Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

bước đầu thử nghiệm kỹ thuật ương nuôi và nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn, mật độ đến tỷ lệ sống của ấu trùng zoea cua xanh sylla paramamosain (estampador, 1949)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.15 KB, 43 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THUỶ SẢN




BƯỚC ĐẦU THỬ NGHIỆM KỸ THUẬT ƯƠNG NUÔI VÀ NGHIÊN CỨU ẢNH
HƯỞNG CỦA ĐỘ MẶN, MẬT ĐỘ ĐẾN TỶ LỆ SỐNG CỦA ẤU TRÙNG ZOEA CUA
XANH
Scylla paramamosain (Estampador, 1949)


Luận văn tốt nghiệp
Chuyên ngành Nuôi trồng Thủy sản, khoá 2001 – 2006












Nha Trang, tháng 11 năm 2005

Sinh viên thực hiện:

NGUYỄN VIỆT HÙNG


MSSV: 43D3036
Người hướng dẫn
TS. NGUYỄN ĐÌNH MÃO
KS. ĐOÀN VĂN TÙNG

2


LỜI CẢM ƠN


Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Chủ Nhiệm Khoa Nuôi
Trồng Thủy Sản và quý thầy cô giáo đã dạy dỗ tôi trong suốt thời gian tôi học tập tại
trường.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo TS. Nguyễn Đình Mão,
KS. Đoàn Văn Tùng là những người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong cả quá
trình thực hiện đề tài này.
Xin cảm ơn toàn thể cán bộ công nhân viên tại công ty TNHH Thủy sản Hoàn
Vũ-Ninh Thuận và tất cả bạn bè là những người đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong
quá trình thực hiện đề tài này.
Chính nhờ vào những sự giúp đỡ quý báu này mà tôi đã hoàn thành đợt thực tập
của mình một cách thành công. Tôi xin chân thành ghi nhận tất cả sự giúp đỡ nhiệt
thành trên và qua đây cho tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc.


Nha Trang, tháng11 năm 2005.
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Việt Hùng






3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: TỔNG LUẬN 3
1. Một vài nét về đối tượng nghiên cứu và tình hình sản xuất giống nhân
tạo cua Xanh 3
1.1. Đối tượng nghiên cứu 3
1.2. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo cua Xanh 8
2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của độ mặn đến tỷ lệ sống của
cua Xanh 11
3. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của mật độương nuôi đến tỷ lệ
sống của cua Xanh 13
PHẦN II: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
1. Đối tượng, đòa điểm và thời gian nghiên cứu 15
1.1. Đối tượng 15
1.2. Đòa điểm 15
1.3. Thời gian 15
2. Phương pháp nghiên cứu 15
2.1. Thiết bò và dụng cụ 15
2.2. Nguồn nước 15
2.3. Dụng cụ và phương pháp xác đònh các yếu tố môi trường 16
2.4. Phương pháp xác đònh mật độ tảo, Luân trùng, Artemia 16
2.5. Theo dõi thí nghiệm 16
3. Bố trí thí nghiệm 16
3.1. Thử nghiệm kỹ thuật ương nuôi ấu trùng Zoea cua Xanh 16
3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn đến tỷ lệ sống của

ấu trùng Zoea cua Xanh 17

4
3.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ đến tỷ lệ sống của ấu trùng
Zoea cua Xanh 18
4. Phương pháp tính toán và xử lý số liệu 18
4.1. Một số công thức tính toán 18
4.2. Phương pháp xử lý số liệu 19
PHẦN III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 20
1. Thử nghiệm kỹ thuật ương nuôi ấu trùng Zoea cua Xanh 20
1.1. Hệ thống bể ương ương nuôi ấu trùng 20
1.2. Chuẩn bò bể ương 20
1.3. Các yếu tố môi trường trong qúa trình ương nuôi 20
1.4. Mật độ ương nuôi 21
1.5. Các loại thức ăn và chế độ cho ăn 22
1.6. Quản lý và chăm sóc 24
1.7. Kết quả 24
2. Ảnh hưởng của độ mặn đến tỷ lệ sống của ấu trùng Zoea 25
3. Ảnh hưởng của mật độ ương nuôi đến tỷ lệ sống của
ấu trùng Zoea 30
PHẦN IV: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 34
1. Kết luận 34
2. Đề xuất ý kiến 34

TÀI LIỆU THAM KHẢO






5

DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 1: Các chỉ tiêu hình thái bên ngoài để căn cứ phân loại các giai
đoạn ấu trùng Zoea 7
Bảng 2: Các yếu tố môi trường trong bể ương 21
Bảng 3: Tỷ lệ sống của ấu trùng ở các bể ương 24
Bảng 4: Thời gian lột xác chuyển giai đoạn của ấu trùng ở các bể ương 24
Bảng 5: Một số yếu tố môi trường trong các xô thí nghiệm 26
Bảng 6: Tỷ lệ sống của ấu trùng Zoae ở các độ mặn khác nhau 27
Bảng 7: Thời gian lột xác chuyển giai đoạn của ấu trùng Zoea ở các độ
mặn khác nhau 29 29
Bảng 8: Tỷ lệ sống của ấu trùng Zoea ở các mật độ khác nhau 31














6


DANH MỤC CÁC HÌNH


Hình 1: Vòng đời của giống cua Xanh Scylla 6
Hình 2: Đồ thò tỷ lệ sống của ấu trùng Zoea ở các độ mặn khác nhau 28
Hình 3: Đồ thò tỷ lệ sống của ấu trùng Zoea ở các mật độ khác nhau 32


MỘT SỐ THUẬT NGỮ VÀ TỪ VIẾT TẮT

ctv: cộng tác viên
CW: chiều rộng giáp đầu ngực
Wtb: trọng lượng trung bình toàn thân
ppm: part per million
L: lít
HUFA : Highly unsaturated fatty acid









7
MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây nghề nuôi trồng thủy sản nhất là nuôi hải sản có
những bước phát triển mạnh. Ngoài tôm Sú thì một đối tượng khác đang được quan tâm

chú ý đối với nghề nuôi là cua Biển (Scylla sp). Với những ưu điểm nổi bật như: thích
nghi rộng muối, sinh trưởng nhanh, thòt thơm ngon, giá trò kinh tế cao, cua biển đã và
đang trở thành đối tượng nuôi hấp dẫn ở nhiều đòa phương trong cả nước như: Quảng
Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Cà Mau…
Ở Việt Nam cua biển phân bố ở hầu khắp các vùng biển ven bờ từ Móng Cái
đến Mũi Cà Mau. Nước ta với 445.000ha diện tích mặt nước ven biển và trên 370.000ha
mặt nước nằm trong vùng sinh thái rừng ngập mặn có khả năng đưa vào nuôi trồng thủy
sản nói chung và nghề nuôi cua biển nói riêng. Trong những năm qua nghề nuôi cua tuy
có những bước tiến đáng kể nhưng so với một số đối tượng nuôi khác vẫn còn nhiều hạn
chế. Nguyên nhân là do chưa đáp ứng đủ nhu cầu về con giống, nguồn giống hầu hết
được lấy ngoài tự nhiên. Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu sản xuất giống
nhân tạo cua biển nhưng hiệu quả vẫn chưa cao, tỷ lệ sống ở giai đoạn ấu trùng vẫn còn
thấp.
Để góp phần hoàn thiện quy trình ương nuôi ấu trùng cua biển đồng thời bước
đầu làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học, xử lý số liệu, áp dụng những kiến
thức đã học vào thực tiễn sản xuất. Trường Đại học Thủy Sản-Khoa Nuôi Trồng Thủy
Sản đã cho phép tôi thực hiện đề tài:
“ Bước đầu thử nghiệm kỹ thuật ương nuôi và nghiên cứu ảnh hưởng của
độ mặn, mật độ đến tỷ lệ sống của ấu trùng Zoea cua Xanh Sylla paramamosain
(Estampador, 1949)”.
Đề tài được thực hiện với các nội dung sau:
1. Bước đầu thử nghiệm kỹ thuật ương nuôi ấu trùng Zoea cua Xanh

8
2. Nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn đến tỷ lệ sống của ấu trùng Zoea cua
Xanh
3. Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ ương nuôi đến tỷ lệ sống của ấu trùng
Zoea cua Xanh.
Bước đầu làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học, những vấn đề nghiên
cứu còn mới mẻ, tài liệu tham khảo còn hạn chế nên không tránh khỏi những sai sót.

Em rất mong nhận được sự góp ý sửa chữa của quý thầy cô và các bạn.

Nha Trang, tháng 11 năm 2005

















Sinh viên thực hiện

Nguyễn Việt Hùng

9
PHẦN I
TỔNG LUẬN
1. Một vài nét về đối tượng nghiên cứu và tình hình sản xuất giống nhân
tạo cua Xanh
1.1. Đối tượng nghiên cứu

1.1.1. Vò trí phân loại
Ở Việt Nam cua Xanh phân bố rất rộng tuỳ theo từng đòa phương mà người ta
gọi tên khác nhau như: cua Xanh, cua Biển, cua Bùn, cua Chuối, cua Lửa, cua Sú… Khi
thu mẫu ở đồng bằng châu thổ sông Mêkong, Dr. Clive P.keenan kết luận: loài cua
Xanh sống ở khu vực sông Mêkong là loài Scylla paramamosain. Dựa vào bảng tra phân
loại của Dr. Clive P.keenan và cộng sự, Nguyễn Cơ Thạch và ctv cho rằng: ở Miền
Trung Việt Nam có thể có ba loài cua Xanh: S. paramamosain; S. olivacea; S.
tranquebarica, nhưng phổ biến là loài S. paramamosain (chiếm 98% trong tổng số mẫu
thu được) [ 2 ].
Hệ thống phân loại của đối tượng nghiên cứu trong đề tài này như sau:
Ngành :Arthropoda
Lớp: Crustacea
Lớp phụ: Nalacostraca
Bộ: Decapoda
Họ: Portunidae
Giống: Scylla
Loài: Scylla paramamosain (Estampador, 1949) [2]
1.1.2. Đặc điểm hình thái cấu tạo
Cua Xanh có tên tiếng Anh là Mud-crab, Green crab hay Mangrove crab. Cua
có kích thước tương đối lớn, toàn bộ cơ thể được bao bọc trong lớp vỏ kitin dày và có
màu xanh lục hay vàng sẫm. Cơ thể cua dẹp theo hướng lưng bụng và chia thành hai

10
phần. Phần đầu ngực lớn nằm trong giáp đầu ngực (mai cua), phần bụng nhỏ và gập lại
dưới giáp đầu ngực (yếm cua) [ 3 ].
- Phần đầu ngực [ 2,3 ]
Phần đầu và phần ngực của cua dính liền nhau, ranh giới giữa các đốt không rõ
ràng. Căn cứ vào phần phụ mang trên đó mà người ta biết được số đốt tạo thành.
+ Đầu: Gồm 5 đốt mang mắt, anten và các phần phụ miệng.
+ Ngực: Gồm 8 đốt mang các đôi chân hàm và chân bò.

Mặt lưng của phần đầu ngực được bao bọc trong giáp đầu ngực. Mé trước của
giáp đầu ngực chia thành ba đoạn phân cách bởi hai hố mắt (hố mắt mang mắt nằm trên
cuống mắt) hai đoạn mé bên có chiều dài bằng nhau, mỗi bên mé có 9 gai nhọn có kích
thước lớn dần theo thứ tự tính từ hố mắt, đoạn giữa hai hố mắt có 6 gai nhọn đều nhau.
Mặt trên của giáp đầu ngực phân chia thành từng vùng nhỏ ngăn cách bởi rãnh và gờ rõ
rệt. Phía trước là vùng trán kế tiếp là vùng dạ dày ngăn cách bởi hai gờ. Tiếp theo là
vùng tim, sau vùng tim đến vùng ruột. Hai bên vùng dạ dày là vùng gan, ngoài cùng là
vùng mang.
Mặt bụng của phần đầu ngực có các tấm bụng và làm thành vùng lõm ở giữa để
chứa phần bụng gập vào. Ở cua đực có hai lỗ sinh dục nằm ở gốc của đôi chân bò thứ 5
và dính vào đó một cơ quan giao cấu ngắn, ở cua cái có hai lỗ sinh dục nằm ở gốc đôi
chân bò thứ 3.
- Phần bụng: phần bụng dạng phiến mỏng có 7 đốt gập lại phía dùi phần đầu
ngực tạo cho cua có thân hình rất gọn. Phần bụng ở cua cái và cua đực có sự khác nhau,
con cái trước thời kì thành thục sinh dục (trước lột xác tiền giao vó) phần bụng (yếm) có
hình hơi vuông. Sau khi lột xác tiền giao vó yếm trở nên tròn, che phủ phần lớn mặt
bụng của phần đầu ngực. Các đốt bụng I, II và VII khớp động với nhau, các đốt khác bất
động. Chân bụng chẻ đôi biến thành chùm lông yếm để trứng đẻ ra bám vào đó.

11
Ở cua đực yếm hẹp hình chữ V, chỉ có các đốt I, II, VI thấy rõ, các đốt III, IV,
V liên kết với nhau. Chân bụng thoái hoá biến thành đôi giao cấu, phần cuối của bụng
là lỗ hậu môn.
1.1.3. Một số đặc điểm sinh học, sinh thái của cua Xanh
1.1.3.1. Tập tính sống và nơi cư trú [3, 6, 9]
Vòng đời cua Xanh trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có tập tính sống và
nơi cư trú khác nhau:
- Ấu trùng Zoea và Megalops sống trôi nổi nhờ dòng nước đưa vào ven bờ biến
thái thành cua con.
- Cua con sống bò trên nền đáy và đào hang để sống hoặc chui rúc vào gốc cây

bụi rậm, đồng thời với việc chuyển từ đời sống trong môi trường nước mặn sang nước lợ
ở rừng ngập mặn, vùng cửa sông hay cả vùng nước ngọt trong quá trình lớn lên.
- Cua lớn lên đến giai đoạn thành thục có tập tính di cư ra vùng nước có độ
mặn cao và ổn đònh hơn (30÷35‰) để sinh sản.
1.1.3.2. Tính ăn
Tính ăn của cua thay đổi tuỳ theo từng giai đoạn phát triển.
- Giai đoạn ấu trùng ăn tảo khuê, giun, ấu trùng giáp xác và nhuyễn thể.
- Từ giai đoạn cua con trở đi thì cua là loài ăn tạp như: rong, tảo, giáp xác,
nhuyễn thể, cá hay cả xác chết động vật. Cua con CW:2÷7cm chủ yếu ăn giáp xác, cua
CW:7÷13cm ăn nhiều bọn hai mảnh vỏ và động vật chân bụng, cua lớn hơn thường ăn
cua con và cá (Jayamane, 1991) [3, 9].
1.1.3.2 . Kích thước thành thục
Theo Ong K. S (1964÷1966) cua biển thành thục ở 5 tháng tuổi ứng với chiều
rộng giáp đầu ngực là 11,42cm. Ở Việt Nam theo Nguyễn Cơ Thạch và ctv (2000) hầu
như toàn bộ cá thể có chiều rộng giáp đầu ngực CW≥10cm, tương ứng với trọng lượng
trung bình toàn thân Wtb≥267g đều thành thục và có khả năng tham gia sinh sản [2].

12
1.1.3.4. Di cư sinh sản
Cua Xanh sống, sinh trưởng và phát triển ở vùng cửa sông, rừng ngập mặn, nơi
có độ mặn dao động từ 5÷20‰. Khi cá thể trưởng thành đạt kích thước thành thục
chúng có xu hướng kết đàn di cư ra ven biển, vùng cửa sông nơi có độ mặn cao và ổn
đònh (30÷35‰) để giao vó và sinh sản [2].
Mùa di cư có sự khác nhau tuỳ theo từng nơi: Ở vùng biển phía Nam nước ta
cua thường bắt đầu di cư vào tháng 7, 8 và mùa sinh sản chính bắt đầu từ tháng 10 đến
tháng 1÷2 năm sau. Tuy vậy cũng có thể bắt gặp cua ôm trứng sớm hơn vào tháng 7÷ 8.
Ở vùng biển phía Bắc cua thường di cư sớm hơn, thường gặp cua ôm trứng nhiều vào
các tháng 4÷7 [3].
1.1.3.5. Sinh trưởng của cua Xanh
Tuổi thọ của cua trung bình từ 2÷4 năm, qua mỗi lần lột xác trọng lượng của

cua tăng trung bình 40÷80%. Kích thước tối đa của cua biển có thể từ 19÷28cm với
trọng lượng từ 1÷3 kg/con. Thông thường trong tự nhiên cua có kích cỡ trong khoảng
7.5÷10.5cm. Với kích cỡ tương đương nhau về chiều dài hay chiều rộng giáp đầu ngực
thì cua đực nặng hơn cua cái [7].


1.1.4. Đặc điểm của giai đoạn ấu trùng Zoea cua Xanh
Hình 1: Vòng đời của giống cua Xanh
Scylla


13
Ấu trùng Zoea mới nở bơi tự do trong nước, cấu tạo cơ thể gồm hai phần: phần
đầu ngực và phần bụng. Phần đầu ngực có dạng hình bầu dục, có một đôi gai trán và
một gai lưng, hai gai đuôi ngắn, một đôi mắt kép chưa có cuống mắt, hai đôi anten, một
đôi hàm lớn, hai đôi hàm nhỏ và một đôi chân hàm. Phần bụng nhỏ, dài được chia thành
sáu đốt, đốt cuối cùng chẻ nhánh thành hai gai. Trong điều kiện sống thích hợp ấu trùng
Zoea trải qua năm lần lột xác tương ứng với năm giai đoạn phát triển để biến thái thành
ấu trùng Megalops. Có thể căn cứ vào các chỉ tiêu bên ngoài để phân loại các giai đoạn
ấu trùng Zoea [2].
Bảng 1: Các chỉ tiêu hình thái bên ngoài để căn cứ phân loại các giai đoạn ấu
trùng Zoea
Giai đoạn
phát triển
Đặc điểm bên ngoài
Kích thước
trung bình (mm)

Zoea 1


Zoea 2


Zoea 3


Zoea 4


Zoea 5
Đôi mắt kép màu đen, chưa có cuống mắt.
Kết thúc giai đoạn Zoea 1 từ 5÷6 ngày.
Giống như Zoea 1 nhưng khác nhau về kích
thước. Kết thúc giai đoạn Zoea 2 từ 4÷5 ngày.
Mắt đã lớn hơn, đã hình thành cuống mắt
nhưng chưa phân đốt, chưa có mầm chân bụng
Kết thúc giai đoạn Zoea 3 từ 3÷4 ngày.
Hình thành mầm chân bụng, cuống mắt đã
phân đốt. Kết thúc giai đoạn Zoea 4 từ 3÷4 ngày
Chân bụng phát triển chẻ đôi thành hai, mép
có lông tơ. Kết thúc giai đoạn Zoea 5 từ 3÷4
ngày.

1,25

1,53


1,93



2,75


3,67



Ấu trùng Zoea sống phù du trong nước, hoạt động nhờ chân hàm và sự co giãn
của phần bụng. Giai đoạn Zoea sử dụng thức ăn ngoài, ăn các loại tảo đơn bào, Luân
trùng (Brachionus), Nauplius của Artemia. Nhiệt độ nước thích hợp cho giai đoạn Zoea
là 26÷28
o
C (trung bình 28
o
C), độ mặn thích hợp là 28÷30‰ (trung bình 30‰), với các
điều kiện như vậy sau khoảng 16÷18 ngày sẽ kết thúc giai đoạn Zoea [3].

14
1.2. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo cua Xanh
1.2.1. Trên Thế giới
Công trình nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo cua biển đầu tiên được thực hiện
bởi Ong năm 1964 ở Malaysia, cho đến nay nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng sản
xuất giống nhân tạo cua biển đã được tiến hành [9].
Năm 1974 Brick, R.W. đã thử nghiệm tìm hiểu ảnh hưởng của chất lượng nước,
thuốc kháng sinh, phytoplankton và thức ăn đến tỷ lệ sống của ấu trùng cua Biển Scylla
serrata (Forscal, 1775). Qua kết qủa thu được tác giả kết luận: Ấu trùng cua biển đã
được nuôi thành công khi sử dụng phối hợp giữa thuốc kháng sinh-phytoplankton-
Nauplius của Artemia. Tảo Chlorella có tác dụng làm tăng tỷ lệ sống của ấu trùng Zoea.
Nauplius của Artemia được coi là thức ăn thích hợp nhất. Nhiệt độ nước từ 26÷28

o
C, độ
mặn 25÷30‰ và pH 7.0÷8.5 được coi là những điều kiện thích hợp để ương nuôi ấu
trùng cua Xanh (Cheng, H.C.; Zeng, K.H., 1980) [1, 2].
Năm 1983, Heasman, M.P. và Feilder, D.R. đã tiến hành cho đẻ ở phòng thí
nghiệm và nuôi đại trà cua Xanh từ giai đoạn Zoea đến cua bột, tác giả cho rằng cần
duy trì chất lượng nước bằng hệ thống lọc nước tuần hoàn, các điều kiện nhiệt độ nước
27
o
C, độ mặn 32‰, mật độ thức ăn (Nauplius của Artemia) từ 5÷30 con/lít được coi là
điều kiện thích hợp cho ương nuôi ấu trùng. Với các điều kiện như trên thì thời gian
chuyển giai đoạn từ giai đoạn Zoea đến cua bột là 30 ngày. Tỷ lệ sống của cua bột là
1÷4% [1, 2].
Ở Australia công trình sản xuất giống nhân tạo đầu tiên loài S. serrata
Queenland Department of Industries (DPI) tại vònh Deception (Anon, 1986; Gorland,
1988) cho thấy sự lột xác từ Zoea 5 sang Megalops là một chuyển biến đặc biệt quan
trọng, thường có tỷ lệ hao hụt cao. Dinh dưỡng không đầy đủ được xem là nguyên nhân
của tình trạng này. Các chuyên gia của DPI đã thành công trong việc hạ thấp tỷ lệ chết

15
từ 90% xuống dưới 50% trong ba ngày đầu sau khi nở và cũng đã sản xuất được cua bột
(Potter, M.Perscomm), tỷ lệ sống đến giai đoạn cua bột thấp từ 1÷2% [8].
Trên thế giới đã có những công trình nghiên cứu về vòng đời, các đặc tính sinh
lý, sinh hoá, kó thuật sinh sản nhân tạo, sự tác động của các yếu tố môi trường như: nhiệt
độ, độ mặn… đến sinh trưởng của cua biển. Tuy nhiên những mô tả đó có tính chất khái
quát, để áp dụng vào sản xuất đòi hỏi phải có những nghiên cứu cụ thể, chi tiết, phù hợp
với từng điều kiện sinh thái của từng vùng đòa lý và từng thủy vực (Nguyễn Cơ Thạch
và ctv, 2000).
1.2.2 . Ở Việt Nam
Nước ta có nguồn lợi cua biển phong phú, những năm gần đây do nhu cầu tiêu

thụ cua trong nước và xuất khẩu tăng nên cùng với việc khai thác nghề nuôi cua đã phát
triển ở nhiều đòa phương như: Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Thừa
Thiên Huế, Cà Mau. Tuy nhiên sản lượng cua thương phẩm có xu hướng giảm dần do
thiếu con giống, nguồn giống hầu hết được đánh bắt ngoài tự nhiên. Vì vậy việc sản
xuất giống nhân tạo đảm bảo đủ nhu cầu về con giống có ý nghóa hết sức quan trọng.
Ngay từ những năm 1980 Bộ Khoa Học Công Nghệ-Môi Trường và Bộ Thuỷ
Sản đã quan tâm và giao nhiệm vụ cho các Viện tiến hành nghiên cứu để tìm ra quy
trình sản xuất giống nhân tạo cua biển. Tuy nhiên ở thời điểm đó các tác giả như:
Serene, Starologatov, Nguyễn Văn Chung… chủ yếu tập trung nghiên cứu về đònh loại
loài và một số đặc điểm sinh học. Trong những năm đầu của thập kỷ 90 các tác giả như:
Hoàng Đức Đạt, Đoàn Văn Đẩu, Nguyễn Cơ Thạch đã tích cực nghiên cứu các đặc
điểm sinh học sinh sản và sản xuất giống với mong muốn tìm ra quy trình sản xuất
giống nhân tạo, song kết quả đạt được vẫn còn hạn chế (Nguyễn Cơ Thạch và ctv,
2000) [2].
Năm 1998 Trung Tâm Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản III (nay là Viện
Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản III) thực hiện đề tài “Nghiên cứu sinh sản nhân tạo

×