Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Ôn tập môn triết cao học có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.77 KB, 29 trang )

Câu 1: Phân tích các đặc điểm cơ bản của triết học phương Tây cổ đại
Với gần một thiên niên kỷ tồn tại (thế kỷ VI TCN – V), tư tưởng triết học phương Tây cổ đại, mà
Hy Lạp và La Mã là đại diện, đã để lại những dấu ấn đậm nét trên con đường phát triển của lòch sử tư
tưởng nhân loại, tạo nên một trong những thời đại sôi động và bi kòch nhất, thể hiện khát vọng của con
người vươn lên làm chủ tự nhiên, cải biến xã hội và chính bản thân mình.
Triết học phương Tây cổ đại trải qua ba thời kỳ chính: sơ khai (thế kỷ VI – V TCN), cực thịnh (V –
IV TCN), Hy Lạp hóa, khủng hoảng và suy tàn, hay thời kỳ văn minh Hy Lạp – La Mã (thế kỷ III TCN –
V). Sự sụp đổ tây bộ đế quốc La Mã năm 476 đánh dấu sự cáo chung của thế giới cổ đại phương Tây, chấm
dứt sự tồn tại của một xã hội phi nhân tính nhất trong lịch sử - xã hội chiếm hữu nơ lệ.
Có thể thâu tóm ba chủ đề chính của triết học phương Tây cổ đại, từ thời kỳ hình thành các thò
quốc đầu tiên đến khi trường phái cuối cùng bò đóng cửa vào đầu thế kỷ VI. Trước hết là tìm hiểu tự
nhiên. Câu hỏi “thế giới bắt đầu từ đâu và quay về đâu?”, “bản tính của thế giới là gì?” cho thấy nỗ
lực của các triết gia mong muốn vượt qua ảnh hưởng của thế giới quan thần thoại, đem đến lời giải đáp
hợp lý về thế giới xung quanh và về tác động của nó đến đời sống con người. Chủ đề tiếp theo là nhận
thức. Bắt đầu từ Ta lét (Thales) và Pitago (Pythagoras) con người không chỉ được xem như một thành
viên của vũ trụ, mà còn luôn chứng tỏ vò thế của mình trước vũ trụ ấy. Bản thân thuật ngữ
“philosophia” cũng nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm và khám phá chân lý. Triết học – đó là con
đường hướng tới chân lý. Các nhà triết học ngay từ cổ đại đã tập trung tranh luận về khả năng và giới
hạn của nhận thức, về các phương pháp và phương tiện nhận thức, về nguồn gốc, cơ sở và tiêu chuẩn
của chân lý. Bên cạnh việc đề cao lý trí , óc khám phá sáng tạo của con người, vẫn còn một số triết gia
đứng trước những diễn biến phức tạp, phi tất đònh của của đời sống xã hội, đã chủ trương “treo lửng
phán quyết”, rơi vào chủ nghóa hoài nghi. Chủ đề thứ ba là con người, xã hội loài người với tất cả
những biểu hiện phong phú và phức tạp của nó. Từ Xôcrát (Socrates) trở đi con người trở thành một
trong những điểm nóng của các cuộc tranh luận triết học. Con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng
nghiên cứu. Chủ đề con người và thiết chế xã hội dành cho con người, cùng với các chủ đề liên quan
đền hoạt động sáng tạo và đònh hướng giá trò của con người, được phân tích trong các công trình thẩm
mỹ, nghệ thuật, đạo đức, pháp quyền.
Triết học phương Tây cổ đại không chỉ phản ánh hiện thực của xã hội chiếm hữu nô lệ, mà còn
xây dựng hàng loạt hệ chuẩn tư duy cho các thời đại sau, tạo nên truyền thống cổ điển trong văn hoá
tinh thần phương Tây. Bằng chứng rõ ràng nhất của truyền thống này là quá trình phục hưng văn hoá
cổ đại vào cuối thế kỷ XIV – thế kỷ XVI và sự phát triển, phổ biến văn hoá cổ điển vào thời cận đại,


đạt đến đỉnh cao tại Đức.
(1) Đặc điểm trước tiên của triết học Hy Lạp ở những thế kỷ đầu tiên, là tính chất phác, sơ khai
của nó, mối liên hệ của nó với thần thoại và tôn giáo nguyên thủy, đan xen với những mầm mống của
tri thức khoa học, phản ánh trình độ nhận thức chung của xã hội. Sự ra đời của triết học không có nghóa
kỷ nguyên thần thoại đã hoàn toàn kết thúc. Ở mức độ nhất đònh, xét theo cội nguồn, triết học ra đời
như nỗ lực tái thiết lại thần thoại bằng phương tiện của lý trí. Với thời gian, cùng với sự phát triển xã
hội, sự phổ biến tri thức khoa học, những câu chuyện thần thoại dần dần được sử dụng vào mục đích
thể hiện một nhân sinh quan, một triết lý sống. Những khái niệm có nguồn gốc thần thọai đều được cải
biến, duy lý hóa để làm sáng tỏ thêm tư tưởng của các triết gia, những tư tưởng cần đến giá đỡ của
thần thoại nhằm đáp ứng thói quen ý thức của con người. Tinh thần Hy Lạp đã đặt nền móng cho
phong cách tư duy phương Tây trong hàng ngàn năm qua.
- Đặc điểm thứ hai thể hiện ở tính chất bao trùm về mặt lý luận của triết học đối với tất cả lónh
vực của nhận thức. Vì ra đời trong bối cảnh trình độ nhận thức của con người còn tương đối thấp, tri
thức về mọi mặt chưa phát triển bao nhiêu, nên triết học đóng vai trò là dạng nhận thức lý luận hầu
như duy nhất, hy vọng lý giải những vấn đề lý luận của các khoa học cụ thể mà vào thời kỳ này còn
đang nằm trong tình trạng tản mạn, sơ khai, mang nặng tính chất trực quan, thực nghiệm. Triết học
Page 1 of 29
được xem như “khoa học của các khoa học”, còn các triết gia thì được tôn vinh thành những nhà thông
thái, đại diện cho trí tuệ xã hội. Trong mô hình lý tưởng của tổ chức đời sống xã hội các triết gia được
đặt ở vò trí cao nhất. Các tư tưởng đạo đức, chính trò, thẩm mỹ, khoa học…đều quy về tư tưởng trết học,
được hiểu như một phần của triết học. Quan niệm này tồn tại khá lâu trong lòch sử. Song điều đó lại
đưa đến chỗ đối với các nhà triết học nhận thức lý luận là cái vượt lên trên hoạt động thực tiễn, biến
thành “nhận thức tự thân”, “nhận thức để nhận thức”. Triết lý trở thành đặc quyền của một số ít nhà
thông thái, “nhận thức tự thân” đối lập với thực tiễn, với ý thức đời thường.
(3) Tính đa dạng, muôn vẻ, sự phân cực quyết liệt về thế giới quan giữa các trường phái làm nên
đặc điểm thứ ba của triết học phương Tây cổ đại trong suốt 10 thế kỷ; việc hình thành “đường lối
Đêmôcrít” và “đường lối Platôn” của triết học chi phối cách đánh giá các hình thức tư tưởng khác.
Tính chất đa dạng, phức tạp của triết học Hy Lạp cổ đại chòu sự chi phối bởi điều kiện đòa lý đặc biệt của
các thò quốc, sự thay thế nhau các trung tâm kinh tế, văn hóa, quá trình giao lưu với văn hóa phương
Đông, phong cách phóng khoáng, yêu chuộng tự do kết hợp với sự khôn ngoan và tinh tế của người Hy

Lạp, La Mã. Trong bức tranh muôn vẻ của triết học phương Tây cổ đại đã chứa đựng hầu như tất cả
những hình thái và phương thức tư duy căn bản nhất, được tiếp tục hoàn thiện, cải biến và phát triển
sau này. Chẳng hạn cuộc tranh luận giữa “đường lối Đêmôcrít” và “đường lối Platôn” lan sang cả tư
tưởng chính trò, thể hiện thái độ của họ đối với nền dân chủ chủ nô.
- Dấu hiệu đặc trưng đầu tiên của tư tưởng duy vật ở Hy Lạp là sự ra đời của nó gắn liền với q
trình giải phóng tư duy khỏi bức tranh huyền thoại về thế giới, thay tư duy hình tượng – biểu tượng bằng
tư duy ở trình độ khái niệm, thay sùng bái thần linh bằng sự đề cao lý trí con người. Cho nên cách hiểu
triết học (từ ngun Hy Lạp viết theo chữ Latinh: philosophia) là sự thể hiện khát vọng (u mến) vươn
đến sự thơng thái thần linh, đồng thời thế tục hố sự thơng thái đó. Tại sao sự ra đời của triết học tại Hy
Lạp lại gắn với sự hình thành (một cách tự phát) tư tưởng duy vật?
- Mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy vật với trình độ khoa học, nhất là khoa học tự nhiên, dù lĩnh vực
này đang trong dạng phơi thai, mầm mống. Mối liên hệ này mang tính tất yếu, tạo nên xung lực cho q
trình phát triển của chủ nghĩa duy vật. Phần lớn các nhà duy vật (các nhà triết học nói chung) đều có kiến
thức sâu sắc về tự nhiên, hoặc đồng thời là nhà khoa học (sophos). Nhờ sự hiểu biết này mà họ đã cố gắng
vượt qua thói quen tư duy truyền thống, tạo cho mình hướng đi riêng, khơng lặp lại. Điều này lý giải vì sao
trong cuộc tranh luận về bản ngun thế giới tinh thần phản biện được đẩy mạnh, thậm chí đến mức độ gay
gắt. Anaximandros khơng chấp cái cụ thể hữu hình (nước) như khởi ngun thế giới, mà đưa ra apeiron
như yếu tố vật chất giả định, cái “bất định”, vơ hạn, nhưng lại là cơ sở cho sự hình thành và chuyển hố
của các sự vật, hiện tượng. Như thế là ơng đã vươn đến quan điểm thực thể , bản chất (substance) về cơ sở
của tồn tại. Anaxago nhấn mạnh đến khía cạnh “chất” trong sự hình thành vạn vật. Ngun tử luận
(Leucippos và Democritos, Epicuros) nói đến ngun tử (atomos) như cái bé nhất, bất khả phân và “hư
khơng” như bản ngun của thế giới… Trong mối liên hệ giữa triết học và khoa học cả hai đều cùng phát
triển với sự tác động và chi phối lẫn nhau. Tính biện chứng tự phát, bẩm sinh thể hiện ở phần lớn các học
thuyết duy vật, với những mức độ khác nhau, trong đó Hêraclít là người tiêu biểu.
- Xét một cách tổng thể, từ bình diện lịch sử - xã hội, tư tưởng triết học duy vật phản ánh lập trường
của các lực lượng xã hội tiến bộ. Cho nên “đường lối Democritos” cũng được xét đốn từ cách tiếp cận
này.
Tuy nhiên, như đã nói trên, tri thức khoa học ở HL cổ đại còn trong tình trạng tản mạn, sơ khai,
trình độ nhận thức chung còn thấp đã góp phần tạo nên một đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật thời
đó:

- Tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ, gắn với trình độ của khoa học và nhận thức, sự hiện diện
của tư duy huyền thoại. Quan điểm về thế giới ở chủ nghĩa duy vật thời này phần lớn căn cứ vào sự quan
sát trực tiếp, sự cảm nhận hay suy tưởng của các triết gia, khơng được luận chứng bằng các dữ liệu khoa
học. Hơn nữa, nhìn từ góc độ vật lý học hiện đại cách tiếp cận về bản ngun như “viên gạch đầu tiên xây
nên tòa lâu đài vũ trụ”, hay như “cái mà từ đó mọi thứ sinh ra và trở về” chưa thực sự hợp lý.
- CNDV ra đời và phát triển trong sự phân cực về thế giới quan – cuộc đấu tranh giữa “đường lối
Đêmơcrít” và “đường lối Platơn”; cuộc đấu tranh ấy là động lực thực sự của sự phát triển tri thức triết học.
Page 2 of 29
Chủ nghĩa duy tâm khơng tự nhiên xuất hiện. Một mặt, chủ nghĩa duy tâm gắn liền với những vấn đề của
xã hội, với nhu cầu đào sâu hơn nữa “tố chất thần linh” trong con người (tính cực đoan là ở chỗ đã thổi
phồng và tuyệt đối hóa đặc tính đó, tách khỏi mảnh đất hiện thực); mặt khác, nó thể hiện sự mong muốn
triển khai các vấn đề nghiên cứu ra các lĩnh vực chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, khắc phục “triết học tự
nhiên” (tính cực đoan là ở chỗ đã tỏ thái độ ác cảm đối với nền dân chủ - hình thức nhà nước ưu việt nhất
trong khn khổ của chế độ chiếm hữu nơ lệ)
(4) Đặc điểm thứ tư là tính biện chứng tự phát trong việc giải thích tự nhiên, khám phá các quy
luật nhận thức. Tư tưởng biện chứng về thế giới, giới tự nhiên được khai mở bởi Hêraclít (Heraklitos),
mặc dù trước đó trong những yếu tố tiền triết học và trong trường phái Milê (Milet) đã xuất hiện những
phác thảo sơ khởi về thế giới như một q trình. Hêraclít khơng chỉ xem xét thế giới như một q trình
(hình ảnh dòng sơng, ở đó “mọi thứ đều chảy”), mà còn đưa ra tư tưởng về tính quy luật của thế giới đó.
Logos là một trong những khái niệm trung tâm của triết học Hêraclít, hàm chứa yếu tố duy vật và biện
chứng ở trình độ tự phát. Các nghĩa của logos: thần ngơn; lời nói, hay học thuyết; lý trí; tính quy luật; tính
tất yếu; trật tự, chuẩn mực; lửa. Vũ trụ này là một ngọn lửa vĩnh cửu, mọi thứ từ lửa và kết thúc bằng sự
phán quyết của lửa, nhờ đó mà diễn ra q trình sinh - diệt thay thế nhau liên tục. Biện chứng của q trình
nhận thức thể hiện rõ nét trong các luận chứng của trường phái Êlê (Elea) về tính mâu thuẫn, hay nghịch lý
của nhận thức, về sự cần thiết giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa vận động và đứng im, hữu hạn và vơ
hạn, liên tục và gián đoạn, tồn tại và hư vơ… Xơcrát (Socrates), Platơn (Platon, Plato), Arixtốt (Aristoteles,
Arstotle) đã xác lập một số nội dung ban đầu về biện chứng chủ quan, làm cơ sở cho việc hình thành lý
luận nhận thức biện chứng sau này.
(5) Cuối cùng, tính nhân văn có thể được xem là một trong những đặc điểm của nhiều nền triêt học,
song trình độ và hình thức thể hiện của nó khác nhau. Chủ nghĩa nhân văn (thuật ngữ humanism ra đời vào

đầu thế kỷ XIX) xem con người là điểm xuất phát, và giải phóng con người là mục đích cuối cùng. “Con
người – thước đo của vạn vật”; lời tuyên bố này của Prôtago (Protagoras) chứng tỏ rằng dù không
ngừng hướng ra vũ trụ, giải thích và khao khát chinh phục nó, người Hy Lạp vẫn dành nhiều tâm huyết
tìm hiểu những vấn đề nhân sinh, xã hội.
Từ Xơcrát trở đi con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng. Tìm hiểu thế giới của con người, kết
hợp “hướng ngoại” và “hướng nội” quy định vị trí và số phận của các triết thuyết. Sự quan tâm đến con
người, tìm kiếm những chuẩn mực sống lý tưởng cho con người, là nét chung trong tư tưởng của Xơcrát,
Platơn, Arixtốt và nhiều triết gia khác từ thời kỳ sơ khai đến thời kỳ Hy Lạp hóa, khủng hoảng và suy tàn.
Thực tiễn “có vấn đề” cũng là điều kiện cho sự tìm kiếm lời đáp để khắc phục nó, nghĩa là hình thành các
phương án vượt qua cái hiện tồn. Cho nên trong các học thuyết chính trị, xã hội đã hình thành chủ nghĩa
hiện thực và chủ nghĩa lý tưởng, khắc họa con người và các thiết chế xã hội từ các góc độ khác nhau.
Những tư tưởng chính trò, đạo đức, pháp quyền, thẩm mỹ do người Hy Lạp - La Mã xác lập trở thành
nền tảng và điểm xuất phát của tư tưởng phương Tây.
Câu 2: Các đặc trưng của triết học thế kỷ XVII – XVIII (nội dung chính):
1.Ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản
Được chuẩn bò từ phong trào văn hóa nhân văn Phục hưng (cuối thế kỷ XIV – đầu thế kỷ XVII),
triết học thế kỷ XVII-XVIII đã trở thành ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản và các lực lượng xã hội
tiến bộ khác trong cuộc đấu tranh chống ý thức hệ phong kiến lỗi thời. Cuộc đấu tranh này diễn ra ở
nhiều bình diện : duy vật chống duy tâm thần bí, khoa học chống chủ nghóa giáo điều và uy quyền tư
tưởng, cải cách chính trò chống bảo thủ chính trò…Tính chất tiến bộ của triết học thời kỳ này được minh
chứng bằng tinh thần hoài nghi và phê phán khoa học, bằng ưu thế của chủ nghóa duy vật trước chủ
nghóa duy tâm. Nếu triết học thế kỷ XVII chú trọng đến phê phán tri thức, trước hết là tri thức kinh
viện trung cổ, thì triết học thế kỷ XVIII, điển hình là triết học Khai sáng Pháp, kết hợp phê phán tri
thức với phê phán xã hội, từ đó hình thành hai xu hướng vận động song song với nhau – cải tổ hoạt
Page 3 of 29
động tinh thần và cải tổ môi trường xã hội. So với thời Phục hưng, giai cấp tư sản thế kỷ XVII – XVII
đóng vai trò lực lượng chính trò độc lập cách mạng, tập hợp xung quanh mình các nhân tố tích cực, tiến
bộ, tấn công trực diện vào chế độ phong kiến và nền tảng tinh thần của nó, xác lập những chuẩn mực,
giá trò mới, đơn giản hóa các quan hệ xã hội, phù hợp với sự vận động lòch sử. Thời Phục hưng thể hiện
quá trình chuyển tiếp từ chế độ phong kiến sang chủ nghóa tư bản, còn thời đại mới đã là thời đại của

các cuộc cách mạng tư sản và sự hình thành xã hội tư sản, với những đặc trưng mà xã hội trước đó chưa
thể có được. Phục hưng về cơ bản gắn liền với sự trở về những giá trò bò lãng quên, để từ đó thực hiện
sự nhận thức lại quá khứ và mở hướng cho tương lai. Thế kỷ XVII – XVIII tiếp thu tinh thần mở đó, và
làm cho nó trở nên hiện thực thông qua cuộc cách mạng cơ cấu, nghóa là cuộc cách mạng làm đảo lộn
mọi quan hệ và cơ cấu xã hội, thay đổi hình thức và cơ chế quyền lực chính trò, phá vỡ các đặc quyền
đẳng cấp, thay đổi quan hệ giữa nhà nước và nhà thờ v.v Cách mạng trong lý trí đi trước cách mạng
trong lónh vực thực tiễn, các học thuyết triết học thực hiện quá trình phê phán cái cũ, cái lỗi thời, xác
lập cái mới, cái tiến bộ, xem cái đang tồn tại, tức chế độ phong kiến và hệ tư tưởng của nó là cái phi
lý, cũng đồng thời là phi nhân tính, đòi hỏi thay thế nó bằng cái hợp lý – hợp nhân tính, theo quan
điểm phổ biến về sự thống nhất lý trí – nhân tính.
2. Liên minh giữa triết học và khoa học tự nhiên
Sự phát triển của triết học gắn kết chặt chẽ, hữu cơ với sự phát triển của khoa học tự nhiên, thể
hiện trình độ nhận thức chung của thời đại. Nhiều nhà triết học đồng thời là nhà khoa học hoặc có
những am hiểu sâu sắc về khoa học, trở thành bộ óc bách khoa của thời đại. Nói khác đi, trong điều
kiện khoa học phát triển như vũ bão, các nhà triết học, để có thể đứng vững trong cuộc luận chiến tư
tưởng, không có nhu cầu nào khác hơn là phải am hiểu những thành quả của khoa học. Mà để đạt được
điều đó họ cần tự mình tìm hiểu, nghiên cứu các lónh cực khoa học, cần mài sắc tư duy bằng sự hiểu
biết về bức tranh khoa học tổng thể, hoặc chí ít cũng làm quen với môi trường khoa học ở những nét
căn bản nhất.
Nhờ biết bám sát vào những thành tựu của khoa học tự nhiên và trình độ nhận thức chung của
xã hội, các nhà triết học đã xác lập bức tranh vật lý mới về thế giới, nắm bắt những tính quy luật khách
quan của nó, đào sâu một số vấn đề bản thể luận mà trước đây chưa từng biết đến. Song ảnh hưởng
của khoa học tự nhiên đến tư duy triết học cũng làm nảy sinh những nan giải nhất đònh. Trước hết, sự
thống trò của cơ học đã để lại dấu ấn trong triết học bằng quan điểm máy móc về thế giới, cả giới tự
nhiên lẫn thế giới của chính con người. Tiếp theo, quá trình tóan học hóa tư duy bên cạnh mặt tích cực
của nó đã góp phần vào việc hình thành cách tiếp cận siêu hình đối với một số lónh vực tự nhiên, xã
hội, chủ trương đưa khoa học chính xác vào môi trường nhân văn. Rất nhiều nhà triết học không chỉ lệ
thuộc vào các nguyên lý cơ học trong nghiên cứu, mà còn từ đó hình thành phương pháp tư duy theo
kiểu tách rời và đem đối lập một cách tuyệt đối “đúng – sai”, “trắng – đen”, “khoa học – không khoa
học”… Phương pháp tư duy của siêu hình học thế kỷ XVII – XVIII có những mặt tích cực nhất đònh,

nhất là trong điều kiện các nhà khoa học cần đến “những chứng cứ của lý trí” để chống các hình thức
ng tạo khoa học và triết học kinh viện. Song phương pháp ấy lại tỏ ra không thích hợp trong việc giải
thích bản chất cũa thế giới đang biến đổi. Vấn đề là ở chỗ, trong khi tìm hiểu những mặt, những thuộc
tính của sự vật, những lónh vực của đời sống, các nhà triết học và khoa học chưa vạch ra một cách thỏa
đáng mối liên hệ và tác động lẫn nhau giữa chúng, hoặc tuyệt đối hóa một mặt nào đó, đồng thời lý
giải thiếu thuyết phục nguyên nhân, động lực của vận động và phát triển. Hình thức thứ hai của chủ
nghóa duy vật, tức chủ nghóa duy vật thế kỷ XVII-XVIII cũng chòu sự quy đònh của tính chất máy móc,
siêu hình ấy, và được gọi là chủ nghóa duy vật máy móc – siêu hình, hay đơn giản là chủ nghóa duy vật
siêu hình.
3. Hình thành hai khuynh hướng chủ đạo trong nhận thức
Page 4 of 29
Sự quan tâm đến nhận thức đáp ứng đòi hỏi của con người trong điều kiện bùng nổ các khám
phá và phát minh khoa học, phát triển lực lượng sản xuất. Có thể xác đònh một số đặc trưng của lý luận
nhận thức thế kỷ XVII – XVIII. Một là, cùng với việc các khoa học cụ thể về tự nhiên và xã hội tách
dần khỏi triết học, đã diễn ra sự thay đổi tất yếu của đối tượng triết học: các nhà triết học ngày càng
tập trung sự chú ý vào việc quyết cùng lúc hai mặt của một vấn đề lớn, mà thiếu một trong số chúng,
triết học sẽ mất đi vai trò xã hội của mình – mặt bản thể luận và mặt nhận thức luận – lô gíc học. Hai
là, sự thay đổi căn bản trong quá trình phát triển của khoa học tự nhiên, sự xuất hiện ngày càng nhiều
các phương pháp chuyên biệt đối với các lónh vực khoa học tự nhiên và lòch sử đặt ra trước triết học
nhiệm vụ khái quát các thành quả của chúng và xây dựng phương pháp triết học chung của nhận thức,
cũng như làm sáng tỏ mối quan hệ giữa triết học với các khoa học chuyên biệt. Nhu cầu phân tích
mang tính nhận thức luận đối với các kết quả nghiên cứu khoa học trở nên cấp bách, bởi lẽ các chất
liệu tiềm tàng và đa dạng do khoa học đem đến cần được luận chứng và hệ thống hóa. Mặt khác, từ
việc xử lý chất liệu cần vạch ra con đường nhận thức tiếp theo về thế giới. Chính vì thế các nhà tư
tûng đặt trọng tâm vào việc tìm kiếm phương pháp luận chung và làm sáng tỏ bản chất của tư duy. Ba
là, những thành tựu trong nghiên cứu khoa học và những thay đổi trong phương pháp luận nghiên cứu
cũng đặt ra nhiệm vụ tìm hiểu bản chất của quá trình nhận thức và nguồn gốc tri thức.
Việc hình thành các phương pháp nhận thức khác nhau nhằm đạt đến mục đích khẳng đònh
quyền lực của con người trước tự nhiên, giúp con người làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản
thân. Từ thế kỷ XVII trở đi vấn đề phương pháp trở thành một trong những chủ đề chính của các cuộc

tranh luận triết học, góp phần xác đònh giá trò của mỗi học thuyết trong đời sống xã hội. Thậm chí một
số nhà triết học đã quy giản đối tượng của triết học về phương pháp.
Trong quá trình tranh luận về phương pháp nhận thức đã hình thành nên hai khuynh hướng chủ
đạo là kinh nghiệm, do Bêcơn khởi xướng, và duy lý, do Đềcáctơ đứng đầu. Khuynh hướng thứ nhất chú
trọng vai trò của khoa học thực nghiệm, khuynh hướng thứ hai nhấn mạnh vai trò của toán học và xu
thế toán học hóa tư duy. Sự khác nhau giữa hai khuynh hướng đó đề cập đến vấn đề nguồn gốc của tri
thức, bản chất của nhận thức, phương pháp nhận thức cụ thể. Hạn chế của cả hai khuynh hướng trên
thể hiện ở tính phiến diện, không thấy được biện chứng của quá trình nhận thức từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng, không biết kết hợp cả hai phương pháp – quy nạp và diễn dòch – trong quá trình
nhận thức và nghiên cứu khoa học.
4. Triết học và tôn giáo, khoa học và thần học
Triết học và khoa học thế kỷ XVII-XVIII chưa chấm dứt hẳên những liên hệ với tôn giáo và thần
học, thể hiện ở các phương án dung hòa giữa các quan điểm, các cách tiếp cận dường như đối lập nhau,
đó là quan niệm hai chân lý (chân lý khoa học và chân lý thần học, đức tin đều có chỗ đứng trong tâm
hồn con người), phiếm thần, thần luận tự nhiên. Tuy nhiên so với thời đại trước, những liên hệ này
không tỏ ra nặng nề, thậm chí mang ý nghóa tích cực nhất đònh: 1) phù hợp với điều kiện lòch sử, xã hội
hiện có; 2) các nhà triết học đơi khi sử dụng phiếm thần và thần luận tự nhiên trong cuộc đấu tranh vì
tự do tín ngưỡng và tôn vinh những giá trò của con người. Điều này giải thích vì sao trong chủ nghóa duy
vật hiện diện đầy đủ các phương án vừa nêu. Hình ảnh Thượng đế trong nhiều trường hợp trở thành
biểu tượng cao nhất của sự hoàn thiện lý trí.
5. Tư tưởng nhân văn, khai sáng
Tư tưởng nhân văn, khai sáng làm nên một trong những nội dung cốt lõi của triết học Cận đại.
Quan điểm của Bêcơn về xã hội lý tưởng, được xây dựng trên cơ sở “quyền lực của tri thức” cho đến
nay vẫn còn ý nghóa thời sự. Nếu Bêcơn tuyên bố “tri thức là sức mạnh”, thì Hốpxơ nhấn mạnh rằng
quyền lực cần phải hàm chứa yếu tố tri thức, nghóa là được xác lập trên sự hiểu biết bản chất con
người, hướng đến mục tiêu ổn đònh chính trò, chủ quyền quốc gia và thống nhất ý chí toàn dân. Lốccơ
trở thành người đặt nền móng cho quan điểm nhà nước pháp quyền, được các nhà khai sáng Pháp thế
Page 5 of 29
kỷ XVIII phát triển và hoàn thiện ở đêm trước của cách mạng tư sản. Hình ảnh “con người lý trí” và
“nhà nước hợp lý tính”, quan niệm về tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ … không chỉ gợi mở con đường

đi tới một trật tự xã hội khác với chế độ phong kiến “phi lý” và phi nhân tính, ngự trò suốt hàng ngàn
năm. mà còn là mục tiêu phấn đấu của nhiều dân tộc. Một số phác thảo của các nhà khai sáng về mô
hình xã hội tương lai cho đến nay vẫn còn là mục tiêu phấn đấu của nhiều dân tộc.
Với những đặc trưng vừa nêu, có thể nói rằng, thế kỷ XVII – XVIII là một trong những thời đại
sôi động nhất trong lòch sử loài người.
Câu 3: Phân tích các đặc trưng cơ bản của triêt học cổ điển Đức
Nước Đức là một trong ba quốc gia lớn ở châu Âu, nhưng cho đến thế kỷ XVIII vẫn còn nằm
trong sự lạc hậu về kinh tế. Sở dó có tình trạng đó là vì so với Anh, Hà Lan và Pháp chính thể quân chủ
Phổ thực thi một đường lối phản động và bảo thủ, lại phải nuôi bộ máy quá cồng kềnh, quan liêu tham
nhũng. Lãnh thổ bò chia năm xẻ bảy, nạn cát cứ hoành hành, cộng thêm hậu quả cuộc chiến tranh Ba
mươi năm khốc liệt, đẩy nước Đức đến bờ vực của sự khủng hoảng. Sản xuất đình đốn, sự ứng dụng
Khoa học – Kỹ thuật hạn chế, đời sống thấp kém, mâu thuẫn xã hội gay gắt. Bên cạnh đó nước Đức là
một trong nhiều nước lạc hậu về chính trò, biểu hiện ở ba điểm sau: Một là, hệ tư tưởng phong kiến còn
ngự trò dai dẳng trong đời sống tinh thần, trong ý thức xã hội; hai là, giai cấp tư sản Đức non trẻ, tỏ ra
yếu đuối trước thực tại đầy quyền uy là chế độ quân chủ. Bởi vậy phần đông ngã theo khuynh hướng
dung hòa giữa “lý trí” và “thực tiễn”, được thể hiện bằng tuyên ngôn điển hình của Hegel: cái gì hợp
lý thì hiện thực, cái gì hiện thực thì hợp lý; ba là, mức độ cách mạng của giai cấp tư sản Đức tỏ ra thấp
so với giai cấp tư sản Anh và Pháp. Đức xét theo mức độ cách mạng thì còn lạc hậu so với Anh hai
trăm năm, so với Pháp năm mươi năm.
Giai cấp tư sản Đức không đủ dũng khí làm cách mạng chính trò – xã hội; họ mong muốn làm
cách mạng trên lónh vực lý trí. Và chính ở đây, do phát triển muộn, họ tỏ ra có ưu thế. Kết quả là vào
cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIV ở châu Âu có ba cường quốc với ba thế mạnh:
- Nước Anh tư bản chủ nghóa với sự nở rộ các học thuyết kinh tế;
- Nước Pháp cách mạng với những đònh hướng chính trò sâu sắc, thể hiện trong các học thuyết
xã hội không tưởng và các quan điểm chính trò;
- Nước Đức với thế mạnh về triết học và trào lưu Khai sáng.
Chính ba thế mạnh vừa nêu hợp thành ba nguồn gốc lý luận của chủ nghóa Mác.
Một số đặc trưng cơ bản của triết học cổ điển Đức
(1) Triết học cổ điển Đức là triết học Khai sáng, “thể hiện khát vọng của người tiểu thò dân
Đức” muốn thay đổi trật tự hiện hành bằng ánh sáng của trí tuệ và lý tưởng tự do bình đẳng, bác ái,

được kế thừa từ cách mạng Pháp cải biến cho phù hợp với điều kiện Đức. Tinh thần đó làm cho các hệ
thống triết học, từ Kant đến Feurerbach, mang tính chất nhân văn sâu sắc. Mác xem triết học Kant là lý
luận Đức của cách mạng Pháp. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cách mạng lý trí (tư duy lý luận
tiến bộ, cách mạng) đi trước cách mạng trong lĩnh vực thực tiễn, đóng vai trò là ngọn cờ lý luận của các lực
lượng xã hội tiến bộ. Cách mạng lý trí trong trường hợp này thể hiện ở triết học cổ điển Đức. Thứ nhất,
bằng nhiều phương thức khác nhau các triết gia Đức, từ Kant đến Feuerbach phê phán tình trạng “phi lý”
của hiện thực và những hạn chế về phương pháp luận trong nhận thức, nêu lên sự cần thiết cải cách mơi
trường xã hội theo hướng tích cực. Thứ hai, cùng với sự phê phán tình trạng hiện có của đời sống xã hội và
“tinh thần Đức”, các triết gia Đức đưa ra nhiều quan điểm tích cực về chính trị, xã hội, dự báo khả năng
thay thế trật tự hiện tồn bằng “nhà nước hợp lý tính”
Tuy nhiên do điều kiện lịch sử tại Đức chi phối mà tư tưởng nhân văn, khai sáng ở các triết gia Đức
tỏ ra khơng triệt để; điều này thể hiện ở mệnh đề “cái gì hợp lý thì hiện thực, cái gì hiện thực thì hợp lý”
trong triết học pháp quyền của Hegel. Mệnh đề ấy chặt chẽ và xác đáng từ góc độ nhận thức, thể hiện quan
Page 6 of 29
điểm của Hegel về sự đồng nhất tư duy và tồn tại, song ở bình diện chính trị - xã hội nó cho thấy tính mâu
thuẫn : khát vọng chiến thắng của “cái hợp lý” và sự dung hồ với thực tại phi lý (xét như mặt đối lập của
cái hợp lý trong tư duy), nhưng đầy uy quyền là nhà nước qn chủ.
2. Quan tâm đến vấn đề nhận thức, khắc phục hạn chế của lý luận nhận thức thế kỷ XVII – XVIII,
xây dựng lý luận nhận thức với những nội dung phong phú và sâu sắc. Nêu cao tinh thần phê phán, Kant đã
xác lập hệ thống “triết học phê phán” với ba tác phẩm chủ đạo: “Phê phán lý trí thuần t” - bàn đến vấn
đề khả năng và giới hạn của nhận thức, “Phê phán lý trí thực tiễn” – bàn đến hoạt động xã hội của con
người, trong đó có sinh hoạt đạo đức, pháp quyền và các hình thức khác, “Phê phán năng lực phán đốn” –
bàn đến vấn đề thẩm mỹ và tính hợp lý của thế giới. Tương tự, Fichte xây dựng “học thuyết khoa học”,
Schelling xây dựng “triết học tự nhiên”, “triết học tiên nghiệm”, “triết học nghệ thuật” và “triết học đồng
nhất”. Đặc biệt, Hegel đã xây dựng hệ thống tri thức phổ qt với ba bộ phận cấu thành là “Lơgíc học” –
bàn về các quy luật vận động của tư duy, “Triết học tự nhiên” – bàn về sự triển khai đa dạng, các nấc thang
phát triển các sự vật trong tự nhiên, “Triết học tinh thần” – bàn về các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tóm
lại, với cách tiếp cận của Hegel, triết học là tri thức phổ qt về tư duy (con người), tự nhiên và xã hội.
Tuy nhiên sự đề cao nhận thức, lý trí của con người đến mức thần thánh hóa đã ảnh hưởng đến
tính chất duy tâm của triết học Kant, Fichte, Schelling, Hegel. Trong triết học cổ điển Đức tồn tại cả hai

biến thái của chủ nghĩa duy tâm là chủ nghĩa duy tâm chủ quan (hầu như hiện diện ở Kant, Fichte,
Schelling qua các phương án khác nhau, từ duy tâm tiên nghiệm đến “học thuyết khoa học” tuyệt đối hố
cái Tơi), chủ nghĩa duy tâm khách quan (chủ yếu Hegel, một phần ở Schelling trong triết lý về sự mặc khải
thần bí). Mặc khác chủ nghĩa duy tâm Đức cũng là kết quả tất yếu trong q trình chuyển trung tâm tri
thức từ Anh và Pháp sang Đức, như nỗ lực khắc phục khiếm khuyết của siêu hình học thế kỷ XVII – XVIII
bằng chủ nghĩa duy tâm.
3. Triết học cổ điển Đức đóng góp to lớn trong việc phát triển phép biện chứng, hình thành
phong cách tư duy mới trong văn hóa châu Âu (và kể cả văn hóa nhân loại), khắc phục sự phân tuyến máy
móc theo kiểu “đúng – sai”, “trắng – đen”, “khoa học – phản khoa học” như đã từng hiện diện ở siêu hình
học thế kỷ XVII – XVIII. Theo phương pháp nghiên cứu mới sự đánh giá các vấn đề thần thoại, tơn giáo,
mà thuật tỏ ra xác đáng hơn, khoa học hơn. Phép biện chứng duy tâm là hình thức thứ hai trong lịch sử
phép biện chứng. Có thể nhận thấy biện chứng của q trình nhận thức ở triết học Kant, biện chứng cái Tơi
và cái khơng-Tơi ở Fichte.
Trong hình thức thứ hai này của phép biện chứng nổ bật sự đóng góp của Hegel. Cơng lao lịch sử
của Hegel là ở chỗ, ơng đã đưa ra cách hiểu mới (hiện đại) về phép biện chứng; hình thành những ngun
lý cơ bản của phép biện chứng, đào sâu vấn đề biện chứng của q trình nhận thức, đi đến tư tưởng về
thống nhất phép biện chứng với lý luận nhận thức và lơgíc học, vận dụng phép biện chứng để lý giải các
vấn đề của tri thức khoa học.
Phép biện chứng duy tâm Đức, nhất là phép biện chứng Hegel, thể hiện mặt tích cực, tiến bộ, cách
mạng của “những người thị dân Đức” (Ph. Ăngghen), và là tiền đề trực tiếp của phép biện chứng duy vật,
do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX.
Hạn chế của phép biện chứng duy tâm:
- Phép biện chứng do được xác lập trên cơ sở thế giới quan duy tâm, nên tỏ ra hạn chế trong việc
giải thích tiến trình lịch sử - xã hội và sự hoạt động của con người, là phép biện chứng “bị đặt lộn ngược
đầu xuống đất” (Mác);
- Tính chất duy tâm dẫn đến tính chất khơng triệt để và đầy mâu thuẫn của phép biện chứng trong
triết học cổ điển Đức. Một mặt, các nhà triết học Đức, đặc biệt Hegel, khẳng định tính phổ biến của sự phát
triển, song mặt khác, họ lại giới hạn sự phát triển đó trong khn khổ chật hẹp. Hegel nhấn mạnh ngun lý
phát triển, song lại xem nền qn chủ Phổ là điển hình của nhà nước đương đại (mặc dù thực ra nền qn
chủ Phổ là nấc thang thấp nhất của sự phát triển xã hội, xét trong điều kiện lúc ấy tại Tây Âu). Trong triết

học tự nhiên Hegel khơng phân tích q trình phát triển theo thời gian, mà chỉ chú trọng đến sự triển khai
đa dạng trong khơng gian. Hạn chế tương tự cũng có thể bắt gặp ở Kant, Fichte…
C. Mác và Ph. Ăngghen khắc phục tính chất phiến diện của phép biện chứng duy tâm Đức, cải tạo
phép biện chứng duy tâm, xác lập phép biện chứng duy vật như sự thống nhất phép biện chứng và chủ
nghĩa duy vật.
Page 7 of 29
4. Triết học cổ điển Đức hình thành và phát triển trong sự gắn bó hữu cơ với toàn bộ nền văn
hóa của nước Đức và nhân loại, với trình độ khoa học tự nhiên thế kỷ XVIII – XIX. Chính thực tiễn
sinh động và sự khởi sắc tinh thần đã quy đònh tính đa dạng và đặc sắc, cũng như những mâu thuẫn của
các hệ thống triết học.Những triết gia Đức thực sự là những bộ óc lớn, mang tính bách khoa, nhất là Kant
và Hegel. Tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức có thể phản ánh phù hợp thực tiễn, tồn
tại xã hội hiện tồn, hay “song hành” cùng với nó, có thể tn theo tính quy luật nội tại, khơng bị chi phối
bởi thế giới vật chất, mà vượt qua thế giới ấy. Các triết gia Đức đã vượt qua hiện thực nước Đức để thể
hiện tinh thần thời đại trong tư tưởng của mình thơng qua tính quy luật kế thừa và phát triển tư tưởng Ở
Kant bước ngoặt Copernic đã đưa đến sự ra đời hệ thống triết học với ba tác phẩm “phê phán”; ở Hegel
ngồi hệ thống đồ sộ còn có các tác phẩm lớn, bàn về nhiều vấn đề, trong đó có những ỳ tưởng “vạch thời
đại” (Engels).
Triết học Đức là sự kết thúc đầy ý nghĩa toàn bộ nền triết học tư sản cổ điển Trong sự kết thúc
đó Feuerbach đã khơi phục truyền thống duy vật trong bối cảnh chủ nghĩa duy tâm và thần bí đang phổ
biến. Triết học cổ điển Đức cũng là đỉnh cao của triết học theo nghĩa cũ , nghĩa “khoa học của các khoa
học”. Sau triết học Đức đã diễn ra wq trình phi cổ điển hố triết học trên nền chung của phi cổ điển hố
văn hố châu Âu.
Câu 4: Sự ra đời triết học mác và bước ngoặt trong lịch sử triết học
1. Bối cảnh lòch sử và các tiền đề của sự ra đời triết học Mác
Những biến đổi to lớn trong đời sống chính trị - xã hội, trong hoạt động văn hóa, khoa học Tây Âu
nửa đầu thế kỷ XIX đã khẳng định tính tất yếu của sự ra đời triết học Mác
Đến những năm 30 – 40 của thế kỷ XIX chủ nghóa tư bản đã có hơn 100 năm tồn tại. Vai trò
tích cực của giai cấp tư sản đối với lòch sử nhân loại dược thể hiện thông qua cuộc đấu tranh thủ tiêu
chế độ phong kiến, giải phóng cá nhân, phát triển sức sản xuất. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghóa
đã phá vỡ những quan hệ lỗi thời, mang nặng tính đẳng cấp,

Có thể nói thời đại tư bản là thời đại năng động nhất so với các thời đại đã qua. Tính biện
chứng của thời đại tư bản thể hiện ở chỗ nó không thể tồn tại bình thường nếu không tạo ra những biến
đổi liên tục trong các lónh vực của đời sống xã hội, cải tiến liên tục công cụ sản xuất, tích cực khai thác
và tìm kiếm các nguồn tài nguyên và nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, theo
Mác, sự phát triển của nền sản xuất tư bản dựa trên các thành tựu khoa học, kỹ thuật của nhân loại, dù
thúc đẩy về cơ bản sự vận động xã hội tiến về phía trước, vẫn không khắc phục được những mâu thuẫn
cố hữu của xã hội có các giai cấp đối kháng, sự tha hóa con người, mà thậm chí còn làm cho những
mâu thuẫn ấy ngày càng trở nên trầm trọng và không thể kiểm soát.
Xã hội tư sản đào sâu thêm khoảng cách giữa thành thò với nông thôn, giữa sản xuất công
nghiệp và sản xuất nông nghiệp, tạo nên những chênh lệch lớn trong đời sống kinh tế lẫn môi trường
văn hóa, nhận thức, sự phân hóa mới trong quan hệ giữa người với người. Đó là điểm dễ thấy nhất.
Thứ hai, sự vận dộng xã hội dựa trên các quy luật thò trường tư bản chủ nghóa trong khi đơn
giản hóa quan hệ xã hội đã đồng thời bộc lộ mặt trái của nó: sư cằn cỗi dần những phong tục, thói quen
và sinh hoạt văn hóa truyền thống, xu hướng thực dụng hóa ngay cả quan hệ gia đình, huyết thống, sư
sòng phẳng đến tàn nhẫn các thang bậc đánh giá khả năng của cá nhân, và do đó loại bỏ không thương
tiếc con người trong điều kiện cạnh tranh và làm giàu bằng mọi giá. Sự thay thế hình thái kinh tế – xã
hội phong kiến bằng hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghóa là hợp lý xét từ quan điểm phát triển,
nhưng chưa hoàn thiện xét từ góc độ nhân sinh. Chủ nghóa tư bản thay thế phương thức nô đòch con
người, chứ chưa thể loại bỏ hẳn phương thức
Thứ ba, chủ nghóa tư bản, theo Mác và Ph. Ăngghen, chẳng những không thể khắc phục mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội của nền sản xuất và sự chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, mà còn
đẩy mâu thuẫn đó đến tình trạng gay gắt, không thể dung hòa trong điều kiện kinh tế thò trường vận
Page 8 of 29
hành theo quy luật cạnh tranh tự do. Cuộc đấu tranh giải phóng xã hội giờ đây gắn liền với cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản công nghiệp chống lại sự áp bức của các lực lượng thống trò và trật tự xã hội
tư sản nói chung. Cuộc đấu tranh này khác với thời đại các cuộc cách mạng tư sản sơ kỳ về mức độ và
bản chất. Vào những năm 30- 40 của thế kỷ XIX giai cấp vô sản, con đẻ của nền công nghiệp, trở
thành một lực lượng chính trò dộc lập, phát triển cuộc đấu tranh từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác,
từ những yêu sách thuần túy kinh tế chuyển dần sang mục tiêu chính trò. Để đạt được mục tiêu đó cần
phải có môt hệ thống lý luận mang tính đònh hướng , được xác lập trên cơ sở hiện thực, nắm bắt và

phân tích khoa học những vấn đề của thời đại, vạch ra con đường giải phóng cho giai cấp vô sản và các
tầng lớp người lao động bò áp bức, dự báo xu thế vận động của lòch sử…Hệ thống lý luận như vậy ra đời
là cần thiết và tất yếu; nó gắn liền với tên tuổi của Mác và Ăngghen từ giữa thập niên 40.
Chủ nghóa Mác xem việc giải phóng giai cấp vô sản và các lực lượng xã hội bò áp bức, tiến tới
xây dựng xã hội cộng sản là mục tiêu chính trò lớn của mình. Nội dung của chủ nghóa Mác có thể thâu
tóm vào ba bộ phận cấu thành : triết học, kinh tế chính trò học và chủ nghóa cộng sản khoa học, trong
đó triết học là hạt nhân thế giới quan. Trước Mác đã có nhiều học thuyết về xã hội cộng sản tương lai,
nhưng hoặc mang nặng tính chất giản đơn, thô lỗ, hoặc tỏ ra không tưởng, thiếu các tiền đề thực tiễn.
Ngược lai, ở Mác, chính các nguyên lý triết học đã làm cơ sở cho việc tìm hiểu các vấn đề của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Chỉ có thế giới quan triết học khoa học, thống nhất với hoạt dộng thực tiễn và
phát triển các luân điểm của mình từ những chất liệu do thực tiễn và các lónh vực khác của đời sống
con người đem đến, mới giải đáp nghiêm túc và có hiệu quả những vấn đề mà thời đặt ra. Vào những
năm 40 của thế kỷ XIX , khi các học thuyết đương đại chưa thực sự bắt nhòp cùng quá trình vận động
của xã hội, thì trong lòng nó đã thai nghén mầm mống của tinh thần khám phá mang ý nghóa cải tạo
thế giới; đó là tất yếu của lòch sử.
Tính tất yếu của sự ra đời triết học Mác phản ánh tính tất yếu của vận động lòch sử ở một nấc
thang cụ thể, gắn với những nhu cầu cụ thể, những nhu cầu mà các thời đại trước còn chưa biết đến.
Tính chất của thời đại quy đònh về cơ bản tính chất của một học thuyết, nhưng ở thời đại nào cũng chứa
đựng bên trong nó vô số các sự vật, hiện tượng, quá trình, các nhu cầu, các thiên hướng khác nhau, nên
xuất hiện nhiều trường phái tư tưởng khác nhau, đôi khi đối lập nhau. Vấn đề là ở chỗ trong số những
khuynh hướng ấy khuynh hướng nào sẽ đóng vai trò chủ đạo, không chỉ thể hiện thành công các điểm
nóng của thực tại, mà còn vạch được con đường đúng đắn nhất hướng đến chân lý.
Mác và Ăngghen xuất thân từ tầng lớp cao trong xã hội tư sản. Từ vò trí xã hội như thế Mác và
Ăngghen đến với những người vô sản, và từ sự đồng cảm với họ hai người đã xây dựng hệ thống lý
luận, học thuyết bảo vệ quyền lợi của họ và vạch hướng cho họ trong cuộc đấu tranh tự giải phóng.
Điều này cho thấy cùng với diều kiện lòch sử, xã hội, thì để có một hệ thống tư tưởng mang ý nghóa
vạch thời đại rất cần xuất hiện những cá nhân giàu bản lónh chính trò và tinh thần nhạy bén khoa học.
Triết học Mác ra đời trong bối cảnh phức tạp của sinh hoạt tư tưởng, khi mà giai cấp tư sản, sau
các cuộc cách mạng tư sản vào thế kỷ XVII – XVIII, đã không còn quan tâm đến cách mạng xã hội
nữa, bởi lẽ nếu diễn ra cách mạng, thì đối tượng loại bỏ không phải là chế độ phong kiến như trước.

Giai cấp tư sản cần đến một hệ chuẩn tư tưởng bảo vệ trật tự vừa hình thành và đang từng bước khẳng
đònh.
Vào những năm 20 – 30, khi Hêghen đang còn là thần tượng của giới trẻ có học thức và cách
mạng tại Đức, những toan tính xem xét lại một cách có phê phán toàn bộ truyền thống cổ điển phương
Tây nói chung, triết học Hêghen nói riêng, đã hình thành dưới tác động của quá trình phi cổ điển hóa
tư duy. Sôpenha là một trong những người đầu tiên khởi xướng quá trình đó. Sôpenha phê phán
chủ nghóa duy lý truyền thống, đặc biệt là hệ thống Hêghen, thay sự sùng bái lý trí bằng sùng bái ý chí.
Sau Sôpenha tại Đan Mạch nhà triết học Kiếckego, người sống hầu như cùng thời với Mác, đặt nền
móng cho Chủ nghóa hiện sinh trong tương lai (nhánh Hiện sinh tôn giáo). Tại Pháp Côntơ, người khởi
Page 9 of 29
xướng Chủ nghóa thực chứng, tuyên bố về một thứ triết học vượt qua cả chủ nghóa duy vật lẫn chủ
nghóa duy tâm, hình thành cái gọi là con đường thứ ba trong triết học. Muộn hơn, các trao lưu triết học
tôn giáo thực hiện quá trình hiện đại hóa bằng cách kết hợp các vấn đề của thời đại với giáo lý Kytô
trung cổ. Nói cách khác, bức tranh triết học nửa đầu thế kỷ XIX tại các nước Tây Âu được hình thành
với ba khuynh hướng cơ bản là khuynh hướng duy lý hiện đại, hay khuynh hướng khoa học (để phân
biệt với duy lý truyền thống), khuynh hướng phi duy lý, và khuynh hướng tôn giáo (khuynh hướng thứ
hai này có nhiều mối liên hệ với khuynh hướng phi duy lý).
Trong tình hình phức tạp như thế Mác đã thể hiện một thái độ khác đối với truyền thống. Khi
xác lập học thuyết triết học của mình Marx chẳng những không xét lại truyền thống một cách cực
đoan, mà còn kế thừa và phát triển những yếu tố tích cực của nó.Mác và Ăngghen tiếp tục nhấn mạnh
sự cần thiết của việc phân tích hệ thống các vấn đề triết học do truyền thống để lại, trong đó có vấn đề
cơ bản của triết học. Bước ngoặt có tính cách mạng trong lòch sử triết học, do Mác và Ăngghen thực
hiện, thực chất là sự kế thừa, đổi mới, phát triển lên trình độ cao các giá trò truyền thống, đặc biệt là
truyền thống phương Tây,cải tạo và khắc phục hạn chế của các học thuyết trước đó mà hai ông có dòp
tìm hiểu.
* Tiền đề lý luận của triết học Mác
Tiền đề sâu xa của triết học Mác là toàn bộ tinh hoa tinh thần của nhân loại, mà chủ yếu là tinh
hoa phương Tây, được tích lũy trong các học thuyết triết học từ hơn hai ngàn năm qua, bắt đầu từ Hy
Lạp cổ đại. Triết học Marx là một vòng khâu trong chuỗi các vòng khâu nối tiếp nhau qua các thời đại,
với sự mở rộng không ngừng tri thức triết học trong mối liên hệ với hoạt động thực tiễn, với khoa học

và trình độ nhận thức chung. Sự kế thừa ấy thể hiện ở các bình diện bản thể luận, nhận thức luận,
phương pháp luận và nhân sinh – xã hội. Khi tìm hiểu triết học Hy Lạp, Mác viết :” Mọi triết học chân
chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình” […]Triết học hiện đại chỉ tiếp tục cái công
việc mà Hêraclít và Arixtốt đã mở đầu mà thôi”
1
. Tư tưởng nhân văn Phục hưng, chủ nghóa duy vật,
nhận thức khoa học và phong trào Khai sáng của thời đại các cuộc cách mạng tư sản thế kỷ XVII –
XVIII đã trở nên kích thích tố quan trọng đối với quá trình hình thành chủ nghóa Mác.
Tiền đề trực tiếp của sự ra đời triết học Mác là triết học cổ điển Đức, mà cụ thể là phép biện
chứng Hêghen và chủ nghóa duy vật nhân bản Phoiơbắc. Cuộc hành trình tư tưởng của Mác bắt đầu từ
phép biện chứng Hêghen, và từ cuối năm 1842 chuyển dần sang chủ nghóa duy vật. Trong “Bản chất
Kitô giáo” Phoiơbắc vạch ra cơ sở tâm lý của sự ra đời tôn giáo như cảm giác bất lực và yếu đuối của
con người trước các lực lượng hùng mạnh và bí hiểm xung quanh, nhấn mạnh rằng tôn giáo là hình thức
sinh hoạt tinh thần cần thiết của nhiều dân tộc, rằng Chúa của Kitô giáo là mục tiêu cao nhất, là cái
Tuyệt đối mà con người phấn đấu vươn tới, nói khác đi con người tạo ra Thượng đế, chứ không phải
Thượng đế sáng tạo ra con người. Phoiơbắc đưa bản chất tôn giáo về bản chất con người, bản chất của
thế giới trần tục, đồng thời vạch ra hạn chế của chủ nghóa duy tâm Hêghen, chứng minh mối liên hệ
giữa chủ nghóa duy tâm trên trời và chủ nghóa duy tâm dưới mặt đất, tức hệ thống Hegel. Ý tưởng cải
cách mà Phoiơbắc đặt ra trong “Luận cương sơ bộ về cải cách triết học” đã kích thích Mác xây dựng
một học thuyết triết học thâm nhập vào đời sống hiện thực thông qua các nguyên lý có tính khoa học
của nó, khắc phục tính tư biện cố hữu ở triết học Hêghen. Phoiơbắc chỉ ra sự cần thiết thay thế chủ
nghóa kinh viện mới (ám chỉ triết học Hêghen) bằng thuyết nhân bản, xem con người là nền tảng, xem
tự nhiên là hiện thực duy nhất, loại bỏ Thượng đế ra khỏi đối tượng nghiên cứu. Cải tổ triết học cũng
có nghóa là giải phóng triết học ra khỏi thần học dưới bất kỳ hình thức nào. Triết hoc Phoiơbắc là chiếc
cầu nối để Mác đi đến chủ nghóa duy vật biện chứng như sự thống nhất chủ nghóa duy vật và phép biện
chứng, khắc phục những hạn chế lòch sử của các bậc tiền bối trực tiếp. Hình thức hiện đại của chủ
1
Page 10 of 29
nghóa duy vật (chủ nghóa duy vật biện chứng) và phép biện chứng (phép biện chứng duy vật), gắn liền
với tên tuổi của Marx và Engels, là sự phát triển mới về chất của lòch sử triết học nói chung, của chủ

nghóa duy vật và phép biện chứng nói riêng. Trong tiền đề lý luận Đức không thể không đề cập đến
vai trò của phái Hêghen trẻ, bởi lẽ chính thông qua phái Hêghen trẻ mà Mác và ngghen trưởng thành
dần về tư tưởng. Trong quá trình chuyển biến thế giới quan phái Hêghen trẻ không chỉ đóng vai trò cầu
nối , mà còn là phép thử tư tưởng đối với Mác và ngghen, nhất là khi cả hai đang đứng trước sự lựa
chọn quyết đònh.
Triết học chính trò của Mác tập trung vào việc tìm kiếm phương thức tồn tại và phát triển của
xã hội trong điều kiện phân hóa gay gắt. Quá trình làm quen với chủ nghóa cộng sản không tưởng của
Xanh Ximông (Saint Simon), Phuriê (Fourier), oen (Owen) đưa C. Mác và Ph. ngghen đến với tư
tưởng cốt lõi của họ như xóa bỏ tình trạng người bóc lột người,xây dựng một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh hơn nền dân chủ hiện tại với sở hữu cộng đồng về tư liệu sản xuất và sự phân phối sản
phẩm xã hội một cách hợp lý. Mác và Ăngghen tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng ấy và vận dụng
vào triết học chính trò của mình, hình thành nên lý luận về vai trò của quần chúng nhân dân trong lòch
sử, học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về nhà nước và cách mạng xã hội, đặc biệt là lý luận
giải phóng con người. Do chòu sự chi phối của điều kiện lòch sử cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX
các nhà cộng sản không tưởng chưa thể vạch được con đường và phương thức giải phóng người lao
động ra khỏi ách áp bức tư sản một cách khoa học. Mác và ngghen vượt qua hạn chế đó, xác lập
quan niệm duy vật về lòch sử, gợi mở những khả năng biến ý tưởng của các bậc tiền bối thành hiện
thực.
Các đại biểu lớn của kinh tế chính trò học Anh, Xmít (A. Smith) và Ricácđô (D. Ricardo), cũng
như kinh nghiệm thực tiễn xã hội tại Anh (sự vận động của nền kinh tế tư bản chủ nghóa, xung đột giai
cấp, tình cảnh giai cấp công nhân Anh) đã đem đến cho Mác một số kinh nghiệm và phương pháp
phân tích các hoạt động kinh tế, các quy luật chi phối sự phát triển của xã hội. Tiếp thu có chọn lọc và
phê phán kinh tế chính trò học tư sản cổ điển , Mác và ngghen đưa vào học thuyết của mình những
vấn đề và những luận giải mang tính khám phá. Học thuyết về giá trò thặng dư của Mác vượt ra khỏi
khuôn khổ của một học thuyết kinh tế, trở thành cơ sở giải thích bản chất của xã hội tư sản, từ đó
khẳng đònh rằng chủ nghóa tư bản không phải là sự lựa chọn cuối cùng của nhân loai.
Các nhà triết học mácxít sau Mác không dừng lại ở những chất liệu đã có từ thời Mác, mà tích
cực tìm hiểu và tiếp thu những tri thức mới, để làm giàu thêm và từng bước hoàn thiện chủ nghóa Mác
trong điều kiện lòch sử cụ thể. Cuộc đấu tranh của C. Mác và Ph.ngghen chống lại cả chủ nghóa giáo
điều lẫn chủ nghóa xaét lại và chủ nghóa phiêu lưu chính trò được tiếp tục vào thế kỷ XX và XXI, nhằm

khẳng đònh giá trò khoa học, tính cách mạng và tính sáng tạo, hay tính mở của chủ nghóa Mác.
Tiền đề khoa học tự nhiên
Liên minh giữa triết học với các lónh vực tri thức cụ thể, đặc biệt là khoa học tự nhiên, có lòch
sử lâu dài và mang ý nghóa sống còn đối với sự phát triển của triết học, nhất là chủ nghóa duy vật. Các
nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại đều là những bộ óc lớn. Talét, Anaxago, Arixtốt và nhiều
người khác được biết đến không chỉ với tính cách là những triết gia, mà còn là những bậc thông thái,
am tường nhiều thứ, chẳng hạn toán học, vật lý học, thiên văn học, sinh vật học…những lónh vực đang
còn ở trong tình trạng tản mạn, sơ khai. Cùng với quá trình chuyên biệt hóa tri thức, vò trí của triết học
như “khoa học của các khoa học”cũng cần được xem xét lại. Song, liên minh giữa triết học với các
khoa học chuyên biệt là điều kiện tất yếu cho sự phát triển của cả hai. Đã có lúc, do những nguyên
nhân khác nhau, triết học bò được dưới sự chế ngự và giám sát của thần học, bò biến thành hệ thống các
quan điểm mang nặng tính giáo huấn, tính minh hoạ một chiều cho các tín điều. Khi ấy những khám
phá khoa học, với những chất liệu thực tiễn không thể bác bỏ, đã trở thành chỗ dựa vững chắc đối với
quá trình giải phóng triết học ra khỏi ảnh hưởng của thần học, tiếp tục con đường hướng tới chân lý.
Page 11 of 29
Triết học không thể phát triển, nếu tách ra khỏi trình độ nhận thức chung của thời đại, trong đó có trình
độ phát triển của tri thức khoa học.
Thế kỷ XVIII – XIX khoa học tự nhiên phát triển như vũ bão với hàng loạt phát minh mang ý
nghóa vạch thời đại, đưa đến sự biến đổi trong cách thức tư duy của con người. Ba phát minh lớn mà
Ăngghen nhắc đến trong tác phẩm “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” được
gọi là các phát minh vạch thời đại do tác động quyết đònh của chúng đến chủ nghóa duy vật : đònh luật
bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào, thuyết tiến hóa. Phát minh thứ nhất tạo nên chất liệu
sống động cho sự lý giải mới về toàn bộ thế giới vật chất, khẳng đònh rằng, thứ nhất, thế giới vật chất
không chỉ được xác đònh là “không bò tiêu diệt”, mà còn là một quá trình luôn trải qua sự liên hệ, tác
động, chế ước, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố trong mỗi sự vật, hiện tượng và giữa các sự vật,
hiện tượng; thứ hai, do đó, cách hiểu “bảo toàn” phải gắn với cách hiểu về vận động, biến đổi, chuyển
hóa.
Với hai phát minh tiếp theo các luận cứ do khoa học tự nhiên đem đến đã khẳng đònh nguồn
gốc tự nhiên của sự sống (thuyết tế bào) từ đơn giản đến phức tạp , từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn. Bức tranh sự sống vô cùng phong phú, phức tạp, song tuân theo tính quy luật bên

trong, khách quan của mình, trong đó có quy luật đấu tranh sinh tồn, tính thích nghi, tự đào thải, chọn
lọc tự nhiên và cân bằng sinh thái (thuyết tiến hoá của Đácuynh (Darwin). Khẳng đònh chân lý khoa
học này cũng có nghóa là bác bỏ quan niệm về nguồn gốc siêu nhiên của sự sống, cũng như sự giải
thích giản đơn, máy móc, siêu hình về thế giới, đặc biệt là thế giới hữu sinh. Sự ra đời thuyết tế bào và
thuyết tiến hóa đã kích thích các nhà khoa học đào sâu quá trình tìm hiểu tính thống nhất và đa dạng
của tồn tại, khám phá những bí ẩn của thế giới, đồng thời góp phần đưa đến sự hình thành phương pháp
tư duy mới. Những thành tựu mới nhất của sinh học, y học, tế bào học hiện đại tiếp tục soi sáng các
vấn đề mà vào thời Đácuynh chỉ mới là những phác thảo hoặc chưa đề cập đến. Điều đáng nói là mỗi
bước đi, mỗi phát minh tiêu biểu của khoa học đều buộc các nhà lý luận tìm hiểu, khái quát, biến
thành những yếu tố thẩm đònh giá trò của một quan điểm , một học thuyết có liên quan.
Những phát minh vạch thời đại trong khoa học tự nhiên, cùng với những biến đổi trong các khoa
học lòch sử, đã góp phần đưa đến sự cáo chung hình thức cũ của chủ nghóa duy vật, tức chủ nghóa duy
vật siêu hình ( đúng hơn, chủ nghóa duy vật trong phạm vi Siêu hình học của thế kỷ XVII – XVIII ); nó
cần được thay thế bằng hình thức hiện đại của chủ nghóa duy vật,tức chủ nghóa duy vật biện chứng.
ngghen viết :”Mỗi lần có một phát minh mang ý nghóa thời đại ngay cả trong lónh vực khoa học lòch
sử – tự nhiên thì chủ nghóa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi hình thức của nó”
2
. Ph. ngghen cho
rằng, để thở thành một nhà triết học chân chính điều kiện trước tiên là phải nắm vững kiến thức về
khoa học tự nhiên – lòch sử, từ toán học, vật lý, đến các khoa học về con người.
2. Những biểu hiện của bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học, do C. Mác và Ph. Ăngghen
thực hiện (nội dung chính)
Chủ nghĩa Mác, trong đó triết học là hạt nhân lý luận của nó, ra đời vào những năm 40 của thế kỷ
XIX. Sự ra đời của triết học Mác đánh dấu bước phát triển mới về chất trong lịch sử triết học, thể hiện ở
những điểm cơ bản sau:
* Thống nhất hữu cơ chủ nghóa duy vật và phép biện chứng
Công lao lòch sử của Hêghen là đã phát triển phép biện chứng từ trình độ tự phát trở thành khoa
học, từ tản mạng thành hệ thống, đem đến cách hiểu hiện đại về phép biện chứng như học thuyết về
mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, vượt qua cách hiểu mang nặng tính chủ quan về phép biện
chứng như “nghệ thuật đối thoại”, xuất phát từ người Hy Lạp. Phép biện chứng, với tính cách như trên,

được Hêghen trình bày trong Khoa học lôgíc, hay Lôgíc học theo nghóa rộng, hàm chứa sự thống nhất
phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học. Tuy nhiên phép biện chứng Hêghen lại được hình
2
Page 12 of 29
thành trên cơ sở thế giới quan duy tâm, do đó tỏ ra không triệt để và đầy mâu thuẫn. Phoiơbắc phê
phán chủ nghóa duy tâm tư biện Hêghen, khôi phục truyền thống duy vật, kết hợp với thuyết nhân bản
đặc trưng của mình. Song thứ chủ nghóa duy vật ấy lại chòu sự chi phối của phương pháp tư duy siêu
hình. C. Mác và Ph, ngghen đã khắc phục tính chất phiến diện của chủ nghóa duy vật và phép biện
chứng của những người đi trước, nhất là các bậc tiền bối trực tiếp, xác lập hình thức hiện đại của chủ
nghóa duy vật, tức chủ nghóa duy vật biện chứng, hình thức hiện đại của phép biện chứng, tức phép
biện chứng duy vật. Triết học mácxít là sự thống nhất hữu cơ chủ nghóa duy vật và phép biện chứng.
Bước chuyển đầy ý nghóa này được bắt đầu từ những năm 40 của thế kỷ XIX, và từ cuối 1843 – đầu
1844 Mác và ngghen dần dần trở thành những nhà duy vật biện chứng.
* Phát minh ra quan niệm duy vật về lòch sử, làm cho chủ nghóa duy vật mácxít trở thành chủ nghóa duy
vật triệt để
Các nguyên lý cơ bản của chủ nghóa duy vật biện chứng được thể hiện một cách sinh động và
sáng tạo trong việc phân tích tiến trình lòch sử - xã hội, làm sáng tỏ các quy luật vận động và phát triển
của nó. Khắc phục quan niệm duy tâm và siêu hình về lòch sử, triết học mácxít thực sự trở thành chủ
nghóa duy vật triệt để trong quan niệm về tự nhiên, xã hội và tư duy. Phát minh ra quan niệm duy vật về
lòch sử là thành công lớn của Mác và Ăngghen.
Những vấn đề của quan niệm duy vật về lòch sử được Mác và Ănghen lần đầu tiên phân tích
một cách sâu sắc và có hệ thống trong “Gia đình thần thánh”(1845) và “Hệ tư tưởng Đức” (1845 –
1846). Trong “Gia đình thần hánh” Mác và Ăngghen phê phán quan niệm duy tâm của phái Hêghen
trẻ, xây dựng học thuyết duy vật về quan hệ giữa cá nhân và quần chúng nhân dân, về động lực của
tiến bộ lòch sử, về đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản nhằm khắc phục tình trạng tha hóa “loài”.
Trong “Hệ tư tưởng Đức” lần đầu tiên các khái niệm nền tảng, trung tâm của quan niệm duy vật về
lòch sử được nêu lên trong sự phân tích khoa học về quy luật phổ biến của vận động xã hội, trong sự
phân tích phương thức sản xuất, rút ra quy luật về sự phù hợp của hình thức giao tiếp (quan hệ sản xuất)
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong “Hệ tư tưởng Đức” Mác và Ăngghen phân tích
mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, vạch ra tính tất yếu của sự thay

thế các hình thức sở hữu, nói tóm lại, đã phác thảo những vấn đề cốt lõi của học thuyết mácxít về hình
thái kinh tế – xã hội. Các vấn đề quan niệm duy vật về lòch sử được hoàn thiện và làm sâu sắc thêm ở
các thời kỳ sau. Lênin bảo vệ, bổ sung và phát triển chủ nghóa duy vật lòch sử trong điều kiện lòch sử
mới.
* Thống nhất lý luận và thực tiễn, giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn
Mác và Ăngghen khắc phục tính chất tư biện của triết học Hêghen, xây dựng một trong những
nguyên tắc xuyên suốt của chủ nghóa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng, là thống nhất lý luận và
thực tiễn, thực hiện sứ mệnh “cải tạo thế giới”, chứ không chỉ dừng lại ở “giải thích thế giới”. Đối với
Mác không phải cuộc sống diễn ra theo những đồ thức luận tư duy, mà ngược lại, đồ thức luận tư duy
cần thường xuyên được điều chỉnh theo những diễn biến của cuộc sống. Vì thế quan điểm thực tiễn đã
trở thành quan điểm xuất phát, nền tảng trong triết học Mác. Lòch sử phát triển của triết học cho thấy
phạm trù “thực tiễn” có từ thời cổ đại, và trở thành một trong những phạm trù được nhắc đến nhiều
trong các học thuyết triết học. Điều này không khó giải thích, bởi lẽ không một nhà triết học nào chủ
trương tách rời hệ thống triết học khỏi thực tiễn lòch sử – xã hội. Vấn đề là ở chỗ các học thuyết ấy
hiểu thực tiễn như thế nào, dựa trên cơ sở thế giới quan nào. Cantơ, chẳng hạn, nhấn mạnh ưu thế của
“lý tính thực tiễn” trước “lý tính thuần tuý”, vạch ra con đường biện chứng của nhận thức từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Song Cantơ hiểu thực tiễn theo
nghóa “hoạt động mang ý nghóa thực tiễn”, tức đồng nhất phạm trù “thực tiễn” với phạm trù “hoạt
động”. Hêghen cũng khẳng đònh “chân lý thực tiễn cao hơn chân lý lý luận”, nhưng cách hiểu của ông
về thực tiễn không vượt ra khỏi khuôn khổ của chủ nghóa duy tâm tư biện. Mác không chỉ đưa vào
Page 13 of 29
phạm trù “thực tiễn” nhiều nội dung mới, xem thực tiễn như tồn tại có tính lòch sử – xã hội của con
người, điều mà các nhà triết học thế kỷ trước chưa nghó đến, mà còn xác đònh tính vật chất của hoạt
động thực tiễn. Đó là sự khác biệt giữa Mác với Cantơ và Hêghen. Nhờ hiểu thực tiễn từ quan điểm
của chủ nghóa duy vật biện chứng mà nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn mang thông điệp mới.
Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn nghóa là phải xem thực tiễn như nguồn
gốc, cơ sở, động lực, mục tiêu của nhận thức, tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Hơn thế nữa, chỉ xuất phát
từ thực tiễn mới khắc phục được quan điểm siêu hình trong nhận thức và hành động, bởi lẽ thực tiễn
biến đổi sẽ thực hiện quá trình sàng lọc, đào thải đối với lý luận; những quan điểm nào tỏ ra lỗi thời,
không đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội, sẽ phải nhường chỗ cho cái mới, cái hợp lý.

* Thống nhất tính cách mạng với tính khách quan khoa học; vũ khí lý luận của giai cấp vô sản
Là học thuyết mang ý nghóa “cải tạo thế giới”, triết học Mác ngay từ khi ra đời đã thâm nhập
vào các phong trào quần chúng, trở thành một học thuyết tạo nên ảnh hưởng sâu sắc trong thế giới
đương đại. Xét từ góc độ lý luận giải phóng, triết học Mác là chủ nghóa nhân văn đạt đến tầm cao mới,
hình thành trong điều kiện xã hội tư sản, nhưng thông qua hiện thực đấu tranh của giai cấp vô sản đã
dự báo về một xã hội lý tưởng, hay một liên hợp mà ở đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Điểm chung của chủ nghóa nhân văn thể hiện ở chỗ
xem con người là điểm xuất phát, và giải phóng con người là mục đích cuối cùng. Tuy nhiên không có
chủ nghóa nhân văn dành cho mọi thời đại. Chủ nghóa nhân văn mácxít khác với chủ nghóa nhân văn
trừu tượng kiểu Phoiơbắc, hay chủ nghóa cộng sản không tưởng kiểu Xanh Ximông, Phuriê, Ơoen về
nội dung lẫn phương thức biến khả năng thành hiện thực, biến ý tưởng giải phóng thành lý luận khoa
học về sự giải phóng. Triết học do Mác và Ăngghen xây dựng là lý luận giải phóng của giai cấp vô
sản.
* Sự thay đổi tính chất và đối tượng của triết học, quan hệ giữa triết học và các khoa học cụ thể,
chuyên biệt
Sự ra đời của triết học Mác góp phần làm thay đổi quan niệm về tính chất và đối tượng của triết
học, về quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể. Vấn đề là ở chỗ, vào thời cổ đại, do trình độ
nhận thức chung hãy còn thấp, tri thức khoa học còn nằm trong tình trạng tản mạn, sơ khai, nên triết
học, do đặc điểm của mình, được xem như dạng tri thức lý luận duy nhất, giải quyết thay những vấn đề
mà lẽ ra thuộc phạm vi của các khoa học cụ thể. Triết học đóng vai trò “khoa học của các khoa học”,
còn các triết gia thì được nhìn nhận như những bậc thông thái am tường mọi thứ. Quan niệm ấy tồn tại
khá lâu trong lich sử , mà hệ thống Hêghen là sự thể hiện hoàn bò nhất, xét từ nội dung“cổ điển”
truyền thống. Tuy nhiên ngay từ cuối thời đại Phục hưng, trong đời sống khoa học đã diễn ra quá trình
chuyên biệt hóa, cá thể hóa, đưa đến sự ra đời các ngành khoa học cụ thể, chuyên biệt, với hệ thống lý
luận của mình. Với thời gian triết học từ bỏ dần vai trò “khoa học của các khoa học”, hay thứ tri thức
bao trùm nào đó. Thế giới quan triết học, với tính chất tổng hợp, tính hệ thống và tính khái quát hóa
vốn có từ lòch sử, tiếp tục công việc của một lónh vực nhận thức đặc thù trong sự liên minh ngày càng
bền chặt với các khoa học cụ thể, chuyên biệt. Trong liên minh theo cách hiểu mới các khoa học cụ thể
đem đến cho triết học chất liệu sống, nhờ đó mà các nhà triết học đưa ra những luận điểm , những giải
thích về sự vật một cách hợp lý, có căn cứ; đồng thời từ các dữ liệu của quá khứ, hiện tại, họ cùng các

nhà khoa học gợi mở, dự báo về những vấn đề của tương lai. Về phần mình triết học tác động đến các
khoa học tự nhiên – lòch sử ở phương diện thế giới quan và phương pháp luận. Trong thời đại ngày nay
sự tác động này trở nên rõ ràng hơn nhờ sự phát triển mạnh mẽ của tri thức khoa học, rất cần sự đònh
hướng ở tầm mức của lý luận triết học, vượt ra khỏi ranh giới hẹp tương đối của khoa học chuyên biệt.
Lênin khơng chỉ bảo vệ những luận điểm nền tảng của chủ nghĩa Mác, mà còn phát triển, bổ sung,
điều chỉnh nội dung (và cả cách tiếp cận) của chủ nghĩa Mác, vốn hình thành trong thế kỷ XIX, hiện thực
hố nó thơng qua thắng lợi của cách mạng tháng Mười và sự ra đời các nước xã hội chủ nghĩa.
Page 14 of 29
Câu 5: Tư tưởng cơ bản nho giáo
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỉ VI tr.CN dưới thời Xuân Thu, người sáng lập là Khổng Tử (551
tr.CN - 479 tr.CN). Sau khi Khổng Tử chết, nho gia chia làm tám phái, nhưng quan trọng nhất là phái Mạnh
Tử và Tuân Tử với hai xu hướng khác nhau: duy tâm và duy vật, trong đó dòng nho gia Khổng - Mạnh có ảnh
hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
Kinh điển của Nho giáo thường được kể tới là Tứ Thư (Luận Ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh Tử)
và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ Dịch, Xuân Thu).
Quan điểm về xã hội, về chính trị - đạo đức của Nho gia được thể hiện ở những tư tưởng chủ yếu sau:
* Về vũ trụ và giới tự nhiên
+ Khổng tử tin vào vũ trụ quan “dịch”, tin vào sự vận hành biến hoá không ngừng của sự vật, cuộc
vận hành ấy có trật tự, có hoà điệu, mà nguyên nhân của trật tự và hoà điệu ấy con người không thể cưỡng
lại được, nên Khổng Tử gọi đó là “ thiên mệnh” , ông cho “Trời” có ý chí làm chúa tể của vũ trụ, chi phối
mọi sự biến hóa cho hợp lẽ điều hoà. Tin vào mệnh trời, Khổng Tử coi việc hiểu biết mệnh trời là điều kiện
để trở thành người hoàn thiện.
+ Khổng Tử tin có quỷ thần, nhưng quan niệm quỷ thần của ông có tính chất lễ giáo nhiều hơn là tôn
giáo. Khổng Tử cũng cho rằng quỷ thần không có tác dụng chi phối đời sống của con người, ông phê phán
sự mê tín quỷ thần.
* Quan niệm về chính trị- đạo đức
Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những nền tảng của xã hội,
trong đó quan
hệ quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi, cha - con và chồng - vợ (gọi là Tam
cương). Nếu xếp theo “tôn

ty trên - dưới” thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua - cha - chồng xếp ở
hàng làm chủ. Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia.
Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã hội đầy những biến
động loạn lạc và chiến tranh, nên lý tưởng của Nho gia là xây dựng một “xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội
có trật tự trên - dưới, có vua sáng - tôi hiền, cha từ - con thảo, trong ấm - ngoài êm; trên cơ sở địa vị và thân
phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân. Đó chính là thuyết chính danh (theo Khổng tử
chỉ có một lối để phục hưng trật tự xã hội là thu xếp thế nào để cho vua ở địa vị của vua, thần ở địa vị của
thần, dân ở địa vị của dân, như vậy thì vật nào ở địa vị chính danh của vật đó, trong xã hội ai cũng thực hiện
đúng chính danh của mình thì xã hội ổn định).
Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương tiện chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng “đại đồng”. Nền
giáo dục Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người, mà chuẩn mực gốc là “Nhân”.
Những chuẩn mực khác như: Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu, v.v đều là những biểu hiện của Nhân.
Thứ tư, Nho gia không có sự thống nhất quan điểm về vấn đề bản chất con người. Ví dụ:
+ Mạnh Tử: Theo ông “bản tính người vốn là thiện”. Thiện là tổng hợp những đức tính của con
người từ khi mới sinh: Nhân, Nghĩa, Lễ…Do đó, ông đề cao sự giáo dục để con người trở về đường thiện
với những chuẩn mực đạo đức có sẵn.
+ Tuân Tử lại coi bản tính người vốn là ác. Mặc dù bản tính con người là ác, nhưng có thể giáo hóa
thành thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín…).Do đó, Tuân Tử chủ trương đường lối trị nước là kết hợp Nho gia
với Pháp gia.
So với các học thuyết khác, Nho gia là học thuyết có nội dung phong phú và mang tính hệ thống hơn
cả; hơn thế nữa để trở thành hệ tư tưởng chính thống, Nho gia đã được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai
đoạn lịch sử trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh, nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại nhà Hán và
nhà Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương
Tải, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (thời Tống).
Quá trình bổ sung và hoàn thiện Nho gia thời trung đại được tiến hành theo hai xu hướng cơ bản:
Một là, hệ thống hóa những quan điểm và chuẩn mực hóa những quan điểm triết học của Nho gia theo
mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích thống trị của giai cấp phong kiến, vì thế Đổng Trọng
Thư đã làm nghèo nàn đi nhiều giá trị nhân bản và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy tâm thần bí của
Nho gia trong các quan điểm về xã hội cũng được đề cao. Tính khắc nghiệt một chiều trong các quan hệ
Tam cương, Ngũ thường thường được nhấn mạnh.

Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên cơ sở bổ sung bằng những quan
Page 15 of 29
điểm triết hoc của thuyết Âm Dương - Ngũ hành, những quan niệm về bản thể của Đạo gia, tư tưởng về
pháp trị của Pháp gia, v.v Vì vậy, có thể nói: Nho gia thời trung đại là tập đại thành của tư tưởng Trung
Hoa. Nho gia còn có sự kết hợp với cả tư tưởng triết học ngoại lai phật giáo. Sự kết hợp những tư tưởng triết
học của Nho gia đã có ngay từ thời Hán và ít nhiều có cội nguồn từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp nhuần
nhuyễn và sâu sắc chỉ có dưới thời nhà Tống (960 - 1279).
* Ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam:
Nho giáo vào nước ta từ những năm cuối trước Công nguyên. Từ cuối thế kỷ XIII trở đi, Nho giáo
dần dần lấn át Phật giáo và trở thành quốc giáo. Nó được phát triển trong sự ảnh hưởng của tư tưởng truyền
thống Việt Nam và Phật giáo. Tư tưởng của Nho giáo có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực:
+ Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh, bảo vệ chủ quyền dân tộc. Nho
giáo đã có công trong việc đào tạo tầng lớp nho sỹ Việt Nam, trong đó có nhiều nhân tài kiệt xuất như:
Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm Nho giáo hướng nhân dân vào con đường ham tu
dưỡng đạo đức theo nhân - nghĩa - lễ - trí - tín, ham học hỏi để phò vua giúp nước. Ảnh hưởng chính của Nho
giáo là thiết lập được kỷ cương và trật tự của xã hội phong kiến Việt Nam.
+ Mặt tiêu cực: Nho giáo góp phần không nhỏ vào việc duy trì quá lâu chế độ phong kiến, kìm hãm
quan hệ kinh tế tư bản phát triển ở nước ta. Dưới ảnh hưởng của Nho giáo, truyền thống tập thể đã biến thành
chủ nghĩa gia trưởng chuyên quyền độc đoán. Nho giáo không khuyến khích thúc đẩy sự phát triển của các
ngành khoa học tự nhiên Những mặt tiêu cực đó phản ánh tính chất bảo thủ và lạc hậu của nho giáo ở
nước ta.
Câu 6: Tư tưởng cơ bản trường phái pháp gia
Pháp gia: Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương dùng những luật lệ,
hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo đức của con người và củng cố chế độ
chuyên chế thời Chiến quốc. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có
giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Là tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn dư của chế độ
công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo đương thời. Đại diện của phái Pháp
gia là Hàn Phi Tử (280 - 233 tr. CN). Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử dựa trên những luận cứ triết học
cơ bản sau:

1. Về tự nhiên:
Ông giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật theo tính quy luật khách quan mà ông gọi là
Đạo. Đạo là quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn tồn tại và không thay đổi. Còn mỗi sự vật đều có
"Lý" của nó. "Lý" là sự biểu hiện khác nhau của Đạo trong mỗi sự vật cụ thể và là cái luôn luôn biến hóa
và phát triển. Từ đó, ông yêu cầu mọi hành động của con người không chỉ dựa trên quy luật khách quan,
mà còn phải thay đổi theo sự biến hóa của "Lý", chống thái độ cố chấp và bảo thủ.
2. Về lịch sử:
Ông thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, khẳng định rằng không thể có chế độ xã hội nào là
không thay đổi. Do đó không thể có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Ông đã phân chia sự tiến triển của
xã hội làm 3 giai đoạn chính, mỗi giai đoạn đó xã hội có những đặc điểm và tập quán riêng ứng với trình
độ nhất định của sản xuất và văn minh. Đó là:
+ Thời Thượng cổ: Con người biết lấy cây làm nhà và phát minh ra lửa để nấu chín thức ăn.
+ Thời Trung cổ: Con người đã biết trị thủy, khắc phục thiên tai.
+ Thời Cận cổ: Bắt đầu xuất hiện giai cấp và xảy ra các cuộc chinh phạt lẫn nhau.
Động lực căn bản của sự thay đổi xã hội được ông quy về sự thay đổi của dân số và của cải xã hội.
3. Về thuyết "Tính người":
Ông theo quan niệm của Tuân Tử coi tính người là ác, đưa ra học thuyết luân lý cá nhân vị lợi,
luôn có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi Kẻ thống trị phải nương theo tâm lý vị lợi của con
người để đặt ra pháp luật, trọng thưởng, nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội.
4. Tư tưởng về pháp trị
Page 16 of 29
Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy, Hàn Phi Tử đã đề ra học thuyết Pháp trị, nhấn mạnh
sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp. Ông cũng phản đối thuyết nhân trị, đức trị của Nho giáo,
phép "vô vi trị" của Đạo gia. Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và
thuật, trong đó pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách
đó.
+ "Pháp" là một phạm trù của triết học Trung Hoa cổ đại. Theo nghĩa hẹp, là quy định, luật lệ có
tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân thủ; theo nghĩa rộng, pháp được coi là một thể
chế, chế độ chính trị và xã hội. Vì vậy, pháp được coi là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ danh
phận, giúp cho mọi người thấy rõ được bổn phận, trách nhiệm của mình.

+ "Thế" là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể.
+ "Thuật" cũng là chính danh, là phương sách trong thuật lãnh đạo của nhà vua nhằm lấy danh mà
tránh thực.
Người sáng lập phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (khoảng 280- 233 tr.CN).
Phái Pháp gia chú trọng vào những tư tưởng chính trị - xã hội và đề cao phép trị quốc bằng luật pháp. Pháp trị
của Hàn Phi Tử dựa trên những luận cứ triết học cơ bản sau đây:
- Thừa nhận tính khách quan và uy lực của những lực lượng khách quan mà ông gọi là “lý”. Đó là cái chi
phối quyết định mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội.
- Thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, cho rằng không thể có chế độ nào là không thay đổi. Do đó
không thể có khuôn mẫu chung cho xã hội. Ông đã phân tích sự tiến triển của xã hội làm ba giai đoạn chính:
thời thượng cổ, thời trung cổ, và thời cận cổ. Động lực căn bản của sự thay đổi xã hội được ông quy về sự thay
đổi của dân số và của cải xã hôi.
- Chủ thuyết về tính người: ông cho rằng bản tính con người vốn là “ác”, tức là tính cá nhân vụ lợi, luôn
có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi…
Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy Hàn Phi Tử đã đề ra học thuyết Pháp trị, nhấn mạnh
sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp. Ông phản đối phép nhân trị, đức trị của Nho gia và phép “vô vi
trị”của Đạo gia. Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm ba yếu tố tổng hợp: Pháp, Thế và Thuật.
Câu 7 : Phân tích mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn
I. THỰC TIỄN
1. Khái niệm
Hoạt động con người chia làm hai lĩnh vực cơ bản. Một trong hai lĩnh vực quan trọng đó là:
hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn: (theo quan điểm triết học Mác xít):
Là những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải
tạo, làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
2. Tính vật chất trong hoạt động thực tiễn
Đó là hoạt động có mục đích của xã hội, phải sử dụng những phương tiện vật chất đề tác động tới
đối tượng vật chất nhất định của tự nhiên hay xã hội, làm biến đổi nó, tạo ra sản phẩm vật chất nhằm thoả
mãn nhu cầu của con người.
Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực sự mang tính chất phê phán

và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của thực tiễn, là cơ sở đề phân biệt hoạt động thực tiễn
khác với hoạt động lý luận của con người.
3. Tính chất lịch sử xã hội
Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, hoạt động thực tiễn diễn ra là khác nhau, thay đổi về phương
thức hoạt động.
Thực tiễn là sản phẩm lịch sử toàn thế giới, thể hiện những mối quan hệ muôn vẻ và vô tận giữa con
người với giới tự nhiên và con người với con người trong quá trình sản xuất vật chất và tinh thần, là
phương thúc cơ bản của sự tồn tại xã hội của con người.
4. Thực tiễn của con người được tiến hành dưới nhiều hình thức
Page 17 of 29
Trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới, con người tạo ra một hiện thực mới, một ”thiên nhiên
thứ hai”. Đó là thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại của con
người, những điều kiện này không được giới tự nhiên mang lại dưới dạng có sẵn. Đồng thời với quá trình
đó, con người cũng phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Chính sự cải tạo hiện thực thông qua hoạt động
thực tiễn là cơ sở của tất cả những biểu hiện khác có tính tích cực, sáng tạo của con người. Con người
không thích nghi một cách thụ động mà thông qua hoạt động của mình, tác động một cách tích cực để biến
đổi và cải tạo thế giới bên ngoài. Hoạt động đó chính là thực tiễn.
a. Hoạt động sản xuất vật chất
Là hoạt động thực tiễn quan trọng nhất của xã hội.Thực tiễn sản xuất vật chất là tiền đề xuất phát để
hình thành những mối quan hệ đặc biệt của con người đối với thế giới, giúp con người vượt ra khỏi khuôn
khổ tồn tại của các loài vật.
b. Hoạt động chính trị xã hội
Là hoạt dộng của con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển và hoàn thiện các
thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt động sản xuất và tạo ra những môi trường
xã hội xứng đáng với bản chất con người bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
c. Hoạt động thực nghiệm khoa học
Là hoạt động thực tiễn đặc biệt vì con người phải tạo ra một thế giới riêng cho thực nghiệm của
khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội.
II. THỰC TIỄN CÓ VAI TRÒ RẤT TO LỚN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu chuẩn của nhận

thức.
1. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các sự vật, hiện
tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy luật của chúng. Trong quá trình hoạt
động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình
thành. Như vậy, qua hoạt động thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới quan( tạo điều
kiện cho nhận thức cao hơn).
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các giác quan ngày càng
hoàn thiện hơn. Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức. Chính hoạt động
thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm
hiểu tự nhiên.
1. Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước phát triển của thực tiễn
lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực
tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức. Thực
tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần, các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được
đâu là mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật vận động và phát triển
của sự vật.
2. Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn. Mục đích cuối cùng
của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những
nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do
yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt động thực tiễn, giúp cho
hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể
hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa.
3. Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát
triển và ngược lại.
4. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

a. Chân lý
Page 18 of 29
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn khẳng định (nội dung
khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người)
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ: chân lý tôn giáo).
Chân lý mang tính hai mặt (tuyệt đối và tương đối) vì tính hai mặt trong quá trình nhận thức của
nhân loại.
b. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý không phải là ý
thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác
động vào thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính.
Từ đó mới có căn cứ để đánh giá nhận thức của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay không.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng được kiểm tra thông qua rất
nhiều hình thức khác nhau.
+Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
+Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể chứng minh hay bác bỏ hoàn
toàn một tri thức nào đó của con người mà nó được thực tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy mới có khả năng kiểm tra
một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận thức.
c. Ý nghĩa:
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường mới, nền văn hoá
mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới: công bằng, bình đẳng, tién bộ.
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể muốn biết đúng hay
sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh doanh cũng như quản lý các quá trình đó.
Đường lối chính sách cũng như các giải pháp kinh tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc
đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành tựu to lớn mang lại ý
nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Những hoạt động nghiên cứu lý luận chính là
nhằm tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở nước ta

vừa là mục tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và công tác lý luận nói
riêng, nhất định sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể hơn về mô hình chủ
nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Lý luận
a. Khái niệm
Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó phản ánh những quy luật, của từng
lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
b. Đặc điểm
Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã hội nên bất kỳ một lý luận
nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng.
Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận và thực tiễn thống nhất
biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng đều là hoạt động của con người, đều nhằm
mục đích cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thoả mãn nhu cầu của con người.
a. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn. Thực tiễn là hoạt động
cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Lý luận không có mục đích tự nó mà
mục đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn,
phục vụ cho yêu cầu của thực tiến.
b. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản. Sự thành công
hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay
Page 19 of 29
không? Sự phát triển của lý luận là do yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời
lý luận, không thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức đúng đắn về các quy luật
vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp
đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.

Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là thống nhất hoặc mâu
thuẫn đối lập.
c. Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến bộ và còn giữ sứ
mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng cường lẫn nhau và phát huy vai trò của
nhau. Sự thống nhất đó là một trong những nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
d. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu thuẫn nảy sinh, chúng sẽ
làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi đường lối, chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản
động.
*Ý nghĩa:
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là lý luận xã hội mà quan
trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh tế.
Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu như không có chỗ đứng nào.
Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu xí của con buôn (Phơ-Bách). Trong “Chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi khác đã ”cố gạt
thực tiễn ra khỏi lý luận nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không đáng nghiên cứu về mặt nhận thức
luận, đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi người phân biệt được ảo tưởng với hiện thực đặt
ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý luận nhận thức để dọn chỗ cho chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất
khả tri”.
V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản
của lý luận về nhận thức.
Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối với nước ta trong giai
đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động. Hiện nay, nước ta đang tiến hành đổi mới
một cách toàn diện các mặt của đời sống xã hội, mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ nền
kinh tế tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một vấn đề hết sức
mới mẻ chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng không bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau đó mới đi
vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói riêng và việc nhận thức quá trình
đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau cùng phát triển.
Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách quan, phải lấy hiện

thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình. Gắn lý luận vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa
học, có cơ sở vững chắc. Tinh thần ấy chính là vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
VI.
e. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với
thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần
Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động
cách mạng, và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Lý luận luôn luôn cần
được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động.
* Con đường biện chứng của sự nhận thức:
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận động, phát triển. Sự vận
động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện chứng:
- “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng đến thực tiễn - đó là con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”.
+Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, được hình
thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này được hình thành thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp
nhau: cảm giác, tri giác, biểu tượng
Page 20 of 29
+Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức dựa trên cơ sở
những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại.
- Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa phải là chấm dứt, mà nó
lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải trở về với thực tiễn vì:
+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải trở về chỉ đạo hoạt động
thực tiễn cải tạo thế giới.
+ Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện thực. Vì vậy, nhận thức
phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức, phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức
sai lầm.
+ Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về với thực tiễn để trên cơ sở
thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.

- Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến thực tiễn là một vòng
khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm cho nhận thức của con người phát triển không
ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật của thế giới khách quan.
Câu 8 : Phân tích, chứng minh triết học mac-xit mang tính sáng tạo, khoa học và cách mạng?
1. Là học thuyết duy nhất nên lên mục tiêu giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người, với con đường, lực lượng và phương thức đạt được mục tiêu đó.
2. Là một hệ thống lý luận toàn diện, mang tính khoa học và cách mạng thể hiện trong toàn bộ các
nguyên lý cấu thành học thuyết, trước hết là các nguyên lý trụ cột.
3. Sự thống nhất hữu cơ giữa thế quan khoa học, và phương pháp luận macsxit trong chủ nghĩa Mac-
Lenin
4. Chủ nghĩa Mac-Lenin là một học thuyết mở, không ngừng tự đổi mới, tự phát triển trong dòng trí
tuệ của nhân loại
Trước hết, về mặt lý luận, điều dễ nhận thấy, do bản chất của học thuyết cho nên tính khoa học và
tính cách mạng luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, tồn tại không tách rời nhau. Khi khẳng định bản chất
khoa học và cách mạng (không nói bản chất cách mạng và khoa học) của chủ nghĩa Mác - Lênin, tức là ta
đã mặc nhiên thừa nhận thuộc tính khoa học là cơ sở cho thuộc tính cách mạng, chứ không phải ngược lại.
Trong mối quan hệ biện chứng giữa tính khoa học và tính cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin thì tính
khoa học đóng vai trò cơ sở của tính cách mạng, đảm bảo cho tính cách mạng gắn liền với sự sáng tạo và
khả năng hiện thực hóa. Ở chiều ngược lại, tính cách mạng tạo nên sức sống của tính khoa học, và làm cho
vai trò hướng dẫn, soi đường của tri thức khoa học đi vào thực tiễn. Như vậy, nếu tính cách mạng tách rời
tính khoa học sẽ là sự rời bỏ gốc rễ của chính nó và tất yếu sẽ dẫn đến những sai lầm, với những hậu quả
tiêu cực khó lường trong hoạt động thực tiễn. Ngược lại, nếu tính khoa học không gắn liền với tính cách
mạng thì bản thân sự tồn tại của học thuyết khoa học sẽ mất ý nghĩa, lý luận khoa học sẽ đứng trước nguy
cơ trở thành lý thuyết suông, giáo điều, kinh viện.
Xét về phương diện hoạt động thực tiễn, chúng ta thấy mối quan hệ giữa tính khoa học và tính cách
mạng trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Chúng ta thường quan niệm tính khoa học chủ yếu gắn với hoạt động
nhận thức, còn tính cách mạng lại gắn nhiều hơn với hoạt động thực tiễn. Điều đó, có lẽ đúng về cơ bản. Vì
vậy, nhiệm vụ của tư duy lý luận là làm rõ “lịch sử, như nó đã diễn ra từ trước tới nay, diễn ra giống như
một quá trình tự nhiên và về thực chất phục tùng những quy luật vận động như nhau” [2]. Còn hoạt động
thực tiễn có tính cách mạng phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn rằng: “một xã hội ngay cả khi đã phát hiện

được quy luật tự nhiên của sự vận động của nó, cũng không thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự
nhiên hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ những giai đoạn đó” [3]. Tất nhiên trong thực tiễn vẫn thường xuất hiện
những hành động cách mạng mà không dựa
trên cơ sở khoa học mà chúng ta thường giải thích là do nhiệt tình cách mạng thái quá. Điều đáng quan tâm
theo chúng tôi là trong hoạt động thực tiễn vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta thường có khuynh
hướng tách rời giữa tính cách mạng với tính khoa học và nguy hại hơn là khuynh hướng đề cao tính cách
mạng mà coi nhẹ tính khoa học. Thực tiễn quá trình cách mạng ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước xã hội
Page 21 of 29
chủ nghĩa trước đây cho thấy, những người cách mạng thường hay phạm phải sai lầm tả khuynh hơn là hữu
khuynh, là một minh chứng cho điều đó.
Những sai lầm của cách mạng, cả tả khuynh và hữu khuynh đều bắt nguồn từ rất nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là do chúng ta chưa thật sự coi trọng tính khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong hoạt động thực tiễn. Đó cũng là biểu hiện sự tách rời trong thực tiễn giữa tính cách
mạng với tính khoa học. Điều đã rõ ràng là, bản chất khoa học và cách mạng là cội nguồn sức sống của chủ
nghĩa Mác - Lênin, sự thống nhất biện chứng giữa tính khoa học với tính cách mạng trong hoạt động thực
tiễn là cội nguồn thắng lợi của các cuộc đấu tranh cách mạng, các hoạt động cải biến cách mạng.
Câu 9: Qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
* QHSX:

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã
hội).
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: Các quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, các quan hệ trong tổ chức và
quản lý sản xuất, các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
Quan hệ sản xuất phản ánh quan hệ giữa người với người, nó được hình thành khách quan trong quá
trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất, thuộc đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất là hình
thái xã hội của sản xuất. Ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính
tương đối ổn định so với sự vận động. phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ
bản đặc trưng cho phương thức sản xuất. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ tổ chức

quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm, cũng như quyết định các quan hệ xã hội khác. Quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất quyết định tới hai mối quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản
phẩm ở chỗ nó chỉ rõ: giai cấp, tập đoàn người nào nắm tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp, tập
đoàn đó giữ vai trò chỉ huy quá trình lao động sản xuất vật chất xã hội, quyết định phương thức phân phối sản
phẩm xã hội làm ra. Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất còn quyết định cả tính chất của quan hệ sản xuất, đó là
bóc lột hay không bóc lột, bình đẳng hay bất bình đẳng.
Trong các hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đã trải qua, lịch sử đã chứng kiến có hai loại hình sở
hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu
mà tư liệu sản xuất là tài sản chung của cả cộng đồng nên các quan hệ sản xuất và các quan hệ trong xã hội
nói chung trở thành quan hệ hợp tác, tương tự giúp đỡ lẫn nhau. Ngược lại, quan hệ sở hữu tư nhân là loại
hình tư liệu sản xuất tập trung và trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản
xuất. Vì vậy, quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội là quan hệ bất
bình đẳng, là quan hệ thống trị và bị thống trị, bóc lột và bị bóc lột. Các quan hệ sở hữu tư nhân: chiếm hữu nô
lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa thuộc vào dạng này, còn quan hệ sở hữu dưới cộng sản nguyên thuỷ và cộng
sản chủ nghĩa sở hữu tư liệu sản xuất là của cộng đồng, quan hệ giữa người với người là bình đẳng hợp tác.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức điều
khiển quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích
ứng với quan hệ sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản
xuất. Tuy nhiên, nếu quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất không thích ứng với quan hệ sản xuất, nó làm biến
dạng quan hệ sản xuất.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu và quan hệ tổ chức và quản lý
sản xuất chi phối, song nó tác động trực tiếp đến lợi ích con người, nên nó tác động đến thái độ con người
trong lao động sản xuất và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất.
* LLSX:

Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Nghĩa là, trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội con người chinh phục tự nhiên bằng sức mạnh
tổng hợp của mình. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tự liệu sản xuất, trước
hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là

công cụ sản xuất kết hợp với nhau thành lực lượng sản xuất. Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất người
Page 22 of 29
lao động giữ vị trí quyết định nhất.
Người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất. Với sức mạnh và kỹ năng lao động của
mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất
ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động, sức mạnh và kỹ năng của con người ngày càng được tăng
lên, đặc biệt là trí tuệ con người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Công
cụ lao động, là “sức mạnh tri thức đã được vật thể hoá”, có tác dụng “nối dài bàn tay” và “nhân” sức mạnh của
con người trong quá trình lao động sản xuất. Trong mọi thời đại, công cụ sản xuất luôn là yếu tố động nhất
của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích luỹ kinh nghiệm, con người luôn phát minh và sáng chế kỹ
thuật, công cụ sản xuất luôn được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự biến đổi thường xuyên của công cụ sản
xuất đã làm thay đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Suy đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã
hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu
chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. Trình độ của lực lượng sản xuất luôn có sự tương ứng giữa
người lao động và công cụ lao động:
• Nếu công cụ sản xuất thô sơ thì nó phù hợp với trình độ sử dụng của một người lao động. Khi đó nó
phản ánh trình độ thủ công của lực lượng sản xuất.
• Nếu công cụ sản xuất bằng máy móc hiện đại nó phù hợp với trình độ của tập thể người lao động. Khi đó,
nó phản ánh trình độ cơ khí hiện đại của lực lượng sản xuất.
Việc chuyển trình độ của lực lượng sản xuất từ thủ công lên cơ khí hiện đại là bước tiến vĩ đại của lực
lượng sản xuất trong quá trình chinh phục tự nhiên của con người. Nó chỉ rõ sự tương ứng giữa trình độ mọi
mặt của người lao động luôn tương ứng với trình độ của công cụ sản xuất.
Trải qua các cuộc cách mạng khoa học, cùng với sự tiến triển của sản xuất, khoa học ngày càng có vai
trò quan trọng trong sản xuất. Khoa học đã phát triển tới mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến
đổi to lớn trong sản xuất và trong đời sống, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cách thức mà khoa học
xâm nhập và thể hiện trong thực tiễn khác nhiều so với vài thập kỷ trước đây, làm cho lực lượng sản xuất có
bước nhảy vọt, tạo thành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất, nó hoàn toàn có thể được coi
là cái đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.

Sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện mối quan hệ mang tính
chất biện chứng. Quan hệ này biểu hiện thành qui luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển của đời sống
xã hội - qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Khuynh hướng của sản xuất vật chất xã hội là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó
xét đến
cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ
lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai
đoạn lịch sử đó. Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người, thông qua việc sử
dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển
của mình. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở: Trình độ của công cụ lao động, trình độ của tổ chức lao
động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình
độ phân công lao động.
Gắn với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử của sản
xuất vật chất, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất
dựa trên trình độ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá
nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí, hiện đại phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất
có tính xã hội hóa.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thể hiện ở hai nội dung cơ bản.
1. Lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó
Một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của
lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là một
trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển tất yếu” của lực lượng sản xuất. Nghĩa là trạng
Page 23 of 29
thái mà các yếu tố của quan hệ sản xuất “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Như vậy, ở
trạng thái phù hợp cả ba mặt của quan hệ sản xuất đạt tới thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất, do đó lực lượng sản
xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Trong phương thức sản xuất, thì lực lượng sản xuất là nội

dung kinh tế kỹ thuật, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất. Nội dung bao giờ cũng
quyết định hình thức. Do vậy, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Điều này có thể thấy rõ: trong quá trình sản xuất con người luôn có xu hướng muốn tăng năng suất
lao động nhưng lại giảm nhẹ sức lao động, từ đó họ tìm cách cải tạo công cụ sản xuất hiện có, chế tạo công
cụ sản xuất mới, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất… Điều đó làm cho lực lượng sản xuất thường xuyên
thay đổi, nó có tính cách mạng…
Khi lực lượng sản xuất thường xuyên biến đổi, tới một giai đoạn nào đó, lực lượng sản xuất chuyển
sang trình độ mới, với tính chất xã hội hóa ở mức cao hơn. Khi đó quan hệ sản xuất lại tương đối ổn định.
Lúc đó, quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Mâu thuẫn sẽ ngày càng gay gắt và đến một lúc nào đó quan hệ sản xuất “trở thành xiềng xích của lực lượng
sản xuất”.
Sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc bằng cách này hay cách khác
xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và thay thế nó bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới, phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thay quan hệ sản
xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là làm cho phương thức sản xuất cũ bị mất đi
phương thức sản xuất mới cao hơn ra đời, phát triển.
2. Quan hệ sản xuất tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất
Mặc dù lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất có tính độc lập tương
đối, tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, do đó trong quá trình sản
xuất xã hội nó qui định tới:
• Mục đích nền sản xuất xã hội.
• Qui định tới khuynh hướng phát triển các nhu cầu về lợi ích vật chất.
• Qui định hệ thống tính chất quản lý sản xuất, quản lý xã hội.
• Qui định phương thức sản xuất của cải nhiều hay ít.
• Qui định khuynh hướng phát triển các công nghệ.
* Qua sự tác động đó quan hệ sản xuất tác động tới:
• Thái độ tích cực hay không tích cực của người lao động.
• Ảnh hưởng tới việc cải tiến, chế tạo công cụ sản xuất.
• Việc áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Sự tác động đó kìm hãm hay thúc đẩy lực

lượng sản xuất phát triển.
Quan hệ sản xuất tác động đến lực lượng sản xuất theo hai hướng: quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ
sản xuất không phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất: khi nó lỗi thời, lạc hậu, hoặc “tiên tiến” một cách
giả tạo sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất thì theo qui luật chung quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới
tiến bộ hơn để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Tuy nhiên việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải
thông qua
việc nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai
cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Tóm lại, qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là qui luật phổ
biến tác động toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển đi lên của lịch sử xã hội loài người
từ chế độ công xã nguyên thuỷ qua chế độ chiếm hữu nô lệ chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và
đến xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai là sự tác động của các qui luật xã hội, trong đó qui luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là qui luật cơ bản nhất, nó chi phối các qui luật
khác.
Page 24 of 29
Câu 10 : Quan điểm của triết học Mác Lênin về bản chất con người
1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội
Kế thừa quan niệm đúng đắn về con người trong lịch sử triết học, Mác với quan điểm duy vật triệt để
và phương pháp biện chứng đã phân biệt rõ hai mặt sinh vật và xã hội thống nhất trong con người hiện thực.
Khi tiếp cận bản chất con người ở góc độ này cần theo hướng:
Thứ nhất, con người là một thực thể tự nhiên, là sản phẩm của tự nhiên, nhưng là sản phẩm cao nhất
của tự nhiên. Vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của tự nhiên.
Như vậy, tiền đề vật chất đầu tiên qui định sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Con người là
động vật cao cấp, là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới sinh vật, như
thuyết tiến hoá của Đác uyn đã chứng minh. Vì vậy, con người là bộ phận của giới tự nhiên, giới tự nhiên là
thân thể vô cơ của con người. Hiện nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ xuất hiện một số giả thuyết
cố chứng minh học thuyết của Đác uyn là không có cơ sở như: con người hiện tại là sự lai tạp giữa người

ngoài hành tinh với con người ở trên trái đất, y học đã tạo ra được con người trong ống nghiệm và thực tế đã
thành công như trước kia chúa tạo ra con người bằng cách đó… Trên thực tế, con người hiện đại có cấu trúc
cơ thể không khác gì con người cách đây 50 vạn năm. Nhưng về mặt xã hội thì con người hiện đại có bước
tiến xa hơn về năng lực, sự sáng tạo, lối sống.
Thứ hai, là một thực thể tự nhiên, con người cũng có như động vật khác như nhu cầu về
sinh lý và
cũng có các hoạt động bản năng: đói phải ăn, khát phải uống, sinh hoạt tình dục…
Nhưng giải quyết những
nhu cầu đó ở con người có bước tiến xa hơn so với động vật, kể cả so với khi con người mới thoát thai khỏi
động vật. Chính quá trình sinh thành, phát triển và mất đi của con người qui định bản tính sinh học trong đời
sống con người. Như vậy, con người là một sinh vật có đầy đủ bản tính sinh vật.
Thứ ba, mặt tự nhiên và mặt xã hội thống nhất trong con người, mặt tự nhiên là “nền” cho con
người, mặt xã hội nâng mặt tự nhiên của con người lên trên động vật.
Con người khác động vật ở chỗ có tư duy và hoạt động có mục đích. Mác không thừa nhận quan
điểm cho rằng: cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính sinh vật. Con người là
một sinh vật
nhưng có nhiều điểm khác với sinh vật. Vậy con người khác con vật ở chỗ nào?
Trong lịch sử đã có nhiều
nhà tư tưởng lớn đưa ra tiêu chí về sự khác nhau giữa con người và con vật có sức thuyết phục như:
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhìn vấn đề bản chất con người một cách toàn
diện, cụ thể, xem xét không phải một cách chung chung trừu tượng, phiến diện như các nhà tư tưởng khác.
Theo Mác mặt xã hội của con người, có điểm nổi bật, hơn hẳn và phân biệt với động vật là con người
có hoạt động lao động sản xuất vật chất. Qua quá trình lao động sản xuất: con người sản xuất ra của cải vật
chất phục vụ cho cuộc sống cho mình và cho đồng loại. Sản xuất ra các giá trị tinh thần làm phong phú thêm
đời sống của mình. Lao động là yếu tố hình thành bản chất xã hội của con người, hình thành nhân cách ở con
người.
Thứ tư, là sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội nên ở con người luôn chịu sự chi phối của ba hệ
thống qui luật:
• Hệ thống qui luật tự nhiên: qui định sự phù hợp của cơ thể sống với môi trường, qui luật trao đổi chất,
qui luật biến dị, di truyền.

• Hệ thống qui luật tâm lý ý thức: như sự hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí…
• Hệ thống qui luật xã hội: qui định mối quan hệ giữa người với người, đó là qui luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, qui luật với cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng…
Tóm lại, con người khác con vật ở cả ba mặt: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với
bản than. Cả ba mối quan hệ đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội là quan hệ bản chất nhất, bao quát
mọi hoạt động của con người, cả trong lao động sinh con đẻ cái và trong tư duy.
2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, Mác đã viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hoà những quan hệ xã hội". Luận điểm trên chỉ rõ: không có con người trừu tượng thoát
ly khỏi điều kiện cụ thể, con người luôn tồn tại trong điều kiện lịch sử nhất định. Nghĩa là con người cùng với
xã hội mình khai thác thiên nhiên, sinh hoạt xã hội, phát triển ý thức. Luận điểm đó được biểu hiện trên các góc
Page 25 of 29

×