Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh ở phần văn học Việt Nam hiện đại lớp 9 theo hướng tích cực và sáng tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 77 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM







HOÀNG THỊ HIỀN



ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
HỌC TẬP CỦA HỌC SINH Ở PHẦN VĂN HỌC
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI LỚP 9 THEO HƯỚNG
TÍCH CỰC VÀ SÁNG TẠO











LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC












Thái Nguyên - 2013

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM







HOÀNG THỊ HIỀN





ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
HỌC TẬP CỦA HỌC SINH Ở PHẦN VĂN HỌC
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI LỚP 9 THEO HƯỚNG
TÍCH CỰC VÀ SÁNG TẠO




Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học Văn - Tiếng Việt


MÃ SỐ: 60.14.01.11




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC





Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Huy Quát







Thái Nguyên - 2013


i

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất cứ công trình nào khác.


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 8 năm 2013
Tác giả luận văn






Hoàng Thị Hiền




Xác nhận của giáo viên hƣớng dẫn Xác nhận của khoa Văn










PGS. TS. Nguyễn Huy Quát


ii

LỜI CẢM ƠN



Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn:
- Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, Phòng Sau đại học
trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
- Các thầy cô giáo ở Viện Văn học, Trường Đại học Sư phạm Thái
Nguyên, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, các thầy cô giáo công tác ở Bộ
Giáo dục và Đào tạo
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn
Huy Quát, người thầy đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều để luận văn có thể
hoàn thành.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
trường THCS Yên Ninh (Phú Lương, Thái Nguyên), trường PT dân tộc nội
trú THCS Phú Lương (Thái Nguyên) đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.


Tác giả luận văn



Hoàng Thị Hiền


iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt iv
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 4
3. Mục đích nghiên cứu 8
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu 8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 8
6. Phương pháp nghiên cứu 9
7. Đóng góp mới của luận văn 9
8. Cấu trúc luận văn 9
Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN TRONG NHÀ TRƢỜNG
PHỔ THÔNG 10
1.1. Cơ sở lí luận 10
1.1.1. Quan niệm về kiểm tra, đánh giá 10

1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của đánh giá kết quả học tập trong quá trình dạy học 10
1.1.3. Những yêu cầu sư phạm của việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của người học 16
1.2. Một số vấn đề lí luận về kiểm tra đánh giá trong phân môn Ngữ văn 18
1.2.1. Soạn giáo án Văn học và việc ra đề Văn 18
1.2.2. Chấm bài 25
1.2.3. Trả bài 26

iv
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ PHẦN VĂN
HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI LỚP 9 Ở MỘT SỐ TRƢỜNG THCS
HUYỆN PHÚ LƢƠNG, TỈNH THÁI NGUYÊN 27
2.1. Nội dung dạy học phần văn học hiện đại Việt Nam trong chương trình
và sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 hiện nay 27
2.2. Thực trạng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn bậc THCS29
2.1.1. Tích cực 34
2.1.2. Hạn chế 34
2.3. Thực trạng kiểm tra, đánh giá phần văn học Việt Nam hiện đại lớp 9 THCS 36
2.3.1. Thực trạng kiểm tra miệng 36
2.3.2. Thực trạng kiểm tra 15 phút 37
2.3.3. Thực trạng kiểm tra 45 phút 38
Chƣơng 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH Ở PHẦN VĂN HỌC VIỆT
NAM HIỆN ĐẠI LỚP 9 44
3.1. Một số giải pháp chung về đổi mới kiểm tra, đánh giá 44
o đúng quy trình 44
, đúng quy chế chuyên môn 45
46
48
3.2. Xây dựng đề kiểm tra đánh giá kết quả học tập phần văn học Việt Nam

hiện đại của học sinh lớp 9 49
3.2.1. Biên soạn đề kiểm tra kết quả học tập phần văn học Việt Nam hiện
đại của học sinh lớp 9 49
3.2.2. Thực nghiệm kiểm tra trên lớp 63
3.2.3. Kết quả thực nghiệm 64
KẾT LUẬN 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69

iv

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ ĐẦY ĐỦ
THPT
Trung học phổ thông
THCS
Trung học cơ sở
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
SGK
Sách giáo khoa
NXB
Nhà xuất bản
KT, ĐG
Kiểm tra, đánh giá
QTDH

Quá trình dạy học
Bộ GD&ĐT
Bộ Giáo dục và Đào tạo



1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Kiểm tra, đánh giá là khâu rất quan trọng trong quá trình dạy học
Kiểm tra, đánh giá là một bộ phận hợp thành không thể thiếu trong giáo
dục đào tạo nói chung, trong quá trình dạy học các môn học nói riêng. Trong
quá trình dạy học, KT, ĐG là khâu cuối cùng nhưng đồng thời cũng là bước
mở đầu cho một chu trình tiếp theo với chất lượng và hiệu quả cao hơn. Đó
không đơn thuần là đánh giá kết quả công việc mà còn nhằm đề xuất những
quyết định phù hợp để cải thiện, nâng cao chất lượng hiệu quả của việc dạy học
Đổi mới nội dung, phương pháp tổ chức thi và kiểm tra (Gọi tắt là kiểm
tra) nhằm đánh giá đúng mức độ tiếp thu kiến thức, thành quả học tập, khắc
phục những yếu kém và tiêu cực trong giáo dục, đã được đề cập từ lâu trong
các văn bản có tính pháp lí của Đảng, chính phủ và của ngành Giáo dục và
Đào tạo Việt Nam.
- Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương khóa IX tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng về việc nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, ở mục V có viết: “hoàn thiện hệ thống đánh giá và
kiểm định chất lượng giáo dục. Cải tiến nội dung và phương pháp thi cử
nhằm đánh giá đúng trình độ tiếp thu tri thức, khả năng học tập. Khắc phục
những mặt yếu kém và tiêu cực trong giáo dục”.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo (Ngày 30/12/2010), Công văn số 8773 về đổi
mới kiểm tra đánh giá cũng chỉ rõ tầm quan trọng của việc đổi mới hình thức

kiểm tra (biên soạn đề kiểm tra dưới hình thức ma trận đề).
- Điều 5, khoản 2 Luật Giáo dục của Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam số 38/2005/QH XI ngày 14/06/2005 (sửa đổi bổ sung) cũng đã
chỉ rõ vai trò quan trọng của đổi mới phương pháp giáo dục trong đó có đổi mới
phương pháp kiểm tra, đánh giá: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích

2
cực, tự giác, chủ động của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học,
khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên…”.
1.2. Kiểm tra, đánh giá phải xuất phát từ cơ sở thực tiễn
Giáo dục hiện đại đặt ra yêu cầu người dạy phải quan tâm giải quyết
đồng bộ tất cả các yếu tố của quá trình dạy học, như: Mục tiêu, nội dung,
phương pháp, thiết bị, cơ sở vật chất dạy học và kiểm tra, đánh giá. Tùy vào
từng hoàn cảnh cụ thể, người dạy phải biết chọn những yếu tố then chốt mà
nếu tác động vào đó sẽ làm xoay chuyển các yếu tố khác. Thời gian qua, các
yếu tố của quá trình dạy học đều được quan tâm, trong đó vấn đề kiểm tra,
đánh giá chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng nắm tri thức bộ môn nói
riêng đang là một vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn ngành giáo dục. Mục
tiêu, nội dung, phương pháp dạy học đã đổi mới trong khi phương pháp kiểm
tra, thi cử ở trường phổ thông vẫn chủ yếu diễn ra dưới hình thức truyền
thống hoặc có thay đổi nhưng vẫn là “bình mới rượu cũ”. Cách dạy học và thi
cử như thế chưa phản ánh đúng tài năng và trình độ của từng học sinh và cũng
chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục.
- Bộ môn Ngữ văn là môn khoa học mang tính nghệ thuật. Chính vì
đặc thù này mà việc kiểm tra, đánh giá cũng gặp phải những khó khăn nhất
định. Đối với bộ môn này, ngoài kiến thức ngôn ngữ còn phải rèn năng lực
cảm thụ văn học, kỹ năng đọc- viết- thuyết trình Cho nên việc kiểm tra,
đánh giá thiên về đọc thuộc lòng, thậm chí học vẹt, ít yêu cầu vận dụng kiến
thức, ít rèn luyện kỹ năng và năng lực tự học là điều không phù hợp.
Tình hình kiểm tra, thi môn ngữ văn trong nhà trường ở Việt Nam vài

thập kỉ qua vẫn còn những tồn tại:
- Các bài kiểm tra mới chỉ tập trung kiểm tra được những điều học sinh
(HS) ghi nhớ, học thuộc nội dung học tập từ sách giáo khoa (SGK), từ giáo

3
viên (GV) hơn là vận dụng sáng tạo những hiểu biết này vào các tình huống
thực tiễn (các kĩ năng thực hành vận dụng).
- Các bài kiểm tra chỉ có thể đánh giá được một phạm vi hạn hẹp những
gì HS học được ở nhà trường, không kiểm tra hết những gì HS được học, hay
nói khác đi là không đo được một cách toàn diện các nội dung học tập và các
năng lực của người học.
- GV chưa lưu tâm đến việc khẳng định với HS lí do tại sao các em làm
bài chưa tốt và bằng cách nào các em có thể học tốt hơn, ngoại trừ cách nhắc
nhở hay nhận xét chung chung “chưa nắm vững…”, “hãy học tập chăm chỉ
hơn” hay “cần cố gắng hơn”…
- HS không biết (hoặc chưa quan tâm) đến các kĩ năng và năng lực
quan trọng khác (thí dụ như năng lực vận dụng những gì được học ở nhà
trường vào thực tiễn giải quyết những vấn đề của đời sống hằng ngày, năng
lực tự học thêm những gì ngoài SGK, năng lực tự khẳng định… vì những điều
này không được đánh giá).
- Việc cho điểm của GV không thống nhất và có sự khác biệt lớn giữa
các giáo viên khi đánh giá HS do chưa đảm bảo tính khách quan, chưa hạn
chế được tính chủ quan, áp đặt trong đánh giá.
- GV không rõ về chuẩn kiến thức, kĩ năng mà HS cần đạt được và nhiều
yêu cầu rất quan trọng đối với người học vì chưa có kĩ năng đọc hiểu, phân tích
chương trình học tập, chưa được cập nhật với chuẩn yêu cầu cần đạt.
- GV chưa có kinh nghiệm ra đề kiểm tra, xây dựng câu hỏi, bài tập vì
các trường sư phạm chưa quan tâm đến việc nâng cao các năng lực nghề
nghiệp và đặc biệt là chưa quan tâm đến việc trang bị cho giáo sinh các kĩ
thuật đo lường và các kĩ năng đánh giá.[3]

Căn cứ vào tình hình thực tiễn nêu trên, căn cứ vào tầm quan trọng của
khâu kiểm tra, đánh giá đối với quá trình dạy học nói chung và kiểm tra, đánh

4
giá kết quả học tập bộ môn Ngữ văn nói riêng ở trường THCS, chúng tôi
chọn đề tài “Đổi mới kiểm tra, đánh kết quả học tập của học sinh ở phần
văn học Việt Nam hiện đại lớp 9, theo hướng tích cực và sáng tạo”, với
mong muốn tiếp bước những người đi trước, tổng hợp lại để có cái nhìn toàn
diện, từ đó đề xuất một số biện pháp đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn,
đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đồng bộ công tác giáo dục và đào tạo
(GD&ĐT) ở nước ta.
2. Lịch sử vấn đề
Đổi mới cách ra đề kiểm tra môn Ngữ văn ở trường phổ thông đã được
bàn đến từ lâu và đặc biệt trong thời gian gần đây trở thành một vấn đề được
nhiều người quan tâm.
2.1.Những cuốn sách và những ý kiến về đổi mới kiểm tra, đánh giá
- Thập kỷ 70 của thế kỷ XX cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết :“Hiện
nay trong nhà trường phổ thông chúng ta có hiện tượng dạy theo "điệu sáo”.
Đó là cách giảng rất xưa, không chỉ ở nước ta mà còn ở nhiều nước khác,
nghĩa là làm cho học sinh học nhiều, nhớ nhiều để bắt chước và như vậy gọi
là làm văn. Như vậy khác nào dạy cho học sinh "múa chữ”, vì học sinh không
phải suy nghĩ gì nhiều chỉ cần nhớ nhiều rồi lặp lại, gộp nhiều bài trích dẫn
thành bài văn”. [3]
Lời nhận xét trên đặt ra một vấn đề có tính cấp thiết về sự đổi mới toàn
diện trong phương pháp dạy và học môn văn nói chung trong đó có sự đổi
mới việc ra đề văn trong nhà trường phổ thông.
- Những năm 80 của thế kỷ XX, thầy giáo Nguyễn Kim Hồi ở Sở giáo
dục Hà Nội đã bàn về đổi mới cách ra đề Ngữ văn ở trường phổ thông. Thầy
giáo phân tích những ưu điểm, nhược điểm của kiểm tra đánh giá truyền
thống và đưa ra hướng đổi mới. Đề Ngữ văn được cấu tạo bằng nhiều câu hỏi

nhỏ có câu chính, câu phụ, có câu kiểm tra kiến thức, có câu kiểm tra năng

5
lực tư duy, năng lực cảm, hiểu tác phẩm văn học. Hướng đổi mới này được
Sở Giáo dục Hà Nội sử dụng ngay vào việc ra đề kiểm tra, đề thi ở năm học
1981-1982 và nhanh chóng được Bộ GD&ĐT sử dụng rộng rãi.
- TS Trần Kiều cho rằng : “Kiểm tra, đánh giá là một bộ phận hợp thành
không thể thiếu của quá trình giáo dục. Các yếu tố xác định mục tiêu giáo dục -
soạn thảo và thực hiện chương trình giáo dục- kiểm tra, đánh giá là một chỉnh
thể tạo thành một chu trình kín. Mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố trên nếu
được đảm bảo tốt sẽ tạo nên một quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao.
Kiểm tra, đánh giá là khâu cuối cùng, song cũng có thể xem là bước khởi
đầu cho chu trình tiếp theo với chất lượng mới hơn của cả một quá trình. Từ
một phương diện khá, có thể xem đánh giá là hoạt động nhằm rút ra những phán
đoán về giá trị đạt được và những quyết định cần thiết trên cơ sở thông tin và
những số liệu thu được. Do đó, đánh giá không chỉ nhằm mục đích phân loại,
sàng lọc, cũng không chỉ nhằm phát hiện kết quả của một quá trình mà còn phải
tìm ra các nguyên nhân đa dạng của một thực trạng nào đó”. [10]
- Giáo sư Phan Trọng Luận cho rằng “Ai đã từng viết sách làm văn, soạn
các tập dàn bài, ra các đề thi tốt nghiệp hay thi tuyển sinh mới cảm thấy cái
khó của việc ra đề văn. Ra một đề văn không có gì sai sót là công việc khó
rồi, tự mình giải đề đó với một đáp án chính xác là việc khó thứ hai, khó sau
không kém gì khó trước”…[12]
- PGS.TS Nguyễn Quang Ninh (Năm 2005), Tài liệu bồi dưỡng nâng cao
năng lực cho giáo viên trung học phổ thông có chuyên đề “Đổi mới phương
pháp kiểm tra, đánh giá trong dạy học Ngữ văn”. Chuyên đề này có 3 nội dung:
* Một số vấn đề về đánh giá kết quả học tập của học sinh.
* Đổi mới kiểm tra, đánh giá.
* Một số đề tham khảo.


6
Trong tài liệu này, PGS.TS Nguyễn Quang Ninh đã chỉ ra những thành
tựu đã đạt được bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại trong khâu kiểm tra, đánh
giá, từ đó ông cũng đã đưa ra những biện pháp cần phải làm ngay nhằm đổi
mới kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học.
- TS Đỗ Ngọc Thống (Năm 2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện
chương trình sách giáo khoa lớp 10 THPT trình bày chuyên đề: “Đổi mới
đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn”. Chuyên đề gồm hai nội dung:
* Định hướng đổi mới đánh giá.
* Đổi mới cách ra đề kiểm tra, đánh giá.
Trong nội dung thứ hai, tác giả đã đưa ra yêu cầu hình thức của đề kiểm tra có
sự kết hợp giữa trắc nghiệm khách quan với tự luận.
2.2. Một số bài viết đăng tải trên báo chí về đổi mới ra đề kiểm tra, đánh
giá môn Ngữ văn
- TS Đỗ Ngọc Thống (số 9/2005), “Đổi mới nội dung và hình thức
kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn”, tạp chí Dạy học ngày nay, trong bài
viết, TS Đỗ Ngọc Thống đã chỉ rõ: trên cơ sở những ưu điểm và hạn chế
của kiểm tra, đánh giá truyền thống, cần phải đổi mới cả về nội dung và
hình thức.
- Nguyễn Thúy Hồng (10/1998), “Về kiểm tra, đánh giá chất lượng học
tập môn Ngữ văn của học sinh phổ thông”, tạp chí Nghiên cứu giáo dục, Tác
giả đã chỉ rõ những tồn tại của kiểm tra, đánh giá, bài viết cũng trình bày các
giải pháp cần thiết cho đổi mới kiểm tra, đánh giá.
- Nguyễn Thúy Hồng (5/2001) “Những yêu cầu cần thiết khi xây
dựng câu hỏi, bài tập môn Văn - Tiếng việt ở THCS và THPT”, tạp chí
Nghiên cứu giáo dục. Ở đây tác giả Nguyễn Thúy Hồng đã đưa ra những
yêu cầu rất cụ thể để xây dựng câu hỏi, bài tập của giáo viên trong giờ
dạy Văn- Tiếng Việt.

7

2.3. Một số đề tài luận văn nghiên cứu về đổi mới kiểm tra, đánh giá
- “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho quy trình kiểm tra,
đánh giá các phân môn làm văn ở trường THPT hiện hành, Vũ Thị Thịnh,
2006, ĐHSP Thái Nguyên”. Tác giả luận văn đã chỉ ra những tồn tại trong
khâu kiểm tra, đánh giá của môn ngữ văn, tuy nhiên luận văn chỉ đề xuất
những biện pháp đổi mới kiểm tra, đánh giá cho phân môn tập làm văn ở
trường THPT.
- “Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhằm đánh giá
kết quả học tập của học sinh về bài văn học sử trong SGK Ngữ văn THPT:
Luận văn phương pháp dạy học văn/ Hoàng Thị Thơm/ 2008, ĐHSP thái
Nguyên”. Tác giả luận văn đã chỉ ra những ưu điểm của việc sử dụng loại câu
hỏi trắc nghiệm khách quan trong kiểm tra, đánh giá, đó là vừa kiểm tra được
lượng kiến thức tương đối lớn, vừa có thể sử dụng nhiều đề khác nhau cho
nhiều HS trong lớp. Tuy nhiên, luận văn cũng chỉ dừng lại ở đề xuất hệ thống
câu hỏi trắc nghiệm khách quan trong kiểm tra, đánh giá về bài văn học sử -
SGK Ngữ văn THPT.
- "Đổi mới việc ra đề văn ở trường THPT, Lê Thị Thanh Tâm/ 2006,
ĐHSP Thái Nguyên". Tác giả luận văn đã chỉ ra những tồn tại trong khâu
kiểm tra, đánh giá của môn ngữ văn, tuy nhiên luận văn chỉ đề xuất những
biện pháp đổi mới việc ra đề văn ở trường THPT.
Trong lịch sử nghiên cứu, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về
đổi mới KTĐG của các giáo sư, các nhà nghiên cứu, giáo viên, học viên, có
những công trình nghiên cứu toàn diện về đổi mới KTĐG, có những công
trình chỉ đi vào những đề tài nhỏ gọn của một bài học, một phần học hoặc một
phân môn. Chúng tôi nhận thấy, văn học Việt Nam hiện đại ở lớp 9 là một
phần chiếm dung lượng tương đối lớn trong cả chương trình, nội dung SGK
Ngữ văn lớp 9, ở đây các em học sinh không những được tìm hiểu các văn
bản đọc- hiểu của một giai đoạn văn học lớn của nước nhà mà qua quá trình
học tập này, sẽ tạo một nền móng vững chắc để các em tiếp tục học tập phần


8
văn học Việt Nam hiện đại ở THPT. Do vai trò và ý nghĩa quan trọng của
phần văn học hiện đại Việt Nam ở lớp 9, cùng với yêu cầu ngày càng bức
thiết trong đổi mới kiểm tra, đánh giá, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài
nghiên cứu “Đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh ở
phần văn học Việt Nam hiện đại lớp 9, theo hướng tích cực và sáng tạo”.
3. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần thực hiện yêu cầu đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh do ngành Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đề ra trong giai đoạn
hiện nay.
- Xây dựng biện pháp đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh trong dạy học môn Ngữ văn 9 phần văn học hiện đại Việt Nam. Cụ thể là:
- Tổ chức kiểm tra, lấy phiếu điều tra thực tế để rút ra những mặt tích cực
và những tồn tại trong đổi mới kiểm tra, đánh giá.
- Biên soạn đề kiểm tra theo tinh thần đổi mới kiểm tra thực nghiệm để so
sánh giữa kiểm tra, đánh giá theo phương pháp cũ với kiểm tra, đánh giá theo
phương pháp mới từ đó đề ra một số giải pháp đổi mới kiểm tra, đánh giá.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: SGK Ngữ văn 9, hoạt động của GV và HS
trong giờ kiểm tra, kết quả bài kiểm tra viết trên lớp của HS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Kiểm tra, đánh giá phần truyện hiện đại Việt
Nam ở lớp 9, theo hướng tích cực và sáng tạo.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.Khảo sát các kiểu đề kiểm tra trước và sau đổi mới kiểm tra, đánh
giá để thấy sự ưu việt của đổi mới kiểm tra, đánh giá.
5.2. Xây dựng ngân hàng câu hỏi theo hướng đổi mới nội dung và phương
pháp kiểm tra, đánh giá đối với phần văn học hiện đại Việt Nam ở lớp 9.

9
5.3. Bước đầu thực nghiệm sư phạm tại một số trường THCS trên địa

bàn tỉnh Thái Nguyên để kiểm nghiệm tính khả thi của những biện pháp, cách
thức về đổi mới kiểm tra, đánh giá đã đề xuất.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu trên, chúng tôi sử dụng các
nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận. Nghiên cứu các tài liệu về lí
luận và tìm hiểu các bài viết có liên quan đến cơ sở lí luận của đề tài.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Tìm hiểu thực trạng đổi mới
kiểm tra, đánh giá, phát huy tính tích cực, tư duy sáng tạo của học sinh.
- Phương pháp toán thống kê: Khảo sát thực trạng kiểm tra, đánh giá,
thống kê theo tỉ lệ phần trăm kết quả trả lời phiếu điều tra của giáo viên và
học sinh, kết quả bài kiểm tra trên lớp của học sinh.
7. Đóng góp mới của luận văn
Nếu đưa ra được những giải pháp cho đổi mới kiểm tra, đánh giá và
xây dựng được ngân hàng đề kiểm tra theo tinh thần đổi mới về nội dung và
hình thức một cách khoa học, hợp lí và đúng đắn, luận văn sẽ góp phần nâng
cao được chất lượng của khâu kiểm tra đánh giá trong dạy học, nói riêng và
trong quá trình dạy học, nói chung.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
môn Ngữ văn trong trường phổ thông.
Chương 2: Thực trạng kiểm tra, đánh giá phần văn học Việt Nam hiện
đại lớp 9 ở một số trường THCS, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên
Chương 3: Một số giải pháp đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
phần Văn học Việt Nam hiện đại lớp 9.

10
NỘI DUNG

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN TRONG NHÀ TRƢỜNG PHỔ THÔNG


1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Quan niệm về kiểm tra, đánh giá
Dạy học là một quá trình bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của giáo viên
và học sinh, trong đó kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là khâu có
tầm quan trọng đặc biệt. Đây là khâu cuối cùng, đồng thời cũng khởi đầu cho một
chu trình khép kín tiếp theo với một chất lượng cao hơn của quá trình giáo dục.
“Kiểm tra” là một hình thức và phương tiện đánh giá có tầm quan trọng
đặc biệt trong cung cấp thông tin hay cơ sở dữ liệu cho đánh giá. [5]
“Đánh giá” có nghĩa là nhận định giá trị. [7] Thông thường, chúng ta quan
niệm kiểm tra, đánh giá là công việc nhằm xem xét và nhận định về khả năng tiếp
thu kiến thức của học sinh sau mỗi bài, mỗi khóa trình, hay cả kì, cả năm học.
Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về đánh giá, nhưng nhìn chung, tất cả
đều coi đánh giá là quá trình xem xét mức độ phù hợp của thực trạng, đối
chiếu các thông tin cụ thể về thực trạng với mục tiêu đã đề ra, từ đó có những
biện pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng dạy học.
1.1.2.
Mục đích, ý nghĩa của đánh giá kết quả học tập trong quá trình dạy học

1.1.2.1. Mục đích
Theo lý luận dạy học, bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức
độc đáo của học sinh được thể hiện trong môi trường sư phạm. Mục đích của
những hoạt động học tập là nhằm biến nền văn hóa vật chất, nền văn hóa tinh thần
thành năng lực thể chất và năng lực tinh thần của bản thân người học.
Kết quả học tập được hiểu là sự nhìn nhận về trình độ đạt được của
người học về tri thức, kĩ năng, kĩ xảo so với mục tiêu đề ra, là quá trình


11
đưa ra những nhận định, nhận xét về mức độ đạt được, về tốc độ và trình
độ lĩnh hội tri thức kĩ năng, kĩ xảo ở người học, làm cơ sở cho việc đề ra
những biện pháp thích hợp để nâng cao chất lượng dạy học nói chung, kết
quả học tập nói riêng.
Trong nhà trường, việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
thường được tiến hành thông qua tổ chức kiểm tra, thi một cách có hệ thống
theo những quy định chặt chẽ của Bộ GD & ĐT.
Kiểm tra trong nhà trường hiện nay thường diễn ra dưới hai hình thức sau:
- "Kiểm tra nói (Vấn đáp). Hình thức kiểm tra này được áp dụng rộng
rãi trong kiểm tra, đánh giá thường xuyên từng phần. Nó cung cấp những
thông tin ngược để giáo viên kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy. Nó được giáo
viên sử dụng trong các bước kiểm tra bài cũ, trong khi dạy bài mới, hoặc củng
cố kiến thức cuối tiết học. Qua đó, giáo viên có thể biết được tình hình nắm
kiến thức của học sinh qua từng bài học để quyết định việc dạy học tiếp theo.
Trong một tiết học, giáo viên chỉ có thể nêu một số câu hỏi kiểm tra hạn chế
với một số học sinh hạn chế. Bởi vậy giáo viên phải biết cách sử dụng hình
thức này thì mới có hiệu quả.
Để chuẩn bị câu hỏi, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những kiến thức cơ bản
của bài, nắm chắc chuẩn kiến thức kĩ năng. Dung lượng kiến thức trong mỗi
câu hỏi vừa phải, sát với trình độ học sinh, có thể trả lời gọn trong thời gian
khoảng 5 phút.
Câu hỏi nêu ra cho học sinh phải chính xác, rõ ràng và xác định, không
làm cho học sinh hiểu sai, dẫn tới trả lời lạc đề. Bên cạnh câu hỏi cơ bản nên
chuẩn bị câu hỏi bổ sung, tạo điều kiện đánh giá chính xác, chú ý năng lực
vận dụng kiến thức, khuyến khích suy nghĩ tích cực.
Sau khi nêu câu hỏi chung cho cả lớp cần để một thời gian ngắn để học
sinh chuẩn bị rồi mới chỉ định học sinh trả lời - Việc chọn học sinh để kiểm


12
tra cần được tính toán cho phù hợp với câu hỏi, phản ánh được tình hình học
tập của học sinh trong lớp, tránh chỉ định một cách ngẫu nhiên, tùy tiện.
Thái độ và cách ứng xử của giáo viên đối với học sinh rất có ý nghĩa
trong kiểm tra nói. Sự hiểu biết của giáo viên về cá tính của học sinh, sự tế
nhị và nhạy cảm sư phạm là những yếu tố giúp cho giáo viên thấy rõ thực chất
trình độ kiến thức kĩ năng của học sinh được kiểm tra. Cần biết lắng nghe câu
trả lời của học sinh, tránh cắt ngang làm học sinh mất bình tĩnh, biết gợi ý,
khuyến khích khi cần thiết. Cần yêu cầu học sinh trả lời sao cho cả lớp nghe
được và yêu cầu cả lớp theo dõi câu trả lời của bạn để bổ sung. Cần chống
thái độ quá dễ dãi nhưng sự nghiêm khắc cũng không nên quá mức. Việc
đánh giá kết quả trả lời không đơn thuần chỉ là việc cho điểm mà trước khi
công bố điểm cần có lời nhận xét ưu khuyết điểm trong câu trả lời về nội
dung cũng như hình thức trình bày, có những uốn nắn về phương pháp học.
- Kiểm tra viết: Bài kiểm tra viết có thể được thực hiện ở đầu hay
cuối tiết học (kiểm tra 15 phút), hoặc thực hiện trọn một tiết sau mỗi
chương hay mỗi phần của chương trình (kiểm tra 45 phút), hoặc trong vài
ba tiết vào cuối học kì hay cuối năm học.
Phương pháp kiểm tra viết có thể kiểm tra cùng một lúc tất cả học
sinh trong lớp do đó đánh giá được trình độ chung; đề kiểm tra viết có thể
đề cập nhiều vấn đề nhằm đánh giá học sinh ở nhiều mặt hơn kiểm tra nói.
Qua bài làm có thể đánh giá sự phát triển ngôn ngữ, kĩ năng diễn đạt kiến
thức dưới hình thức viết. Tuy nhiên, để kiểm tra viết cũng chỉ có thể đề
cập một số kiến thức mấu chốt nào đó trong cả một phần chương trình rất
dài, khó có điều kiện đánh giá kĩ năng, như thực hành, thí nghiệm, sử
dụng công cụ kĩ thuật.
Việc chuẩn bị một đề kiểm tra viết đòi hỏi người giáo viên có sự cân nhắc
kỹ càng, vừa phải nắm chắc yêu cầu, vừa phải tính đến thực tế dạy và học

13

trong phần chương trình được kiểm tra. Nội dung câu hỏi phải vừa sức học
sinh, số lượng câu hỏi phải phù hợp với thời gian quy định làm bài, bao quát
những thành phần kiến thức khác nhau của môn học.
Bài kiểm tra viết không chỉ nhằm đánh giá trình độ, kết quả học tập
chung của cả lớp học mà còn phải đánh giá kết quả và trình độ của mỗi học
sinh trong lớp. Vì vậy cần coi trọng việc tổ chức kiểm tra, giáo dục cho học
sinh tinh thần nghiêm túc, trung thực, tự tin.
Bài làm cần phải được chấm kĩ và trả đúng tiến độ cho học sinh. Những
sai sót trong bài cần được chỉ ra, giáo viên trực tiếp sửa hoặc hướng dẫn học
sinh tự sửa. Lời phê phải đánh giá được những ưu khuyết điểm chính, khuyến
khích khi học sinh tiến bộ, nhắc nhở khi học sinh sa sút. Cần có đáp án và
biểu điểm chi tiết để việc cho điểm được chính xác và công bằng. Chấm xong
tập bài, cần đánh giá về trình độ chung, chỉ ra những chỗ đa số chưa nắm
vững hoặc hiểu sai. Khi trả lời cần nêu các nhận xét này trước lớp và có
những bổ sung uốn nắn cần thiết. [4]
Thông thường thì kiểm tra là để đánh giá. Tuy nhiên, có những trường
hợp tiến hành kiểm tra không nhằm mục đích đánh giá mà chỉ nhằm tìm hiểu
tình hình học tập của học sinh. Song khi đánh giá, nhất định phải dựa vào kết
quả kiểm tra.
Trong dạy học, việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh nhằm
các mục tiêu sau:
- Thứ nhất: Nhằm xem xét và làm sáng tỏ mức độ đạt được và chưa đạt
được về các mục tiêu dạy học, tình trạng kiến thức, kĩ năng, thái độ của học
sinh đối chiếu với yêu cầu của chương trình; phát hiện những nguyên nhân sai
sót, giúp học sinh điều chỉnh hoạt động học.

14
- Thứ hai: Qua đó công khai hóa các nhận định về năng lực, kết quả học
tập của cá nhân học sinh cũng như của tập thể lớp, tạo cơ hội cho học sinh
phát triển kỹ năng tự đánh giá và nhận ra những tiến bộ của mình, khuyến

khích, động viên, thúc đẩy việc học tập của các em.
- Thứ ba: Giúp giáo viên có cơ sở thực tế để nhận ra những điểm
mạnh, điểm yếu của mình, qua đó giáo viên tự điều chỉnh, tự hoàn thiện
hoạt động dạy, phấn đấu không ngừng cho việc nâng cao chất lượng và
hiệu quả dạy học.
Như vậy, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh không chỉ là việc
xem xét, nhận định thưc trạng chất lượng học tập của học sinh mà từ kết quả kiểm
tra, đánh giá đó, còn đưa ra định hướng điều chỉnh hoạt động của trò, đồng thời
tạo điều kiện xem xét, định hướng, điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trong nhà trường, việc kiểm tra, đánh giá đều phải nhằm vào ba mục tiêu
cơ bản nêu trên, song đối với từng môn học, do có những đặc điểm, đặc trưng
riêng nên yêu cầu kiểm tra, đánh giá đặt ra những mục tiêu cụ thể khác nhau.
Như vậy, đánh giá không chỉ đơn thuần nhằm mục đích ghi nhận thực
trạng, định hướng, điều chỉnh, điều khiển hoạt động dạy của giáo viên mà còn
nhằm mục đích ghi nhận, nhận định thực trạng và định hướng, điều khiển
điều chỉnh hoạt động học của học sinh.
1.1.2.2. Ý nghĩa của việc kiểm tra, đánh giá
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Nó có ý
nghĩa với học sinh, giáo viên và cả với cán bộ quản lí.
*Đối với học sinh:
Việc kiểm tra, đánh giá có hệ thống và thường xuyên sẽ cung cấp kịp
thời những thông tin “liên hệ ngược trong”, giúp người học tự điều chỉnh hoạt
động học .

15
- Về mặt giáo dưỡng, kiểm tra, đánh giá sẽ giúp cho mỗi học sinh thấy
được mình đã tiếp thu những điều vừa học ở mức độ nào, những lỗ hổng nào
cần phải bổ khuyết trước khi bước vào phần mới của chương trình học tập, có
cơ hội để nắm chắc những yêu cầu cụ thể đối với từng phần của chương trình.

- Về mặt phát triển năng lực nhận thức, thông qua kiểm tra, đánh giá,
học sinh có điều kiện tiến hành các hoạt động trí tuệ như tái hiện, chính xác
hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa kiến thức. Nếu việc kiểm tra, đánh giá chú
trọng phát huy trí thông minh, học sinh có điều kiện thuận lợi để phát triển
năng lực tư duy sáng tạo, linh hoạt vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết
những tình huống thực tế.
- Về mặt giáo dục, kiểm tra, đánh giá nếu được tổ chức nghiêm túc sẽ
giúp cho học sinh nâng cao tinh thần trách nhiệm trong học tập, ý chí vươn
lên để đạt được kết quả học tập cao hơn, củng cố lòng tin vào khả năng học
tập của mình, nâng cao ý thức tự giác, khắc phục tính chủ quan, tự mãn.
* Đối với giáo viên
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh cung cấp cho giáo
viên những thông tin “liên hệ ngược ngoài”, giúp người dạy điều chỉnh hoạt
động dạy.
Kiểm tra, đánh giá kết hợp với theo dõi thường xuyên tạo điều kiện cho
giáo viên nắm được một cách cụ thể, khá chính xác năng lực và trình độ của
những học sinh trong lớp mình phụ trách để có biện pháp giúp đỡ riêng thích
hợp, nhất là học sinh giỏi và học sinh yếu kém, qua đó nâng cao chất lượng
học tập của học sinh của cả lớp.
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh còn đồng thời tạo cơ hội
cho giáo viên xem xét hiệu quả cải tiến nội dung, phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học mà mình đang theo đuổi, nhất là đối với những giáo viên tâm
huyết muốn hoàn thiện công việc dạy học của mình bằng con đường thực
nghiệm, nghiên cứu khoa học giáo dục.

16
* Đối với cán bộ quản lý giáo dục
Kết quả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh sẽ cung cấp cho
cán bộ quản lý giáo dục các cấp những thông tin cơ bản về thực trạng dạy và
học trong một đơn vị giáo dục để có những chỉ đạo thích hợp, kịp thời uốn

nắn những lệch lạc, khuyến khích hỗ trợ những sáng kiến hay, đảm bảo thực
hiện tốt mục tiêu giáo dục.
1.1.3. Những yêu cầu sư phạm của việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của người học
Nhà nghiên cứu về kiểm tra, đánh giá trong giáo dục- GS Trần Bá Hoành
cho rằng, khi kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh cần phải đảm
bảo bốn yêu cầu sau:
- Đảm bảo tính khách quan, chính xác trong kiểm tra, đánh giá.
- Đảm bảo tính toàn diện trong kiểm tra, đánh giá.
- Đảm bảo tính hệ thống trong kiểm tra, đánh giá.
- Đảm bảo tính công khai trong kiểm tra, đánh giá. [2]
Cũng nghiên cứu về đổi mới kiểm tra, đánh giá trong giáo dục, TS
Nguyễn Thúy Hồng cho rằng, đánh giá trong giáo dục hiện nay của học sinh,
cần chú trọng các yêu cầu sau:
- "Đảm bảo đánh giá được kết quả học tập của học sinh căn cứ trên
mục tiêu giáo dục của bậc học, cấp học, lớp học…
- Đảm bảo đánh giá được kết quả học tập của học sinh một cách hệ
thống và toàn diện các nội dung học tập và các năng lực của người học.
-Đảm bảo đánh giá được kết quả học tập của học sinh một cách
khách quan .
- Đảm bảo đánh giá được kết quả học tập của học sinh một cách công khai.
-Đảm bảo đánh giá được kết quả học tập của học sinh một cách phù
hợp với đặc trưng môn học”. [3]

17
1.1.3.1. Đảm bảo tính khách quan, chính xác trong quá trình kiểm
tra, đánh giá
Đánh giá kết quả học tập của học sinh phải khách quan và chính xác tới
mức tối đa có thể, tạo điều kiện để mỗi học sinh có thể bộc lộ thực chất khả
năng và trình độ của mình, ngăn chặn mọi biểu hiện thiếu trung thực trong khi

làm bài, như: nhìn bài của bạn, nhắc bài cho bạn, quay cóp , tránh cách đánh
giá chung chung về sự tiến bộ của toàn lớp hay một nhóm thực hành, một tổ
học tập, việc đánh giá phải sát với hoàn cảnh, điều kiện dạy và học, tránh
những nhận định chủ quan, áp đặt thiếu căn cứ.
Để đảm bảo tính khách quan trong kiểm tra, đánh giá, cần tuân theo một
số điều kiện sau:
- Tổ chức hệ thống kiểm tra, tức là cần phải kiểm tra nhiều lần, phải quan
sát lâu dài và liên tục toàn bộ hoạt động của học sinh.
- Đảm bảo chất lượng của tài liệu kiểm tra: nội dung chính xác, phương
pháp toàn diện.
- Xác định rõ mục tiêu, đối tượng và mức độ đánh giá.
- Xác định rõ hình thức kiểm tra đánh giá.
1.1.3.2. Đảm bảo tính toàn diện trong quá trình kiểm tra, đánh giá
Một bài kiểm tra, một đợt đánh giá có thể nhằm vào một vài mục đích
trọng tâm nào đó, nhưng toàn bộ hệ thống kiểm tra đánh giá phải đạt yêu
cầu đánh giá toàn diện, không chỉ đánh giá về mặt số lượng mà quan trọng
là đánh giá về mặt chất lượng, không chỉ đánh giá về mặt kiến thức mà
đánh giá cả về kĩ năng, thái độ, tư duy.
1.1.3.3. Đảm bảo tính hệ thống trong quá trình kiểm tra đánh giá
Quá trình kiểm tra, đánh giá phải được tiến hành theo kế hoạch có hệ
thống. Đánh giá trước, trong và sau khi học một phần của chương trình. Kết

18
hợp theo dõi thường xuyên với kiểm tra, đánh giá định kì và đánh giá tổng kết
cuối năm học, cuối khóa học. Số lần kiểm tra phải đủ mức để đánh giá được
chính xác, toàn diện kết quả học tập của học sinh.
1.1.3.4. Đảm bảo tính công khai trong quá trình kiểm tra, đánh giá
Tổ chức quá trình kiểm tra, đánh giá phải được tiến hành công khai, kết
quả phải được công bố kịp thời để mỗi học sinh có thể tự đánh giá xếp hạng
trong tập thể, để tập thể hiểu biết, học tập, giúp đỡ lẫn nhau.

1.2. Một số vấn đề lí luận về kiểm tra đánh giá trong phân môn Ngữ văn
Kiểm tra, đánh giá trong dạy học Văn học là một quá trình gồm nhiều vấn
đề và có sự khác biệt so với kiểm tra, đánh giá ở các môn học khác, từ khâu
soạn bài, ra đề của giáo viên đến khâu chấm và trả bài cho học sinh.
1.2.1. Soạn giáo án Văn học và việc ra đề Văn
Việc ra đề Văn là một bước quan trọng trong khâu kiểm tra, đánh giá.
Vậy ra đề Văn phải căn cứ vào những gì?
* Thứ nhất: Căn cứ vào mục tiêu chương trình Ngữ Văn
Mục tiêu giáo dục phổ thông là tạo ra những con người Việt Nam phát
triển toàn diện về trí tuệ, năng lực, thái độ, tư tưởng, tình cảm, con người
năng động sáng tạo. Mục tiêu đó được thể hiện ở một số điểm mới như sau:
- Sống lành mạnh, tự tin, tự tôn dân tộc, có chí lập nghiệp, không cam
chịu nghèo hèn.
- Có khả năng sử dụng một ngoại ngữ trong giao tiếp thông thường, có
khả năng ứng dụng một số thành tựu công nghệ thông tin ở trình độ phổ thông
trong giải quyết công việc.
- Phát triển và nâng cao các kĩ năng học tập, kĩ năng vận dụng kiến thức
vào các tình huống học tập mới, vào thực tiễn sản xuất và vào cuộc sống của
mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng.

×