Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Ảnh hưởng của mật độ và thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá khoang cổ nemo (amphiprion ocellaris cuvier, 1830) giai đoạn 60 – 120 ngày tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.44 KB, 48 trang )

i
MỤC LỤC

MỤC LỤC i
LỜI CẢM ƠN iii
DANH MỤC BẢNG iiiv
DANH MỤC HÌNH v
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1 Một số đặc điểm của cá Khoang Cổ Nemo 4
1.1.1 Đặc điểm hình thái 4
1.1.2 Đặc điểm phân bố 5
1.1.3 Một số đặc điểm sinh thái 5
a. Đặc điểm môi trƣờng sống 5
b. Đặc điểm hội sinh với Hải Quỳ 5
1.1.4 Đặc điểm sinh trƣởng 8
1.1.5 Đặc điểm dinh dƣỡng 8
1.1.6 Đặc điểm sinh học sinh sản 9
1.1.7 Ảnh hƣởng của các yếu tố sinh thái đến sinh trƣởng và tỷ lệ sống của cá Khoang
Cổ Nemo………………………………………………………………………………… 12
1.2 Tình hình nghiên cứu cá Khoang Cổ trên thế giới 13
1.3 Tình hình nghiên cứu cá Khoang Cổ ở Việt Nam 14
CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 16
2.1 Đối tƣợng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 16
2.1.1 Đối tƣợng nghiên cứu 16
2.1.2 Địa điểm nghiên cứu 16
2.1.3 Thời gian nghiên cứu 16
2.2 Nội dung nghiên cứu 16
2.3 Phƣơng pháp nghiên cứu 17
2.3.1 Nguồn nƣớc 17
2.3.2 Xác định các thông số môi trƣờng 18


2.3.3 Thức ăn thí nghiệm 19
2.3.4 Theo dõi quá trình sinh trƣởng của cá Khoang Cổ Nemo 21
ii
2.4 Bố trí thí nghiệm 22
2.4.1 Thí nghiệm 1: Ảnh hƣởng của mật độ khác nhau lên sinh trƣởng và tỷ lệ sống
của cá Khoang Cổ Nemo 22
2.4.2 Thí nghiệm 2: Ảnh hƣởng của các loại thức ăn khác nhau lên sinh trƣởng và tỷ
lệ sống của cá Khoang Cổ Nemo 23
2.5 Phƣơng pháp xử lý số liệu 24
2.5.1 Phƣơng pháp xác định các chỉ tiêu 24
2.5.2 Thu thập và xử lý số liệu 25
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 26
3.1 Ảnh hƣởng của mật độ đến sinh trƣởng và tỷ lệ sống của cá Khoang Cổ Nemo 26
3.1.1 Biến động môi trƣờng trong bể thí nghiệm 26
3.1.2 Ảnh hƣởng của mật độ lên tốc độ sinh trƣởng của cá Khoang Cổ Nemo 26
3.2 Ảnh hƣởng của thức ăn đến sinh trƣởng và tỷ lệ sống của cá Khoang Cổ Nemo… 32
3.2.1 Ảnh hƣởng của thức ăn đến sinh trƣởng của cá Khoang Cổ Nemo 32
3.2.2 Ảnh hƣởng của thức ăn khác nhau lên tỷ lệ sống của cá 32
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 38
1. Kết luận 38
1.1 Ảnh hƣởng của mật độ khác nhau lên sinh trƣởng và tỷ lệ sống của cá Khoang Cổ
Nemo giai đoạn 60 – 120 ngày tuổi 38
1.2 Ảnh hƣởng của thức ăn khác nhau lên sinh trƣởng và tỷ lệ sống của cá Khoang Cổ
Nemo giai đoạn 60 – 120 ngày tuổi 38
2. Đề xuất ý kiến 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO 40







iii
LỜI CẢM ƠN

Hoàn thành đề tài này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến T.S Hà Lê Thị
Lộc và Th.S Phạm Quốc Hùng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, tận tình hƣớng dẫn
tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Xin cảm ơn ban chủ nhiệm khoa Nuôi Trồng Thủy Sản và bộ môn Sinh học
nghề cá – Đại học Nha Trang đã giúp tôi hoàn thành đề cƣơng cũng nhƣ hƣớng dẫn
các thủ tục thực hiện đề tài.
Xin cảm ơn phòng Công nghệ Nuôi trồng và thƣ viện Viện Hải dƣơng học -
Nha Trang đã tạo điều kiện cho tôi làm việc, cung cấp cơ sở vật chất, thiết bị nghiên
cứu cũng nhƣ tài liệu, số liệu liên quan để tôi hoàn thành nội dung đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến cô Nguyễn Thị Kim Bích và các
anh chị kĩ sƣ ở Trại thực nghiệm thuộc phòng Công nghệ Nuôi trồng – Viện Hải
dƣơng học đã nhiệt tình giúp đỡ, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực tập.
Cảm ơn gia đình và các bạn tôi về sự quan tâm động viên, giúp đỡ trên nhiều
lĩnh vực.
Do thời gian thực tập có giới hạn và kiến thức của bản thân còn hạn chế nên
trong đề tài khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong thầy cô và các bạn góp ý
cho đề tài đƣợc hoàn thiện hơn.


Nha Trang, tháng 07 năm 2010
Sinh viên: Mai Thị Yến







iv
DANH MỤC BẢNG


Bảng 2.1 Dụng cụ đo các thông số môi trƣờng 18
Bảng 2.2 Một số yếu tố môi trƣờng trong các bể thí nghiệm 18
Bảng 2.3 Thành phần thức ăn tổng hợp Lansy ( Lục Trinh Diệp, 2005) 21
Bảng 2.4 Dụng cụ cân, đo cá 21
Bảng 3.1 Một số yếu tố môi trƣờng trong bể thí nghiệm 26
Bảng 3.2 Sinh trƣởng về chiều dài và khối lƣợng của cá Khoang Cổ Nemo ở các
mật độ khác nhau 27
Bảng 3.3 Tốc độ sinh trƣởng đặc trƣng về chiều dài và khối lƣợng của cá Khoang
Cổ Nemo ở các mật độ nuôi khác nhau 28
Bảng 3.4 Sinh trƣởng về chiều dài và khối lƣợng của cá Khoang Cổ Nemo giai đoạn
60 – 120 ngày tuổi ở các nghiệm thức thức ăn khác nhau 32
Bảng 3.5 Tốc độ sinh trƣởng đặc trƣng về chiều dài và khối lƣợng của cá Khoang
Cổ Nemo ở các nghiệm thức thức ăn khác nhau 33
v
DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1 Cá Khoang Cổ Nemo (A. ocellaris) 3
Hình 1.2 Cá Khoang Cổ Nemo sống hội sinh với Hải Quỳ H. magnifica 7
Hình 2.1 Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 17
Hình 2.2 Sơ đồ xử lý nƣớc 17
Hình 2.3 Sự biến động nhiệt độ và độ mặn môi trƣờng bể thí nghiệm. 18
Hình 2.4 Sự biến động pH và hàm lƣợng Oxy hòa tan trong bể thí nghiệm 19
Hình 2.5 Sơ đồ bố trí thí nghiệm ảnh hƣởng của mật độ 22
Hình 2.6 Sơ đồ bố trí thí nghiệm ảnh hƣởng của thức ăn 23

Hình 3.1 Sinh trƣởng về chiều dài của cá ở các mật độ khác nhau 30
Hình 3.2 Sinh trƣởng về khối lƣợng của cá ở các mật độ khác nhau 30
Hình 3.3 Tỷ lệ sống của cá sau 60 ngày thí nghiệm ở các nghiệm thức mật độ. 31
Hình 3.4 Sinh trƣởng về chiều dài cá ở các nghiệm thức thức ăn. 34
Hình 3.5 Sinh trƣởng về khối lƣợng cá ở các nghiệm thức thức ăn. 35
Hình 3.6 Tỷ lệ sống của cá sau 60 ngày thí nghiệm ở các nghiệm thức thức ăn 35









1

MỞ ĐẦU

Ở Việt Nam, nghề nuôi cá cảnh đã đƣợc hình thành từ lâu đời song tập trung
nhiều vào những đối tƣợng cá nƣớc ngọt. Mặc dù những loài này màu sắc không
sặc sỡ bằng cá biển nhƣng là những loài dễ nuôi và ít bệnh. Tuy nhiên những năm
gần đây, cá cảnh biển đang thu hút nhiều ngƣời nuôi bởi chúng nhiều màu sắc đẹp,
hình dạng phong phú, dễ nuôi hơn nhờ những thiết bị, phụ kiện đi kèm. Bên cạnh
giá trị về thẩm mỹ, cá cảnh biển còn có giá trị rất lớn về kinh tế. Trên thị trƣờng
quốc tế, có những loài cá quý hiếm đƣợc định giá 500 USD/con, cá biệt có những
loài cá Rồng biển có giá lên đến 5000 USD/con. Hiện nay, cá cảnh biển đang là một
nguồn kinh tế quan trọng có giá trị cao về mặt xuất khẩu. Theo báo cáo của Liên
Hợp Quốc năm 2003, sản lƣợng cá cảnh biển hàng năm cung cấp cho thị trƣờng
Châu Âu và Mỹ là hơn 20 triệu con, thuộc 1471 loài, ƣớc tính doanh thu cá biển

trên toàn thế giới là 200 triệu USD/năm. Trong những loài cá cảnh biển có giá trị
hiện nay, cá Khoang Cổ là loài đƣợc tiêu thụ khá mạnh cả trong và ngoài nƣớc. Cá
Khoang Cổ rất đƣợc ƣa chuộng nhờ sự đa dạng, phong phú về màu sắc và có khả
năng thích nghi cao trong điều kiện nuôi nhốt. Vì vậy, những loài cá này đã đƣợc
phát triển nuôi khá phổ biến ở quy mô gia đình và trong các khu du lịch, giải trí.
Cá Khoang Cổ hay còn gọi là cá Hải Quỳ thuộc họ cá Thia Pomacentridae, bộ
cá Vƣợc (Perciformes) có đặc điểm sống hội sinh với Hải Quỳ, phân bố trong các
rạn san hô. Nhờ đặc điểm dễ thích nghi với sinh vật hội sinh nên cá Khoang Cổ có
thể chung sống với nhiều loài Hải Quỳ nhƣ loài Amphiprion clarkii có thể chung
sống với 10 loài Hải Quỳ; Amphiprion chrysopterus có thể chung sống với 6 loài
Hải Quỳ; Amphiprion perideraion chung sống đƣợc với 4 loài Hải Quỳ.
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, các nhà khoa học trên thế giới đã tập trung
nghiên cứu về sinh học và sinh thái của một số loài cá Khoang Cổ nhƣ Amphiprion
bicinctus, Amphiprion chrysopterus, Amphiprion clarkii, Amphiprion melanopus,
Amphiprion ocellaris Một số nƣớc cũng đã tiến hành cho sinh sản nhân tạo chúng
nhƣ Nga, Canada, Pháp, Đức, Thái Lan… nhằm mục đích bảo vệ nguồn lợi tự nhiên
2

và kinh doanh (Wood, 1992). Tuy nhiên, các nghiên cứu về loài cá Khoang cổ
Nemo (Amphiprion ocellaris Cuvier, 1830) còn rất hạn chế, cũng nhƣ để có thể chủ
động hoàn toàn trong việc sản xuất giống và nuôi thƣơng mại cá Khoang Cổ Nemo,
đƣợc sự phân công của bộ môn Cơ sở sinh học nghề cá, khoa Nuôi trồng thủy sản,
trƣờng Đại học Nha Trang tôi đã thực hiện đề tài: “Ảnh hƣởng của mật độ và thức
ăn lên sinh trƣởng và tỷ lệ sống của cá Khoang cổ Nemo (Amphiprion ocellaris
Cuvier, 1830) giai đoạn 60 – 120 ngày tuổi”.
Mục tiêu đề tài
Xác định mật độ nuôi và thức ăn thích hợp lên sinh trƣởng và tỷ lệ sống của cá
Khoang cổ Nemo (A. ocellaris) giai đoạn 60 – 120 ngày tuổi phục vụ nghiên cứu
xây dựng quy trình sản xuất giống và nuôi thƣơng mại cá Khoang Cổ Nemo.
Nội dung nghiên cứu

(1) Thử nghiệm ảnh hƣởng của các mật độ nuôi khác nhau lên sinh trƣởng và
tỷ lệ sống của cá Khoang cổ Nemo (A. ocellaris) giai đoạn 60 – 120 ngày tuổi.
(2) Thử nghiệm ảnh hƣởng của các loại thức ăn khác nhau lên sinh trƣởng và
tỷ lệ sống của cá Khoang cổ Nemo (A. ocellaris) giai đoạn 60 – 120 ngày tuổi.
Ý nghĩa của đề tài
Nghiên cứu ảnh hƣởng của mật độ và thức ăn lên sinh trƣởng và tỷ lệ sống của
cá Khoang Cổ Nemo (A. ocellaris) thành công là tài liệu tham khảo cho những
nghiên cứu tiếp theo nhằm xây dựng hoàn thiện quy trình sản xuất giống và nuôi
thƣơng mại loài cá Khoang Cổ Nemo nói riêng và các loài cá Khoang Cổ nói
chung, bổ sung một đối tƣợng nuôi mới cho ngành nuôi trồng thủy sản, góp phần
bảo vệ nguồn lợi, đa dạng hóa sản phẩm nuôi trồng phục vụ cho nhu cầu giải trí
trong nƣớc và xuất khẩu.


3

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

Hệ thống phân loại Froese và Pauly (2000), cá Khoang cổ Nemo đƣợc xác định
vị trí phân loại nhƣ sau:
Ngành Động vật có dây sống: Vertebrata
Liên lớp có hàm: Gnathostomata
Lớp cá xƣơng: Osteichthyes
Nhóm cá Vây Tia: Actinoptery
Bộ cá Vƣợc: Perciformes
Phân bộ cá Vƣợc: Percoidei
Họ cá Thia: Pomacentridae
Giống cá Khoang cổ: Amphiprion
Loài cá Khoang cổ Nemo: Amphiprion ocellaris Cuvier, 1830



Hình 1.1 Cá Khoang Cổ Nemo (A. ocellaris)
4

Tên tiếng anh: Clown anemonefish, Ocellaris clownfish, The false percula
clownfish, False clownfish anemonefish.
Tên đồng vật (synonym):
Anthias polymnus var. (non Linnaeus) Bloch (1792: 106, pl. 316, fig. 3)
(Eats Indies).
Amphiprion ocellaris Cuvier (1830: 399) (type locality, Sumatra);
Schlegel and Muller (1839 – 1844: 19).
Amphiprion melanurus Cuvier (1830: 400) (type locality, Sumatra);
Schlegel and Muller (1839 – 1844: 19).
Amphiprion percula Schlegel and Muller (in part) (1839 – 1844: 19)
(Indian Ocean; Sumatra; Java Sea; Celebes).
Prochilus percula Bleeker (1877a: pl. 400, fig. 2) (East Indies).
Amphiprion bicolor Castelnau (1873: 92) (Port Darwin); Macleay (1881:
57) (Port Darwin).
Actinicola bicolor Whitley (1929: 215, pl. 27, fig. 2) (Port Darwin).
Actinicola percula Aoyagi (1941: 175, pl. 9, fig. 2) (Ryukyus); Aoyagy
(1943: 116, pl. 37, fig. 2) (Ryulyus).
Actinicola nolani Whiley (1959: 21) (No locality given).
1.1 Một số đặc điểm của cá Khoang Cổ Nemo
1.1.1 Đặc điểm hình thái
Cá Khoang Cổ Nemo có thân hình bầu dục. Con cái thƣờng có kích thƣớc lớn
gấp 2 – 3 lần con đực. Cá Khoang Cổ Nemo trƣởng thành có chiều dài thân khoảng
7,5 cm. Ngoài tự nhiên cá có màu đỏ tƣơi, đôi khi trên thân có thêm sắc tố đen.
Trong môi trƣờng nuôi nhốt cá có màu cam tƣơi. Cá có ba khoang trắng trên cổ,
lƣng và đuôi. Trên các vây của cá có viền màu đen.
5


Tia vây đuôi khoảng từ 56 đến 66 (thƣờng từ 56 đến 62) tia vây. Vây ngực có
khoảng 12 đến 16 tia vây. Số lƣợng vẩy đƣờng bên dao động 35 đến 40, có từ 4 – 5
hàng vảy trên đƣờng bên, 22 – 25 hàng vảy dƣới đƣờng bên. Răng cá hình tròn, số
lƣợng khoảng từ 28 đến 32 răng mỗi hàm.
1.1.2 Đặc điểm phân bố
Cá Khoang Cổ Nemo cũng nhƣ các loài cá Khoang Cổ khác là một loài cá biển
nhiệt đới. Chúng phân bố chủ yếu ở phía Tây Bắc nƣớc Úc, khu vực Đông Nam Á
và phía Bắc quần đảo Ryukyu của Nhật Bản.
Ở Việt Nam, cá Khoang cổ Nemo chỉ mới đƣợc phát hiện trong thời gian gần
đây ở vùng đảo Trƣờng Sa (năm 2009) với số lƣợng rất ít. Đặc biệt, chúng có khả
năng sống hội sinh với Hải Quỳ.
1.1.3 Một số đặc điểm sinh thái
a. Đặc điểm môi trƣờng sống
Hầu hết các loài cá Khoang Cổ sống ở vùng ven bờ. Myers (1991; dẫn theo Hà
Lê Thị Lộc, 2005) ghi nhận rằng loài Amphiprion sp sống ở độ sâu 1 – 55 m, trong
đó cá Khoang Cổ Nemo phân bố nhiều ở độ sâu từ 1 – 15 m. Nhiệt độ của vùng
phân bố trong khoảng 26 – 28
o
C ; khoảng độ mặn dao động từ 32 – 35 ‰. Đây là
những loài cá rạn san hô nên thích nghi đời sống hẹp nhiệt, hẹp muối. Chất đáy ở
vùng phân bố là san hô, đá, cát, hoặc cát sỏi.
b. Đặc điểm hội sinh với Hải Quỳ
 Đặc điểm của Hải Quỳ
Hải Quỳ là một động vật biển thuộc lớp san hô Anthozoa, nằm trong ngành
ruột khoang Coelenterata. Hình dạng của Hải Quỳ giống nhƣ một đóa hoa với hàng
trăm cánh. Thực chất các cánh là các xúc tu của Hải Quỳ. Đó là những chiếc vòi vô
cùng lợi hại bởi trên bề mặt có các tế bào nhỏ li ti chứa độc tố Parasitoxin (Mebs,
1994) có thể gây tê liệt cho những loài cá khác. Mebs (1994) nghiên cứu thấy rằng
độc tố của Hải Quỳ có thể gây giảm lƣợng hồng cầu trên cơ thể ngƣời; chúng tác

6

động lên các tơ mang của cá và có thể gây chết cá. Hải Quỳ thƣờng sống ở những
vùng biển có chất đáy san hô, đá, cát hoặc sỏi cát.
Hải Quỳ là một sinh vật chậm chạp, hầu nhƣ rất ít di chuyển ra khỏi vật bám.
Hải Quỳ rất háu ăn và thức ăn của chúng là cá nhỏ, nhím biển, các loài giáp xác,
chất hữu cơ. Hoạt động bắt mồi thƣờng diễn ra vào ban đêm. Hải Quỳ bắt mồi và
tiêu hóa con mồi bằng các xúc tu.
Hải Quỳ là loài sinh sản vô tính. Một ổ Hải Quỳ có thể tách ra thành nhiều
nhánh nhỏ và từ những nhánh nhỏ đó có thể phát triển thành nhiều cơ thể mới có
kích thƣớc nhỏ hơn (Dƣơng Thụy Hoàng Yến, 2005).
 Đặc điểm hội sinh giữa cá Khoang Cổ và Hải Quỳ
Cá Khoang Cổ nói chung và cá Khoang Cổ Nemo nói riêng có một khả năng
đặc biệt là sống hội sinh đƣợc với các loài Hải Quỳ. Một số loài Hải Quỳ mà cá
Khoang Cổ Nemo có thể sống hội sinh nhƣ : Heteractis magnifica, Stichodactyla
gigantean và Stichodactyla mertensii. Tuy nhiên, đôi khi có những cụm Hải Quỳ
không có cá Khoang Cổ nhƣng chúng vẫn sống và phát triển tốt (Eibl-Eibesfeldt,
1965). Cá Khoang Cổ thƣờng nằm trên cơ thể Hải Quỳ vào ban đêm mà không bị
thƣơng tổn (Mebs, 1994) mặc dù các xúc tu Hải Quỳ có chứa độc tố. Hai nhân tố
đóng góp vào sự “miễn dịch” của cá đó là tập tính bơi nhấp nhô rất đặc trƣng và
những chất đặc biệt có trong lớp màng nhầy ở da cá. Cá hƣớng tới Hải Quỳ và bơi
lƣợn xung quanh trong thời gian 10 – 15 phút rồi chạm dần cơ thể vào các xúc tu
của Hải Quỳ, trƣớc tiên là phần bụng, sau đó là toàn bộ vây bụng, vây hậu môn. Các
xúc tu Hải Quỳ dính vào các vây cá rồi mới lỏng và nhả ra. Dần dần cá bơi vào và
nằm trên thân của Hải Quỳ, lúc này các xúc tu không còn bám vào cơ thể cá (Allen,
1972). Mặt khác, nghiên cứu của Lubbock (1980) cho thấy lớp màng nhầy trên da
cá Khoang Cổ dày hơn gấp 3 – 4 lần những loài cá cùng họ nhƣng không hội sinh
đƣợc với Hải Quỳ. Thành phần hóa sinh của hai loại chất nhầy cũng khác nhau,
trong chất nhầy cá Khoang Cổ có chứa hàm lƣợng lớn glycoprotein chứa trong
polysaccharide, có thể trung hòa độc tố của Hải Quỳ.

7


Hình 1.2 Cá Khoang Cổ Nemo sống hội sinh với Hải Quỳ H. magnifica

Trong tự nhiên, đời sống của cá Khoang Cổ Nemo bị lệ thuộc hoàn toàn vào
Hải Quỳ (Fautin và Allen, 1992). Những thí nghiệm ngoài tự nhiên đã đƣợc tiến
hành khi khi tách rời cá Khoang Cổ ra khỏi Hải Quỳ, chúng nhanh chóng bị các
địch hại nhƣ cá Mú hay cá Hồng ăn thịt ngay (Allen, 1972). Nhƣng trong điều kiện
nuôi nhốt thì cá Khoang Cổ Nemo vẫn có thể sống tốt mà không cần có sự hiện diện
của Hải Quỳ.
Nhờ vào các xúc tu của Hải Quỳ mà cá Khoang Cổ đƣợc bảo vệ an toàn, tránh
đƣợc sự tấn công của các loài ăn thịt khác. Mặt khác, cá Khoang Cổ cũng bảo vệ
Hải Quỳ tránh khỏi sự tấn công của một số loài cá san hô thích ăn bọn động vật ruột
khoang. Độc tố chứa trong các tế bào nhỏ li ti trên bề mặt xúc tu Hải Quỳ có thể
tách bọn kí sinh ngoài da giúp cá sống khỏe mạnh. Mariscal (1970) đã thấy rằng
những cá Khoang Cổ nuôi nhốt không có Hải Quỳ thƣờng dễ bị nhiễm bệnh hơn.
Ngƣợc lại, các xúc tu của Hải Quỳ luôn đƣợc “tỉa tót” sạch sẽ, khỏe mạnh nhờ vào
cá Khoang Cổ (Davenport, 1958).
Mariscal (1970; dẫn theo Hà Lê Thị Lộc, 2005) cho rằng các xúc tu của Hải
Quỳ kích thích lên cơ quan cảm giác của cá Khoang Cổ tạo điều kiện tốt đối với sức
khỏe của cá. Do đó, trong điều kiện nuôi nhốt không có sự hiện diện của Hải Quỳ,
8

cá đã cố gắng tạo cho mình những cảm giác tƣơng tự nhƣ tắm mình trong các bọt
sục khí, trong các lọ hoa, gạch men đƣợc đặt trong bể.
1.1.4 Đặc điểm sinh trƣởng
Cá Khoang Cổ có tốc độ sinh trƣởng tƣơng đối chậm. Theo Fautin và Allen
(1992), tuổi thọ của chúng ngoài tự nhiên đƣợc xác định từ 6 – 10 tuổi nhƣng trong
nuôi nhốt chúng có thể sống trên 18 năm. Cá thành thục lần đầu tiên sau 6 tháng

tuổi. Con cái lớn hơn con đực.
Về sinh trƣởng, cá Khoang Cổ có sự sinh trƣởng khác nhau tùy loài và ngay cả
những cá thể trong cùng một loài cũng có sự khác biệt. Giai đoạn cá con non và tiền
sinh trƣởng có tốc độ tăng trƣởng nhanh nhất (Ochi, 1985; dẫn theo Hà Lê Thị Lộc,
2005). Theo thí nghiệm của Allen (1972) cho thấy trong cùng một đàn cá nuôi,
những con cá lớn có tốc độ sinh trƣởng nhanh hơn những con cá nhỏ do chúng cạnh
tranh thức ăn mạnh mẽ hơn. Kích thƣớc của sinh vật hội sinh Hải Quỳ cũng ảnh
hƣởng đến tăng trƣởng của cá Khoang Cổ. Cá sống với Hải Quỳ kích thƣớc lớn sẽ
tăng trƣởng nhanh hơn cá sống với Hải Quỳ kích thƣớc nhỏ. Cá Khoang Cổ
Amphiprion tricinctis sống với Hải Quỳ Radianthus simplex có kích thƣớc nhỏ thì
tốc độ sinh trƣởng chậm hơn so với cá khi sống với loài Hải Quỳ có kích thƣớc lớn
Stoichatis giganteum.
1.1.5 Đặc điểm dinh dƣỡng
Cá Khoang Cổ có tập tính ăn ngày và ngừng dinh dƣỡng vào ban đêm. Ngoài
tự nhiên, cá Khoang Cổ dành phần lớn thời gian vào việc tìm kiếm thức ăn
(Haschick, 1998). Thành phần thức ăn chủ yếu của cá Khoang Cổ là sinh vật phù du
với 4 nhóm chính là ngành tảo Đỏ (giống Hypnea), ngành tảo Lục (loài Schizothrix
mexicana), nhóm động vật chân Chèo Calanoida (Paracaudacia truncata) và bộ
Harparticoida (Tisbe furcata). Thức ăn không bắt buộc của cá Khoang Cổ là
Tunicata, Amphipoda, Isopoda, Mollusca, trứng cá, giun Theo Allen (1972), trứng
cá Khoang Cổ cũng có thể có trong dạ dày của những cá đang chăm sóc tổ. Những
9

trứng không thụ tinh, bị thoái hóa hoặc bị chết sẽ đƣợc cá bố mẹ nhặt ra và tiêu hóa
trong suốt thời gian ấp nở.
Trong nghiên cứu của Hà Lê Thị Lộc (2005), phân tích thành phần thức ăn của
cá Khoang Cổ Đỏ ở vùng biển Khánh Hòa cho thấy chúng là loài ăn tạp. Thành
phần thức ăn chủ yếu là Copepoda chiếm 34,61%, tiếp theo là trứng cá các loại
chiếm 11,2%. Ngoài ra còn nhiều chủng loại thức ăn khác đƣợc tìm thấy trong dạ
dày cá nhƣ Bivalvia, Gastropoda, Nematoda, Isopoda, Amphipoda, Cladocera,

Mycidacea thậm chí cả trứng cá Khoang Cổ.
Mariscal (1970) đã phân tích dạ dày loài cá Amphiprion akallopisos và tìm thấy
tảo Zooxanthellae (sống cộng sinh trên các xúc tu Hải Quỳ) với số lƣợng đáng kể. Có
lẽ, cá Khoang Cổ đã sử dụng một phần chất dinh dƣỡng trên những xúc tu Hải Quỳ.
Tóm lại, cá Khoang Cổ là loài cá ăn tạp. Thức ăn chủ yếu có nguồn gốc sinh
vật nổi, phổ thức ăn tƣơng đối rộng và chuỗi thức ăn ngắn. Đặc biệt, trong điều kiện
nuôi nhốt và thuần hóa, cá Khoang Cổ Nemo có khả năng ăn thịt tôm, mực, cá, con
ruốt, trùn chỉ (nƣớc ngọt) và thức ăn tổng hợp.
1.1.6 Đặc điểm sinh học sinh sản
a. Giới tính
Những nghiên cứu của Allen (1972) và Wootton (1995) cho thấy cá Khoang
Cổ thuộc nhóm cá lƣỡng tính với tính đực có trƣớc. Điều này có nghĩa là tất cả cá
Khoang Cổ nhỏ đều là con đực, đến một kích thƣớc nào đó và gặp điều kiện thích
hợp thì một số con sẽ chuyển sang cá cái. Khi con cái bị chết hoặc biến mất vì một
lý do nào đó, con đực thành thục sinh dục (con lớn nhất trong đàn) sẽ chuyển đổi
giới tính để thành con cái. Con đực lớn thứ hai chƣa thành thục sinh dục sẽ nhanh
chóng phát triển thành con đực thành thục sinh dục và kết cặp với con cái đó.
Những con đực còn lại trong “quần đàn” bị ức chế bởi sự kết cặp đực cái đã thành
thục ở trên, sự tăng trƣởng bị kìm hãm và chúng thƣờng không thành thục sinh dục
(Ochi, 1985; dẫn theo Hà Lê Thị Lộc, 2005). Theo Ross (1990), cơ chế thay đổi
giới tính của cá Khoang Cổ mang tính chất có tổ chức xã hội và tùy thuộc vào khả
10

năng kết cặp của cá. Ngoài ra, nó còn tùy thuộc vào sự phân bố nguồn lợi cá về
không gian và thời gian.
Theo Hattori (1991), sự chuyển đổi giới tính của cá Khoang Cổ theo ba chiều
hƣớng sau:
(1) Con đực chƣa trƣởng thành  con cái chƣa trƣởng thành  con cái
trƣởng thành.
(2) Con đực chƣa trƣởng thành  con đực trƣởng thành  con cái trƣởng

thành.
(3) Con đực chƣa trƣởng thành  con đực trƣởng thành.
b. Sức sinh sản và chu kỳ tái sinh sản
Theo Allen (1972), số lƣợng trứng trung bình của cá Khoang Cổ trong một lần
đẻ là 100 – 1000 trứng/cá thể cái, phụ thuộc vào kích thƣớc và tuổi cá. Đối với loài
Amphiprion chrysopterus là 400 trứng; khoảng cách của mỗi lần đẻ là một tháng.
Do đó, ông ƣớc tính số trứng loài cá này đẻ đƣợc trong một năm là 3000 – 5000
trứng. Ông cũng đã ƣớc tính sức sinh sản của Amphiprion percula trong điều kiện
nuôi nhốt là 5000 trứng/năm, với số lần sinh sản định kỳ 2 lần/tuần và với hai tháng
ngừng sinh sản (tháng 10 và tháng 11).
Nghiên cứu của Ross (1990) cho rằng loài Amphiprion melanopus có thể sinh
sản 2 lần/tháng với số lƣợng trứng mỗi lần đẻ 200 – 400 trứng và ông ƣớc tính sức
sinh sản của loài này là 7200 trứng/năm đối với một cặp cá trƣởng thành.
Theo Ochi (1985), loài Amphiprion clarkii sinh sản từ 6 – 8 lần mỗi năm. Số
lƣợng trứng trong mỗi ổ dao động từ 1000 – 2500 trứng và ông ƣớc tính sức sinh
sản thực tế của loài cá này là 8000 – 17500 trứng/năm.
Năm 2005, những nghiên cứu của Hà Lê Thị Lộc trên loài cá Khoang Cổ Đỏ
Amphiprion frenatus ở vùng biển Khánh Hòa cho thấy sức sinh sản tuyệt đối của
loài này là 3006 trứng/cá cái. Sức sinh sản tƣơng đối trung bình là 89 trứng/g cá cái.
Sức sinh sản thực tế dao động trong khoảng 441 – 991 trứng/lần đẻ.
11

c. Tập tính sinh sản và ấp nở
Ở vùng biển nhiệt đới, cá Khoang Cổ có khả năng sinh sản quanh năm. Ở vùng
biển cận nhiệt đới (Nhật Bản), cá Khoang Cổ thƣờng sinh sản vào mùa xuân và mùa
hè khi nhiệt độ nƣớc lên cao nhất (Allen, 1972; Ross, 1978; Ochi, 1985). Theo phân
tích của Hà Lê Thị Lộc (2005), cá Khoang Cổ Đỏ ở vùng biển Khánh Hòa có khả
năng sinh sản quanh năm nhƣng tập trung từ tháng 1 đến tháng 8, đỉnh cao là từ
tháng 3 (69,70%) đến tháng 5 (72,73%).
Những nghiên cứu của Allen (1972) và Ochi (1985) cho thấy sự sinh sản của cá

Khoang Cổ thể hiện nhịp sinh học, bị chi phối bởi chu kỳ trăng và thủy triều trong
tháng. Cá thƣờng đẻ trong khoảng thời gian 6 ngày trƣớc hoặc sau kỳ trăng tròn.
Ánh sáng trăng có thể là một tín hiệu đến kỳ sinh sản của cá. Trứng cá nở vào ban
đêm khi thủy triều lên nhƣ một cơ chế thích nghi nhằm lẩn tránh địch hại. Vì ấu
trùng mới nở có tính hƣớng quang nên ánh sáng trăng hƣớng chúng bơi lên bề mặt
nƣớc. Từ đó, chúng có thể đƣợc phát tán đi xa bởi sóng và dòng chảy khi triều lên.
Tuy nhiên, Hà Lê Thị Lộc (2005) lại nhận thấy trong điều kiện bể nuôi, cá Khoang
Cổ Đỏ không bị ảnh hƣởng bởi chu kỳ trăng tròn. Với điều kiện chăm sóc tốt, một
cặp cá bố mẹ có thể tham gia sinh sản liên tục, mỗi đợt cách nhau 11 – 14 ngày.
Đối với cá Khoang Cổ, khi một con đực bắt cặp với một con cái, mối quan hệ rất
chặt chẽ. Fricke (1983) đã ghi nhận lại rằng mặc dù có nhiều cá thể đơn lẻ sống trong
cùng khu vực nhƣng chúng vẫn luôn “chung thủy” với nhau. Vài ngày trƣớc kỳ sinh
sản, chúng có những biểu hiện tăng cƣờng về các hoạt động nhƣ xua đuổi, vây dựng
đứng và chuẩn bị tổ. Con đực luôn phô diễn, xòe rộng các vây ngực, vây bụng, vây
hậu môn và luôn ở vị trí phía trƣớc hoặc bên cạnh con cái. Trong thời gian này, con
đực lựa chọn địa điểm làm tổ, thƣờng trên một tảng đá cạnh Hải Quỳ. Con đực sẽ dọn
sạch các rong tảo và vật bẩn bằng miệng. Sau đó, chúng hoạt động kết cặp. Tuy nhiên
trong điều kiện nuôi nhốt, cá có thể đẻ trên các vật liệu nhân tạo nhƣ lọ cắm hoa, tấm
gạch men, thậm chí đôi khi chúng có thể sinh sản ngay trên mặt gƣơng của bể kính
mà không cần có sự hiện diện của Hải Quỳ (Hà Lê Thị Lộc, 2005).
12

Moyer và Bell (1976) cho rằng, cá Khoang Cổ cái thƣờng làm sạch tổ một
ngày trƣớc khi chúng tiến hành sinh sản. Sự đẻ trứng thƣờng đƣợc thực hiện vào
buổi sáng và kéo dài từ 30 phút đến hơn 2 giờ. Theo Ross (1990), sự sinh sản bắt
đầu khi mặt trời lên từ 2 – 3 tiếng và kéo dài khoảng 1 giờ 30 phút. Thời điểm này,
ống dẫn trứng của con cái lộ rõ. Trứng đƣợc đẩy ra khi con cái bơi chậm theo một
đƣờng zíc zắc và bụng con cái chà xát lên bề mặt tổ, theo sát sau là con đực có
nhiệm vụ tƣới tinh cho trứng. Trong suốt thời gian ấp trứng, tổ đƣợc bảo vệ và
chăm sóc cẩn thận. Cá bố mẹ xua đuổi những con vật khác đến gần. Con đực

thƣờng xuyên dùng miệng loại bỏ những trứng chết, những chất bẩn ra khỏi tổ và sử
dụng vây ngực để quạt trứng, nhƣng chúng không chăm sóc trứng vào ban đêm.
Trứng mới đẻ có màu vàng cam, hình elip, có cuống ngắn đính vào tổ đẻ.
1.1.7 Ảnh hƣởng của các yếu tố sinh thái đến sinh trƣởng và tỷ lệ sống của cá
Khoang Cổ Nemo
a. Nhiệt độ
Nhiệt độ đƣợc coi là yếu tố sinh thái quan trọng ảnh hƣởng trực tiếp hoặc gián
tiếp lên sự sinh trƣởng và tỷ lệ sống của cá. Cá là động vật biến nhiệt nên cơ thể
chịu ảnh hƣởng của nhiệt độ môi trƣờng rất lớn, nhiệt độ cơ thể thay đổi theo nhiệt
độ môi trƣờng (Mai Đình Yên, 1979). Quá trình hấp thụ thức ăn và trao đổi chất
chịu ảnh hƣởng của nhiệt độ. Trong một phạm vi giới hạn, nhiệt độ càng lớn thì tốc
độ hấp thụ chất dinh dƣỡng và quá trình trao đổi chất diễn ra càng nhanh.
Theo Bùi Lai (1985), có tồn tại một giới hạn nhiệt độ thấp nhất trên mức đó
mới có sự sinh trƣởng và một giới hạn cao nhất trên mức đó không có sự sinh
trƣởng, cá bị chết. Cá Khoang Cổ sinh trƣởng tốt nhất ở điều kiện nhiệt độ trong
khoảng 26 – 28
o
C.
b. Độ mặn
Cũng nhƣ nhiệt độ, độ mặn là một yếu tố sinh thái có mối quan hệ mật thiết với
đời sống của thủy sinh vật. Mỗi loài sinh vật có thể sống và sinh trƣởng trong phạm
vi giới hạn độ mặn thích hợp. Trong giới hạn thích hợp, cá thích nghi với độ mặn
13

thông qua quá trình điều hòa áp suất thẩm thấu. Ngoài phạm vi giới hạn đó, các loài
sinh vật sẽ không duy trì đƣợc sự sống và cá Khoang Cổ Nemo cũng vậy.
Theo Vũ Trung Tạng (1997), độ mặn ảnh hƣởng đến các phản ứng sinh hóa và
sự trao đổi chất xảy ra trong cơ thể sinh vật. Khả năng chống chịu với sự thay đổi
độ mặn giảm khi nhiệt độ môi trƣờng tăng.
Cá Khoang Cổ Nemo là loài cá san hô nên chúng thích nghi với đời sống hẹp

nhiệt, hẹp muối. Chúng sinh trƣởng và phát triển tốt nhất trong điều kiện độ mặn
dao động khoảng 30 – 35 ‰ (Allen, 1972).
c. Mật độ
Theo Vũ Trung Tạng (1997), mật độ ảnh hƣởng đến sự hô hấp, dinh dƣỡng,
sinh sản và nhiều chức năng khác của từng cơ thể trong quần đàn. Mật độ quá cao
gây suy giảm điều kiện sống về không gian, nguồn thức ăn từ đó ảnh hƣởng đến tỷ
lệ sống, tốc độ sinh trƣởng, màu sắc cá Mật độ quá thƣa sẽ gây khó khăn trong
việc tìm đồng loại trong tự nhiên và giảm hiệu quả kinh tế trong nuôi nhân tạo.
Ngoài tự nhiên, có thể bắt gặp từ 1 – 5 con cá Khoang Cổ sống với một ổ Hải Quỳ.
1.2 Tình hình nghiên cứu cá Khoang Cổ trên thế giới
Từ năm 1980 đến nay, một số nƣớc đã cho sinh sản nhân tạo thành công các
loài cá Khoang Cổ có hoặc không có sinh vật hội sinh Hải Quỳ. Tại Đức,
Neugebauer (1969) đã cho sinh sản loài Amphiprion akallopisos và loài A.
ephippium. Thể tích bể nuôi là 400 lít với sự hiện diện của Hải Quỳ Stichodactyla
giganteum. Trong 6 tháng, một cặp A. akallopisos sinh sản 14 lần và cặp
A. ephippium sinh sản đƣợc 10 lần (Fautin et al, 1992). Đến năm 1985, tại Berlin,
các nhà khoa học cũng đã thành công khi cho sinh sản thêm 3 loài A. clarkii,
A. ocellaris (Kaiser, 1988) mà không có Hải Quỳ trong hệ thống nuôi với tỷ lệ sống
cá con thấp (khoảng 10%) và đã ƣơng nuôi đàn cá con đến kích thƣớc thƣơng mại.
Tại Pháp, Alayse (1983) cũng đã nuôi ấu trùng cá A. ocellaris bằng Luân trùng
(Brachionus plicatilis) và Nauplii của Artemia. Chất lƣợng của Luân trùng đƣợc
14

nâng cao bằng cách bổ sung thức ăn khô vào bể nuôi. Phƣơng pháp này đã cải thiện
tỷ lệ sống của ấu trùng từ 5% lên 40% sau 30 ngày nuôi.
Ở Bỉ, Đại học Tổng hợp Rhodes cũng đã cho sinh sản nhân tạo thành công 4
loài cá Khoang Cổ A. ocellaris, A. percula, A. clarkii và A. biaculeatus với chu kỳ
tái sinh sản là 14 ngày (Haschick, 1998).
Tại Nga, các nhà khoa học đã cho sinh sản nhân tạo thành công 5 loài cá
Khoang Cổ A. ephippium, A. melanopus, A. ocellaris, A. polymnus và A. frenatus

với sự hiện diện của Hải Quỳ. Luân trùng B. plicatilis đã đƣợc dùng làm thức ăn
cho giai đoạn đầu tiên của cá. Thức ăn cho Luân trùng là tảo. Theo nghiên cứu, sự
làm giàu dinh dƣỡng của Luân trùng bằng nhiều loài tảo đã nâng cao tỷ lệ sống của
cá con so với chỉ sử dụng một loài tảo Nannochloropsis sp. từ 12,5% lên 52%.
Từ năm 2000 đến nay, Thái Lan cũng tiến hành cho sinh sản nhân tạo thành
công 6 loài cá Khoang Cổ A. frenatus, A. clarkii, A. polymnus, A. perideration, A.
sandaracinos và A. ocellaris.
Mặc dù những nƣớc trên đã nghiên cứu sinh sản nhân tạo và ƣơng nuôi thành
công một số loài cá Khoang Cổ bằng các phƣơng pháp khác nhau nhƣng tỷ lệ sống
của đàn cá con vẫn còn thấp và chƣa khép kín đƣợc vòng đời của chúng trong hệ
thống nuôi.
1.3 Tình hình nghiên cứu cá Khoang Cổ ở Việt Nam
Việt Nam đã xác định có 7 loài cá Khoang Cổ, trong đó 6 loài xác định đƣợc
tên và một loài chƣa xác định. Toàn bộ cá Khoang Cổ phân bố ở nƣớc ta đều thuộc
giống Pomacentridae. Hiện nay, nguồn lợi cá Khoang Cổ trong tự nhiên rất ít, nhu
cầu thị trƣờng trong và ngoài nƣớc rất lớn nên áp lực khai thác ngày càng cao làm
cho các loài có nguy cơ biến mất khỏi tự nhiên.
Năm 1999, Phòng Bảo Tàng của Viện Hải Dƣơng Học đã tiến hành đề tài cấp
cơ sở “Nghiên cứu thành phần loài cá Khoang Cổ và Hải Quỳ vùng biển Nha Trang
15

– Khánh Hòa”. Kết quả đã xác định đƣợc vùng biển Nha Trang có sự hiện diện 5
loài cá Khoang Cổ, 8 loài Hải Quỳ và khả năng hội sinh giữa chúng.
Năm 2000 – 2001, Phòng Công Nghệ Nuôi Trồng của Viện Hải Dƣơng Học đã
tiến hành triển khai đề tài “Nghiên cứu cơ sở sinh thái phục vụ cho sinh sản nhân
tạo cá Khoang Cổ (Amphiprion sp.) vùng biển Nha Trang – Khánh Hòa”. Kết quả
đã thử nghiệm cho sinh sản nhân tạo cá Khoang Cổ Đỏ thành công, cung cấp đƣợc
hơn 2000 con giống với kích thƣớc 3 – 4 cm. Sau khi kết thúc, đề tài tiếp tục đƣợc
nghiên cứu và bổ sung số liệu, kết quả thu đƣợc hơn 6000 con giống. Tỷ lệ sống của
đàn cá 1 tháng tuổi tăng dần qua những đợt đẻ tiếp theo. Cá con 2 tháng tuổi đƣợc

xuất sang các nƣớc Châu Âu, mở ra một triển vọng mới cho sự phát triển nghề cá
cảnh biển ở miền Trung Việt Nam.
Năm 2008, Viện Hải Dƣơng Học đã thực hiện thành công “Hoàn thiện quy trình
sản xuất giống và nuôi thƣơng mại cá Khoang Cổ Đỏ (Amphiprion frenatus Brevoort,
1856)” và chuyển giao công nghệ cho các cơ sở chuyên kinh doanh cá cảnh.










16

CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Đối tƣợng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Loài cá Khoang Cổ Nemo (Amphiprion ocellaris Cuvier, 1830) giai đoạn 60
ngày tuổi, có nguồn gốc từ sinh sản nhân tạo và từ cùng một ổ trứng.
2.1.2 Địa điểm nghiên cứu
Trại thực nghiệm nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo thuộc Phòng Công
Nghệ Nuôi Trồng, Viện Hải Dƣơng Học, Nha Trang.
2.1.3 Thời gian nghiên cứu
Từ 09/03/2010 đến 09/05/2010.
2.2 Nội dung nghiên cứu
17



Hình 2.1 Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu

2.3 Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1 Nguồn nƣớc
Nƣớc đƣợc bơm trực tiếp từ biển đƣa lên bể chứa để lắng, lọc qua tầng lọc
cát. Sau đó, nƣớc đƣợc bơm vào bể chứa của trại. Ở đây, nƣớc đƣợc xử lý bằng
Chlorine 25 – 40 ppm. Sau 3 – 4 ngày, bơm nƣớc vào bể sử dụng. Trƣớc khi sử
dụng kiểm tra lƣợng Chlorine dƣ trong bể, trung hòa Chlorine dƣ bằng Thiosulphat.



Hình 2.2 Sơ đồ xử lý nƣớc
Thí nghiệm mật độ
Thí nghiệm thức ăn
Cá đƣợc nuôi ở các mật độ:
- 1 con / L
- 2 con / L
- 3 con / L
- 4 con / L
Các thành phần thức ăn:
- Thức ăn tổng hợp
- Copepoda
- Nauplii của Artemia
Định kỳ kiểm tra tốc độ sinh trƣởng và
tỷ lệ sống của cá
Kết luận: mật độ, thức ăn thích hợp
Cá Khoang Cổ Nemo 60 ngày tuổi
Bể bố trí thí nghiệm

Theo dõi tỷ lệ sống và
tốc độ sinh trƣởng
Nƣớc biển
Bể lọc thô
Bể chứa và
xử lý Chlorine
Bể trung hòa
Bể nuôi
18

2.3.2 Xác định các thông số môi trƣờng
Bảng 2.1 Dụng cụ đo các thông số môi trƣờng
Các thông số
môi trƣờng
Dụng cụ đo
Độ chính xác
Định kỳ thu mẫu
Nhiệt độ (
o
C)
Nhiệt kế rƣợu
1
o
C
1 ngày
Độ mặn (‰)
Khúc xạ kế
1‰
1 ngày
pH

Test so màu

1 ngày
DO
Test so màu

1 ngày
NH
4
+

Test so màu

7 ngày
NO
2
-

Test so màu

7 ngày

Bảng 2.2 Một số yếu tố môi trƣờng trong các bể thí nghiệm
Nhiệt độ (
o
C)
Độ mặn (‰)
pH
DO (ppm)
24 - 28

30 - 33
7,7 - 8,3
4,6 - 6

28
29
30
31
32
33
34
35
60 70 80 90 100 110 120
Tuổi cá (ngày)
Nhiệt độ (0C)
22
23
24
25
26
27
28
29
30
Độ mặn (ppt)
Độ mặn (ppt)
Nhiệt độ (0C)

Hình 2.3 Sự biến động nhiệt độ và độ mặn môi trƣờng bể thí nghiệm
19


7
7.2
7.4
7.6
7.8
8
8.2
8.4
8.6
8.8
9
60 70 80 90 100 110 120
Tuổi cá (ngày)
pH
3
3.5
4
4.5
5
5.5
6
6.5
DO (ppm)
pH
DO (ppm)

Hình 2.4 Sự biến động pH và hàm lƣợng Oxy hòa tan trong bể thí nghiệm
Nhìn chung các yếu tố môi trƣờng trong các bể thí nghiệm đều nằm trong giới
hạn cho phép, không gây ảnh hƣởng đến quá trình sinh trƣởng và phát triển của cá.

Các chỉ tiêu này tƣơng tự nhau ở tất cả các lô thí nghiệm do chế độ chăm sóc hằng
ngày của các lô nhƣ nhau.
Tuy nhiên, trong thí nghiệm thức ăn, ở các lô thức ăn tổng hợp, hàm lƣợng
NH
4
+
và NO
2
-
có xu hƣớng tăng cao hơn so với các lô thí nghiệm sử dụng các loại
thức ăn là Copepoda và Nauplii của Artemia. Do đó, ở các lô thí nghiệm sử dụng
thức ăn này, để giữ cho hàm lƣợng NH
4
+
và NO
2
-
không vƣợt quá ngƣỡng cho phép,
các bể phải thƣờng xuyên thay 150% lƣợng nƣớc mới trong ngày. Đối với các lô thí
nghiệm cho ăn Copepoda và Nauplii của Artemia còn lại thay 50% lƣợng nƣớc mới
trong ngày.
2.3.3 Thức ăn thí nghiệm
 Nauplii của Artemia
Trứng bào xác của Artemia đƣợc ấp trong xô 20 L với mật độ 2 g/L, nhiệt độ
24 – 28
o
C, độ mặn 25 - 35‰, pH 8 – 8,3 , sục khí mạnh liên tục từ đáy xô. Sau thời
gian ấp là 24 giờ, trứng nở thành ấu trùng Nauplii.
20


Khi ấu trùng Artemia đã nở hoàn toàn, ngƣng sục khí, che tối mặt xô. Vỏ trứng
sẽ nổi lên trên bề mặt nƣớc, trứng hỏng sẽ chìm xuống đáy xô. Thu ấu trùng Nauplii
của Artemia qua lƣới 125μm, rửa qua bằng nƣớc ngọt rồi bỏ vào xô nƣớc mặn mới.
Xử lý Formol 100ppm trong 5 phút. Sau đó thu lại Nauplii qua vợt, rửa sạch ấu
trùng bằng nƣớc biển đã lọc. Nauplii của Artemia không đƣợc làm giàu trƣớc khi
cho cá ăn.
Định lƣợng Nauplii của Artemia: Ấu trùng đƣợc đƣa vào ống đong có chia
vạch, khuấy đều, lấy nhanh ra một lƣợng nhất định đƣa vào buồng đếm động vật
thủy sinh. Tiếp theo, đƣa mẫu lên kính soi nổi để đếm. Mỗi mẫu đếm lặp lại 3 lần,
sau đó tính giá trị trung bình và quy ra số lƣợng cá thể có trong 1 L.
 Copepoda
Copepoda đƣợc thu vớt ở cầu Bình Tân – Nha Trang – Khánh Hòa. Mẫu đƣợc
thu bằng lƣới phiêu sinh với mắt lƣới 60 μm và cho vào bọc nilông có cung cấp
oxy. Mẫu sau khi thu đƣợc đƣa về trại thực nghiệm. Trƣớc khi cho cá ăn, Copepoda
đƣợc lọc sạch và xử lý bằng Iodine 1ppm trong 15 phút.
Phƣơng pháp định lƣợng Copepoda tƣơng tự nhƣ phƣơng pháp định lƣợng
Artemia. Sau đó, Copepoda đƣợc đem cho cá ăn.
 Thức ăn tổng hợp
Tại cơ sở thực tập sử dụng thức ăn tổng hợp Lansy. Trƣớc khi cho ăn, kiểm tra
bể thí nghiệm để đánh giá mức độ tiêu thụ thức ăn của cá. Từ đó, kỹ thuật viên ƣớc
lƣợng khối lƣợng thức ăn cần thiết phải cho ăn và điều chỉnh. Tuy nhiên, nếu cho cá
ăn vƣợt quá nhu cầu dinh dƣỡng thì lƣợng thức ăn thừa có thể gây suy giảm chất
lƣợng nƣớc. Song, cho cá ăn quá thiếu so với nhu cầu dinh dƣỡng của cá cũng gây
ảnh hƣởng không tốt đến sự tăng trƣởng. Vì vậy, việc kiểm tra tình hình sử dụng
thức ăn của cá trƣớc khi cho ăn là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ
thức ăn cho cá mà vẫn hạn chế tối đa thức ăn thừa.

×