Sang thu.
(2) Phân tích những cảm nhận tinh tế của nhà thơ Hứu Thỉnh về thời khắc giao
mùa cuối hạ sang đầu thu trong bài thơ Sang thu
Gợi ý:
17
I/ Tìm hiểu đề
- Theo nhà thơ Hữu Thỉnh, bài thơ còn có những suy ngẫm sâu xa về đời ngời, nhng đề bài
này chỉ yêu cầu tập trung phân tích những đặc điểm về sự biến đổi của thiên nhiên đất trời từ
cuối hạ sang đầu mùa thu qua cảm nhận tinh tế của nhà thơ. Ngời viết cần chú ý điều đó.
- Cần phân tích những đặc điểm giao màu đợc thể hiện qua nhiều hình ảnh đặc sắc và gợi
cảm; cùng một số từ ngữ diễn tả trạng thái, cảm giác của nhiều giác quan về sự vật và tâm hồn.
- Bố cục của bài viết nên theo trình tự từng khổ thơ, chú ý cách sắp xếp các dấu hiệu mùa thu
ngày một rõ nét của nhà thơ.
II/ Dàn ý chi tiết
A- Mở bài :
- Đề tài mùa thu trong thi ca xa và nay rất phong phú (ba bài thơ thu nổi tiếng của Nguyễn
Khuyến: Thu vịnh, Thu điếu và Thu ẩm; Đây mùa thu tới của Xuân Diệu,). Cùng với việc tả
mùa thu, cảnh thu, các nhà thơ đều ít nhiều diễn tả những dấu hiệu giao mùa.
- Sang thu của Hữu Thỉnh lại có nét riêng bởi chỉ diễn tả các yếu tố chuyển giao màu. Bài
thơ thoáng nhẹ mà tinh tế.
B- Thân bài:
1. Những dấu hiệu ban đầu của sự giao mùa
- Mở đầu bài thơ bằng từ bỗng nhà thơ nh diễn tả cái hơi giật mình chợt nhận ra dấu hiệu

đầu tiên từ làn gió se (xúc giác: gió mùa thu nhẹ, khô và hơi lạnh) mang theo hơng ổi bắt đầu
chín (khứu giác).
- Hơng ổi ; Phả vào trong gió se : sự cảm nhận thật tinh (vì hơng ổi không nồng nàn mà rất
nhẹ) ; ở đây có sự bất ngờ và cũng có chút khẳng định (phả : toả ra thành luồng); bàng bạc một
hơng vị quê.
- Rồi bằng thị giác : sơng đầu thu nên đến chầm chậm, lại đợc diễn tả rất gợi cảm chùng
chình qua ngõ nh cố ý đợi khiến ngời vô tình cũng phải để ý.
- Tất cả các dấu hiệu đều rất nhẹ nên nhà thơ dờng nh không dám khẳng định mà chỉ thấy
hình nh thu đã về . Chính sự không rõ rệt này mới hấp dẫn mọi ngời.
- Ngoài ra, từ bỗng , từ hình nh còn diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng,

2. Những dấu hiệu mùa thu đã dần dần rõ hơn, cảnh vật tiếp tục đợc cảm nhận bằng nhiều
giác quan.
- Cái ngỡ ngàng ban đầu đã nhờng chỗ cho những cảm nhận tinh tế, cảnh vật mùa thu mới
chớm với những bớc đi rất nhẹ, rất dịu, rất êm.
Sông đợc lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
- Đã hết rồi nớc lũ cuồn cuộn nên dòng sông thong thả trôi (Sông dềnh dàng nh con ngời đợc
lúc th thả).
- Trái lại, những loài chim di c bắt đầu vội vã (cái tinh tế là ở chữ bắt đầu).
- Cảm giác giao mùa đợc diễn tả rất thú vị bằng hình ảnh : có đám mây mùa hạ ; Vắt nửa
mình sang thu cha phải đã hoàn toàn thu để có bầu trời thu xanh ngắt mấy tầng cao (Nguyến
Khuyến) mà vẫn còn mây và vẫn còn tiết hạ, nhng mây đã khô, sáng và trong. Sự giao mùa đợc
hình tợng hoá thành dáng nằm duyên dáng vắt nửa mình sang thu thì thật tuyệt.
3. Tiết thu đã lấn dần thời tiết hạ
- Nắng cuối hạ còn nồng, còn sáng nhng nhạt màu dần ; đã ít đi những cơn ma (ma lớn, ào ạt,
bất ngờ,) ; sấm không nổ to, không xuất hiện đột ngột, có chăng chỉ ầm ì xa xa nên hàng cây
đứng tuổi không bị giật mình (cách nhân hoá giàu sức liên tởng thú vị).

18
- Sự thay đổi rất nhẹ nhàng không gây cảm giác đột ngột, khó chịu đợc diễn tả khéo léo bằng
những từ chỉ mức độ rất tinh tế :vẫn còn, đã vơi, cũng bớt.
C- Kết bài:
- Bài thơ bé nhỏ xinh xắn nhng chứa đựng nhiều điều thú vị, bởi vì mỗi chữ, mỗi dòng là một
phát hiện mới mẻ. Cái tài của nhà thơ là đã khiến bạn đọc liên tiếp nhận ra những đấu hiệu
chuyển mùa thờng vẫn có mà mọi khi ta chẳng cảm nhận thấy. Những dấu hiệu ấy lại đợc diễn
tả rất độc đáo.
- Chứng tỏ một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, một tài thơ đặc sắc.
___________________________________________________________
Câu 3. Tập làm văn
Truyện Chiếc lợc ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một câu chuyện cảm động về
tình cha con sâu nặng
Hãy phân tích đoạn trích đã học để làm rõ ý kiến trên
Gợi ý:
* Đề bài yêu cầu bằng kiến thức và kĩ năng của kiểu bài phân tích một tác phẩm tự sự, ngời
viết chứng minh truyện ngắn Chiếc lợc ngà là một câu chuyện cảm động về tình cha con sâu
nặng trong một hoàn cảnh hết sức éo le.
* Để làm rõ yêu cầu đó bài viết cần có các nội dung sau:
- Hoàn cảnh của câu chuyện
+ Ông Sáu đi kháng chiến, xa nhà nhiều năm. Ông cha đợc biết mặt đứa con gái bé Thu.
+ Tám năm sau, một lần về thăm nhà trớc khi đi nhận công tác mới, ông đợc gặp con, nhng
bé Thu nhất định không nhận ông Sáu là cha.
- Tình cảm của bé Thu dành cho ông Sáu
+ Thoạt đầu, khi thấy ông Sáu vui mừng, vồ vập nhận bé Thu là con, Thu tỏ ra ngờ vực, lảng
tránh và lạnh nhạt, xa cách.
+ Cô bé Thu có thái độ ngang ngạnh, thậm chí hỗn xợc với ông Sáu.
+ Đợc bà ngoại trò chuyện, tìm ra lí do Thu không nhận ông Sáu là cha và khuyên nhủ, cô bé
đã thay đổi thái độ. Trớc khi ông Sáu lên đờng, cô bé đã cất tiếng gọi ba và thể hiện tình cảm
yêu quý một cách mãnh liệt.

Sự ngang ngạnh và hành động ngang ngợc của Thu không đáng trách. Cô bé không nhận ông
Sáu là cha vì cô bé chỉ nhớ một ngời duy nhất là cha, đó là ngời chụp chung ảnh với má. Ông
Sáu có thêm vết thẹo trên má khi bị thơng nên khác với ngời trong ảnh. Đó thực sự là tình yêu
thơng sâu sắc và cảm động mà Thu dành cho ngời cha của mình.
- Tình cảm của ông Sáu dành cho con:
+ Gặp lại con sau bao năm xa cách, ông Sáu hết sức vui mừng.
+ Trớc thái độ lạnh nhạt, ông đã rất đau khổ, cảm thấy bất lực.
+ Có lúc giận quá, không kìm đợc ông đã đánh con, và ân hận mãi vì việc làm đó.
+ Xa con, ông dồn hết tình cảm yêu thơng con vào việc làm chiếc lợc ngà cho con.
+ Trớc khi hi sinh, ông dồn hết sức lực còn lại gửi ngời ạn mang cây lợc cho con gái.
- Tình cảm yêu thơng cha sâu sắc, dứt khoát, rạch ròi đầy cá tính của bé Thu và tình cảm yêu
thơng con sâu nặng của ông Sờu làm cho ngời đọc xúc động và thấm thía nỗi đau thơng mất
mát, éo le do chiến tranh gây ra.
____________________________________________________________
Câu 1. Đoạn văn
Sông đợc lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
(Sang thu Hữu Thỉnh)
19
Viết một đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp của hình ảnh đám mây mùa hạ
trong khổ thơ trên.
Gợi ý :
Đoạn văn có thể gồm các ý:
- Hình ảnh đợc cảm nhận tinh tế kết hợp với trí tởng tợng của nhà thơ
- Diễn tả đám mây mùa hạ còn xót lại trên bầu trời mùa thu trong xanh, mỏng, kéo dài nhẹ
trôi rất hững hờ nh còn vơng vấn, lu luyến không lỡ rời xa, cảnh có hồn.
- Đó là hình ảnh gợi rõ cảm giác giao màu, hạ đã qua mà thu cha đến hẳn
Câu 4. Tập làm văn

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mơi
Dù là khi tóc bạc
Hãy phân tích hai khổ thơ trên để làm rõ tâm nguyện cao đẹp của Thanh Hải : muốn đợc
cống hiến phần tốt đẹp dù nhỏ bé của cuộc đời mình cho cuộc đời chung cho đất n ớc.
Gợi ý:
A- Mở bài :
- Giới thiệu bài thơ Mùa xuân nho nhỏ , và đoạn trích hai khổ thơ trên.
- Giới thiệu nhận xét về hai khổ thơ trên (nh đề bài đã nêu)
B- Thân bài :
* Từ cảm xúc về mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đát nớc, nhà thơ có khát vọng thiết tha,
làm mùa xuân nho nhỏ dâng cho đời.
1. Ước nguyện đợc sống đẹp, sống có ích cho đời.
Muốn làm con chim hót, cành hoa, nốt trầm xao xuyến trong bản hoà ca Phân tích các
hình ảnh này để thấy vẻ đẹp ớc nguyện của Thanh Hải.
- Điệp ngữ Ta làm, Ta nhập vào diễn tả một cách tha thiết khát vọng đợc hoà nhập
vào cuộc sống của đất nớc đợc cống hiến phần tốt đẹp dù nhỏ bé của cuộc đời mình cho
cuộc đời chung cho đất nớc.
- Điều tâm niệm ấy đợc thể hiện một cách chân thành trong những hình ảnh thơ đẹp một cách
tự nhiên giản dị.
+ Con chim hót , một cành hoa , đó là những hình ảnh đẹp của thiên nhiên. ở khổ thơ đầu,
vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên đã đợc miêu tả bằng hình ảnh một bông hoa tím biếc , bằng
âm thanh của tiếng chim chiền chiện hót chi mà vang trời . ở khổ thơ này, tác giả lại mợn
những hình ảnh ấy để nói lên ớc nguyện của mình : đem cuộc đời mình hoà nhập và cống
hiến cho đất nớc.

2. Ước nguyện ấy đợc thể hiện một cách chân thành, giản dị, khiêm nhờng
- Nguyện làm những nhân vật bình thờng nhng có ích cho đời
+ Giữa mùa xuân của đất nớc, tác giả xin làm một con chim hót , làm Một cành hoa. Giữa
bản hoà ca tơi vui, đầy sức sống của cuộc đời, nhà thơ xin làm một nốt trầm xao xuyến .
Điệp từ một diễn tả sự ít ỏi, nhỏ bé, khiêm nhờng.
- ý thức về sự đóng góp của mình: dù nhỏ bé nhng là cái tinh tuý, cao đẹp của tâm hồn mình
góp cho đất nớc.
- Hiểu mối quan hệ riêng chung sâu sắc: chỉ xin làm một nốt trầm khiêm nhờng trong bản
hoà ca chung.
20
+ Những hình ảnh con chim, cành hoa, nốt nhạc trầm cuối cùng dồn vào một hình ảnh thật
đặc sắc: Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời . Tất cả là những hình ảnh ẩn dụ
mang vẻ đẹp giản dị, khiêm nhờng, thể hiện thật xúc động điều tâm niệm chân thành, tha thiết
của nhà thơ.
+ Bằng giọng thơ nhỏ nhẹ, sâu lắng, ớc nguyện của Thanh Hải đã đi vào lòng ngời đọc, và
lung linh trong ánh sáng của một nhân sinh quan cao đẹp: Mỗi ngời phải mang đến cho cuụoc
đời chung một nét đẹp riêng, phải cống hiến cái phần tinh tuý, dù nhỏ bé, cho đất nớc, và phải
không ngừng cống hiến Dù là tuổi hai m ơi Dù là khi tóc bạc . Đó mới là ý nghĩa cao đẹp
của đời ngời.
- Sự thay đổi trong cách xng hô tôi sang ta mang ý nghĩa rộng lớn là ớc nguyện chung
của nhiều ngời.
- Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ đầy bất ngờ thú vị và sâu sắc: đặt cái vô hạn của trời đất bên
cạnh cía hữu hạn của đời ngời, tìm ra mối quan hệ cá nhân và xã hội.
- Ước nguyện dâng hiến ấy thật lặng lẽ, suốt đời, sống đẹp đẽ.
GV mở rộng:
Giữa hai phần của bài thơ có sự chuyển đổi đại từ nhân xng của chủ thể trữ tình tôi sang
ta. Điều này hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên mà đã đợc tác giả sử dụng nh một dụng ý
nghệ thuật, thích hợp với sự chuyển biến của cảm xúc và t tởng trong bài thơ. Chữ tôi trong
câu thơ tôi đa tay tôi hứng ở khổ đầu vừa thể hiện một cái tôi cụ thể rất riêng của nhà thơ
vừa thể hiện sự nâng niu, trân trọng với vẻ đẹp và sự sống của mùa xuân. Nếu thay bằng chữ

ta thì hoàn toàn không thích hợp với nội dung cảm xúc ấy mà chỉ vẽ ra một t thế có vẻ phô tr-
ơng. Còn trong phần sâu, khi bày tỏ điều tâm niệm tha thiết nh một khát vọng đợc dâng hiến
những giá trị tinh tuý của đời mình cho cuộc đời chung thì đại từ ta lại tạo đợc sắc thái trang
trọng, thiêng liêng của một lời nguyện ớc. Hơn nữa, điều tâm nguyện ấy không chỉ là của riêng
nhà thơ, cái tôi của tác giả đã nói thay cho nhiều cái tôi khác, nó nhất thiết phải hoá thân
thành cái ta. Nhng ta mà không hề chung chung vô hình mà nhận ra đợc một giọng riêng nhỏ
nhẹ, khiêm nhờng, đằm thắm của cái tôi Thanh Hải : muốn đợc làm một nốt trầm xao xuyến
trong bản hoà ca một cách lặng lẽ chứ không phô trơng, ồn ào.
* Khổ thơ thể hiện xúc động một vấn đề nhân sinh lớn lao.
Đặt khổ thơ trong mối quan hệ với hoàn cảnh của Thanh Hải lúc ấy, ta càng hiểu hơn vẻ đẹp
tâm hồn nhà thơ.
C- Kết bài :
- Tất cả đều thật đáng yêu, đáng trân trọng, đáng khâm phục.
- Chỉ một mùa xuân nho nhỏ nhng ý nghĩa bài thơ lại rất lớn lao, cao đẹp.
_______________________________________________________________
Hỡnh tng ngi lớnh
trong th khỏng chin chng Phỏp
SATURDAY, 16. JUNE 2007, 07:40:35
Khụng bit bao mựa thu ó trụi qua k t mựa thu Thỏng Tỏm ca dõn tc. Chin tranh ó i qua trờn
mnh t Vit thõn yờu, li vi i mựa thu nay ti p ca hũa bỡnh, hnh phỳc v li vi lũng
ngi bao chin cụng ca nhng chin s mựa thu xa nhng mựa thu ca cuc khỏng chin chng
Phỏp vi nhng con ngi chin trng i chng tic i xanh. H ó dng nờn tng i bt h trong
th ca v ngi chin s Cỏch mng.
Khụng bit bao mựa thu ó trụi qua k t mựa thu Thỏng Tỏm ca dõn tc. Chin tranh ó i qua trờn
mnh t Vit thõn yờu, li vi i mựa thu nay ti p ca hũa bỡnh, hnh phỳc v li vi lũng
ngi bao chin cụng ca nhng chin s mựa thu xa nhng mựa thu ca cuc khỏng chin chng
Phỏp vi nhng con ngi chin trng i chng tic i xanh. H ó dng nờn tng i bt h trong
th ca v ngi chin s Cỏch mng.
21
Kháng chiến bùng nổ, người trai lên đường ra chiến trận theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ

chủ tịch kính yêu – lời kêu gọi của non sông. Lòng người không khỏi luyến tiếc cảnh thanh bình cũ khi
bước chân lên đường vào mặt trận. Đó là mùa thu Hà Nội đầy lưu luyến :
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác heo may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
( Đất Nước – Nguyễn Đình Thi )
Hay một làng quê Kinh Bắc trù phú, tươi đẹp, nay đã chìm trong máu lửa của quân thù :
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.
( Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm )
Quê hương càng tươi đẹp thì lòng người càng xót xa nhớ tiếc và quyết ra đi để dẹp tan kẻ thù giày xéo
quê hương. Cảm hứng lãng mạn với khí khái “tráng sĩ” là cảm hứng chủ đạo về hình tượng người lính
những ngày đầu cách mạng. Người chiến sĩ mang dáng dấp của chàng Kinh Kha năm xưa khi bước
chân vào mặt trận :
Thôi hãy lên đường tráng sĩ ơi ?
Quê hương mong đợi đã bao đời
Biên thùy nghe dậy niềm ai oán
Gươm hận mài chưa ? Khát máu rồi.
( Biết gửi đưa ai – báo Vệ Quốc )
Đó là tâm trạng của những ngày đầu xung trận còn vương lại chút mơ mộng của thời thanh bình đã mất :
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
Mái đầu xanh thề mãi đến khi già

Phơi nắng gió hoa ngàn cỏ dại.
( Ngày về – Chính Hữu )
Họ đi vào chiến trường với những hình ảnh đẹp nhất, anh dũng nhất và cũng đầy chất lãng mạn nhất :
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
( Tây Tiến – Quang Dũng )
Đó là hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân đầy gian khổ : ăn đói, mặc rét, sốt rét đến xanh
22
da trụi tóc. Người chiến sĩ vô danh ấy vẫn tiếp bước trên đường với lòng yêu nước khôn nguôi, cho dù có
phải nằm lại nơi chiến trường :
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Aùo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành. ( Tây Tiến – Quang Dũng )
Nhưng rồi bom đạn, chết chóc, chiến tranh ngày càng ác liệt hơn. Hiện thực cuộc sống đã khiến cho họ
không còn những mơ mộng của ngày đầu nhập ngũ. Hình tượng thơ có sự vận động đi từ lãng mạn đến
hiện thực. Điều đó cũng là điều phù hợp với những vận động biến đổi trong tâm hồn người chiến sĩ. Như
chính Chính Hữu tâm sự : “ Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, là chính trị viên, hằng ngày tôi phải chăm
nom chôn cất những đồng đội của tôi đã hy sinh và tôi có nhận xét : bạn tôi, không có người nào chết
trong động tác nằm ngủ, trong tư thế nghỉ ngơi. Họ đều hy sinh trong khi đang bắn, hoặc ôm bộc phá
xông lên. Nhận xét này đã trở thành sự day dứt, âm ỉ, nó trở thành một vấn đề trách nhiệm. Và một lúc
nào đó, từ trong kỷ niệm, một cách bất ngờ nhất, nó đã hiện lên thành những câu trọn vẹn :
Bạn ta đó
Chết trên dây thép ba từng
Một bàn tay chưa rời báng súng
Chân lưng chừng nửa bước xung phong
Oâi những con người mỗi khi nằm xuống
Vẫn nằm trong tư thế tiến công

Đó là hình ảnh đeo đuổi suốt đời tôi về những cái chết, chỉ có tác dụng thôi thúc chúng ta đứng lên”. Có
lẽ vì vậy mà hình ảnh người chiến sĩ không còn gắn với “bụi trường chinh” và “áo hào hoa” nữa, mà đã
trở thành người Vệ quốc quân trong tình đồng chí, đồng đội, cùng chiến đấu vì lòng yêu tổ quốc :
Anh với tôi, đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu gác bên đầu,
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỷ
Đồng chí ! ( Đồng chí – Chính Hữu )
Từ khắp mọi miền đất nước, những con người yêu nước tụ hội với nhau trong cuộc kháng chiến gian
khổ. Họ là những thanh niên trí thức Hà thành, lên đường theo tiếng gọi nhập ngũ :
Kháng chiến bùng lên biệt thủ đô
Lên đường dẻo bước khoác ba lô ( Tự thuật – Tú Mỡ )
Hay những người nông dân chân chất, “chưa biết chữ”, “súng bắn chưa quen”, “quân sự mươi bài”. Tất
cả người con đất Việt đã đến và chiến đấu vì đất mẹ yêu thương :
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài,
Lòng vẫn cười vui kháng chiến. ( Nhớ – Hồng Nguyên )
Phần lớn họ ra đi từ những làng quê nghèo khó :
Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá ( Đồng chí – Chính Hữu )
Họ bỏ lại đó là cả quãng đời chìm trong đói khổ, là cuộc sống nông thôn đầu tắt mặt tối mà không đủ no :
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay ( Đồng chí – Chính Hữu )
Hay :
Mái lều gianh,
Tiếng mõ đêm trường,

Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya ( Nhớ – Hồng Nguyên )
Bản thân họ thì thiếu thốn, cực khổ trăm bề, bệnh tật khổ sở :
23
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán đẫm mồ hôi
Aùo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt già
Chân không giày ( Đồng chí – Chính Hữu )
Ngay cả đến trang bị họ cũng phải “ Lột sắt đường tàu, Rèn thêm đao kiếm”. Từ chỗ nghèo khó họ trở
thành những người tri kỷ, cùng chung chí hướng “cùng nhau chung sống căm thù giết Tây”. Họ chia nhau
từng hơi ấm đôi bàn tay ( Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ) rồi lại :
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa ( Nhớ – Hồng Nguyên )
Những mất mát của họ thật là to lớn. Không biết bao nhiêu đồng đội của họ đã lần lượt hy sinh, vĩnh viễn
nằm lại chiến trường :
Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ ( Viếng bạn – Hoàng Lộc )
Kể sao cho hết nỗi đau của người chiến sĩ khi hay tin những người thân yêu của mình đã mất dưới bom
đạn của kẻ thù. Tuy có bi thảm, đau thương, nhưng chính điều đó lại càng tố cáo mạnh mẽ hơn tội ác
của kẻ thù, càng nung nấu mãnh liệt hơn ý chí “căm thù giặc” nơi người Vệ quốc quân. Hình ảnh của
những người em gái, những người yêu mãi mãi nằm xuống đi vào thơ ca như những hình ảnh xúc động
nhất. Đó là người vợ trẻ nơi hậu phương ngã xuống :
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người em nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng

Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương…tàn lạnh vây quanh. ( Màu tím hoa sim – Hữu Loan )
Hay người em gái chết anh dũng nơi quê nhà :
Mới đến đầu ao, tin sét đánh
Giặt giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thủy chung. ( Núi đôi – Vũ Cao )
Đó là nỗi căm hận họ đành chôn kín vào lòng :
Ai biến tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi : em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng. ( Núi đôi – Vũ Cao )
Những đau thương mất mát đó như tiếp thêm sức mạnh cho họ nơi chiến tuyến để tìm câu trả lời cho
những đau thương của họ và cả dân tộc. Họ lao vào chiến dịch với thế tiến công như nước vỡ bờ như
Nguyễn Đình Thi kể lại : “Hình ảnh những đoàn dân công tới tấp đến chiến trường, bộ đội ào ào đi vào
chiến dịch gợi lên một cái gì rất mạnh mẽ của không khí tức nước tràn bờ
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ ( Đất Nước – Nguyễn Đình Thi )
Tôi viết : “Người lên như nước vỡ bờ!” chính là nói đến sức mạnh ấy của quân đội ta, của quần chúng
cách mạng”. Đó là khí thế hừng hực đấu tranh của những ngày khói lửa :
Những đồng chí, thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chè lưng cứu pháo
Nát chân nhắm mắt còn ôm
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định, mở đường, cho xe ta lên chiến trường tiếp viện. ( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu )
Những ngày chiến đấu anh dũng đã bộc lộ một cách rực rỡ hình ảnh cao đẹp của người chiến sĩ cụ Hồ:
kiên trì vượt qua mọi nguy hiểm, anh dũng quên mình vì nhiệm vụ. Càng gian khổ, đau thương càng thắp

sáng trong họ ngọn lửa nhiệt tình cách mạng, họ vẫn tiếp tục chiến đấu với tâm thế lạc quan, tin tưởng
24
vào thắng lợi trước mắt của dân tộc. Hình tượng người lính càng về giai đoạn sau càng tỏa sáng vẻ đẹp
của một quân đội trưởng thành về việc quân cũng như càng thể hiện tinh thần “vì nước quên thân” của
anh bộ đội. Đó là cuộc sống người lính chịu cực khổ nơi chốn rừng sâu vẫn bám trụ với làng bản, với
dân, giữ vững tinh thần của người dân sau khi sự tàn phá của giặc đã đi qua :
Có đêm gió bấc lạnh lùng
Áo quần rách nát lá dùng che thân
Khó khăn đau ốm muôn phần
Lấy đâu đủ thuốc mặc dần bệnh nguôi
Có phen giặc chạy tơi bời
Rừng sâu đói rét không người hỏi han
Đến nay họ về đây
Giữ vừng miền núi Cấm
Thổ phỉ quét xong rồi
Đồn Tây xa chục dặm
Kiến thiết lại bản xóm
Bị giặc đốt tan tành. ( Lên Cấm Sơn – Thôi Hữu )
Sống kham khổ, bệnh tật nhưng họ vẫn vui, vẫn đem lại nhịp sống mới cho làng bản. Và họ vẫn lạc quan
trên đường hành quân :
Một tiếng chim kêu sáng cả rừng
Lên đường chân lại nối theo chân
Đêm qua đầu chụm, run bên đá
Nay lại cùng mây sưởi nắng hừng. ( Từ đêm 19 – Khương Hữu Dụng )
Họ vẫn cùng nhau vui cười rộn rã khi kể chuyện riêng tư. Sự lạc quan trở thành bản lĩnh Cách mạng giúp
người chiến sĩ vượt lên trên tất cả để chiến thắng :
Đằng nớ vợ chưa !
Đằng nớ ?
Tớ còn chờ độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp

Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu. ( Nhớ – Hồng Nguyên )
Bên cạnh tình đồng chí, đồng đội thì tình quân dân chính là nguồn nghị lực khiến họ thêm vững bước
chiến đấu với quân thù. Hình ảnh người lính trở nên gần gũi với đời sống qua tình quân dân, hoàn thành
chiến lược của quân đội ta trong công tác dân vận “đi dân nhớ, ở dân thương”. Người dân đón tiếp Vệ
quốc quân như những người thân đi xa trở về
Bóng tre che mát đường làng
Một hàng quân bước hai hàng người vui ( Quân về – Nguyễn Ngọc Tấn )
Dân làng đón tiếp họ với tấm lòng của người dân nghèo, với “bát nước chè xanh”, đạm bạc, đơn sơ mà
thắm đượm nghĩa tình :
Các anh về
Xôn xao làng tôi bé nhỏ
Nhà lá đơn sơ,
Tấm lòng rộng mở
Nồi cơm nấu dở
Bát nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau. ( Bao giờ trở lại – Hoàng Trung Thông )
Từ tấm lòng bà mẹ chở che cho bộ đội :
Bầm yêu con, bầm yêu đồng chí
Bầm quý con, bầm quý anh em. ( Bầm ơi – Tố Hữu )
Đến sự yêu quý của cô gái :
Nếu không nhận hết bánh này
Các anh cũng nhận một hai cái dùm. ( Xếp bánh phồng – Nguyễn Hiêm )
Tất cả tình cảm máu thịt gắn bó đó đã theo các anh trong suốt đường ra mặt trận. Hình tượng người lính
trong thơ kháng chiến thể hiện được vẻ đẹp của cuộc sống Cách mạng đang chuyển biến đi lên.
Hình tượng người lính trong thơ kháng chiến chống Pháp là một hình tượng đẹp trong văn học Việt Nam,
đó là bước tiếp nối với hình tượng sĩ phu yêu nước trong quá khứ, và là hình tượng mở đầu cho hình
tượng chiến sĩ giải phóng quân kiên cường trong cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này. Đó là những
tượng đài bất hủ của lòng yêu nước và tự hào dân tộc của nhân dân ta. Cũng xin mượn hình tượng
25

×