Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Ôn thi triết học sau đại học có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.89 KB, 35 trang )

1. Trình bày niên đại, nguồn gốc, kết cấu, nội dung và ý nghóa của kinh Upanishad.
2. Trình bày nội dung tư tưởng triết lý nhân sinh của Phật giáo Ấn Độ nguyên thủy (qua học thuyết
nhân quả, Tứ diệu đế, Thập nhò nhân duyên, Bát chính đạo).
a. Điều kiện ra đời
Triết học Phật giáo là một trường phái triết học – tôn giáo điển hình thuộc phái không chính
thống và có ảnh hưởng rộng rãi, lâu dài trên phạm vi thế giới.
Phật giáo được hình thành vào khoảng thế kỷ VI tr.CN. Người sáng lập là Siddharta (Tất Đạt Đa).
Sau này ông được tôn xưng với nhiều danh hiệu khác nhau, nhưng phổ biến nhất là Sakyamuni (Thích Ca
Mâu Ni), còn có hiệu là Buddha (Phật).
Cội nguồn của tư tưởng giải thoát trong triết học – tôn giáo Ấn Độ trước hết là do điều kiện tự
nhiên và kinh tế – xã hội Ấn Độ cổ đại quy đònh. Thứ hai, về lôgíc nội tại của nó, các nhà tư tưởng Ấn
Độ ít chú trọng ngoại giới, coi trọng tư duy hướng nội, đi sâu khái quát đời sống tâm linh con người.
b. Nội dung tư tưởng
Tư tưởng triết học Phật giáo nguyên thủy chứa đựng những yếu tố duy vật và biện chứng chất
phác, thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật, tuân theo tính tất
đònh và phổ biến của luật nhân quả: nhân nào quả ấy, nhân trước quả sau. Phủ nhận sự sáng tạo thế giới
bởi Brahman, cũng như phủ nhận “cái tôi” (atman), và đưa ra quan niệm “vô ngã” (anatman) và “vô
thường”.
Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự “giả hợp” do hội đủ
nhân duyên nên thành ra “có” (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của con người chăûng qua cũng là do
“ngũ uẩn” (năm yếu tố) hội hợp lại: sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và
thức (ý thức). Do vậy không có cái gọi là “tôi” (vô ngã)
Phạm trù “vô thường” gắn liền với phạm trù “vô ngã”. “Vô thường” nghóa là vạn vật biến đổi vô
cùng theo chu kỳ bất tận: sinh – trụ – dò - diệt. Vậy thì “có có” – “không không” luân hồi bất tận;
“thoáng có”, “thoáng không”, cái còn mà chẳng còn, cái mất mà chẳng mất.
Phật giáo đặc biệt chú trọng triết lý về nhân sinh. Cũng như nhiều trường phái triết học – tôn giáo
khác của Ấn Độ cổ đại, Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm sự “giải thoát” (Moksa), con người sẽ đạt tới sự
giác ngộ, nhận ra chân bản của mình, thực tướng của vạn vật, xóa bỏ vô minh, diệt mọi dục vọng, vượt ra
khỏi vòng “luân hồi” (Samsara), “nghiệp báo” (Karma) để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana).
Nội dung triết học nhân sinh của Phật giáo tập trung ở bốn luận đề (Tứ diệu đế).
Luận đề thứ nhất, khổ đế, cho rằng sự thật nơi cuộc sống nhân sinh không có gì khác ngoài sự đau


khổ. Đó là 8 nỗi khổ trầm luân bất tận mà ai cũng phải gánh chòu: sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt ly (yêu
thương chia lìa), oán tăng hội (oán ghét nhau mà phải sống với nhau), sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà
không đạt được), và ngũ thụ uẩn (5 yếu tố vô thường nung nấu làm nên sự đau khổ).
Luận đề thứ hai, nhân đế, giải thích những nguyên nhân gây đau khổ. Đó là 12 nguyên nhân (thập
nhò nhân duyên): 1. Vô minh; 2. Hành; 3. Thức; 4. Danh sắc; 5. Lục nhập; 6. Xúc; 7. Thụ; 8. i; 9. Thủ;
10. Hữu; 11. Sinh và 12. Lão, Tử.
Luận đề thứ ba, diệt đế, cho rằng có thể tiêu diệt được nỗi khổ, đạt tới trạng thái niết bàn.
Luận đề thứ tư, đạo đế, chỉ ra con đường diệt khổ, đạt tới giải thoát. Đó là con đường tu đạo, hoàn
thiện đạo đức cá nhân, gồm 8 nguyên tắc (Bát chính đạo): 1. Chánh kiến (hiểu biết đúng sự thật nhân
sinh), 2. Chánh tư duy (suy nghó đúng đắn), 3. Chánh ngữ (giữ lời nói phải), 4. Chánh nghiệp (giữ đúng
1
trung nghiệp), 5. Chánh mệnh (giữ ngăn dục vọng), 6. Chánh tinh tiến (rèn luyện không mệt mỏi), 7.
Chánh niệm (có niềm tin vững chắc vào sự giải thoát), và 8. Chánh đònh (an đònh).
3. Trình bày học thuyết “chính danh” trong tư tưởng của Khổng Tử, từ đó rút ra bài học lòch sử.
a. Điều kiện kinh tế - xã hội và nét đặc thù của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
Trung Hoa thời cổ là một quốc gia rộng lớn, có lòch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ III tr.CN
kéo dài tới tận cuối thế kỷ thứ III tr.CN, với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, mở đầu thời
kỳ phong kiến. Trong khoảng 2000 năm đó, lòch sử Trung Hoa được phân chia làm 2 thời kỳ lớn: 1. Thời
kỳ từ thế kỷ IX tr.CN trở về trước; 2. Thời kỳ từ thế kỷ thứ VIII tr.CN đến cuối thế kỷ thứ III tr.CN.
Trong thời kỳ thứ nhất, những tư tưởng triết học ít nhiều đã xuất hiện, nhưng chưa đạt tới mức là
hệ thống.
Thời kỳ thứ hai (thường gọi là thời Xuân Thu – Chiến Quốc) là thời kỳ chuyển biến từ chế độ
chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Dưới thời thònh vượng của nhà Chu, đất đai thuộc về nhà vua
thì nay quyền sở hữu tối cao về đất đai ấy bò một tầng lớp mới, tầng lớp đòa chủ chiếm làm tư hữu; chế
độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành. Nguyên nhân kinh tế này làm xuất hiện sự phân hóa sang hèn
dựa trên cơ sở tài sản. Sự tranh giành đòa vò xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa vào
tình trạng chiến tranh liên miên, khốc liệt. Điều kiện lòch sử ấy đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ thò tộc nhà
Chu để xây dựng chế độ phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát
triển. Thực trạng ấy của xã hội đã làm xuất hiện những trung tâm quy tụ “kẻ só” luôn tranh luận về trật
tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu cho một xã hội tương lai, dẫn tới hình thành các nhà tư tưởng lớn

và các trường phái triết học khá hoàn chỉnh (bách gia tranh minh, bách hoa tranh khai). Theo sách Hán
thư có tất cả 103 học phái, trong đó có 6 phái chủ yếu là Nho, Mặc Đạo, Danh, Pháp và Âm Dương.
Điều kiện trên quy đònh nội dung, tính chất của triết học Trung Hoa cổ đại là hầu hết các học
thuyết đều có xu hướng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trò – đạo đức của xã hội với nội
dung bao trùm là vấn đề con người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con đường trò nước.
* Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI tr.CN dưới thời Xuân Thu, người sáng lập là Khổng Tử
(551 tr.CN – 479 tr.CN). Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và
phát triển theo hai xu hướng khác nhau: duy tâm và duy vật, trong đó dòng Nho gia Khổng – Mạnh có
ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lòch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
Hệ thống kinh điển của Nho giáo (Tứ thư, Ngũ kinh) cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về
chính trò – đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia. Quan điểm về xã hội, về chính trò – đạo đức
của Nho gia do Khổng Tử đề xướng thể hiện rõ nét nhất trong học thuyết “chính danh”.
b. Tư tưởng học thuyết
* Vì sao Khổng Tử chủ trương “chính danh”?
+ Xuất phát từ thực tiễn lòch sử xã hội Trung Quốc thời bấy giờ: chiến tranh loạn lạc, trật tự lễ
nghóa xáo trộn, đạo đức băng hoại (Quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử) – “thượng bất
chính, hạ tắc loạn”
+ Khôi phục lại nền nếp đạo đức, kỷ cương trật tự xã hội; minh đònh “danh” và “thực”: “danh”
phải phù hợp với “thực”, và “thực” phải là chuẩn mực để đònh “danh”, không thể có tình trạng “hữu
danh vô thực”
* Nội dung:
+ Mỗi người và vật sinh ra đều có công dụng nhất đònh – đó chính là “thực” và tương ứng với nó
có một tên gọi nhất đònh (“danh”). Nếu “danh” hợp với “thực” thì gọi là “chính danh”; “danh” không
hợp với “thực” thì là không chính danh, loạn danh.
2
“Chính danh là làm mọi việc cho ngay thẳng.”
“Chính danh là quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử.”
“Danh chính ngôn thuận.” -> Danh không chính, ngôn không thuận dẫn tới việc thi hành sai cho
nên nhà cầm quyền xưng danh phải đúng với phận, với nghóa.
* Biểu hiện: Nho gia coi những quan hệ chính trò – đạo đức là những nền tảng của xã hội, trong đó quan

trọng nhất là Ngũ luân (năm mối quan hệ cơ bản): quân - thần, phụ – tử, phu – phụ, huynh – đệ, bằng
hữu.
+ Trong quan hệ vua – tôi: Người làm vua thay trời chăn dân phải biết trọng dụng người hiền đức,
rộng lượng với kẻ dưới; tự noi gương, phải anh minh, đức độ, “gia huệ” và “thi ân bố đức” với bề tôi và
với dân; phải biết giáo hóa cho dân.
Kẻ làm bề tôi phải “trung quân” – thờ vua như thờ cha mẹ.
“Không lo không có chức vò mà phải lo liệu mình có đủ tài đức để đảm nhận chức vò ấy và có được
dân phục hay không?”
+ Trong gia đình – tế bào của xã hội: “Cha nên cha, con nên con, anh nên anh, em nên em, chồng
nên chồng, vợ nên vợ, ấy là gia đạo chính” (Kinh Dòch)
Trong quan hệ cha – con: người cha phải lấy “từ ái” làm đầu; kẻ làm con phải hiếu thuận. Đạo
hiếu của con cái phải từ tâm thành kính -> nếu không chỉ là giả dối, hình thức. “Làm con phải luôn biết
tuổi cha mẹ”
“Đời nay hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là có hiếu; nhưng nếu không xuất phát từ
tâm thành kính thì không khác gì nuôi thú vật cả.”
* Thực hiện:
+ Lý tưởng của Nho gia là xây dựng một “xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội có trật tự trên dưới;
có vua sáng – tôi hiền, cha từ – con thảo, trong ấm – ngoài êm; dựa trên cơ sở đòa vò và thân phận của
mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân - “chính danh đònh phận”.
+ “Tu thân, tề gia, trò quốc, bình thiên hạ” đòi hỏi phải “chính danh”; Khổng Tử luôn chú trọng
giáo dục, rèn luyện đạo đức con người. ng luôn nhắc đến Nhân và Lễ, trong đó nếu như Nhân là chuẩn
mực gốc, là nội dung thì Lễ là hình thức của Nhân. Những chuẩn mực khác như Nghóa, Trí, Tín, Trung,
Hiếu … đều là những biểu hiện của Nhân.
Nhân là hết lòng tận tụy yêu thương đối với mọi người trong năm quan hệ. Nội dung hàng đầu
của Nhân là trung hiếu.
Lễ, theo nghóa rộng là nghi thức, qui chế kỷ cương, tôn ti trật tự của cộng đồng và xã hội. Lễ
chính là cơ sở của một xã hội có tổ chức, đảm bảo cho sự phân đònh trên dưới rõ ràng. Đã là người thì
phải học lễ, biết lễ và có lễ. Điều phi lễ thì không được nhìn, không được nghe, không được nói, không
được làm.
4. Trình bày và phân tích phạm trù “đạo” trong triết học Lão Tử. (bỏ)

5. Trình bày khái quát nội dung tư tưởng pháp trò của Pháp gia, từ đó đánh giá và rút ra bài học lòch
sử của nó đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
a. Điều kiện ra đời
- Bối cảnh xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu – Chiến Quốc
- Pháp gia và Nho gia có quan hệ chặt chẽ: trong nội dung tư tưởng của Pháp gia cũng đã có chòu ảnh
hưởng Nho gia; các nhân vật trong Pháp gia có thể nói đều là các nhà Nho học.
b. Nội dung tư tưởng
* Tiền đề tư tưởng (Vì sao?)
3
- Dựa trên cơ sở triết học “đạo đức” (Lão Tử). Các nhà tư tưởng Pháp gia cho rằng mỗi một sự vật
hiện tượng đều có “đạo lý” riêng của nó; trong đó “đạo” là qui luật phổ biến, là cái chung và không biến
đổi, còn “lý” là những biểu hiện khác nhau trong mỗi sự vật cụ thể, mỗi giai đoạn cụ thể, là cái riêng và
luôn biến đổi.
- Xuất phát từ việc phân tích điều kiện lòch sử xã hội Trung Hoa, các nhà tư tưởng Pháp gia đã chỉ
ra nguyên nhân của sự biến đổi xã hội nằm ở sự thay đổi đân số và của cải.
+ Thời thượng cổ: sản vật có sẵn, người ít – chỉ việc hái lượm -> không cần pháp luật. Thời Chiến
Quốc: dân đông, của cải tinh xảo lại ít đi – dẫn tới cướp giật, tranh đoạt, chiến tranh -> cần có chế độ
thưởng phạt nghiêm minh.
+ Hàn Phi Tử cho rằng phép trò nước của con người cũng phải luôn thay đổi cho phù hợp với điều
kiện lòch sử xã hội của một quốc gia nhất đònh (“biến pháp”). “Thời biến thì pháp phải biến. Thời biến
mà pháp không biến thì loạn.”
Kẻ thống trò phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lòch sử, đặc điểm của thời thế mà lập ra chế
độ, phương pháp trò nước thích hợp. Không có thứ pháp luật luôn đúng. Đó là thứ xiềng xích trói buộc
không khác gì “người Tống ôm cây đợi thỏ.”
Cụ thể: thời Xuân Thu – Chiến Quốc khác xa thời Nghiêu Thuấn nên không thể chủ trương “Đức
trò” mà phải là “Pháp trò”.
- Dựa trên việc nghiên cứu kỹ tâm lý con người.
+ Bản chất ích kỷ, tư lợi, “ham lợi thì tìm nó, sợ hãi thì tránh nó”.
+ Mọi mối quan hệ trong xã hội đều dựa trên cơ sở cân nhắc lợi hại -> kẻ thống trò phải nắm được
tâm lý ý muốn của người dân, thưởng phạt nghiêm minh thì không ai không theo.

* Nội dung:
- Hàn Phi Tử (khoảng 280 – 233 tr. CN) được coi là người sáng lập ra phái Pháp gia.
- Hàn Phi Tử đã kế thừa tất cả các học thuyết khác (đặc biệt là thuyết Chính danh) đồng thời tổng hợp
các quan điểm Pháp trò riêng lẻ thời trước (Thuật – Thế - Pháp) trong đó Pháp vừa là nội dung chính, vừa
là mục đích; còn Thuật – Thế chỉ là hình thức và phương tiện.
- Tư tưởng Pháp trò đã được vận dụng trong thực tiễn ở nước Tần và đã trong một thời gian ngắn đã biến
nước Tần từ một quốc gia du mục kém phát triển ở phía Tây trở nên hùng mạnh và dần thôn tính các
quốc gia khác ở phía Đông Trung Hoa.
* Thực hiện:
- Thuyết Pháp trò chủ trương lấy pháp luật làm căn bản trong việc cai trò. Những người theo thuyết này
cho rằng bản tính con người rất yếu hèn, dễ sai lầm, nên phải dựa vào pháp luật là những quy tắc khái
quát được nhà cầm quyền đưa ra và áp dụng cho mọi người một cách đồng đều, không thiên vò, không
phân biệt quý tộc hay thường dân. Khác với thuyết Nhân trò, Pháp trò chủ trương nhà cầm quyền không
phải chú trọng nhiều đến việc tu thân mà cốt đặt ra luật pháp cho rõ ràng và ban bố cho mọi người cùng
biết để tuân theo nghiêm chỉnh. Pháp luật chính là căn cứ khách quan để đònh rõ danh phận, phải trái,
công tội để mọi người biết cùng thực hiện.
- Thế chính là quyền thế hay đòa vò; quyền uy của vua chúa, của nhà cầm quyền; nó được ví như “rồng
bay được là nhờ mây”. (pháp luật được thực thi là nhờ có thế, có uy)
- Thuật: là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược, việc sử dụng người sao cho mọi người tận tâm
thực hiện lệnh của vua.
+ Nhà vua cần tuyển dụng người tài (kết hợp danh và thực: dùng đúng người, đúng vò trí) và thực
sự là trung thần của mình.
4
+ Trò nước: vi hành (lăn lộn chốn dân gian) để kiểm tra.
Tâm thuật: Dấu kín sở thích và không tuyệt đối tin tưởng ai -> nếu không bề tôi sẽ tìm cách nònh
bợ, lấy lòng vua hoặc dèm pha, hãm hại bề tôi khác; thậm chí hãm hại vua.
Từ bỏ ham muốn cá nhân và tỏ ra không biết gì nhưng thực sự không có gì mà lại không
biết. Đó chính là “Vô trung sinh hữu”, “Dó tónh chế động”.
c. Đánh giá
- Ưu điểm:

+ Dùng hình pháp là tiêu chuẩn để duy trì trật tự xã hội, điều chỉnh hành vi đạo đức của con người
thay cho … -> đây là bước tiến lòch sử
+ Về mặt tư tưởng: là tiếng nói đại diện cho giai cấp quý tộc mới chống lại tàn dư của chế độ xã
hội cũ, chống lại những tư tưởng bảo thủ -> là công cụ để nhà Tần thống nhất đất nước Trung Hoa phân
liệt, xay dựng nhà nước TW tập quyền đầu tiên ở Trung Quốc.
- Hạn chế:
+ Nặng về hình, nhẹ về đức; chỉ dùng luật lệ áp đặt mà không chú ý giáo hóa cho con người (Sử
gia Tư Mã Thiên đã bình: người dân vì sợ mà tuân theo chứ không phải thực tâm, không phải bản thân họ
nhận thức được cái lợi ấy; Thương Ưởng đã chết vì chính Tân pháp của mình)
+ Sử dụng pháp luật bạo tàn, làm công cụ thống trò đại đa số nhân dân lao động Trung Quốc ->
thiên hạ không chòu nổi sự hà khắc bạo ngược của nhà Tần nên đã nổi dậy khắp nơi, nhà Tần chỉ truyền
được ngôi đến Tần Nhò Thế và diệt vong.
+ VN chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thò trường -> vai trò nhà nước quan trọng,
phải có luật pháp, hành lang pháp lý (luật ống!)
+ Đảm bảo các thành phần kinh tế vẫn tồn tại trong nước
* Bài học lòch sử (xây dựng nhà nước pháp quyền?)
- Xây dựng tinh thần tôn trọng pháp luật; mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
- Pháp luật cần được bổ sung, hoàn chỉnh; nếu không nó sẽ trở thành xiềng xích trói buộc con người. (lý
luận phải phù hợp với thực tiễn)
- Phải có chiến lược đúng đào tạo và sử dụng người tài trong bộ máy nhà nước.
6. Trình bày các hình thái cơ bản của chủ nghóa duy vật trong lòch sử triết học.
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản trong triết học đã chia các nhà triết học thành hai
trường phái lớn. Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và quyết đònh ý thức của
con người được gọi là các nhà duy vật; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của CNDV.
Ngược lại, những người cho rằng ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên được gọi là các nhà duy tâm; họ
hợp thành các môn phái khác nhau của CNDT.
Là một trong hai trường phái cơ bản của triết học - trường phái duy vật và trường phái duy tâm,
CNDV đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại, khi triết học mới bắt đầu hình thành. Từ đó đến nay, lòch sử phát
triển của CNDV luôn gắn liền với lòch sử phát triển của khoa học và thực tiễn. Nó đã trải qua nhiều hình
thức khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở chỗ coi vật chất là cái có trước và quyết đònh ý thức,

đều xuất phát từ bản thân thế giới để giải thích thế giới.
* Hình thái lòch sử đầu tiên của chủ nghóa duy vật là CNDV chất phác, ngây thơ thời cổ đại. Nó
xuất hiện ở nhiều dân tộc trên thế giới, nhất là ở các nước Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp. Trong khi
thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, các nhà duy vật đã quan niệm vật chất là một hay một số
chất đầu tiên sản sinh ra vũ trụ. phương Đông, phái Ngũ hành (Trung Quốc) coi những chất đầu tiên ấy
5
là Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ; phái Lokayata (Ấn Độ): đất, nước, lửa, không khí; … phương Tây,
Hêraclit cho rằng đó là lửa; Lơxip và Đêmôcrit khẳng đònh là nguyên tử; …
Quan điểm của CNDV thời kỳ này nói chung là đúng đắn nhưng mang tính trực quan, chất phác vì
chủ yếu dựa trên sự quan sát trực tiếp và những kinh nghiệm cảm tính; chưa có được một cơ sở khoa học
làm nền tảng vì các bộ môn khoa học chuyên ngành lúc đó chưa phát triển. Quan niệm vật chất là một
hay một số chất đầu tiên sản sinh ra vạn vật chứng tỏ các nhà duy vật thời kỳ này đã đồng nhất vật chất
với vật thể – một số dạng cụ thể của vật chất. Việc đồng nhất vật chất với vật thể là một trong những
nguyên nhân dẫn đến nhiều hạn chế trong những lónh vực khác như: không hiểu được bản chất của các
hiện tượng tinh thần cũng như mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất; không có cơ sở xác đònh những
biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội nên cũng không có cơ sở để đứng trên quan điểm duy vật
khi giải quyết những vấn đề xã hội. Thế giới quan duy vật thời cổ đại chỉ dừng lại ở việc giải thích thế
giới chứ chưa đóng được vai trò cải tạo thế giới.
Tuy còn nhiều hạn chế cả về trình độ phản ánh lẫn nội dung phản ánh, nhưng thế giới quan duy
vật chất phác thời cổ đại đã có những đóng góp lớn lao vào quá trình phát triển nhận thức. Sự ra đời của
thế giới quan duy vật thời cổ đại đã đánh dấu bước chuyển hóa từ giải thích thế giới dựa trên thần linh
sang giải thích thế giới dựa vào giới tự nhiên, đònh hướng cho con người nhận thức thế giới phải xuất phát
từ chính bản thân thế giới.
* Hình thái lòch sử thứ hai là CNDV máy móc, siêu hình xuất hiện trong khoảng thế kỷ XVII –
XVIII ở các nước Tây Âu. Thời kỳ này phương thức sản xuất TBCN đã được xác lập ở nhiều nước. Sự ra
đời của phương thức sản xuất TBCN đòi hỏi khoa học tự nhiên phải có những bước phát triển mới nhưng
trong tất cả các bộ môn KHTN, chỉ có cơ học về cơ bản đạt đến mức độ hoàn bò nên những đònh luật cơ
học được coi là duy nhất đúng đối với mọi hoạt động nhận thức.
Quan điểm xem xét thế giới theo kiểu máy móc chiếm đòa vò thống trò và tác động mạnh mẽ đến
các nhà duy vật. Họ sử dụng phương pháp phân tích – tách cái toàn thể thành những bộ phận để nhận

thức và ít chú ý đến mối liên hệ giữa các bộ phận ấy. Những nhà duy vật máy móc xem xét giới tự nhiên
và con người như một hệ thống máy móc phức tạp khác nhau. CNDV này còn là siêu hình vì họ chỉ
nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong trạng thái biệt lập, không vận động và không phát triển. Tiêu biểu cho
thế giới quan duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII là thế giới quan của Bêcơn, Lốccơ, Spinôda,
Đêcáctơ, … Nhìn chung, theo quan niệm của các nhà duy vật siêu hình thì thế giới là vô số những sự vật
cụ thể tồn tại cạnh nhau trong một không gian trống rỗng, vó đại.
Thế giới quan duy vật siêu hình thời cận đại tuy góp phần chống thế giới quan duy tâm, giúp con
người đạt được một số hiệu quả trong việc nhận thức từng lónh vực hẹp, song vì phát triển tư tưởng về vật
chất của các nhà duy vật thời cổ đại và phương pháp nhận thức là siêu hình nên ngoài những hạn chế mà
các nhà duy vật thời cổ đại đã mắc phải, các nhà duy vật thời này còn mang nặng tư duy máy móc,
không hiểu thế giới là một quá trình với tính cách là lòch sử phát triển của vật chất trong mối liên hệ đa
dạng, phức tạp và trong trạng thái vận động không ngừng, vónh viễn.
* Quá trình khắc phục các thiếu sót máy móc, siêu hình và duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã
hội của CNDV thế kỷ XVII – XVIII cũng đồng thời là quá trình ra đời của hình thái lòch sử thứ ba của
CNDV – đó là CNDV biện chứng. Thế giới quan duy vật biện chứng được C. Mác và Ph. ngghen xây
dựng vào giữa thế kỷ XIX, V.I. Lênin và những người kế tục ông phát triển.
Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng là kết quả kế thừa tinh hoa các quan điểm về thế
giới trước đó, trực tiếp là những quan điểm duy vật của Phoiơbắc và phép biện chứng của Hêghen; là kết
quả sử dụng tối ưu những thành tựu khoa học chuyên ngành cụ thể, trước hết là thành tựu của Vật lý học
và Sinh học.
6
Nội dung, bản chất của CNDVBC đem lại cho con người không chỉ một bức tranh trung thực về
thế giới mà còn đem lại cho con người một đònh hướng, một phương pháp tư duy khoa học để con người
tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới. CNDVBC duy vật về mặt xã hội, nó lý giải cơ sở tồn tại của xã hội
là từ kinh tế chứ không phải từ yếu tố tinh thần. Nó đánh giá đúng vai trò của quần chúng nhân đân trong
lòch sử; thấy rõ mối quan hệ giữa và lãnh tụ. CNDVBC là hình thức cao nhất của CNDV song nó luon
luôn mang tính sáng tạo chứ không khép kín.
7. Trình bày khái quát và đánh giá các hình thức cơ bản của phép biện chứng trong lòch sử triết học.
Cũng như CNDV và CNDT, các phương pháp biện chứng và siêu hình đã xuất hiện ngay từ thời
cổ đại, khi con người bắt đầu tìm hiểu các sự vật của thế giới xung quanh mình và suy xét về chúng. Từ

đó đến nay, lòch sử phát triển của các phương pháp biện chứng luôn gắn liền với lòch sử phát triển của
khoa học cũng như của thực tiễn và đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Giai đoạn đầu tiên của tư duy triết học biện chứng là phép biện chứng tự phát thời cổ đại thể hiện
rõ nét trong “thuyết âm - dương” của triết học Trung Quốc, đặc biệt là trong nhiều học thuyết của triết
học Hy Lạp cổ đại. Thời bấy giờ các nhà biện chứng cổ Hy Lạp đã thấy rằng, các sự vật của thế giới
xung quanh ta nằm trong một mớ chằng chòt vô tận những sợi dây liên hệ và những tác động qua lại lẫn
nhau, trong đó không có cái gì là y nguyên như cũ, đứng yên chỗ cũ, mà tất cả đều vận động, biến hóa,
sinh thành và tiêu vong. Nhưng do chưa đạt đến trình độ đi sâu phân tích giới tự nhiên cho nên các nhà
biện chứng cổ Hy Lạp chú ý đến sự vận động, đến sự quá độ từ cái này sang cái khác, đến những mối
liên hệ nhiều hơn là chú ý đến cái đang vận động, đang quá độ và đang liên hệ với nhau. Cách nhận xét
thế giới như vậy, theo nghen, là một cách nhận xét còn nguyên thủy, còn ngây thơ, nhưng căn bản là
đúng và là kết quả của một trực kiến thiên tài, song chưa phải là kết quả của những sự nghiên cứu và
thực nghiệm khoa học. ng cho rằng trong quan điểm đó, chúng ta thấy một bức tranh về sự chằng chòt
vô tận của những mối liên hệ và những tác động qua lại, sự vận động và phát triển, nhưng chưa làm rõ
được cái gì đang liên hệ cũng như những quy luật nội tại của sự vận động và phát triển.
Từ nửa cuối thế kỷ XV trở đi mới có một nền khoa học tự nhiên thật sự. Trong giai đoạn đầu
KHTN đi sâu vào phân tích, chia nhỏ giới tự nhiên ra thành những mảnh riêng biệt cố đònh để nghiên
cứu. Trước những thành quả to lớn trong việc nhận thức các bộ phận cấu thành thế giới do việc áp dụng
phương pháp phân tích mang lại, phương pháp phân tích, siêu hình đã được nhiều nhà triết học thời bấy
giờ tuyệt đối hóa, trở thành phương pháp thống trò trong tư duy triết học ở thế kỷ XVIII.
Trong giai đoạn tiếp theo, khi việc nghiên cứu chuyển dần trọng tâm sang việc nghiên cứu các
quá trình, về sự phát sinh và phát triển của các sự vật thì phương pháp tư duy siêu hình không còn đáp
ứng được yêu cầu của nhận thức khoa học nữa. Những kết quả nghiên cứu mới đã đòi hỏi phải có một
cách nhìn biện chứng về giới tự nhiên. Chính nền triết học cổ điển Đức, ngay từ đầu đã phát triển theo
tinh thần biện chứng để đáp ứng yêu cầu đó. Phép biện chứng được bắt đầu với triết học của Cantơ và
hoàn thiện với triết học của Hêghen; ông đã đưa ra một hệ thống các khái niệm, các phạm trù và các quy
luật cơ bản của phép biện chứng; song đó là phép biện chứng duy tâm. Tính chất duy tâm trong triết học
của Hêghen thể hiện ở chỗ nó coi biện chứng là sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối”. Trong quá trình
phát triển ấy, ý niệm tuyệt đối “tự tha hóa”, chuyển hóa thành giới tự nhiên và sau đó lại trở về với bản
thân mình trong tinh thần. Vì vậy ở Hêghen sự phát triển biện chứng của thế giới bên ngoài chỉ là sự sao

chép lại sự tự vận động của “ý niệm tuyệt đối” mà thôi.
Chính tính chất duy tâm ấy trong quan điểm biện chứng của Hêghen nói riêng, của triết học cổ
điển Đức nói chung là cái cần lọc bỏ. C. Mác và Ph. ngghen đã thực hiện sự lọc bỏ ấy bằng cách chứng
minh rằng, những ý niệm trong đầu óc của chúng ta chẳng qua chỉ là sự phản ánh của các sự vật hiện
thực khách quan, do đó, bản thân biện chứng của ý niệm cũng chỉ đơn thuần là sự phản ánh có ý thức của
7
sự vận động biện chứng của thế giới hiện thực khách quan. Kế thừa có chọn lọc những thành quả của các
nhà triết học tiền bối, mà trực tiếp nhất là phép biện chứng của Hêghen và quan điểm duy vật của
Phoiơbắc, dựa trên việc khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học đương thời cũng như thực tiễn
lòch sử loài người, vào giữa thế kỷ XIX, C. Mác và Ph. ngghen đã cải tạo phép biện chứng ấy từ chỗ là
duy tâm thành duy vật và sáng tạo ra phép biện chứng duy vật – giai đoạn phát triển cao nhất của phép
biện chứng, và về sau được Lênin phát triển.
Mác và Ph. ngghen đã khắc phục được những hạn chế vốn có của phép biện chứng tự phát thời
cổ đại cũng như những sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại, làm cho phép
BCDV trở thành một khoa học.
Ph. ngghen đã đòi hỏi tư duy khoa học phải phân đònh rõ ràng, đồng thời phải thấy sự thống nhất
về cơ bản giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Khi đề cập tới hai phạm trù này,
ngghen viết: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ
quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên …”
Phép BCDV được tạo thành từ một loạt những phạm trù, những nguyên lý và những quy luật được
khái quát từ hiện thực, phù hợp với hiện thực. Cho nên, nó có khả năng phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận
động và sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. bất kỳ cấp độ nào phát triển nào của nó, nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển vẫn được xem là những nguyên lý có ý nghóa khái quát nhất.
Bởi vậy, Ph. ngghen đã đònh nghóa: “phép biện chứng … là môn khoa học về những quy luật phổ biến
của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, xã hội và của tư duy”.
* Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phương pháp biện
chứng; giữa lý luận nhận thức với logic biện chứng. Sự ra đời của phép biện chứng duy vật là cuộc cách
mạng trong tư duy triết học.
Khái quát ý nghóa PPL được rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, tức là
phương pháp biện chứng trong việc nhận thức và hoạt động thực tiễn, ngghen viết: “Phép biện chứng là

phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng
trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu
vong của chúng”. Trong cùng một cách xem xét vấn đề tương tự như vậy, Lênin cho rằng, để có tri thức
đúng về sự vật, “bản thân sự vật phải được xem xét trong những quan hệ của nó và trong sự phát triển của
nó”.
* Tính cách mạng và sáng tạo thể hiện:
- Phép biện chứng duy vật có khả năng đem lại cho con người tính tự giác cao trong hoạt động.
Mỗi nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật đều là kết quả của sự nghiên cứu rút ra
từ giới tự nhiên, cũng như lòch sử xã hội loài người; được khái quát và luận giải trên cơ sở khoa học.
Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự giác.
- Phép biện chứng duy vật đã thống nhất giữa biện chứng khách quan – “phép biện chứng chi phối
toàn bộ giới tự nhiên” và biện chứng chủ quan (tư duy biện chứng).
8. Tư tưởng nhân văn trong triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng. (bỏ)
9. Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lòch sử triết học. (bỏ)
10. Trình bày và phân tích bản chất của triết học Mác và vai trò của nó trong đời sống xã hội.
8
A. Triết học Mác ra đời là một bước ngoặt quan trọng có ý nghóa cách mạng trong lòch sử triết học nhân
loại.
a. Sự thống nhất giữa chủ nghóa duy vật và phép biện chứng
Trong lòch sử triết học trước Mác, CNDV và phép biện chứng tách rời nhau; hoặc thể hiện thế giới
quan duy vật trong mối quan hệ với phương pháp nhận thức siêu hình, hoặc là thế giới quan duy tâm
trong mối quan hệ với phương pháp nhận thức biện chứng.
Triết học Mác ra đời đã chứng minh tính thống nhất giữa thế giới quan và phương pháp luận. Kế
thừa và phát triển sáng tạo những hạt nhân hợp lý” trong lòch sử tư tưởng triết học nhân loại, mà trực tiếp
là CNDV của Phoiơbắc và phép biện chứng duy tâm của Hêgen trong triết học cổ điển Đức, Mác và
Ăngghen đã xây dựng nên CNDVBC, hình thức cao nhất của CNDV trong lòch sử triết học và phép biện
chứng duy vật với tư cách là khoa học về sự phát triển của thế giới tự nhiên, lòch sử xã hội loài người và
tư duy. Đánh giá về tính chất triệt để trong triết học Mác, Lênin viết: “Triết học Mác là một CNDV triết
học hoàn bò, nó cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân những công cụ nhận thức vó
đại”.

b. Sáng tạo ra CNDV lòch sử
Một đặc điểm có ý nghóa to lớn của cuộc cách mạng trong triết học là mở rộng CNDV sang lónh
vực lòch sử xã hội loài người, hình thành nên CNDV lòch sử. Lênin đánh giá rằng: “CNDV lòch sử của
Mác là thành tựu vó đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ
đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện vẫn ngự trò từ trước đến nay trong các quan niệm về lòch sử và chính
trò…”
CNDV lòch sử của triết học Mác đã chỉ ra quy luật vận động của lòch sử xã hội loài người, chỉ ra
sự thay thế của các hình thái KT-XH là một quá trình lòch sử - tự nhiên. Trong các quy luật của lòch sử xã
hội, quy luật biện chứng giữa LLSX và QHSX có vai trò quyết đònh. Các quan hệ về kinh tế quyết đònh
các quan hệ về KTTT. Triết học lòch sử cũng phát hiện ra vai trò sứ mệnh lòch sử của giai cấp công nhân
là người “đào huyệt chôn CNTB”, thực hiện cuộc cách mạng XHCN, hướng đến mục tiêu giải phóng con
người.
Với bản chất duy vật triệt để trong lónh vực xã hội, triết học Mác đã trở thành công cụ vó đại để
nhận thức và cải tạo thế giới; tạo ra bước phát triển mới về chất, một sự nhảy vọt so với các hệ thống
triết học khác trong lòch sử.
c. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
- Triết học Mác không chỉ là lý luận khoa học phản ánh bản chất, quy luật của sự vận động và
phát triển của thế giới mà quan trọng hơn, đó là học thuyết nhằm mục đích cải tạo thế giới. Vì vậy sự
thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của triết học Mác.
- Trong lòch sử, các hệ thống triết học trước Mác đều chưa thấy vai trò thực tiễn là cơ sở, động lực,
mục đích của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý; chưa nhận thức được hết ý nghóa thực tiễn cao nhất
của triết học là hướng đến phát triển xã hội và giải phóng con người.
- Chỉ khi triết học Mác ra đời, vai trò thực tiễn và sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn mới
được xem là nguyên tắc căn bản, chi phối mọi hoạt động. Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
người có thể đạt tới chân lý khách quan không hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn
đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghóa là chứng minh tính hiện
thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình. Sự tranh cãi về tính hiện thực hay tính không hiện
thực của tư duy tách rời thực tiễn là một vấn đề kinh viện thuần túy.”
9
d. Thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng

Bản chất khoa học của triết học Mác đã bao hàm tính cách mạng. Tính khoa học càng sâu sắc,
càng phản ánh đúng quy luật của sự phát triển thế giới thì tính cách mạng càng cao, càng triệt để.
- Triết học Mác biểu hiện tính cách mạng ở trong bản chất khoa học của học thuyết, trong mục
đích cải tạo thế giới, trong vai trò và sứ mệnh lòch sử của giai cấp vô sản. Triết học Mác đã chứng minh,
bằng sức mạnh của phương pháp biện chứng, rằng sự thay thế CNTB bằng chế độ XHCN là một tất yếu
lòch sử. “Chỉ có CNDV triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường phải theo để thoát khỏi
chế độ nô lệ về tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp bò áp bức đã sống lay lắt từ trước đến nay.” (Lênin)
- Tính cách mạng trong triết học Mác còn biểu hiện ở bản chất khoa học và cách mạng của phép
biện chứng. Mác cho rằng: “Trong quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời
cũng bao hàm cả quan niệm về sự phủ đònh cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; … vì
phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và
cách mạng”.
e. Xác đònh đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể
- Triết học Mác ra đời đã chấm dứt quan niệm truyền thống trong lòch sử triết học trước Mác coi
đồng thời, xác đònh đúng đối tượng của triết học là nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên,
xã hội và tư duy.
- Triết học Mác, vì vậy không những không tách rời mà ngày càng có mối liên hệ thống nhất với
các khoa học chuyên ngành. Sự phát triển của các lónh vực khoa học khác nhau trong việc nghiên cứu thế
giới tự nhiên và xã hội đặt cơ sở cho những khái quát mang tính phổ biến của triết học. Mặt khác, những
kết luận của triết học trở thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung nhất cho sự phát triển
của các lónh vực khoa học. Không có triết học DVBC, khoa học hiện đại không thể tiến lên. Ph. nghen
viết: “… phép biện chứng trở thành một sự cần thiết tuyệt đối cho … khoa học tự nhiên…”. Sự phát triển
của khoa học hiện đại ngày nay càng chứng minh cho mối liên hệ thống nhất giữa khoa học với triết học
Mác trên con đường nhận thức và cải tạo thế giới.
11. Trình bày và phân tích tính cách mạng của phép biện chứng duy vật và rút ra ý nghóa phương
pháp luận.
A. Thuật ngữ:
Trong triết học Mác, thuật ngữ siêu hình được dùng theo nghóa là phương pháp xem xét sự tồn tại
của sự vật, hiện tượng và sự phản ánh chúng vào tư duy con người trong trạng thái biệt lập, nằm ngoài
mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và trong trạng thái không vận động, phát triển; nếu có vận

động, phát triển thì cũng chỉ thay đổi về lượng chứ không thay đổi về chất. Đây là phương pháp xem xét
có tính một chiều, tuyệt đối hóa mặt này hay mặt kia; phủ nhận các khâu trung gian, chuyển hóa lẫn
nhau giữa các sự vật. nghen khẳng đònh phương pháp siêu hình “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt
mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy; chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy
mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy; chỉ nhìn thấy trạng thái tónh của
những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy; chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng.”
Thuật ngữ biện chứng trong triết học Mác được dùng đối lập với thuật ngữ siêu hình. Phương pháp
này không chỉ thấy những sự vật riêng biệt mà còn thấy mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng; không chỉ
thấy sự tồn tại của những sự vật mà còn thấy cả sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy; không
chỉ thấy trạng thái tónh mà còn thấy trạng thái động của sự vật. Đó là lý luận đồng thời là phương pháp
10
“xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong
sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. (nghen)
* Trong lòch sử phát triển của phép biện chứng có 3 hình thức cơ bản: … phép BCDV là hình thức
phát triển cao nhất, khác về chất so với các phép biện chứng khác …
- Phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển; về những quy
luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phương pháp biện
chứng; giữa lý luận nhận thức với logic biện chứng. Sự ra đời của phép biện chứng duy vật là cuộc cách
mạng trong tư duy triết học.
…………………………………………………… (câu 7)
B. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật: [ĐỌC THÊM]
Bao gồm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Đây là các nguyên lý có ý
nghóa khái quát nhất. Các phạm trù, các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật là sự cụ thể hóa
các nguyên lý trên.
a) Nguyên lí về mối liên hệ
Thế giới được tạo thành từ những sự vật hiện tượng khác nhau. Vậy giữa chúng có mối quan hệ qua
lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng tồn tại trong sự
liên hệ qua lại, thì nhân tố gì quy đònh sự liên hệ đó?
Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật và hiện tượng tồn

tại tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia; giữa chúng không có sự phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau; có
chăng chỉ là những liên hệ hời hợt bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Ngược lại, những người theo quan
điểm biện chứng coi thế giới là một chỉnh thể thống nhất. Các sự vật, hiện tượng và các quá trình cấu
thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau.
Khi trả câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghóa duy tâm tìm cơ sở của sự liên hệ, sự tác động qua
lại giữa các sự vật, hiện tượng ở các lực lượng siêu tự nhiên, hay ở ý thức, cảm giác chủ quan của con
người. (Berkeley – DTCQ – cảm giác; Hégel – DTKQ – ý niệm tuyệt đối) Những người theo quan điểm
duy vật biện chứng khẳng đònh rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật, hiện tượng là tính thống
nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm này, các sự vật, hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, có
khác nhau đến mấy thì chúng cũng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế
giới vật chất.
Như vậy, mối liên hệ là một phạm trù của phép biện chứng duy vật dùng để chỉ sự tác động &ø ảnh
hưởng lẫn nhau, ràng buộc &ø chế ước nhau, quy đònh & chuyển hóa cho nhau giữa các mặt, các yếu tố cấu
thành sự vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng khác nhau trong thế giới khách quan.
- Quan điểm DVBC không chỉ khẳng đònh tính khách quan mà còn nêu rõ tính phổ biến của sự liên hệ
giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình trong thế giới khách quan.
+ Nếu xét về mặt không gian: mỗi một sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể riêng biệt, song chúng
tồn tại không phải trong một trạng thái biệt lập tách rời tuyệt đối với các sự vật khác. Trong hiện thực
khách quan không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại biệt lập, không nhận tác động và không tác động đến
sự vật khác. Ngược lại, các sự vật vừa tách biệt nhau vừa phụ thuộc nhau, sự vật này lấy sự vật kia làm
tiền đề cho sự tồn tại của mình, chúng vừa tác động vừa nhận sự tác động, chúng vừa tách biệt vừa phụ
thuộc vào nhau. đó chính là hai mặt của một quá trình tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng.
11
nghen đã khẳng đònh: “Tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ thống, một tập
hợp gồm các tập thể khăng khít với nhau, việc các vật thể ấy đều có mối liên hệ qua lại với nhau đã có
nghóa là các vật thể này tác động lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động”.
+ Nếu xét về mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong của mỗi sự vật, hiện tượng: các yếu tố, các bộ phận cấu
thành nên một sự vật nào đó đều tồn tại trong một tổ chức nhất đònh, đều được sắp xếp theo một trật tự
lôgic, một kiểu tổ chức nhất đònh. Các bộ phận đó không thể tồn tại trong một trạng thái hỗn độn hoặc

hoàn toàn tách rời nhau, không có liên hệ với nhau. Giữa các bộ phận, các yếu tố đó có mối liên hệ,
trong đó mỗi bộ phận, mỗi yếu tố vừa đảm trách phần việc của mình vừa tạo điều kiện cho những bộ
phận khác. Do vậy, sự biến đổi của một bộ phận nào đó trong cấu trúc của sự vật sẽ gây ảnh hưởng đến
những bộ phận khác cũng như đối với toàn bộ chỉnh thể sự vật.
+ Nếu xét về mặt thời gian: mỗi một sự vật, hiện tượng nói riêng và cả thế giới nói chung trong quá
trình tồn tại, phát triển của mình đều phải trải qua những giai đoạn, những thời kỳ khác nhau, thể hiện rõ
nhất là các giai đoạn phát sinh - phát triển - suy tàn - chuyển hóa thành cái khác. Các giai đoạn, các thời
kỳ đó có mối liên hệ không tách rời nhau mà làm tiền đề cho nhau, sự kết thúc của giai đoạn này lại là
điểm mở đầu cho giai đoạn tiếp sau. Như vậy giữa quá khứ, hiện tại và tương lai có mối liên hệ với nhau.
có sự chuẩn bò cho nhau.
Như vậy, xét trên mọi phương diện từ vó mô đến vi mô, từ hiện tại tới quá khứ và tương lai ở đâu
chúng ta cũng thấy sự hiện diện của các MQH, sự vật hiện tượng tồn tại trong các MQH đó vì vậy MLH
là có tính phổ biến.
- Mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được thể hiện rất phong phú, rất đa dạng, phức tạp
và tuỳ theo tính chất, phạm vi, vai trò của MLH đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật. Khi nghiên
cứu về hiện thực khách quan có thể phân chia chúng ra thành từng loại khác nhau tùy theo tính chất phức
tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ cao hay thấp, … Khái quát lại có những mối liên hệ
chính phổ biến sau đây:
+ Mối liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài. (Cuộc CMKH&CN hiện đại vừa tạo ra thời cơ, đồng thời
cả những thách thức to lớn đối với tất cả các nước chậm phát triển. Nước ta có tranh thủ được thời cơ hay
không trước hết và chủ yếu phụ thuộc vào năng lực của Đảng, của Nhà nước và nhân dân ta)
+ Mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu.
+ Mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp.
+ Mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên.
+ Mối liên hệ bản chất và không bản chất.
+ Mối liên hệ chung và riêng.
Trong đó, những mối liên hệ bên trong, trực tiếp, bản chất, tất yếu là những mối liên hệ quan trọng
giữ vai trò quyết đònh đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật.
- Quan điểm DVBC về sự liên hệ đòi hỏi phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại: các loại
liên hệ khác nhau có khả năng chuyển hóa lẫn nhau. Điều này hoặc do thay đổi phạm vi bao quát khi

xem xét, hoặc do kết quả vận động khách quan của chính bản thân sự vật, hiện tượng.
* Ý nghóa phương pháp luận:
- Từ việc nghiên cứu nguyên lí về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng chúng ta cần rút ra
quan điểm toàn diện trong nhận thức, xem xét các sự vật, hiện tượng cũng như trong hoạt động thực tiễn.
+ Về mặt nhận thức: Để có được nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng nào đó chúng ta cần phải xem
xét nó, một là, trong mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố, bộ phận, thuộc tính, các giai đoạn phát triển
khác nhau của sự vật đó; hai là, trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật, hiện tương khác.
12
V.I.Lênin khẳng đònh: “Muốn thật sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các
mặt, các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó”.
Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện còn đòi hỏi chúng ta phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu
thực tiễn của con người. Ứùng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lòch sử nhât đònh,
con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn mối liên hệ. Vì vậy tri thức đạt được về
sự vật chỉ là tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. thức được điều đó, chúng ta sẽ tránh được việc
tuyệt đối hóa những tri thức đã có, tránh xem đó là những chân lý bất biến, không thể bổ sung, không thể
phát triển.
Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật vẫn có thể là phiến diện, nếu chúng ta xem xét
dàn trải, liệt kê hay đánh giá ngang nhau những thuộc tính, những tính quy đònh khác nhau của sự vật.
Quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của
sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại, phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
(công bằng khác với cào bằng trong thi đua và sản xuất; không thể dàn hàng ngang mà tiến)
+ Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn, nguyên lí về mối liên hệ phổ
biến đòi hỏi để cải tạo được sự vật, chúng ta phải bằng hoạt động thực tiễn của mình, biến đổi những mối
liên hệ nội tại của sự vật cũng như những mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Muốn
vậy, phải phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phương tiện khác nhau để tác động nhằm thay đổi
những liên hệ tương ứng.
Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn cũng đòi hỏi cần phải kết hợp chặt chẽ “chính
sách dàn đều” và “chính sách có trọng điểm” (V.I.Lênin); vừa chú ý giải quyết cái tổng thể vừa biết lựa
chọn vấn đề trung tâm, trọng tâm để giải quyết dứt điểm, tạo đà cho việc giải quyết các vấn đề khác.
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, khi khẳng đònh tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt,

các lónh vực của quá trình đổi mới, Đảng CSVN cũng đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính
trò về CNXH là khâu đột phá; trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lónh vực kinh tế lẫn chính
trò, Đảng ta cũng xem đổi mới KT là trọng tâm.
Khi đề cập tới vấn đề này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng CSVN đã khẳng đònh:
“Xét trên tổng thể Đảng ta đã bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trò trong việc hoạch
đònh đường lối đối nội và đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song,
Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết và việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới KT, khắc phục khủng
hoảng KT- XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn đònh chính trò, xây dựng và
củng cố niềm tin của ND, tạo điều kiện để đổi mới các mặt khác của đời sống XH”.
b) Nguyên lí về sự phát triển
Khi xem xét vấn đề phát triển cũng xuất hiện sự đối lập về thế giới quan và phương pháp luận. Quan
điểm biện chứng và quan điểm siêu hình về sự phát triển nảy sinh khi trả lời câu hỏi: Sự phát triển diễn
ra như thế nào, bằng cách nào?
Quan điểm siêu hình xem phát triển là sự tăng lên hay giảm đi thuần túy về lượng, không có sự thay
đổi về chất. Sự phát triển chỉ là thay đổi số lượng của từng loại đang có, không có sự nảy sinh những loại
mới với những quy đònh mới về chất, có thay đổi về chất chăng nữa thì đó cũng chỉ diễn ra theo một vòng
tròn khép kín hay là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co phức tạp.
* Khái niệm: Theo quan điểm DVBC, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình
vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Theo quan điểm đó, phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động, Không phải mọi sự vận
động đều là phát triển mà chỉ có quá trình vận động nào làm nảy sinh những tính quy đònh mới cao hơn
13
về chất, qua đó làm tăng cường tính phức tạp của sự vật, làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại của
sự vật cùng những chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn mới gọi là phát triển. (Phân biệt
vận động và phát triển)
Trong hiện thực khách quan, sự phát triển được thực hiện khác nhau tùy thuộc vào hình thức tồn tại cụ
thể của các dạng vật chất. Trong giới hữu cơ sự phát triển thể hiện ở việc tăng cường khả năng thích nghi
của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường, khả năng tiến hóa của cơ thể, khả năng hoàn thiện quá trình
trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường. Đối với XH, sự phát triển biểu hiện ở năng lực chinh phục giới
tự nhiên, cải tạo XH để tiến tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người; tạo ra ngày

càng nhiều những điều kiện để con người phát triển toàn diện những phẩm chất, năng lực vốn có của
mình. Đối với tư duy, sự phát triển thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, chính xác
hơn đối với hiện thực tự nhiên và XH.
* Đặc điểm:
- Quan điểm biện chứng về sự phát triển thừa nhận tính phức tạp, tính không trực tuyến của bản
thân quá trình đó. Sự phát triển trong hiện thực và trong tư duy diễn ra bằng con đường quanh co phức
tạp, trong đó có thể bao hàm cả những bước thụt lùi tương đối. Vận dụng quan điểm đó vào việc xem xét
đời sống xã hội, V.I. Lênin cho rằng: “Nếu hình dung sự phát triển lòch sử toàn thế giới như con đường
thẳng tắp, không có những bước quanh co, những sự thụt lùi đôi khi rất xa so với xu hướng chủ đạo là
không biện chứng, không thực tế”.
Trong quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi về lượng dẫn tới sự
thay đổi về chất; sự phát triển diễn ra theo đường xoáy trôn ốc, nghóa là trong quá trình phát triển dường
như có sự quay trở lại điểm xuất phát, nhưng trên một cơ sở mới cao hơn.
- Khi đề cập đến nguồn gốc của sự phát triển, những người theo quan điểm duy tâm thường tìm
các nguồn gốc đó ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức của con người (Hégel – ý niệm tuyệt đối;
quan điểm duy tâm và tôn giáo – thần linh, thượng đế, …). Theo quan điểm DVBC, nguồn gốc của sự
phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do những mâu thuẫn giữa các mặt đối lập ở bên trong sự vật
quy đònh. Phát triển, trong quan điểm DVBC, là quá trình tự thân của mọi sự vật và hiện tượng. Do vậy,
phát triển là một quá trình khách quan, độc lập với ý thức con người.
Lênin đã khái quát: “Hai quan niệm cơ bản về sự phát triển: sự phát triển coi như là giảm đi và tăng
lên, như là lặp lại và sự phát triển coi như là thống nhất của các mặt đối lập. Quan niệm thứ nhất là chết
cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan điểm thứ hai là sinh động, chỉ có quan điểm thứ hai mới cho ta chìa khóa
của “sự tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của những “bước
nhảy vọt”, của sự “gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hóa thành mặt đối lập” của sự tiêu diệt
cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”.
- Quan điểm DVBC về sự phát triển không chỉ thừa nhận tính khách quan mà còn khẳng đònh tính phổ
biến của sự phát triển với nghóa là sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lónh vực trong tự nhiên, XH và tư
duy. Xét trong phạm vi hẹp và ở trong trường hợp cá biệt thì có những vận động đi lên, đi xuống, vòng
tròn, nhưng xét trong tổng thể không gian rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng chủ đạo. Khái
quát tình hình đó triết học Mác-Lênin đã khẳng đònh: Phát triển là khuynh hướng tất yếu của mọi sự vận

động của các sự vật, hiện tượng.
* Ý nghóa phương pháp luận
- Tự nhiên, xã hội và tư duy con người nằm trong quá trình vận động và phát triển không ngừng. Bản
chất khách quan của quá trình đó đòi hỏi chúng ta, để phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, cần có
quan điểm vận động và phát triển. Điều đó có nghóa là, khi xem xét các sự vật hiện tượng phải đặt nó
trong trạng thái vận động và phát triển, phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hóa của chúng.
14
Liên quan tới vấn đề này, Lênin viết: “Lôgic biện chứng đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự phát triển,
trong sự tự vận động, trong sự biến đổi của nó”.
- Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự vật hoàn toàn
đối lập với tư tưởng bảo thu,û trì trệ, đònh kiến. Tuyệt đối hóa một nhận thức nào đó trong hoàn cảnh lòch
sử phát triển nhât đònh sẽ dẫn chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Hơn nữa, quan điểm phát triển cũng đòi hỏi không chỉ thấy sự vật như là cái đang tồn tại mà cần
phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó, dự báo sự xuất hiện của nhân tố mới, cái
mới, chuẩn bò những điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của cái mới.
- Sự phát triển của các sự vật và hiện tượng trong thực tế là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn.
Chúng ta phải nhận thức rõ tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như là một hiện tượng phổ
biến. Cần có thái độ lạc quan, tin tưởng vào sự chiến thắng tất yếu của cái mới, của tiến trình cách mạng
nói chung và sự tiến triển của từng lónh vực xã hội cũng như của cá nhân nói riêng. Vận dụng quan điểm
phát triển với tư cách là nguyên tắc PPL của hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển theo
quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải phát hiện ra mâu thuẫn và tổ chức để các mâu thuẫn đó
được giải quyết.
- Cần đấu tranh khắc phục và chống lại mọi biểu hiện của trì trệ, bảo thủ, không dám đổi mới để phát
triển; đồng thời phải chống thái độ nóng vội, chủ quan muốn đốt cháy giai đoạn.
* Nghiên cứu về MLH phổ biến và sự phát triển đòi hỏi phải xây dựng và quán triệt quan điểm lòch
sử – cụ thể trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Cần lưu ý rằng mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại
trong không – thời gian nhất đònh và mang dấu ấn của không – thời gian đó.
+ Khi xem xét và giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, chúng ta cần chú ý đến điều kiện hoàn cảnh
lòch sử cụ thể làm phát sinh vấn đề đó, tới bối cảnh hiện thực – cả khách quan lẫn chủ quan.
+ Đối với mỗi sự vật, hiện tượng, vấn đề khác nhau cần có những biện pháp, giải pháp khác nhau để

giải quyết chúng.
+ Trong mỗi thời kỳ lòch sử khác nhau, điều kiện lòch sử đã thay đổi phải kòp thời điều chỉnh bổ sung
giải pháp, biện pháp cho phù hợp.
+ Cần nhận thức sâu sắc bản chất, linh hồn sống của chủ nghóa Mác đó là “phân tích cụ thể mỗi tình
hình cụ thể để đề ra chủ trương, chính sách cụ thể cho mỗi lónh vực cụ thể” từ đó vận dụng vào công tác
của bản thân.
Chẳng hạn, khi đánh giá vò trí lòch sử của mô hình hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc những năm 60
- 70, nếu chúng ta không đặt nó trong hoàn cảnh miền Bắc đồng thời phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lươc, không đặt nó trong điều kiện chúng ta còn thiếu kinh nghiệm trong xây dựng CNXH, còn bò ảnh
hưởng rất lớn quan niệm về mô hình CNXH đã xác lập ở một loạt nước XHCN đi trước thì chúng ta sẽ,
một là, không thấy được một số giá trò tích cực của mô hình này trong hoàn cảnh lòch sử lúc ấy; hai là, sẽ
không thấy hết những nguyên nhân bên trong và bên ngoài dẫn đến việc duy trì quá lâu cách làm ăn như
vậy, khi hoàn cảnh đất nước đã thay đổi.
12. Trình bày nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, từ đó rút ra ý nghóa phương pháp
luận.
* Phạm trù thực tiễn
- Các nhà triết học trước Mác đã đề cập đến vấn đề thực tiễn với các quan niệm khác nhau.
Bêcơn, nhà triết học duy vật Anh, người đặt nền móng cho sự phát triển của CNDV siêu hình thế kỷ
XVII – XVIII, đã cho rằng quá trình nhận thức phải kiên quyết chống chủ nghóa kinh viện, chủ nghóa
15
kinh nghiệm; nhận thức phải xuất phát từ giới tự nhiên và thực nghiệm để tìm ra mối quan hệ nhân quả,
phát hiện và kiểm tra chân lý. Có thể nói Bêcơn là nhà triết học đầu tiên thấy được vai trò của thực tiễn,
của thực nghiệm khoa học trong quá trình nhận thức.
Phoiơbắc, nhà triết học duy vật Đức đầu thế kỷ XIX, đã đề cập đến thực tiễn; nhưng đối với ông,
chỉ có lý luận mới thực sự là hoạt động chân chính của con người, còn thực tiễn mang tính chất con buôn
bẩn thỉu.
Hêghen, nhà triết học duy tâm Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, đã có một số tư tưởng hợp
lý, sâu sắc về thực tiễn. ng cho rằng, bằng thực tiễn, chủ thể tự “nhân đôi” mình, đối tượng hóa bản
thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài, nhưng ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động
tư tưởng. Đố với ông, thực tiễn là một “suy lý lôgic”.

Mác đã đánh giá: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ CNDV từ trước đến nay – kể cả CNDV của
Phoiơbắc – là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình
thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn.”
Mặc dù các nhà triết học trước Mác chưa đặt ra vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, nhưng vai
trò của thực nghiệm trong khoa học lần đầu tiên được đề cập và thực sự là một trong những tiền đề đặt
nền tảng cho quan niệm thực tiễn của triết học Mác.
- Dựa vào những thành tựu của khoa học nói chung và KHTN nói riêng, cùng với hoạt động của
các ông trong phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, C. Mác và Ph. Anghen đã có công lớn trong
việc đưa thực tiễn vào nhận thức luận. Không những thế, cả lý luận và thực tiễn đều được nâng lên trình
độ mới: thực tiễn cách mạng và lý luận cách mạng. Nhờ đó, lý luận gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, trở
thành vũ khí nhận thức và cải tạo thế giới. C. Mác và Ph. Anghen đã thực hiện một bước chuyển biến
cách mạng trong lý luận nói chung và trong nhận thức luận nói riêng.
Theo triết học Mác –Lênin, thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lòch sử
– xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người. (đònh nghóa)
Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần. Thực tiễn là hoạt
động vật chất, là những hoạt động mà chủ thể sử dụng phương tiện vật chất tác động vào đối tượng vật
chất nhất đònh nhằm cải tạo chúng theo nhu cầu mục đích của con người. Mỗi một hoạt động của con
người đều mang tính lòch sử cụ thể. Nó chỉ diễn ra trong một giai đoạn lòch sử nhất đònh nào đó và chòu sự
chi phối của giai đoạn đó cả về đối tượng, phương tiện cũng như mục đích hoạt động. Hoạt động thực tiễn
của con người mặc dù phải thông qua từng cá nhân, từng nhóm người nhưng lại không thể tách rời các
quan hệ xã hội. Do vậy nó mang tính xã hội sâu sắc, được thực hiện trong cộng đồng, vì cộng đồng.
Hoạt động thực tiễn mang tính tất yếu, nhưng tất yếu có nhận thức, có ý thức. Mục đích của hoạt
động thực tiễn là nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của cá nhân và xã hội. Không có
hoạt động nào là không có mục đích, mặc dù kết quả của hoạt động thực tiễn không phải lúc nào cũng
diễn ra phù hợp với mục đích của con người.
- (Hình thức) Hoạt động thực tiễn rất phong phú đa dạng song có thể chia ra 3 hình thức cơ bản là:
hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trò – xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học. Các hình thức
hoạt động thực tiễn tuy có sự khác nhau tương đối nhưng chúng thống nhất, có chung chủ thể hoạt động,
có cùng mục đích; chúng hỗ trợ, ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, sự phân biệt giữa các hình thức hoạt động
thực tiễn mang tính tương đối. Hoạt động SXVC không thể không hoạt động trong cộng đồng xã hội,

không thể không có vai trò của thực nghiệm khoa học. Hoạt động CT-XH có kết quả tác động đến phát
triển sản xuất, phát triển KT-XH cũng như các vấn đề có tính quy luật mà hoạt động thực nghiệm khoa
học quan tâm. Cũng như vậy, hoạt động thực nghiệm KH không thể không lấy mục đích phục vụ KT-XH.
16
Trong các hình thức hoạt động thực tiễn thì hoạt động sản xuất vật chất là cơ bản nhất; có tác
động sâu sắc, toàn diện đến các hoạt động khác; là hoạt động trung tâm, chủ yếu của con người.
* Phạm trù lý luận
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản
chất, những quy luật của các sự vật, hiện tượng.
Để hình thành lý luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh nghiệm. Nhận thức kinh
nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến của các sự vật, hiện tượng. Kết quả của nhận thức
kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và
tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức ở trình độ thấp, nhưng nó
là cơ sở để hình thành lý luận.
* Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con người với thế giới
khách quan. Con người luôn luôn tác động tích cực vào thế giới khách quan – tự nhiên và xã hội, cải biến
thế giới khách quan bằng hoạt động thực tiễn. Trong quá trình đó, sự phát triển nhận thức con người và
sự biến đổi thế giới khách quan là hai mặt thống nhất. Điều đó quy đònh sự thống nhất biện chứng giữa lý
luận với thực tiễn trong hoạt động sinh tồn của cá nhân và cộng đồng.
i. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; lý luận hình thành, phát
triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
- Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Xét một cách trực tiếp, những tri thức khái quát thành lý luận là
kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Quá trình hoạt động thực tiễn còn là cơ sở để bổ
sung và điều chỉnh những lý luận đã khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh
những vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết.
- Thực tiễn là động lực của lý luận. Lý luận được vận dụng làm phương pháp cho hoạt động thực
tiễn, mang lại lợi ích cho con người, càng kích thích con người tích cực bám sát thực tiễn để khái quát lý
luận. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày càng đầy đủ,
phong phú và sâu sắc hơn.

- Thực tiễn là mục đích của lý luận. Tự thân lý luận không thể tạo nên những sản phẩm đáp ứng
nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ
biến đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích của con người. Đó thực chất là mục đích của lý luận.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý
luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trò phương pháp của lý luận đối với
hoạt động thực tiễn của con người. Chính vì thế mà C. Mác nói: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
người có thể đạt đến chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề
thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Tuy thực tiễn là tiêu chuẩn chân
lý của lý luận nhưng chỉ những lý luận nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến
chân lý.
- Quá trình phát triển nhận thức của con người nhất thiết dẫn tới sự hình thành lý luận. Đó không
chỉ là sự tổng kết, khái quát từ lòch sử nhận thức mà còn từ nhu cầu của thực tiễn. Con người nhận thức
hiện thực khách quan để giải quyết những vấn đề con người quan tâm. Năng lực của con người ngày
càng được nâng cao chính nhờ khả năng thông qua hoạt động phản ánh, khái quát thành tri thức lý luận.
Con người hình thành lý luận chủ yếu để làm phương pháp cho hoạt động của mình. Do đó, hệ thống lý
17
luận nào góp phần giải quyết đúng đắn, phù hợp mục đích của con người thì được con người quan tâm
khái quát. Vì lẽ đó, lý luận phải đáp ứng nhu cầu phát triển của thực tiễn.
ii. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn,
tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Lý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng đònh hướng mục tiêu, xác đònh
lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển cũng như các
mối quan hệ của thực tiễn. Như vậy, lý luận không chỉ giúp con người hoạt động hiệu quả mà còn là cơ
sở để khắc phục những hạn chế và tăng cường năng lực hoạt động của con người trong cải tạo tự nhiên
và cải tạo xã hội. C. Mác đã cho rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê
phán của vũ khí; lực lượng vật chất chỉ có thể bò đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ
trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng”.
Lý luận tuy là logic của thực tiễn song lý luận có thể lạc hậu so với thực tiễn vì lý luận, dù mang
tính khái quát cao song nó còn có tính lòch sử, cụ thể. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta
phải bám sát diễn biến của thực tiễn để kòp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận,

hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn. Lênin nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận
thức (lý luận), vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà còn cả tính hiện thực trực tiếp.”
* Ý nghóa phương pháp luận
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn có ý nghóa PPL to lớn, đặc biệt là đối với sự
nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay. Chúng ta có thể rút ra một số vấn đề chủ yếu sau:
i. Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của thực tiễn, khái quát được những
kinh nghiệm của thực tiễn
Thực tiễn là cái được phản ánh, lý luận là cái phản ánh. Để hiểu được thực tiễn dưới dạng hình
tượng logic, nhất thiết phải hình thành lý luận. Bản thân thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển và biến
đổi. Quá trình đó có lúc tuân theo quy luật, có lúc không. Để hình thành lý luận, nhận thức phải bám sát
quá trình đó. Nếu một lý luận nào đó không phản ánh đúng nhu cầu của thực tiễn, không phù hợp với
thực tiễn, thì sớm hay muộn, lý luận đó sẽ bò bác bỏ.
Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện lý luận về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam chính là thể hiện cụ thể tính thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong hoạt động cách mạng của Đảng CSVN. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng
CSVN khẳng đònh: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN,
tức là bỏ qua việc xác lập vò trí thống trò của QHSX và KTTT TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh
LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Hội nghò lần thứ năm BCHTW Đảng khóa IX đánh giá “Công tác
lý luận chưa theo kòp sự phát triển và yêu cầu của cách mạng” và nhấn mạnh: “Đẩy mạnh tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần làm rõ hơn nữa con đường đi lên CNXH ở nước ta”.
ii. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, khi vận dụng lý luận phải phù hợp với điều kiện
lòch sử – cụ thể
Lý luận được hình thành không chỉ là sự tổng kết thực tiễn mà lý luận còn có khả năng trở thành
PPL cho thực tiễn. Từ khi ra đời đến nay, Đảng CSVN lấy chủ nghóa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của mình. Kiên đònh lập trường đó, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX Đảng CSVN khẳng đònh: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường XHCN trên nền tảng chủ nghóa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Lý luận Mác – Lênin
không chỉ có tính khoa học mà còn có tính cách mạng. Điều đó đã được thực tiễn cách mạng nước ta
18

chứng minh. Nhưng lý luận chỉ khái quát thực tiễn dưới hình thức khuynh hướng. Sự phát triển phong
phú, phức tạp của thực tiễn chính trò – xã hội đòi hỏi phải dựa vào khuynh hướng cơ bản của lý luận để
bổ sung, hoàn thiện lý luận về CNXH phù hợp với thực tiễn nước ta và xu hướng của thời đại.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, coi trọng lý luận chính là vận dụng sáng tạo các tri thức khoa
học nhân loại đã đạt được vào điều kiện cụ thể của đất nước. Con đường phát triển ngắn nhất và bền
vững nhất hiện nay của các quốc gia chậm phát triển là tranh thủ thời cơ, ứng dụng các thành tựu khoa
học và công nghệ để phát triển đất nước. Việt Nam đang cố gắng nhanh chóng tiếp cận và ứng dụng có
hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ thế giới để “đẩy mạnh CNH, HĐH, phấn đấu cơ bản trở
thành nước công nghiệp vào năm 2020”.
Lý luận cách mạng của chủ nghóa Mác – Lênin khi vận dụng vào thực tiễn phải quán triệt quan
điểm lòch sử, cụ thể; đồng thời chúng ta cần tiếp thu những thành tựu của tư duy nhân loại trong xây dựng
nền kinh tế thò trường, về xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền, cơ chế quản lý khoa học, công nghệ,
văn hóa, xã hội … để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
iii. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự vi phạm nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Bệnh kinh nghiệm là sự tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thực tiễn trước đây và áp dụng một cách
máy móc vào hiện tại khi điều kiện đã thay đổi. Bệnh kinh nghiệm xuất phát từ tri thức kinh nghiệm
thông thường. Tri thức kinh nghiệm thông thường góp phần tạo nên những thành công không nhỏ trên các
lónh vực kinh tế, chính trò – xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế truyền thống. Nước ta là một nước nông
nghiệp lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ rất thấp – thực trạng của một nền kinh tế truyền thống
với phong cách tư duy, hoạt động chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Cơ chế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp
thực hiện một thời gian dài ở nước ta là một trong những nguyên nhân triệt tiêu tính sáng tạo của người
lao động và tạo nên tâm lý ỷ lại, dựa dẫm, tuyệt đối hóa kinh nghiệm của thế hệ trước, của cấp trên –
biểu hiện của bệnh kinh nghiệm chủ nghóa.
Để khắc phục bệnh kinh nghiệm có hiệu quả, một mặt phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn, tức là bám sát thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý luận; bổ
sung vận dụng lý luận phù hợp thực tiễn. Mặt khác, phải hoàn thiện cơ chế thò trường đònh hướng XHCN.
Kinh tế thò trường luôn vận động, biến đổi. Nó đòi hỏi mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể kinh tế phải
năng động sáng tạo. Trong thò trường không có chỗ cho bệnh kinh nghiệm tồn tại. Khi thò trường hóa toàn

bộ các yếu tố của quá trình sản xuất thì sẽ khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm.
Trái với bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều lại tuyệt đối hóa lý luận, tuyệt đối hóa kiến thức trong
sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn, vận dụng lý luận một cách máy móc, không tính toán đến điều
kiện lòch sử – cụ thể mỗi nơi, mỗi lúc.
Biểu hiện của bệnh giáo điều là ở bệnh “tầm chương trích cú”, dừng lại ở những lý luận đã có, bỏ
qua sự vận động và biến đổi của thực tiễn cũng như bản thân lý luận, coi chân lý đã được hình thành là
bất di bất dòch. Bệnh giáo điều còn biểu hiện ở chỗ áp dụng máy móc kinh nghiệm của nước khác, của
nơi khác vào nước mình, vào đòa phương mình. Trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam, chúng ta đã
có thời kỳ áp dụng máy móc mô hình CNXH của Liên Xô vào nước ta mà không tính toán đầy đủ điều
kiện cụ thể của đất nước.
Bệnh giáo điều có căn nguyên trước hết là do hiểu lý luận còn nông cạn, chưa vận dụng và kiểm
nghiệm lý luận trong thực tiễn, cho nên lý luận xa rời thực tiễn, là lý luận “suông” và rơi vào giáo điều.
Mặt khác, nguyên tắc khi vận dụng lý luận vào thực tiễn chúng ta cần phải biết vận dụng cái chung vào
19
cái riêng một cách linh hoạt. Bệnh giáo điều chỉ biết trích dẫn, thậm chí vận dụng lý luận nhưng không
quan tâm đến thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lý luận.
Bệnh giáo điều đặc biệt nguy hại. Do giáo điều mà lý luận không mang lại hiệu quả cho hoạt
động thực tiễn, dẫn đến mất lòng tin đối với vai trò của lý luận nói chung, đối với chủ nghóa Mác – Lênin
cũng như đường lối của Đảng CS nói riêng. Đó là một trong những căn nguyên dẫn đến sự sụp đổ của
CNXH ở một số nước, dẫn đến khủng hoảng (mất lòng tin) đối với chủ nghóa Mác – Lênin, đối với sự
lãnh đạo của Đảng.
Để khắc phục bệnh giáo điều, chúng ta phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn. Lý luận phải luôn gắn liền với thực tiễn, phải khái quát từ thực tiễn, vận dụng sáng tạo và
phải được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Hồ Chí Minh đã nói: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghóa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn
mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nội dung cơ bản của chủ
nghóa Mác – Lênin. Đây không chỉ là nguyên tắc được đề xuất trong nhận thức luận mà còn là lý luận
của chủ nghóa Mác – Lênin cho quá trình hình thành tri thức khoa học, tri thức lý luận và PPL cho hoạt
động cải tạo hiện thực khách quan vì mục đích tiến bộ xã hội.

13. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
Học thuyết hình thái - kinh tế xã hội là nội dung cơ bản của CNDV lòch sử và cũng là một trong
những nội dung cơ bản của toàn bộ chủ nghóa Mác. Học thuyết đó vạch rõ những quy luật cơ bản của vận
động xã hội, vạch ra phương pháp duy nhất khoa học để giải thích lòch sử.
Bằng sự kế thừa có chọn lọc tất cả những thành tựu về triết học xã hội của các bậc tiền bối, bằng
những công trình nghiên cứu tỉ mỉ về quá trình lòch sử loài người, nhất là lòch sử xã hội tư bản, Mác đã
xây dựng nên học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội bao gồm những quan điểm cơ bản sau:
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
4. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội.
5. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lòch sử tự nhiên.
Tự nhiên, theo nghóa rộng, là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan. Với nghóa này thì con
người và xã hội loài người là một bộ phận, hơn nữa, là một bộ phận đặc thù của tự nhiên. Xã hội là hình
thái vận động cao nhất của vật chất. Hình thái vận động này lấy mối quan hệ của con người và sự tác
động lẫn nhau giữa người và người làm nền tảng. Mác viết: “Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất
hợp thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội, là xã hội và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào
một giai đoạn phát triển lòch sử nhất đònh, một xã hội có tính chất độc đáo riêng biệt”.
Mác đã chỉ ra rằng quan hệ sản xuất, phù hợp với một trình độ phát triển nhất đònh của LLSX, là tiêu
chuẩn quan trọng nhất chỉ rõ tính chất các kiểu xã hội khác nhau. QHSX cũng là cái cơ bản quyết đònh
tất cả mọi quan hệ khác của xã hội. Bên cạnh đó, ông còn vạch ra mối quan hệ có tính chất cơ bản để
xác đònh diện mạo của các hình thái kinh tế - xã hội; đó là mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng.
* Căn cứ vào tư tưởng của các nhà kinh điển CN Mác – Lênin và thực tiễn lòch sử loài người, chúng
ta có thể xác đònh: Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của CNDV lòch sử, dùng để chỉ xã hội ở
từng giai đoạn lòch sử nhất đònh, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một
20
trình độ nhất đònh của LLSX và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan
hệ sản xuất ấy.

* Ý nghóa:
Trước Mác, chủ nghóa duy tâm thống trò trong khoa học xã hội. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế –
xã hội ra đời là một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lòch sử xã hội.
Với học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội, Mác đã nhìn thấy động lực của lòch sử không phải do
một lực lượng thần bí nào, mà chính là hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các quy luật
khách quan.
Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội là quan niệm duy vật biện chứng được cụ thể hóa trong việc
xem xét đời sống xã hội. Trong tất cả các mối quan hệ xã hội, Mác đã làm nổi bật những quan hệ xã hội
vật chất, tức là những quan hệ sản xuất, những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết đònh các quan hệ khác.
Do đó, CNDV đã cung cấp cho khoa học xã hội một tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan để phát hiện và
tìm kiếm quy luật xã hội. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế – xã hội đã khắc phục được quan điểm
duy tâm, trừu tượng, vô căn cứ về xã hội. Nó bác bỏ cách miêu tả xã hội một cách chung chung, phi lòch
sử.
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế – xã hội lần đầu tiên cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy vật,
khoa học cho việc phân kỳ lòch sử, giúp con người hiểu được logic khách quan của quá trình tiến hóa xã
hội. Nó đem lại cho khoa học xã hội sợi dây dẫn đường để phát hiện ra những mối liên hệ nhân quả, để
giải thích chứ không phải mô tả các sự kiện lòch sử. Bất kỳ một hiện tượng xã hội nào, từ hiện tượng kinh
tế đến hiện tượng tinh thần, đều chỉ có thể được hiểu đúng khi gắn với một hình thái kinh tế – xã hội
nhất đònh.
Vì sao nói sự phát triển của các hình thái KT-XH là quá trình lòch sử tự nhiên. Vận dụng để giải
thích con đường phát triển theo đònh hướng XHCN ở Việt Nam:
a. Học thuyết của Mác về hình thái KT–XH không chỉ xác đònh các yếu tố cơ bản cấu thành 1 xã
hội mà nó còn chỉ rõ mối liên hệ, sự tác động giữa các yếu tố làm cho xã hội phát triển không ngừng.
Theo học thuyết này thì: Hình thái KT-XH là một phạm trù của CNDV lòch sử dùng để chỉ xã hội ở
từng giai đoạn lòch sử nhất đònh với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ
nhất đònh của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng xây dựng trên những QHSX
đó.
Mỗi một hình thái KT-XH là một hệ thống hoàn chỉnh có cấu trúc phức tạp, trong đó bao gồm 3
mặt cơ bản: LLSX, QHSX và KTTT. Các mặt đó không tồn tại một các riêng lẻ, tách rời, mà có mối
quan hệ với nhau tạo thành một chỉnh the, trong đó LLSX là nền tảng vật chất kỹ thuật của hình thái KT-

XH, còn QHSX là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau. Các quan hệ sản
xuất hợp thành CSHT xã hội, KTTT được hình thành trên CSHT nhưng nó là công cụ để bảo vệ và duy
trì phát triển CSHT đã sinh ra nó.
Sự tác động qua lại giữa chúng hình thành nên 2 quy luật cơ bản chi phối sự tồn tại, vận động và
phát triển của xã hội, đó là quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ của LLSX và quy luật CSHT quyết
đònh KTTT. Chính những quy luật này đã làm cho XH phát triển không ngừng qua các hình thái KT–XH
khác nhau; sự phát triển đó là khách quan và Mác đã khẳng đònh: “Sự phát triển của những hình thái KT–
XH là 1 quá trình lòch sử – tự nhiên”
b. Sự phát triển của các hình thái KT – XH là một quá trình lòch sử tự nhiên
- Sự phát triển của các hình thái KT–XH là quá trình lòch sử tự nhiên, điều đó có nghóa là con
người làm ra lòch sử của mình, tạo ra những mối quan hệ xã hội của mình và đó là xã hội của con người.
21
Tuy nhiên xã hội lại vận động theo những quy luật khách quan không phụ thuộc vào những ý muốn của
con người và bản thân những hoạt động của con người chỉ có ý nghóa khi tuân thủ và phù hợp với những
quy luật khách quan đó.
Lênin đã giải thích: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất và đem quy
những QHSX vào trình độ của những LLSX thì người ta mới có một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát
triển của những hình thái KT – XH là một quá trình lòch sử - tự nhiên”
- Mặt tự nhiên của quá trình vận động phát triển của các hình thái KT–XH là do tính tất yếu khách
quan của các quy luật xã hội quy đònh. Trong đó, đặc biệt là vai trò và tác động của 2 quy luật: QHSX
phải phù hợp với trình độ của LLSX và quy luật CSHT quyết đònh KTTT.
+ Quy luật của đời sống xã hội có đặc điểm là tác động thông qua hoạt động của con người, song
không phải vì thế mà nó không mang tính khách quan. Quy luật vận động của xã hội không những không
phụ thuộc vào ý thức, ý chí của con người mà ngược lại, xét đến cùng, còn quyết đònh cả ý thức, ý chí
của con người. Mỗi một hình thái KT–XH đã được triết học Mác tiếp cận và nhìn nhận như một cơ thể xã
hội tồn tại và vận động theo những quy luật vốn có của nó. Đó là 1 cơ thể xã hội riêng biệt có những quy
luật riêng về sự ra đời của nó, về hoạt động của nó và về bước chuyển biến của nó lên 1 hình thức khác,
chuyển thành 1 cơ thể xã hội khác.
+ Mặt tự nhiên còn thể hiện ở quá trình vận động phát triển thay thế nhau của các hình thái diễn ra
theo 1 trình tự từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp với một xu hướng ngày càng tiến bộ và văn

minh hơn. Đó cũng là logic khách quan của sự tồn tại, vận động và phát triển của mọi sự vật và hiện
tượng trong thế giới. Trên thực tế, sự thay thế của các hình thái KT– XH được thực hiện thông qua đấu
tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Nguồn gốc sâu xa của các cuộc cách mạng đó là mâu thuẫn giữa
LLSX và QHSX, khi QHSX trở nên lạc hậu và biến thành xiềng xích, kìm hãm sự phát triển của LLSX;
đòi hỏi phải có những thay đổi trong xã hội. Điều đó xuất phát từ nhu cầu tự nhiên của mọi quá trình sản
xuất.
- Mặt xã hội - lòch sử của quá trình vận động phát triển của các hình thái KT–XH biểu hiện ở chỗ:
các quy luật xã hội có đặc điểm là chỉ được hiện thực hóa thông qua hoạt động thực tiễn của con người
trong 1 môi trường xã hội. Vì vậy trình độ nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người có ảnh hưởng
đến hiệu quả, mức độ tác động của quy luật xã hội.
+ Quy luật xã hội còn mang tính xu hướng, nó chỉ rõ tiến trình khách quan của lòch sử, đồng thời nó
tồn tại và tác động trong trong những điều kiện nhất đònh. Trong mỗi không gian, thời gian khác nhau, ở
mỗi vùng và quốc gia, dân tộc khác nhau thì quy luật XH lại có những biểu hiện đặc thù, không trùng
khớp hoàn toàn với quy luật chung, phổ biến.
+ Đối với toàn nhân loại, con đường lòch sử tự nhiên để đi lên CNXH là con đường phát triển tuần
tự qua tất cả các giai đoạn của các hình thái KT–XH đã có.
Tuy nhiên do đặc điểm về lòch sử, về không gian và thời gian, không phải mọi quốc gia dân tộc
đều phải lần lượt trải qua tất cả các hình thái đã có trong lòch sử theo một sơ đồ chung cứng nhắc. Đã
từng có những quốc gia bỏ qua 1 hoặc một vài hình thái KT–XH nào đó trong sự phát triển của mình
(Hoa Kỳ & Úc: không có chế độ phong kiến, VN không trải qua giai đoạn phát triển TBCN ). Có được
điều đó là do trong lòch sử thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn về sản xuất vật chất, về
trình độ kỹ thuật, về truyền thống văn hóa sự giao lưu, hợp tác với các trung tâm đó cùng với những
nhân tố khác đã làm xuất hiện khả năng 1 số nước đi sau có thể rút ngắn tiến trình lòch sử không phải lập
lại tuần tự tất cả những quá trình, những giai đoạn mà lòch sử nhân loại đã đi qua.
22
- Mặt tự nhiên và mặt lòch sử không tách rời nhau mà hoà quyện, bổ sung, hỗ trợ nhau. Đó không
phải là 2 quá trình song song mà chỉ là 2 mặt, 2 tính chất của cùng một quá trình mà thôi, nó phản ánh
tính tất yếu, xu hướng chung đồng thời vừa nêu bật tính phức tạp, tính đa dạng của sự phát triển của mỗi
quốc gia, dân tộc.
Từ luận điểm coi sự thay thế của các hình thái KT–XH là quá trình lòch sử tự nhiên, từ sự tổng kết,

khái quát các hình thái KT–XH đã có trong lòch sử, Mác đã khẳng đònh: nhất đònh loài người sẽ chứng
kiến sự ra đời của hình thái KT–XH mới CSCN thay thế cho hình thái KT–XH TBCN.
Tóm lại: Quá trình lòch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những được thực hiện bằng con
đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm trong nó cả sự bỏ qua trong những điều kiện lòch sử nhất đònh 1
hoặc vài hình thái KT – XH nhất đònh.
c. Vận dụng để giải thích quá trình phát triển đất nước VN
- Ngay từ khi mới ra đời Đảng CSVN đã xác đònh con đường đi lên của VN trải qua những giai
đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN. Sau khi giành được độc lập dân tộc trong cả
nước thì con đường phát triển của VN được khẳng đònh là tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN với nội dung cơ bản là thực hiện việc đấu tranh giữa 2 con đường TBCN và XHCN nhằm đem lại
thắng lợi cho con đường phát triển XHCN.
Văn kiện ĐH IX Đảng CSVN đã chỉ rõ: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên
CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vò trí thống trò của QHSX và KTTT TBCN nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN để phát triển nhanh LLSX,
xây dựng nền KT hiện đại”. Thực sự con đường đi đó là rút ngắn lòch sử phù hợp với quy luật chung của
sự phát triển của xã hội loài người đồng thời phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam và thời đại
ngày nay. Đó cũng chính là quá trình lòch sử - tự nhiên trong sự phát triển của dân tộc Việt Nam và
chúng ta hoàn toàn có đủ điều kiện để thực hiện con đường đó.
- Về mặt quốc tế và thời đại:
+ CNTB đã tỏ ra lỗi thời và không thể giải quyết được những mâu thuẫn KT-XH, bắt nguồn từ mâu
thuẫn của trình độ phát triển cao của LLSX với sự lạc hậu của QHSX và CNTB không giải phóng triệt để
được con người.
+ Thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên CNXH và được mở đầu bằng thắng lợi của cuộc CM
tháng 10 Nga.
+ Từ những bài học thành công và thất bại của các mô hình XHCN trên thế giới cũng như từ khát
vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, đang có những điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới
theo quy luật tiến hoá của lòch sử loài người tiến lên CNXH.
+ Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển mạnh, sự phân công lao động và hợp tác
quốc tế ngày càng sâu sắc tạo ra khả năng để thực hiện việc “đi tắt đón đầu” đối với các nước đang phát
triển như Việt Nam.

- Những điều kiện trong nước:
+ Chính trò: Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân ngày càng hoàn thiện, tình
hình CT-XH ổn đònh. Đảng CS Việt Nam là nhân tố có vai trò quyết đònh đối với việc đẩy nhanh sự phát
triển của đất nước theo con đường XHCN.
+ Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, trọng lẽ phải và luôn hướng tới văn minh tiến bộ.
+ Chúng ta đã rút ra những bài học thành công và chưa thành công trong quá trình cải tạo, xây
dựng CNXH, cũng như trong những năm tháng đổi mới vừa qua.
=> Chúng ta có cơ sở khoa học tin tưởng rằng, con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở
nước ta là con đường hợp quy luật và có khả năng thực hiện được.
23
* Chú ý: Việc xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của XH là 1 sự
nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ chức KT-XH có tính chất quá độ, và trong các lónh vực của đời sống XH diễn ra sự đan
xen cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ.
+ Ở VN, đang thực hiện chủ trương xây dựng nền KT thò trường đònh hướng XHCN, đó là nền KT
có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần KT, trong đó KT Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và KT Nhà
nước cùng với KT tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Mục đích của nền KT thò trường đònh
hướng XHCN là phát triển LLSX, phát triển KT để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH, nâng
cao đời sống ND, phát triển LLSX hiện đại gắn liền với xây dựng QHSX mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở
hữu, quản lí, phân phối.
Chúng ta thực hiện đẩy mạnh CNH-HĐH và xác đònh CNH-HĐH ở nước ta là nhằm xây dựng cơ
sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH và đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. ĐH
IX: “Con đường CNH-HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vùa
có bước nhảy vọt”.
+ Thực hiện việc kết hợp chặt chẽ phát triển KT với chính trò và các mặt của đời sống xã hội, thực
hiện đổi mới KT và trên cơ sở đổi mới KT tiến hành đổi mới chính trò. Xác đònh việc tăng trưởng, phát
triển KT là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Vừa phát triển KT, vừa phát triển văn hóa,
xây dựng nền văn học tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Giải quyết tốt mục tiêu chung: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Thực hiện QHSX mới: đa dạng hóa các loại hình sở hữu; các thành phần kinh tế song song tồn

tại trong suốt thời kỳ quá độ.
+ Xây dựng KTTT XHCN: xây dựng nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng luật pháp; các
thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật.
+ Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng
14. Quan điểm mác xít về bản chất con người và vấn đề phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
* Quan điểm triết học phi mác xít về con người
- Quan điểm về con người trong triết học phương Đông rất đa dạng phong phú, tiêu biểu là quan điểm
của triết học Phật giáo (Ấn Độ) và triết học Nho gia (Trung Quốc). Nhìn chung, quan điểm về con người
trong các học thuyết triết học phương Đông thể hiện rất phong phú, nhưng đều mang nặng tính duy tâm.
Về cơ bản, các học thuyết đã lấy đạo đức làm nền tảng để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
- Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thể hiện rõ nét qua các thời kỳ cổ đại, trung cổ,
Phục hưng và cận đại, thời hiện đại với hai khuynh hướng duy vật và duy tâm.
* Quan điểm triết học Mác - Lênin về con người
i. Con người là thực thể sinh vật – xã hội
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lòch sử triết học, dựa trên những thành tựu của khoa học tự
nhiên, trực tiếp là thuyết tiến hóa và thuyết tế bào, triết học Mác khẳng đònh con người vừa là sản phẩm
phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản thân con người. Con người
là thực thể thống nhất giữa các yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội - là thực thể sinh vật – xã hội.
Trước hết con người là một thực thể sinh vật, vì con người cho dù phát triển đến đâu cũng là một
động vật, là một bộ phận của giới tự nhiên. Ănghen khẳng đònh: “Bản thân cái sự kiện là con người từ
24
loài động vật mà ra cũng đã quyết đònh việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc
tính vốn có của con vật”. Tuy vậy, con người khác với động vật vì con người còn là một thực thể xã hội.
Là thực thể xã hội vì các hoạt động xã hội của con người, trước hết và quan trọng nhất là hoạt động lao
động sản xuất, đã làm cho con người trở thành con người với đúng nghóa của nó. Theo Mác, xã hội suy
cho cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người. Con người tạo ra xã hội và là thành
viên của xã hội.
Như vậy, con người không phải là một động vật thuần túy mà là một động vật xã hội”. Thực thể
sinh vật và thực thể xã hội ở con người không tách khỏi nhau, trong đó thực thể sinh vật là tiền đề mà

trên cái tiền đề đó thực thể xã hội tồn tại và phát triển.
ii. Con người là chủ thể của lòch sử
Con người không chỉ là sản phẩm của lòch sử với tư cách là sản phẩm quá trình tiến hóa lâu dài
của tự nhiên mà con người còn là chủ thể của lòch sử.
Lòch sử, hiểu theo nghóa rộng, là những quá trình đan xen, nối tiếp nhau với tất cả những bảo tồn
và biến đổi diễn ra trong quá trình ấy. Như vậy, con người có lòch sử và động vật cũng có lòch sử. Nhưng
lòch sử của con người và lòch sử của động vật khác hẳn nhau. “Con người càng cách xa con vật, hiểu theo
nghóa hẹp của từ này, bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lòch sử của mình một cách có ý thức
bấy nhiêu…” (Mác và Ănghen).
Con người làm ra lòch sử, song không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình mà là trong những
điều kiện có sẵn do quá khứ để lại. Xét mối quan hệ giữa các thế hệ và hoàn cảnh sống của con người
thì “bản thân xã hội sản xuất ra con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế.” (Mác và
Ănghen).
Trong khi khẳng đònh: “Con người là thực thể sinh vật – xã hội” và là chủ thể của lòch sử, C. Mác
đồng thời khẳng đònh “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Tất cả các mối
quan hệ xã hội đều góp phần hình thành nên bản chất con người. Các quan hệ này không kết hợp với
nhau theo phép tính cộng mà chúng tổng hòa, nghóa là chúng có vò trí, vai trò khác nhau nhưng chúng
không tách rời nhau, thâm nhập và tác động qua lại lẫn nhau. Khi các quan hệ xã hội thay đổi thì sớm
hay muộn bản chất con người cũng có sự thay đổi.
Như vậy, bản chất con người hình thành và thay đổi theo sự hình thành và thay đổi của các quan
hệ xã hội, trong đó trước hết và quan trọng nhất là các quan hệ thuộc lónh vực kinh tế.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
i. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao động
- Độc lập, tự do là quyền bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
- Giải phóng dân tộc trước hết phải do chính các dân tộc thực hiện.
- Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao động.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân
lao động là tư tưởng về sự kết hợp giữa dân tộc với giai cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc với
CNXH.

ii. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm cuộc sống của nhân dân là mục tiêu của mọi hoạt động cách mạng; ngay
cả “… nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghóa lý gì”, lợi ích
phải là của dân, hạnh phúc phải là của dân.
25

×