Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Hệ thống NHTMQD ở VN- Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.24 KB, 104 trang )

Lời nói đầu

1. Sự cần thiết của đề tài :
Vai trò của hệ thống NHTM Việt Nam trong nền kinh tế thị trường đã
được khẳng định từ khi hệ thống NHVN chuyển sang hệ thống Ngân hàng hai
cấp. Hệ thống NHTM là lực lượng nòng cốt trong hệ thống các tổ chức tín
dụng VN. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống NHTMVN không
ngừng đổi mới, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, tạo mọi điều kiện thuận lợi
đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp hoạt động trong nền
kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khi nền kinh tế ngày càng có xu
hướng mở cửa, nền tài chính quốc gia từng bước hoà nhập vào hệ thống tài
chính quốc tế thì hệ thống NHTMVN lại bộc lộ rất nhiều yếu kém. Sự yếu
kém ở đây không chỉ là sự yếu kém về công tác quản lý, cơ cấu tổ chức mà
còn nguy hại hơn là sự yếu kém về tình hình tài chính, một trong những điều
kiện quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của Ngân hàng. Nếu
những yếu kém trên không được khắc phục ngay thì hệ thống NHTMVN
không những không đảm nhận tốt vai trò trung gian tài chính mà còn có nguy
cơ phá sản, đe doạ đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh
tế quốc dân.
Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu hoạt động của hệ thống
NHTMQD là bộ phận đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống các NHTMVN, để
từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân
hàng này, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn
mới là việc làm cần thiết.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng đó, tôi đã chọn đề tài "Hệ
thống NHTMQD ở VN- Thực trạng và giải pháp" để nghiên cứu.
1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn :
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động của các
ngân hàng thương mại của các tác giả trong nước và quốc tế. Điển hình là
một số đề tài nghiên cứu như :


- Đề tài :"Những vấn đề cơ bản về hoàn thiện các tổ chức tín dụng ở
Việt nam..."
Mã số KNH/95-08-02 - Ngân hàng nhà nước Việt nam 12/2001.
Do tiến sĩ Lê Đình Thu và Nguyễn Đại Lai là chủ nhiệm Đề tài
- Đề tài : "Thiết lập các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh và bảo
đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại Việt nam"
Mã số KNH 2000-4 - Ngân hàng nhà nước Việt nam 2001
Do tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa là chủ nhiệm đề tài
- Đề tài : "Nghiên cứu giải pháp thực hiện chiến lược tổng thể phát triển
ngành ngân hàng Việt nam giai đoạn 2001-2010"
Mã số KNH 99-06 - Ngân hàng nhà nước Việt nam 12/2001
Do Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa, Tiến sĩ Nguyễn Đại Lai, Tiến sĩ Phạm Thuý Ngọc
và MA Nguyễn Sơn Tường làm chủ nhiệm đề tài
Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu khác được công bố trên
các tạp chí khoa học. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ dừng lại ở khía
cạnh phân tích các nghiệp vụ kinh doanh của NHTM hay về một khía cạnh
trong hoạt động của NHTM. Việc tập trung nghiên cứu một cách hoàn chỉnh
cả lý luận và thực tiễn về hệ thống NHTMQD ở VN còn chưa được chú ý
đúng mức.
3. Mục đích nghiên cứu :
- Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động của hệ thống NHTMQD
trong thời gian gần đây, qua đó làm rõ những thành tựu đã đạt được, những
hạn chế và những vấn đề đang đặt ra đối với hệ thống này. Luận văn cố gắng
đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống NHTMQDVN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu : Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động của
hệ thống NHTMQD với tư cách là bộ phận chủ chốt của hệ thống ngân hàng
Việt nam hiện nay.
2

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động của hệ thống
NHTMQD thời kỳ đổi mới kinh tế, đặc biệt là từ sau khi có pháp lệnh
Ngân hàng.
Luận văn không đi sâu nghiên cứu các hoạt động tác nghiệp của
NHTMQD, cũng như không đi sâu phân tích từng NHTMQD mà chỉ quan
tâm đến từng NHTMQD trong chừng mực góp phần làm rõ thực trạng hoạt
động của toàn bộ hệ thống NHTMQD.
5. Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Gắn với đối tượng nghiên cứu của đề tài, luận văn
chú trọng một số phương pháp cụ thể như phương pháp kết hợp phân tích và
tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê so sánh, dự báo .
6. Những đóng góp khoa học của luận án:
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về NHTM trong nền kinh tế thị
trường
- Đánh giá thực trạng hoạt động của hệ thống NHTMQD hiện nay, chỉ
ra những hạn chế của hệ thống này trong quá trình phát triển.
- Đề xuất các quan điểm và các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống NHTMQD trong giai đoạn mới.
7. Bố cục của luận văn :
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề chung về hoạt động của hệ thống NHTM
trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2 : Thực trạng hoạt động của các NHTMQD ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
hệ thống NHTMQD trong giai đoạn mới.
3
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG
NHTM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1 NHTM VÀ VAI TRÒ CỦA NHTM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. NHTM : Khái niệm và các loại hình
1.1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Thuật ngữ “ ngân hàng “ đã có từ rất lâu. Tiền thân của ngân hàng
chính là quá trình biến đổi trong hoạt động của những người chuyên làm nghề
dịch vụ kho quỹ, những người thợ vàng, thợ bạc và ngân hàng ra đời do sự
thúc đẩy khách quan của quá trình phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá và
hoạt động thương mại. Sự “lệch pha “ về mặt thời gian giữa thời hạn gửi tài
sản so với thời hạn mà người cầm giấy biên nhận cùng với một “khoản “ thù
lao cho người bảo quản đến “chuộc” tài sản đã tự nhiên trở thành quá trình
phân cực giữa “nguồn” (là tài sản của người gửi đồ nằm trong kho) với dấu
hiệu giá trị của nguồn tài sản đó (biểu hiện bằng giá trị danh nghĩa ghi trên
các giấy biên nhận gửi tài sản ) lưu hành trong xã hội.
Việc trả nợ bằng những giấy biên nhận làm cho quá trình thanh toán
đơn giản hơn rất nhiều và tiết kiệm cho những người trả nợ, nhận nợ. Vì
những người nợ không phải đến chỗ các thợ vàng, bạc trình biên lai rút ra số
tiền, vàng cần thiết để trả cho chủ nợ. Những người chủ nợ này ngay sau đó
lại lập tức gửi vào chỗ người thợ vàng của mình. Để giúp cho việc thanh toán
được thuận lợi, những người thợ vàng phát hành biên lai ở dạng tiện lợi, làm
cho người chủ sở hữu nó có thể dùng để chi trả và chuyển quyền sở hữu của
biên lai sang chủ mới. Chính sự tiện lợi đó đã tôn những giấy biên nhận lên vị
trí hàng đầu trong số các công cụ thanh toán đương thời (tiền đúc, vàng nén,
bạc thỏi...) Đó là tiền thân của tờ ngân phiếu và nghiệp vụ phát hành giấy bạc,
nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng ngày nay.
4
Những người thợ vàng sớm phát hiện ra rằng, những gì ký gửi cho họ
tương đối ổn định. Ở một thời điểm bất kỳ số lượng vàng, tiền được rút ra chỉ
chiếm một tỷ lệ nhỏ trong số tiền vàng họ giữ, hơn nữa trong khi một số
khách hàng rút tiền vàng ra khỏi kho của người thợ vàng, thì một số khác lại
gửi vào-đồng thời lại có rất nhiều người đang thiếu vốn để buôn bán sản xuất.

Những người thợ vàng có đầu óc kinh doanh đã nghĩ ra việc cho vay để lấy lãi
từ những khoản ký gửi ổn định bằng cách phát hành ra nhiều giấy biên nhận
hơn là số vàng dự trữ trong kho. Đó chính là tiền thân của nghiệp vụ tín dụng
ngân hàng ngày nay. Từ thời điểm này những người thợ vàng đã trở thành nhà
ngân hàng, bởi vì theo nghĩa bóng họ đã tạo ra tiền. Khái niệm hoạt động
ngân hàng theo tỷ lệ dự trữ đã được khai sinh.
Các ngân hàng như vậy tiếp tục hoạt động, những dịch vụ khác cũng
được phát triển theo : mua bán vàng bạc, ngoại tệ, tài khoản ký gửi...Các chủ
ngân hàng, dưới sự thôi thúc của động cơ lợi nhuận đã mở rộng tín dụng,
không chỉ với số tiền hiện có trong kho mà còn nâng lên đi vay để cho vay.
Sản xuất hàng hoá phát triển nhanh chóng, giao lưu hàng hóa ngày càng
mở rộng, làm phát sinh nhu cầu mua bán chịu hàng hóa và được ghi nhận
bằng thương phiếu. Chính thương phiếu là một công cụ nợ vừa mang tính
chất phương tiện thanh toán, vừa là công cụ tín dụng thương mại, đã tạo điều
kiện cho một loạt nghiệp vụ ngân hàng ra đời và phát triển: tài khoản ký gửi,
chiết khấu thương phiếu, tín dụng ngân hàng, thanh toán.
Kinh tế ngày càng phát triển, số lượng và quy mô của các ngân hàng
như vậy không ngừng tăng lên. Để có thể tồn tại trong bối cảnh đó, các ngân
hàng buộc phải tìm những biện pháp nâng cao chất lượng và uy tín của mình
trên thị trường như: giảm, miễn phí gửi tiền, trả lãi cho người có tiền gửi,
giảm lãi suất cho vay... Tức là thực thi một loạt biện pháp nhằm nâng cao
năng lực kinh doanh tiền tệ. Chính nhờ phản ứng tự hoàn thiện này, mà nhiều
ngân hàng sơ khai đã phát triển thành những ngân hàng thực thụ: ”Là nơi tập
trung tư bản tiền tệ của những người có tiền cho vay và người đi vay”[6, Tr
490]
5
Việc hệ thống lại quá trình ra đời và hình thành những hoạt động đầu tiên của
ngân hàng, cho phép ta khẳng định : Khởi tổ là dịch vụ đổi tiền cùng với sự
phát triển, đòi hỏi của nền kinh tế và giao lưu hàng hóa, ngân hàng đã dần
hình thành và hoàn thiện các nghiệp vụ của mình. Tuy nhiên do hoạt động

ngân hàng thương mại rất đa dạng, các thao tác trong từng nghiệp vụ ngân
hàng thường phức tạp và các vấn đề này lại luôn biến động theo sự thay đổi
chung của nền kinh tế. Mặt khác do tập quán, luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi
vùng lãnh thổ khác nhau đã dẫn đến quan niệm về ngân hàng thương mại
không thật đồng nhất.
Tuy nhiên xuất phát từ sự ra đời của ngân hàng, từ những chức năng cơ
bản của ngân hàng sơ khai người ta đã định nghĩa : Ngân hàng thương mại
là một tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ -tín
dụng. Nó cung cấp một số dịch vụ cho khách hàng và ngược lại nó nhận
tiền của khách hàng dưới hình thức khác nhau. [10,tr 254-255]
Kinh tế càng phát triển, hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
cũng phát triển theo và các chức năng của nó cũng được mở rộng, khi đó các
nhà kinh tế định nghĩa : NHTM là những trung gian tài chính có giấy phép
kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền và mở các tài khoản tiền gửi
kể cả các khoản tiền gửi mà dựa vào đó có thể sử dụng các tờ séc.
Ngày nay, trên toàn thế giới, ngân hàng là loại hình tổ chức trung gian
tài chính cung cấp các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô
lớn nhất. Trong mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên quan
trọng nhất trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương
phát hành để tài trợ các công trình công cộng. Ngân hàng cũng là một trong
những tổ chức tài chính cung cấp vốn lưu động quan trọng nhất cho các doanh
nghiệp, và trong những năm gần đây, ngân hàng đã tăng cường mở rộng cho
vay dài hạn đối với doanh nghiệp để hỗ trợ xây dựng nhà máy mới hay mua
sắm máy móc thiết bị mới. Ví dụ các ngân hàng Mỹ nắm giữ khoảng 1/3 tổng
tài sản của tất cả các tổ chức tài chính đóng trụ sở tại Mỹ.
Ở các nước khác, như Nhật Bản, các ngân hàng nắm giữ phần lớn tài
sản của phần lớn các tổ chức tài chính.
6
Rõ ràng, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua các chức năng (các
dịch vụ) mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ không chỉ

chức năng của các ngân hàng đang thay đổi mà chức năng của các đối thủ
cạnh tranh chính của ngân hàng cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất
nhiều tổ chức tài chính- bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán,
công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu
đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng
đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng
cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực hoạt động bất
động sản và môi trường chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư
vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ khác.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên
phương diện những loại hình dịch vụ mà nó cung cấp. Ở Mỹ người ta định
nghĩa về ngân hàng như sau : Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế
[26,tr 7]
Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng đã dẫn đến
việc chúng được gọi là các “Bách hóa tài chính” (financial department stores).
Dưới đây là các chức năng cơ bản của một ngân hàng hiện đại
7
Chức năng
uỷ thác
Chức năng
tín dụng
Ngân h ng hià ện đại
Chức năng
tiết kiệm
Chức năng
thanh toán
Chức năng lập

kế hoạch đầu

Chức năng
Ngân h ngà
đầu tư và
bảo lãnh
Chức năng
môi giới
Chức năng
bảo hiểm
1.1.1.2 Các loại hình NHTM trên thế giới [9]; [11; [12]
Ngày nay trên thế giới có nhiều loại hình NHTM khác nhau, có nhiều
tiêu chí để phân loại các NHTM như :
- Căn cứ vào chức năng chủ yếu, các ngân hàng được phân chia thành
ngân hàng đa năng hay ngân hàng chuyên doanh.
- Căn cứ vào hình thức sở hữu, các ngân hàng được phân chia thành
ngân hàng Nhà nước, ngân hàng cổ phần, ngân hàng tư nhân, ngân hàng liên
doanh, ngân hàng nước ngoài..
- Căn cứ vào quy mô và đối tượng khách hàng, các ngân hàng được
phân chia thành ngân hàng bán buôn hay ngân hàng bán lẻ..
Các loại hình ngân hàng kể trên chiếm ưu thế và đóng vai trò quan
trọng trong việc tạo ra cung tiền tệ ( khối lượng tiền tệ tăng giảm, chủ yếu là
do các ngân hàng này chi phối ).
Trong quá trình tiến hành kinh doanh, các ngân hàng sử dụng vốn chủ
yếu từ các nguồn tiền gửi và vay vốn qua phát hành trái phiếu. Trên cơ sở đó
các ngân hàng đã tiến hành hoạt động đầu tư nhằm đáp ứng những yêu cầu
đòi hỏi từ nền kinh tế. Chẳng hạn như : cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn
và các loại hoạt động đầu tư khác.
Trong nền kinh tế thị trường các mô hình ngân hàng thương mại được
tổ chức dưới một số hình thức sau:

* Ngân hàng kinh doanh đa năng
Là loại hình ngân hàng thực hiện tất cả các nghiệp vụ kinh doanh ngân
hàng: cho vay, thực hiện các nghịệp vụ giấy tờ có giá, nhận tất cả các loại tiền
gửi, làm tất cả các dịch vụ liên quan đến hoạt động ngân hàng..
Loại ngân hàng này có nhiều dạng: ngân hàng tư nhân (sở hữu của một
gia đình, sở hữu cá nhân , sở hữu của cổ đông), ngân hàng công (sở hữu nhà
8
Chức năng quản lý
tiền mặt
nước). Có ngân hàng ở tầm quốc gia, quốc tế, song cũng có ngân hàng chỉ có
tính chất khu vực.
Đặc điểm cơ bản của các ngân hàng này là : phong phú về các nghiệp
vụ, tiếp cận được nhiều loại khách hàng, khả năng phân tán rủi ro cao.
* Ngân hàng chuyên doanh
Ngược lại với ngân hàng đa năng, ngân hàng chuyên doanh chỉ thực
hiện một hoặc một số ít nghiệp vụ ngân hàng (gần như chuyên môn hoá các
hoạt động). Ở một số nước, luật ngân hàng còn giới hạn hoặc cấm các ngân
hàng cho vay tiêu dùng.
Đặc điểm cơ bản của ngân hàng này là nghiệp vụ kinh doanh mang tính
hạn hẹp, phạm vi hoạt động bị giới hạn, tính chuyên môn hoá cao.
Qua nghiên cứu xu hướng phát triển các loại hình NHTM trên thế giới
cho thấy không có một nước nào chỉ tồn tại một loại hình ngân hàng đa năng
hay ngân hàng chuyên doanh.
Bởi vì có khi ở một nước loại hình ngân hàng đa năng chiếm vị trí ưu
thế, thì vẫn có những ngân hàng chuyên doanh, và ngược lại ở một số nước
mặc dù các ngân hàng chuyên doanh chiếm ưu thế hoặc đa số thì gần đây
ngày càng có xu hướng chuyển sang kinh doanh đa năng.
Những biến đổi theo các xu hướng trên đã diễn ra trong những thập kỷ
qua. Xu hướng chuyên môn hóa các ngân hàng đã từng chiếm vị trí thống trị ở
Anh, Pháp, Mỹ, Nhật. Xu hướng kinh doanh đa năng từng chiếm vị trí thống

trị ở Thụy Sĩ, CHLB Đức, Áo. Nhưng dần dần các ngân hàng lớn, một mặt
mở rộng phạm vi các nghiệp vụ, mặt khác các ngân hàng chuyên doanh trước
đây nay cũng đa năng hóa trở lại hoạt động của mình.
Xu hướng hiện đại trong các luật ngân hàng gần đây là không tạo ra sự
phân biệt các ngân hàng đa năng và các ngân hàng chuyên doanh như trước
mà hình thành một loại ngân hàng hoạt động đa năng.
* Ngân hàng bán buôn
9
Ngân hàng bán buôn là loại hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu của
nó là thực hiện với các khách hàng lớn.
Đặc điểm của ngân hàng bán buôn là : số lượng giao dịch của ngân
hàng nhỏ, nhưng giá trị của các khoản giao dịch lớn. Hoạt động của ngân
hàng bán buôn thường tập trung ở các trung tâm thương mại do đối tượng
khách hàng mà ngân hàng phục vụ thường là khách lớn và nằm tại trung tâm
thương mại.Vốn hoạt động của ngân hàng bán buôn lớn do đối tượng phục vụ
có nhu cầu đòi hỏi vốn cao. Phạm vi hoạt động của ngân hàng bán buôn hẹp
về số lượng khách hàng, số lượng giao dịch, lĩnh vực đầu tư vốn
* Ngân hàng bán lẻ
Là một loại hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu của nó thực hiện với
các khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân.
Đặc điểm của ngân hàng này là : số lượng giao dịch của ngân hàng lớn,
giá trị của từng khoản nhỏ. Phạm vi hoạt động của ngân hàng bán lẻ rất rộng,
địa bàn hoạt động của tổ chức, mạng lưới rất lớn.Vốn thực hiện đầu tư của
ngân hàng bán lẻ mang tính phân tán do khách hàng phục vụ thuộc nhiều loại
hình khác nhau. Hoạt động của ngân hàng bán lẻ về mặt vốn thường nhỏ và
tính ổn định của vốn thấp.
Qua nghiên cứu hai loại hình ngân hàng trên cho thấy xu hướng phát
triển của ngân hàng bán buôn chỉ mở rộng tại những địa bàn mà ở đó diễn ra
cung và cầu vốn lớn như ở các trung tâm thương mại lớn, ở những nước kinh
tế phát triển và những nơi có hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển mạnh.

Các ngân hàng bán lẻ có xu thế ngày càng mở rộng, đặc biệt ở các nước
có nền kinh tế chậm phát triển và trong thực tế luôn luôn tồn tại cùng với
ngân hàng bán buôn.
1.1.2 Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế
Hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính bao gồm nhiều loại hình
tổ chức kinh doanh tiền tệ. Chúng là những tổ chức trung gian và môi giới tài
chính, hoạt động như những chiếc cầu chuyển tải những khoản tiền tiết kiệm
10
-tích luỹ được trong xã hội đến tay những người có nhu cầu chi tiêu cho đầu
tư. Nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau về tính chất cũng như về đối tượng
và phương pháp kinh doanh. Sự khác nhau đó bắt nguồn từ những nguyên
nhân về lịch sử và chế độ kinh tế và ngày nay chúng đều là những sản phẩm
của thể chế tài chính của mỗi nước.
Lịch sử của ngân hàng thương mại là lịch sử kinh doanh tiền gửi. Các
ngân hàng thương mại từ chỗ làm dịch vụ nhận tiền gửi với tư cách là người
thủ quỹ, bảo quản tiền cho người chủ sở hữu để nhận những khoản thù lao, đã
trở thành những chủ thể kinh doanh tiền gửi. Điều đó có nghĩa là huy động
tiền gửi không những miễn khoản thù lao mà còn trả lãi cho khách hàng gửi
tiền để làm vốn cho vay nhằm tối ưu khoản lợi nhuận thu được.
Trong khi thực hiện vai trò trung gian chuyển vốn từ người cho vay
sang người đi vay, các ngân hàng thương mại đã tự tạo ra những công cụ tài
chính thay thế cho tiền làm phương tiện thanh toán. Trong đó, quan trọng nhất
là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thanh toán bằng séc, một trong những công
cụ chủ yếu để vận động qua ngân hàng. Thông qua quá trình đó đưa lại kết
quả là đại bộ phận tiền giao dịch trong giao lưu kinh tế là tiền qua ngân hàng.
Do đó, hoạt động của ngân hàng thương mại gắn bó mật thiết với hệ
thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước đồng thời có mối
liên hệ quốc tế rộng rãi.
Trong thế giới hiện đại, tính cho đến thời điểm này thì ngân hàng
thương mại và cơ cấu hoạt động của nó đóng vai trò quan trọng nhất trong thể

chế tài chính của mỗi nước. Hoạt động của ngân hàng thương mại đa dạng,
phong phú và có phạm vi rộng lớn, trong khi các tổ chức tài chính khác
thường hoạt động trên một vài lĩnh vực và theo hướng chuyên sâu.Vai trò của
ngân hàng thương mại thể hiện ở những điểm sau:
1.1.2.1 Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra từ quá trình tích lũy, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và nhà nước trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng
11
thu nhập quốc dân và có mức độ tiêu dùng hợp lý. Để tăng thu nhập quốc dân
tức là cần phải mở rộng quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu
thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của ngành trong nền kinh tế và muốn
làm được điều đó cần thiết phải có vốn. Mặt khác, khi nền kinh tế càng phát
triển sẽ càng tạo ra nhiều nguồn vốn, điều đó sẽ có tác động tích cực đến hoạt
động ngân hàng. NHTM là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất
kinh doanh. NHTM đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời
nhàn rỗi từ mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế như : vốn tạm thời
được giải phóng ra từ quá trình sản xuất, vốn từ nguồn tiết kiệm của các cá
nhân trong xã hội. Bằng vốn huy động được trong nền kinh tế, thông qua hoạt
động tín dụng, NHTM sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng
các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ có hoạt
đông của hệ thống NHTM và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp
có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất
lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
1.1.2.2 Ngân hàng là cầu nối giữa khách hàng với thị trường
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp
chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật
giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và sản xuất phải trên cơ sở đáp
ứng nhu cầu thị trường thoả mãn nhu cầu thị trường trên mọi phương diện
được thể hiện như: không những thoả mãn nhu cầu về phương diện giá cả,
khối lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá mà còn đòi hỏi thoả mãn cả trên

phương diện thời gian địa điểm. Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của
thị trường, doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động,
củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý, chế độ hạch toán kế toán...mà còn phải
không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, tìm tòi sử
dụng nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích
hợp...Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư, nhiều khi
vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Do đó, để giải quyết khó khăn
12
này, doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thoả mãn nhu
cầu đầu tư của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là chiếc cầu
nối giữa doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng
cung ứng cho doang nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị
trường và từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh
tranh.
1.1.2.3 Ngân hàng thương mại là "cầu nối" giúp NHTW thực thi chính
sách tiền tệ và điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về ngân hàng Trung ương. Để
thực thi chính sách tiền tệ đó phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt
buộc, tái chiết khấu, thị trường mở, hạn mức tín dụng...Chính các ngân hàng
thương mại là chủ thể chịu tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng
thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách
tiền tệ đến khu vực phi ngân hàng và nền kinh tế. Ngược lại cũng qua ngân
hàng thương mại và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình sản
lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt, tổng cung tiền tệ, lãi suất tỷ
giá.. của nền kinh tế được phản hồi về cho ngân hàng Trung ương để chính
phủ và ngân hàng Trung ương có những chính sách điều tiết thích hợp với
từng tình hình cụ thể.
Hoạt động kinh doanh của NHTM gắn liền với các hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế. Trong quá

trình hoạt động đó, NHTM thực hiện vai trò cầu nối giúp NHTW điều tiết vĩ
mô đối với nền kinh tế thông qua các chức năng của mình, biểu hiện các mối
quan hệ giữa NHTM với các tổ chức kinh tế, cá nhân về mặt tín dụng, tiền
mặt, thanh toán không dùng tiền mặt,...đảm bảo hoạt động của ngân hàng và
nền kinh tế được bình thường.
Bằng chính sách và những biện pháp tín dụng, NHTM đáp ứng nhu cầu
vốn bổ sung kịp thời cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thuộc các
13
lĩnh vực sản xuất, lưu thông và dịch vụ. NHTM có thể gia tăng hoặc thu hẹp
khối lượng tín dụng với từng doanh nghiệp, hoặc có thể thực hiện quan hệ tín
dụng đối với doanh nghiệp trong từng trường hợp cần thiết. Tất cả những vấn
đề đó đều liên quan và ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp trong nền kinh tế. Như vậy, việc sử dụng vốn vay ngân hàng vừa giúp
doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu vốn bị thiếu hụt trong kinh doanh, vừa ý thức
cho doanh nghiệp về trách nhiệm của mình trong quá trình sử dụng vốn. Từ
đó giúp cho doanh nghiệp có những lựa chọn quyết định của mình trong việc
sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng mở rộng hay thu hẹp quy mô kinh doanh
hiện có. Doanh nghiệp sử dụng vốn vay, khi đến hạn phải hoàn trả vốn kèm
theo lãi vay cho ngân hàng, điều đó buộc các doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ
lưỡng khi sử dụng vốn sao cho mang lại hiệu quả cao nhất.
Vai trò cầu nối giúp NHTW điều tiết kinh tế vĩ mô của các NHTM
được thể hiện qua việc tiếp nhận, thu hút khối lượng tiền mặt từ trong nền
kinh tế vào NHTM, đồng thời NHTM cũng cung ứng tiền mặt theo nhu cầu
khi các doanh nghiệp cần tiền cho hoạt động của doanh nghiệp. Quá trình thu
nhận và cung ứng khối lượng tiền mặt trong nền kinh tế đã tạo ra mối quan hệ
giữa lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ trong từng khu vực. Bằng chính
sách thu hút và nghệ thuật kinh doanh, ngân hàng sẽ tiếp nhận một khối lượng
tiền mặt không nhỏ, rồi từ đó lưu thông về ngân hàng. Khối lượng tiền mặt
này sẽ đáp ứng nhu cầu tiền mặt cho các doanh nghiệp và công chúng, đảm
bảo cho nền kinh tế thường xuyên có một khối lượng tiền hợp lý, phục vụ cho

hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác trong phạm vi từng doanh
nghiệp, từng khu vực, cũng như trong phạm vi toàn nền kinh tế .
Cùng với các nghiệp vụ kinh doanh trong lĩnh vực tín dụng và tiền tệ,
NHTM còn thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác trong nền kinh tế. Đây là
những dịch vụ trung gian tạo cho NHTM những nguồn lợi đáng kể, góp phần
tăng thêm khoản thu nhập cho NHTM, đồng thời tạo ra những điều kiện thuận
14
lợi cho sự phát triển toàn diện và thoả mãn các yêu cầu trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế.
Như vậy, với vai trò là “cầu nối” giúp NHTW thực thi chính sách tiền
tệ, điều tiết kinh tế vi mô, NHTM đã xâm nhập vào các hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân, các lĩnh vực khác của nền kinh tế
thông qua các nghiệp vụ tín dụng, tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt,
các quan hệ về tham gia hùn vốn, tư vấn v.v.Với các mối quan hệ thường
xuyên đó, NHTM giúp các hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành bình
thường và ngày càng phát triển.
Trong việc điều hành thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng Trung ương
sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội, mà trước
hết là hệ thống NHTM. Các công cụ này là những thao tác hoạt động hàng
ngày của ngân hàng Trung ương. Vì thế, có thể nói rằng, mọi hoạt động của
ngân hàng Trung ương đều tác động đến nền kinh tế vĩ mô trong khuôn khổ
của chính sách tiền tệ đã vạch ra .
Sự điều tiết tiền tệ có thể tác động gián tiếp, nhưng hiệu quả đến những
hoạt động của cả nền kinh tế quốc gia. Một nội dung quan trọng của điều tiết
tiền tệ là điều hoà khối lượng tiền tệ.
Điều hoà khối lượng tiền tệ ngày nay có nghĩa là điều chỉnh việc tạo
tiền và sử dụng tiền trong hệ thống ngân hàng hai cấp. Một khả năng kỳ bí
của hệ thống ngân hàng hai cấp là tạo tiền, điều chỉnh mức cung tiền để ổn
định tiền tệ. Do việc phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp, nên có việc
phân chia hai loại tiền: tiền ngân hàng trung ương hay gọi tắt là tiền trung

ương (giấy bạc hay tiền mặt) và tiền ngân hàng (tiền ghi sổ, bút tệ). Tiền
trung ương là tiền do NHTW độc quyền phát hành. Tiền ngân hàng là tiền do
các ngân hàng thương mại tạo ra thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế,
đặc biệt là tiền trên các tài khoản thanh toán séc. Nó được tạo ra như là sự mở
rộng gấp nhiều lần quỹ dự trữ ngân hàng (thông qua hệ số tạo tiền)
15
Thực ra, cho đến những năm cuối thế kỷ 20 này, định nghĩa và phân
biệt giữa các loại tiền với nhau vẫn có nhiều ý kiến không đồng nhất. Từ năm
1980 đến nay, NHTW của nhiều nước đã thay đổi các định nghĩa của mình về
tiền mặt một vài lần và đã dùng những phép đo lượng tiền cung ứng được gọi
là tổng lượng tiền (monetary aggregates) với các ký hiệu : Mo, M
1
,M
2
..
Sở dĩ có sự phân chia ra giữa M
0
, M
1
,M
2
.. là nhằm tách những loại tiền
khác nhau về mặt thanh toán ra từng nhóm. Các nhóm tiền càng đi về sau này,
càng có tính thanh khoản kém hơn và càng mang tính chất của một khoản đầu
tư.
M
1
gọi là tiền mạnh (high_power money) hay tiền theo nghĩa hẹp,
nhưng là một loại tài sản không sinh lợi, cho nên nó không có ý nghĩa như
một hành động đầu tư.

Ngược lại, M
2
, M
3
, M
u...
vừa là tiền, vừa là tài sản sinh lời, do vậy kinh
tế càng phát triển, xu hướng chuyển tiền từ loại không sinh lãi (M
1
) sang loại
cũng là tiền nhưng đem lại lãi suất (M
2
, M
3
, M
u
) là càng lớn như một hoạt
động đầu tư.
Việc phân loại tiền thành M
1
, M
2
, M
3
.. nhằm giúp NHTW và Chính phủ
theo dõi mức độ đầu tư trong nước vào các loại tài sản sinh lợi và giúp nền
kinh tế huy động một cách tốt nhất các nguồn lực, các nguồn tài sản khác
nhau trong nhân dân vào guồng máy sản xuất kinh doanh. Nó cũng đồng thời
đáp ứng nhu cầu cần sự gọn nhẹ bảo đảm có lãi cho tài sản và dễ dàng trong
thanh toán ở mọi lúc mọi nơi.

Chỉ cần nhìn vào các tỷ lệ giữa các loại tổng lượng tiền tệ sẽ biết ngay
được về sự ổn định hay chất lượng của tiền tệ. Ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển thì M
0
(tiền Trung ương không nằm trong tay các ngân
hàng) chiếm khoảng 7% của tổng lượng tiền M
3
, trong khi đó tại Việt nam
khoảng 70%. Cơ cấu khối lượng tiền như vậy cho thấy hệ thống ngân hàng ở
nước ta còn kém phát triển. Chừng nào đồng nội tệ với chức năng là phương
tiện tích luỹ giá trị còn yếu kém, thì tỷ lệ tiền mặt vẫn còn cao, tiền trung
16
ương không quay trở về các NHTM dưới hình thức các khoản tiền gửi và như
vậy hệ số tạo tiền sẽ nhỏ đi.
Tiền của hệ thống ngân hàng thương mại chiếm bộ phận lớn nhất trong
tổng khối lượng tiền tệ ngày nay ở các nước có nền kinh tế phát triển. Một
nền kinh tế càng đi dần vào hiện đại, càng phát triển bao nhiêu, nền kinh tế ấy
càng sử dụng nhiều hơn tiền do các ngân hàng trung gian tạo ra.
Như vậy, bằng việc tạo tiền gắn liền chặt chẽ với công cụ quản lý vĩ mô
của ngân hàng trung ương (tỷ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc) trong khi thực hiện
hoạt động kinh doanh của mình, NHTM đã thể hiện vai trò “cầu nối”của mình
trong việc góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương
thông qua chính sách tiền tệ. [31];[32]
1.1.2.4 NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Trong nền kinh tế thị trường khi mà các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ
ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế-xã hội giữa các nước
trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách.Việc phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một
bộ phận cấu thành của sự phát triển đó.Vì vậy, nền tài chính của mỗi nước
cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế và ngân hàng thương mại cùng

các hoạt động kinh doanh của mình đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng
trong sự hoà nhập này.Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền gửi, cho
vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác, ngân
hàng thương mại đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng được
mở rộng. Thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối, quan hệ
tín dụng với các ngân hàng thương mại nước ngoài, hệ thống ngân hàng
thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với
sự vận động của nền tài chính quốc tế.
Ngân hàng thương mại ra đời, phát triển trên cơ sở nền sản xuất và lưu
thông hàng hoá phát triển và nền kinh tế càng ngày càng cần đến hoạt động
của NHTM với các chức năng và vai trò của mình. Thông qua việc thực hiện
17
các chức năng, vai trò của mình, nhất là chức năng trung gian tín dụng,
NHTM đã trở thành một bộ phận quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.
1.2. CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA NHTM
Tầm quan trọng của các NHTM được thể hiện qua các chức năng của
nó. Các chức năng của NHTM có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh
khác nhau, nhưng nhìn chung được nhiều nhà kinh tế chấp nhận ở các chức
năng sau:
1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài
chính là hoạt động cầu nối giữa cung và cầu trong xã hội, khơi nguồn vốn từ
những người có thể vì lý do gì đó không dùng nó một cách sinh lời với những
người có ý muốn dùng nó để sinh lợi.
Thực hiện chức năng này, một mặt, NHTM huy động và tập trung các
nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình
thành nguồn vốn cho vay. Mặt khác, trên cở số vốn đã huy động được, ngân
hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng...của

các chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy
kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, NHTM vừa là người đi
vay, vừa là người cho vay, hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng của NHTM
là đi vay để cho vay. NHTM với vai trò là một trung gian tín dụng đứng ra tập
trung phân phối lại vốn tiền tệ, điều hoà cung cầu về vốn trong nền kinh tế,
góp phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp không bị gián đoạn.
Để mở rộng sản xuất, đối với từng doanh nghiệp, yêu cầu về vốn là một
trong những quan tâm hàng đầu được đặt ra. Các doanh nghiệp không thể chỉ
trông chờ vào vốn tự có, mà còn phải biết dựa vào vốn của nhiều nguồn khác
nhau trong xã hội. NHTM với tư cách là nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn
18
rỗi, sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu về vốn bổ sung cho đầu tư phát triển.
Như vậy, tín dụng ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời
gian tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần
đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế
Ngân hàng thương mại tập hợp tài lực của khách hàng này và đem
chuyển cho người khác theo phương thức kinh doanh “vay để cho vay”. Đó
chính là vai trò trung gian của ngân hàng.
Ngày nay, quan niệm vai trò trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn.
Sự phát triển của thị trường tài chính làm xuất hiện những khía cạnh khác của
chức năng này. Ngân hàng có thể đứng ra làm chức năng công ty (khi phát
hành cổ phiếu) với những nhà đầu tư, chuyển giao các mệnh lệnh trên thị
trường chứng khoán, đảm nhận việc mua bán trái phiếu công ty.. theo cách
này, ngân hàng làm trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên
thị trường.
Hơn nữa, tín dụng ngân hàng còn là một trong những nguồn hình thành
vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng ngân hàng đã
góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh
doanh được liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư, động viên

vật tư hàng hoá đưa vào sản xuất lưu thông, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến
bộ kỹ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất.
1.2.2. Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương
tiện thanh toán.
Chức năng này là sự kế thừa và phát triển chức năng ngân hàng là thủ
quỹ của các doanh nghiệp, tức là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản
hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản .
Trong ngân hàng thương mại, chức năng trung gian thanh toán gắn bó
chặt chẽ, hữu cơ với chức năng trung gian tín dụng : ngân hàng dùng số tiền
gửi của người này để cho người khác vay. Xuất phát từ chức năng người thủ
quỹ của các doanh nghiệp, ngân hàng có đủ điều kiện để thực hiện các dịch
vụ thanh toán theo sự uỷ nhiệm của khách hàng. Khi các khách hàng gửi tiền
19
vào ngân hàng họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực
hiện thu chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với những khoản thanh
toán có giá trị lớn, ở mọi địa phương, mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn
kém, khó khăn và không an toàn. Nếu như mọi khoản thanh toán được thực
hiện không thông qua ngân hàng, thì sẽ có những bất tiện và tốn kém lớn như:
những chi phí cho lưu thông tiền mặt (chi phí cho việc đúc tiền, in tiền, bảo
quản tiền, vận chuyển tiền..) và những chi phí có liên quan đến người trả và
người nhận (như đếm tiền, bảo quản, vận chuyển..).
Khi ngân hàng thương mại ra đời và phát triển, thì hầu hết các khoản
thanh toán, chi trả về hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế (các doanh
nghiệp và cá nhân) được chuyển giao cho ngân hàng thực hiện, việc thanh
toán trở nên tiện lợi, tiết kiệm được nhiều chi phí, mọi quan hệ thanh toán
được thực hiện bằng cách các chủ thể mở tài khoản tại ngân hàng thực hiện
các khoản chi trả hoặc uỷ nhiệm cho ngân hàng thực hiện việc thu nhận các
khoản tiền vào tài khoản của mình.
Việc làm trung gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển
đến tầm mức rất đa dạng. Ngân hàng không chỉ là trung gian thanh toán

truyền thống như trước, mà còn quản lý các phương tiện thanh toán. Đây là
vai trò ngày càng chiếm vị trí quan trọng, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ
của khoa học và kỹ thuật. Ở các nước phát triển, phần lớn quá trình thanh toán
được thực hiện thông qua séc và hầu như séc thanh toán ở trong nước được
thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua hệ thống NHTM.
Quá trình lưu chuyển vốn từ tài khoản người mua sang tài khoản người
bán có một đặc điểm phi vật chất, vì không giống như đồng tiền giấy được
chuyển trao tay thực sự từ người này sang tay người khác, mà nó chính là
đồng tiền ghi sổ. Tiền tệ nói chung đã trở thành một công cụ hết sức mềm
dẻo, nó không cần tồn tại dưới dạng vật chất. Séc và chuyển khoản chỉ là cách
thực hiện, nó cho phép lưu thông đồng tiền ghi sổ. Cơ sở của việc phát hành
séc hay thanh toán qua chuyển khoản đó chính là tài khoản tại ngân hàng.
20
Hiện nay, ở các nước công nghiệp người ta phát triển hình thức chuyển
tiền bằng điện tử và chính điều này đưa đến việc không sử dụng séc ngân
hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Người ta thanh toán bằng cách nối mạng
các máy vi tính của các NHTM trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài
khoản người mua sang tài khoản người bán một cách nhanh chóng.
1.2.3. Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai
cấp
Từ khi các ngân hàng ra đời, hoạt động kinh doanh tiền tệ có được
bước phát triển mới. Trong quá trình kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng đã
phát hiện các khách hàng đã sử dụng giấy chứng nhận tiền gửi mà ngân hàng
đã cấp cho họ để chi trả các khoản nợ. Phát hiện này thúc đẩy các ngân hàng
đưa vào lưu thông các loại tiền giấy ngân hàng (bank notes) được chuyển đổi
ra vàng qua nghiệp vụ tín dụng thay thế cho tiền vàng. Đây chính là một phát
minh có giá trị trong lịch sử hoạt động của tiền tệ.
Vào cuối thế kỷ 19, hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các
ngân hàng không còn hoạt động riêng rẽ, mà tạo nên một hệ thống, trong đó
NHTW là cơ quan quản lý tiền tệ, tín dụng, là ngân hàng của các ngân hàng.

Các ngân hàng còn lại chuyên kinh doanh tiền tệ. Nhờ hoạt động trong hệ
thống các NHTM đã tạo ra “bút tệ” thay thế cho tiền mặt. Đây là sáng kiến
quan trọng thứ hai trong lịch sử hoạt động ngân hàng. Chính nhờ phương thức
tạo tiền này mà ngân hàng chẳng những đảm bảo cho sự phát triển của mình,
mà còn trở thành trung tâm tiền tệ của đời sống kinh tế hiện đại.
Quá trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín
dụng và thanh toán trong hệ thông ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với
ngân hàng trung ương của mỗi nước. Tiền “bút tệ” do các NHTM tạo ra bằng
cách nào?
Đó là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên
nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các
nghiệp vụ tín dụng thanh toán qua nhiều ngân hàng. Một ngân hàng này cho
21
vay xong thì hết vốn, thì số vốn đó lại chuyển sang ngân hàng khác trở thành
vốn tiền gửi và làm tăng thêm vốn tiền gưỉ của các ngân hàng khác
Từ một khoản tiền gửi ban đầu (khoản tiền này do NHTƯ mới đưa thêm
vào lưu thông), thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong hệ thống NHTM,
số tiền gửi đã tăng lên gấp bội so với số lượng tiền ban đầu
Khả năng tạo tiền phụ thuộc vào lượng tiền NHTW mới bơm thêm và
hệ số mở rộng tiền gửi của NHTM. Hệ số mở rộng tiền gửi này lại chịu tác
động bởi các yếu tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dư thừa và tỷ lệ
tiền mặt so với tiền gửi thanh toán.
Theo Paul A.Samuelson: “Sự thật là toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể
làm được cái mà từng ngân hàng nhỏ một không thể làm được : nó có thể mở
rộng việc cho vay nợ và từ đó mở rộng nguồn tiền ngân hàng lên gấp nhiều
lần so với số mà các dự trữ mới tạo ra cho nó, cho dù mỗi ngân hàng nhỏ bao
giờ cũng chỉ cho vay một phần số tiền ký gửi”
Với quá trình này hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương
tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả xã hội.
Rõ ràng khái niệm về “tiền”, “tiền giao dịch”, không chỉ là giấy bạc do

NHTW của mỗi nước phát hành, mà bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ
do các NHTM tạo ra. Ở Mỹ, tỷ lệ này tới 90%. Ở Việt nam, tỷ lệ này ngày
càng tăng. Đến cuối năm 1998, tỷ trọng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh
toán (M
2
) là 26.6% (năm 1997 là 30.8%).
1.2.4. Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và ngân quỹ, ngân hàng
có những điều kiện thuận lợi về kho quỹ, thông tin, quan hệ rộng rãi với các
doanh nghiệp. Với những điều kiện đó, ngân hàng có thể làm tư vấn về tài
chính và đầu tư cho các doanh nghiệp, làm đại lý phát hành cổ phiếu, trái
khoán bảo đảm đạt hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí. Khi một doanh nghiệp
muốn phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp, họ có thể nhờ ngân
hàng cung cấp các dịch vụ như: lựa chọn loại chứng khoán phát hành, tư
vấn các vấn đề về lãi suất chứng khoán, thời hạn chứng khoán và các vấn
đề kỹ thuật khác.
22
Hơn nữa ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng các dịch vụ khác như :
- Dịch vụ bảo quản an toàn vật có giá của khách hàng. Đây vốn là một
chức năng cơ bản của NHTM, đòi hỏi các NHTM phải được xây dựng kiên
cố và được trang bị hệ thống bảo quản hiện đại. Vì vậy chúng thường chỉ thực
hiện ở các ngân hàng lớn. Dịch vụ bảo quản an toàn vật có giá bao gồm : dịch
vụ cho thuê két sắt, bảo quản ký thác và trực tiếp bảo quản an toàn các giấy tờ
có giá. Một điều hấp dẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho
khách hàng ( ghi nhận về các tài sản đang được lưu giữ ) có thể được lưu hành
như tiền- đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay nghiệp
vụ bảo quản vật có giá cho khách hàng thường do phòng “Bảo quản” của
ngân hàng thực hiện
- Dịch vụ cho thuê két ngân buổi tối (night safe) : Ngân hàng lắp đặt hệ
thống két đặc biệt trước cửa ngân hàng, khách hàng thuê dịch vụ này được

phép cất giữ tiền tiền mặt hay séc để đảm bảo an toàn vào buổi tối khi ngân
hàng đã đóng cửa.
- Dịch vụ tín thác hoặc uỷ thác ngân hàng (Trust services) : có các hình
thức sau :
+ Dịch vụ tín thác đối với cá nhân bao gồm việc thực hiện các dịch vụ
đại diện phục vụ như người bảo vệ và bảo quản tài sản, vì ở hầu hết các
nước, người vị thành niên được xem là không có năng lực pháp lý về quản lý
và nắm giữ tài sản. Khi một người ở tuổi vị thành niên thừa kế tài sản, một
người giám hộ được chỉ định nắm giữ vì lợi ích của người vị thành niên.
Thông thường trách nhiệm này được giao cho bộ phận tín thác của ngân hàng
thương mại. Sự giám hộ cũng thường được yêu cầu đối với những người
cũng được toà án quyết định là thiếu năng lực pháp lý.
+ Dịch vụ uỷ thác. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện việc
quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp
thương mại. Theo đó, ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay
quy mô vốn họ quản lý. Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch
vụ uỷ thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình và uỷ thác thương mại cho
các doanh nghiệp.
23
Thông qua phòng uỷ thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các
khoản tiền để cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khoản tiền đó
cho đến khi khách hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai
trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua
đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá, đầu tư có hiệu quả
và đảm bảo cho người thừa kế hợp pháp việc nhận được khoản thừa kế. Trong
phòng uỷ thác thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán
và kế hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò
như những người đại lý cho các công ty trong hoạt động phát hành cổ phiếu,
trái phiếu. Điều này đòi hỏi phòng uỷ thác phải trả lãi hoặc cổ tức cho chứng
khoán của công ty, thu hồi các chứng khoán khi đến hạn bằng cách thanh toán

toàn bộ cho những người nắm giữ chứng khoán
1.2.5. Chức năng tài trợ ngoại thương, mở rộng nghiệp vụ ngân hàng
quốc tế
Một trong những chức năng quan trọng nhất do các ngân hàng thực
hiện trong việc tham gia vào nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là tài trợ xuất nhập
khẩu và hoạt động thương mại giữa các quốc gia. Giống như thương mại
trong nước, hoạt động ngoại thương đòi hỏi các phương pháp tài trợ khác
nhau, bao gồm ứng tiền trước, tài khoản mở, uỷ thác nhờ thu và thư tín dụng,
tín dụng chiết khấu hối phiếu, bảo lãnh, mua và bán séc du lịch.v.v Từ lâu các
ngân hàng chỉ liên quan đến một quá trình riêng biệt trong các giao dịch mậu
dịch quốc tế như cung cấp một khoản tiền cho vay hoặc mở L/C. Nhưng từ
khi tài trợ trở thành một phần không thể thiếu đối với nhiều giao dịch thương
mại, các ngân hàng đã phát triển các dịch vụ này, họ đã đi từ việc tài trợ các
hợp đồng thương mại riêng biệt đến cung cấp các giải pháp tổng hợp đối với
các nhu cầu thương mại. Điều này bao gồm sự kết hợp việc cho vay của ngân
hàng với các nguồn bảo trợ từ các cơ quan xuất khẩu của Chính phủ, công ty
thuê mua tài chính quốc tế và các nguồn tài trợ phi ngân hàng khác, cùng với
bảo hiểm rủi ro chính trị và kinh tế.
Ngày nay xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá với những đặc trưng tự
do hoá thương mại và tự do hoá tài chính ngày càng rộng khắp và mạnh mẽ
đã và đang chi phối khuynh hướng và cấu trúc vận động của hệ thống tài
chính ngân hàng từng quốc gia. Do đó, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh đối
24
ngoại đối với NHTM ở các nước đang phát triển không chỉ là một tất yếu
khách quan mà còn là lẽ sống của chính ngân hàng ở các nước này.
Kinh doanh đối ngoại của NHTM là một kinh doanh vừa mang tính
truyền thống vừa mang tính hiện đại. Truyền thống được hiểu với ý nghĩa là
kinh doanh tiền tệ không có biên giới “cứng”, đồng vốn dịch chuyển không
biên giới, đã có từ thời xa xưa, gắn với giao lưu quốc tế, với lưu thông tiền
vàng, kim loại quý, với uy tín quốc gia, thương nhân, ngân hàng nổi tiếng.

Chính nhờ kinh doanh đối ngoại đặt nền móng mới hình thành các trung tâm
tài chính quốc tế như trung tâm tài chính London, Tokyo, frankfurt,
Hongkong, Singapore ..Hiện đại là hàm ý nói về hình thức, nội dung ngày
càng khác trước, đa dạng hơn, tinh vi hơn, đồ sộ hơn thể hiện trên tất cả các
hoạt động: kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, thanh toán quốc tế, tín dụng
hợp vốn, đồng tài trợ, hùn vốn, đại lý, uỷ thác.. thông qua các nghiệp vụ rất đa
dạng.
Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh đối ngoại trong lĩnh vực ngân hàng
rất phức tạp đòi hỏi điều kiện hết sức ngặt nghèo, nguyên tắc chặt chẽ,
phương châm linh hoạt như :
- Năng lực tài chính : có vốn đủ sức hoạt động và cạnh tranh được với
các ngân hàng.
- Trình độ quản lý kinh doanh và có uy tín thể hiện trên các mặt trang
bị những phương tiện thiết bị hiện đại, tiên tiến đủ khả năng để tiếp cận và
hoà nhập với thông lệ quốc tế.
- Kỹ thuật công nghệ ngân hàng hiện đại đảm bảo cho các giao dịch
nhanh chóng và an toàn.
- Có đội ngũ cán bộ với trình độ nghiệp vụ tin học, ngoại ngữ và phong
cách giao dịch đáp ứng yêu cầu hoạt động của cơ chế thị trường.
Kỹ nghệ ngân hàng hiện đại là một trong những tiêu chuẩn để hệ thống
ngân hàng hội nhập được với cộng đồng tài chính quốc tế. Chìa khoá để mở ra
triển vọng cho hoạt động của NHTM ở các nước đang phát triển là phải mở
rộng hơn nữa hoạt động kinh doanh đối ngoại. Có như vậy mới phá thế trì
trệ, co cụm, hướng nội cứng nhắc. Chỉ có hội nhập với cộng đồng tài chính
tiền tệ quốc tế, NHTM ở các nước đang phát triển mới có cơ hội đủ điều kiện
tiến tới đa dạng hoá hoạt động, mở đường vươn xa, chen chân, đứng trụ trên
25

×