Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Đổi mới công tác đào tạo bồi dưỡng công chức viên chức ngành công thương giai đoạn 2013 - 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.06 KB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ
000
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC NGÀNH CÔNG THƯƠNG

LUẬN VĂN KINH TẾ
HÀ NỘI- NĂM 2013
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ
000
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC NGÀNH CÔNG THƯƠNG
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số : 62.31.07.01

LUẬN VĂN KINH TẾ
Học viên: Nguyễn Văn Thành
Người hướng dẫn: PGS.TS Đỗ Hoàng Toàn

HÀ NỘI - NĂM 2012
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn có tiêu đề “Đổi mới công tác đào tạo, bồi
dưỡng công chức, viên chức ngành công thương” là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu và nội dung nghiên cứu được trình bày trong luận án là
trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về những số liệu và nội dung nghiên cứu
đó. Kết quả nghiên cứu của luận án này chưa được công bố trong các công trình


khác.
TÁC GIẢ
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
3
DANH MỤC VIẾT TẮT.
CCVC: Công chức. Viên chức
ĐTBD: Đào tạo bồi dưỡng,
GD&ĐT: Giáo dục và đào tạo.
HĐH, CNH: Hiện đại hóa, Công nghiệp hóa.
HNKTQT: Hội nhập Kinh tế Quốc tế
KH&CN: Khoa học và Công nghệ
NNL: Nguồn nhân lực
NNLCLC: Nguồn nhân lực chất lượng cao.
XHCN: Xã hội chủ nghĩa.
CMKT: Chuyên môn kỹ thuật
CNKT: C«ng nh©n kü thuËt
DANH MỤC BẢNG
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
4
Số hiệu Tên Trang
Bảng 2.1 Tổng hợp thực trạng trình độ theo ngạch công chức, viên
chức của Ngành Công thương
Bảng 2.2 Thực trạng trình độ tin học, ngoại ngữ CCVC của ngành
Công thương
Bảng 2.3 Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của công chức, viên chức
ngành Công thương
Bảng 2.4 Tổng hợp lựa chọn hình thức ĐTBD theo ngạch công
chức
Bảng 2.5 Kết quả đào tạo công chức, viên chức cơ quan Bộ từ năm
2010-2012

Bảng 3.1 So sánh khái niệm nhu cầu và mong muốn đào tạo
Bảng 3.2 Bảng câu hỏi phỏng vấn cá nhân để xác định nhu cầu đào
tạo, bồi dưỡng của công chức, viên chức
Bảng 3.3 Tóm tắt kết luận về nhu cầu đào tạo của cán bộ quản lý
cấp trung
Bảng 3.4 So sánh giữa các hình thức đào tạo, bồi dưỡng công chức,
viên chức cho ngành công thương
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài
Để xây dựng một nền quản lý hành chính thống nhất, năng động và hiệu quả,
cần phải có một đội ngũ công chức, viên chức có năng lực, có phẩm chất trong
sạch, không quan liêu, không tham nhũng và tận tuy với công việc. Hiện nay,
Việt Nam đang đứng trước một thực tế khó khăn, đó là sự hẫng hụt về trình độ,
năng lực của đội ngũ công chức, viên chức trong đại bộ phận xã hội. Đại hội X
của Đảng đã chỉ ra: “…Một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ, công chức còn
nhiều yếu kém, bất cập về trình độ chuyên môn và năng lực điều hành công việc,
chưa tương xứng với cương vị và trách nhiệm được giao; một số không ít cán bộ
thoái hoá về phẩm chất chạy theo sự cám dỗ vật chất, sống thực dụng, cửa quyền,
hối lộ, sách nhiễu, tham nhũng, ảnh hưởng rất xấu đến uy tín của Đảng và Nhà
nước, gây cản trở cho sự nghiệp phát triển đất nước” [22]. Đi đôi với thực tế đó,
công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức viên chức được đánh giá đã có nhiều đóng
góp lớn vào việc xây dựng đội ngũ công chức, viên chức vững mạnh, trong sạch
và chuyên nghiệp, đóng góp vào sự thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, công tác này còn thể hiện nhiều thiếu sót, tồn lại cần giải quyết. Đó là
sự chưa hoàn thiện, đồng bộ trong công tác quản lý nhà nước về đào tạo, bồi
dưỡng công chức, viên chức; việc xây dựng chính sách, chế độ về đào tạo, bồi
dưỡng chưa đầy đủ, chưa phù hợp với yêu cầu; chưa quan tâm đầy đủ đến sự phát
triển của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức; chậm cải cách trong

chương trình, giáo trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng và đội ngũ giảng viên.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức là một nhu cầu cấp bách,
là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của quá trình công nghiệp hóa-
hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng và Nhà nước đã xác định công
chức, viên chức là đối tượng cần ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng trong giai đoạn hiện
nay, nhằm nhanh chóng khắc phục những khiếm khuyết nảy sinh khi chuyển sang
cơ chế thị trường, thích ứng với những yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới.
Phát triển đội ngũ công chức, viên chức nhà nước ngang tầm nhiệm vụ mới
là một chủ trương lớn trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Đảng và
Nhà nước ta. Đội ngũ công chức, viên chức cũng như công tác đào tạo, bồi dưỡng
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
6
công chức, viên chức ngành công thương cũng không nằm ngoài các đặc điểm đã
nêu trên.
Với tư cách là nguồn nhân lực phục vụ trong lĩnh vực kinh tế của nhà nước,
đội ngũ công chức, viên chức ngành công thương đóng một vai trò rất quan trọng.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm này chúng ta chưa có câu trả lời đầy đủ, khoa học
cho mô hình nhân cách đối với công chức, viên chức của ngành và những yêu cầu
về kiến thức, năng lực, phẩm chất cũng như những yêu cầu về tiêu chuẩn đối với
công chức, viên chức trong ngành công thương. Do vậy, để ngành công thương
của Việt Nam phát triển thì đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đội ngũ công
chức, viên chức là một trong những yếu tố mang tính quyết định. Vậy, làm thế
nào để công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức cho ngành công thương
được thực hiện một cách hiệu quả, tránh lãng phí và đáp ứng được nhu cầu phát
triển? Để trả lời được câu hỏi này cần phải có sự nghiên cứu một cách đầy đủ và
toàn diện về thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức ngành
công thương từ đó xác định rõ nhu cầu đào tạo để thiết kế các chương trình, giáo
trình và phương pháp đào tạo cho phù hợp với thực tiễn của ngành. Đây là công
việc hết sức cần thiết và cấp bách, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những nhận định trên, tác giả chọn vấn đề “Đổi mới công

tác đào tạo bồi dưỡng công chức viên chức ngành Công thương giai đoạn
2013-2020” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Quản trị kinh doanh của mình.
2. Tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước.
a) Tình hình nghiên cứu ở trong nước:
Tại Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng
công chức, viên chức ngành công thương, tiêu biểu trong số đó là:
- Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh
trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa - Đề tài nghiên cứu KHXH.03.09 do
PGS.TS, Nguyễn Trọng Bảo chủ nhiệm, NXB Giáo dục năm 1998 đã cung cấp
các thông tin cần thiết về tình hình đào tạo các cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán bộ
quản lý kinh doanh của Việt Nam [1];
- Cơ sở khoa học của đào tạo, bồi dưỡng CBCC hành chính theo nhu cầu
công việc - Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, chủ nhiệm đề tài, TS Nguyễn Ngọc Vân đã
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
7
nghiên cứu một cách tổng quát nhất về thực trạng về công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, viên chức tại Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu đó, tác giả đã
đề xuất các chính sách hữu hiệu để công tác đào tạo, bồi dưỡng được tiến hành
một cách hiệu quả. Đây là một công trình nghiên cứu công phu về tình hình đào
tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc làm tại Việt Nam và là nguồn tài liệu vô cùng quý
giá cho các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức [11];
- Cuốn sách “Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam” do
TS. Nguyễn Ngọc Hiến làm chủ biên được xuất bản năm 2001 đã nghiên cứu và
đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam [4];
- Cải cách hệ thống tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng và nâng
cao chất lượng đội ngũ công chức hành chính nhà nước do Học viện hành chính
Quốc gia công bố năm 1990 đã đưa ra hệ thống tổ chức bộ máy hành chính và
các giải pháp để nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ công chức của Việt
Nam;

- Hoàn thiện thể chế công vụ ờ nước ta hiện nay- Luận án Tiến sĩ Quản lý
hành chính công của tác giả Trần Quốc Hải, năm 2008 [6];
- Căn cứ lý luận và thực tiễn của việc xây dựng hệ thống tiêu chí kiểm tra,
đánh giá chất lượng công tác đào tạo, bổi dường cán bộ, công chức nhà nước- Đề
tài nghiên cứu cấp Bộ, chủ nhiệm đề tài, Vũ Vân Thiệp [9];
- Về công tác quy hoạch cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay-TS.Đỗ Minh
Cương, Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương [2];
- Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn phát
triển mới của đất nước của tác giả Nguyễn Tuấn Khanh, Ủy viên Trung ương
Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đã đưa ra những nhận định quan
trọng trong việc đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng nói chung tại Việt Nam
[8].
Ngoài ra, có nhiều cuộc hội thảo, bài viết đăng tải trên các tạp chí, các luận
án tiến sỹ liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức
nói chung và ngành công thương nói riêng.
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
8
Các công trình nghiên cứu trên nói trên đã góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý
luận, quan điểm nâng cao năng lực đội ngũ công chức, viên chức thông qua đào
tạo, bồi dưỡng cũng như yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công
chức, viên chức và các nguyên tắc cơ bản khi thực hiện đào tạo, bồi dưỡng công
chức, viên chức. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào đánh giá cụ thể về
việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức nói chung và của
ngành công thương nói riêng trong giai đoạn hiện nay nhằm phù hợp với nhu cầu
đổi mới của xã hội.
Xuất phát từ quan điểm rằng khoa học vừa mang tính kế thừa, vừa mang
tính mới mẻ, các công trình, bài viết trên đây là những tài liệu rất bổ ích để tác
giả tham khảo trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.
b) Tài liệu tham khảo của nước ngoài:
- Chính sách đào tạo và bồi dưỡng của Singapore - LIM SIONG GUAN-

Trưởng ban công chức Singapore;
- Kinh nghiệm đào tạo thị trưởng của Trung Quốc - TS phạm Văn Bộ - Học
viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị;
Ngoài ra, có nhiều cuộc hội thảo quốc tế, các bài viết đăng tải trên các tạp
chí cũng có những nội dung liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công chức, viên chức. Tuy nhiên, phần thông tin về Việt Nam trong các tài liệu
trên hầu như không có, đặc biệt là các thông tin có liên quan đến việc đào tạo, bồi
dưỡng công chức, viên chức. Do đó, có thế thấy rằng, các nghiên cứu này không
đi sâu phân tích tình hình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức nói
chung và dành cho ngành công thương nói riêng. Mặc dù vậy, những tài liệu liệt
kê ở trên là nguồn tài liệu tham khảo rất cần thiết để thực hiện luận văn này.
3. Mục tiêu của đề tài:
Tìm kiếm các giải pháp đào tạo, bồi dưỡng nhằm tăng cường chất lượng
CCVC ngành Công Thương, phục vụ yêu cầu phát triển hiện nay trong giai đoạn
2013-2020 theo hướng đẩy mạnh CNH-HĐH và hội nhập quốc tế.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu tổng quan về công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên
chức nói chung, những yêu cầu đặt ra về nhân lực và đổi mới công tác đào tạo,
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
9
bồi dưỡng công chức, viên chức trong giai đoạn 2013-2020 theo hướng đẩy mạnh
CNH-HĐH và hội nhập quốc tế.
- Nghiên cứu, thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức
ngành công thương, đánh giá mức độ đáp ứng với yêu cầu hiện nay và những vấn
đề tồn tại.
- Đề xuất các giải pháp, khuyến nghị nhằm đổi mới công tác đào tạo, bồi
dưỡng công chức, viên chức ngành công thương giai đoạn 2013-2020 đáp ứng
yêu cầu nhân lực trong công cuộc HĐH, CNH và hội nhập quốc tế.
5. Phạm vi nghiên cứu:
-Về đối tượng:

Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến công tác đào tạo,
bồi dưỡng cho cán bộ, công chức, viên chức của ngành công thương. Lao động
trong các doanh nghiệp không phải là đối tượng nghiên cứu của luận văn này.
-Về nội dung:
+ Khi nghiên cứu nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của các cán bộ, công chức
ngành công thương, luận văn tập trung nghiên cứu các lĩnh vực về chuyên môn
nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học và các vấn đề về quản lý hành
chính nhà nước.
-Về thời gian:
+ Khi phân tích các số liệu liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng của
ngành, luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu trong khoảng thời gian 5 năm từ năm
2008-2012.
+ Việc đề xuất các giải pháp áp dụng phương pháp đổi mới công tác đào
tạo, bồi dưỡng đề án chỉ tính đến năm 2020, năm Việt Nam cơ bản trở thành
nước công nghiệp.
6. Đối tượng nghiên cứu:
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức ngành công thương
- Các chính sách về công chức viên chức và công tác đào tạo, bồi dưỡng
công chức, viên chức hiện hành.
- Hệ thống đào tạo đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức hiện nay.
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
10
7. Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp sau đây:
● Phương pháp luận:
Chủ nghĩa Mác-Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức ngành công thương.
● Phương pháp chuyên ngành:
* Phương pháp thu thập và hệ thống hóa các số liệu. Luận văn sử dụng

phương pháp này để phân tích về thực trạng đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên
chức ngành công thương.
* Phương pháp điều tra khảo sát: Tác giả cũng đã sử dụng các số liệu sơ
cấp từ cuộc khảo sát riêng của Bộ Nội vụ năm 2010 đối với các cán bộ, công
chức, viên chức ngành công thương.
8. Nội dung nghiên cứu:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 phần với các
nội dung sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên
chức
Chương 2. Thực trạng công tác đào tạo bồi dưỡng công chức viên chức
ngành công thương
Chương 3. Giải pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức,
viên chức ngành công thương
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
1.1. CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
1.1.1. Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng
Đào tạo, theo một nghĩa chung nhất, là quá trình tác động đến con người làm
cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng kỹ xảo một cách có
hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng tiếp
nhận một sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào việc phát
triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người. Khi nói đến đào
tạo là nói đến việc học làm một công việc như thế nào, nghĩa là nó liên quan đến
việc học hay dạy những kỹ năng cần thiết cho một công việc nhất định nào đó.
Trong đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức người ta còn sử dụng đào tạo lại
để chỉ quá trình đào tạo đối với những công chức, viên chức đã qua đào tạo trước

đây nhằm thay đổi dạng hoạt động nghề nghiệp hay phương thức hoạt động nghề
nghiệp cho phù hợp với những thay đổi nghề nghiệp và sự phát triển của khoa
học công nghệ. Hiện nay, người ta ít dùng từ đào tạo lại trong đào tạo, bồi dưỡng
công chức, viên chức mà dùng từ đào tạo một cách chung nhất. Một cách cụ thể
hơn, đào tạo được xem như là một quá trình làm cho người ta "trở thành người có
năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định". Xét về mặt thời gian, đào tạo thường
có thời gian dài hơn, thường là từ một năm học trở lên.
Bồi dưỡng được xác định là quá trình làm cho người ta "tăng thêm năng lực
hoặc phẩm chất" . Một cách cụ thể hơn, người ta cho rằng, bồi dưỡng là quá trình
nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức kỹ năng nghề nghiệp một cách thường
xuyên, quá trình tăng cường năng lực nói chung trên cơ sở kiến thức, kỹ năng đã
được đào tạo. Thông thường trong hoạt động công vụ, bồi dưỡng có nhiệm vụ
cập nhật, trang bị thêm, trang bị mới những kiến thức, kỹ năng, thái độ cho cán
bộ, công chức để thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn nhiệm vụ được giao. Về thời
gian, việc bồi dưỡng thường ngắn hơn, có thể vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng,
và về bằng cấp thì bồi dưỡng không có bằng cấp, chỉ có chứng chỉ, chứng nhận
đã học qua khóa bồi dưỡng.
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
12
Như vậy, khái niệm đào tạo và bồi dưỡng rất gần nhau, trong đa số các
trường hợp người ta thường dùng đào tạo để chỉ việc bồi dưỡng, nó khác với bồi
dưỡng ở chỗ đào tạo chỉ quá trình trang bị những kiến thức, kỹ năng mới mà
trước đó người cán bộ, công chức chưa được đào tạo. Trong đào tạo, bồi dưỡng
công chức, viên chức nhiều người cho rằng đào tạo là việc trang bị kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp, còn bồi dưỡng là việc tiếp tục trang bị kiến thức, kỹ năng để
cán bộ, công chức làm việc tốt hơn, hiệu quả hơn trong môi trường luôn thay đổi.
Như vậy bồi dưỡng phải diễn ra sau quá trình đào tạo. Việc tách bạch khái niệm
đào tạo và bồi dưỡng riêng rẽ chỉ để tiện cho việc phân tích cặn kẽ sự giống và
khác nhau giữa đào tạo và bồi dưỡng. Thực tế, xét theo khung cảnh đào tạo bồi
dưỡng công chức, viên chức thì trong đào tạo đã bao hàm việc bồi dưỡng.

Ở đây chúng ta cần đưa ra một định nghĩa chung cho đào tạo bồi dưỡng công
chức, viên chức. Đào tạo, bồi dưỡng được xác định như là quá trình làm biến đổi
hành vi con người một cách có hệ thống thông qua việc học tập, việc học tập này
là kết quả của việc giáo dục, hướng dẫn, phát triển, và lĩnh hội kinh nghiệm một
cách có kế hoạch. Như vậy, đào tạo chính là việc tổ chức những cơ hội cho người
ta học tập, nhằm giúp tố chức đạt được mục tiêu của mình bằng việc tăng cường
năng lực, làm gia tăng giá trị của nguồn lực cơ bản quan trọng nhất là con người,
là cán bộ, công chức làm việc trong tố chức. Đào tạo tác động đến con người
trong tố chức, làm cho họ có thể làm việc tốt hơn, cho phép họ sử dụng tốt hơn
các khả năng, tiềm năng vốn có của họ, phát huy hết năng lực làm việc của họ.
1.1.2. Khái niệm về công chức, viên chức
Thuật ngữ công chức được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới,
để chỉ những người giữ công vụ thường xuyên trong các cơ quan, tổ chức nhà
nước. Thuật ngữ công chức là thuật ngữ có tính lịch sử, hình thành trong những
điều kiện nhất định, cùng với chế độ công vụ (Công vụ là công việc, hoạt động
nhà nước chủ yếu do công chức nhà nước thực hiện dựa trên cơ sở quyền lực nhà
nước và pháp luật, được đảm bảo bằng quyền lực nhà nước, pháp luật và sử dụng
quyền lực đó để thực thi các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước). Nội dung của
nó phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm chính trị, kinh tế - xã hội của từng giai đoạn
lịch sử cụ thể ở mỗi quốc gia.
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
13
Ở mỗi quốc gia tồn tại nhiều đảng phái chính trị (có đảng cầm quyền và
đảng đối lập) thì công chức, viên chức chỉ được hiểu là những người giữ công vụ
thường xuyên trong các cơ quan nhà nước, được xếp vào ngạch, bậc công chức,
viên chức được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Còn ở những nước chỉ có
một đảng duy nhất, đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội thì quan niệm công chức,
viên chức có những ý nghĩa khác hẳn, không chỉ gồm những chủ thể nêu trên, mà
còn cả những đối tượng có dấu hiệu tương tự, nhưng lại làm việc tại các tổ chức
của đảng, tổ chức chính trị - xã hội. Vì vậy, không thể có một định nghĩa chung

duy nhất về công chức, viên chức cho mọi quốc gia. Quan niệm về công chức,
viên chức gắn liền với yếu tố chính trị và đời sống chính trị - xã hội có tính quyết
định đến chế độ công vụ và quan niệm công chức, viên chức. Có thể dẫn chứng
một số quy định về công chức tại một số nước tiêu biểu như:
+ Luật Công chức Cộng hoà Liên bang Đức năm 1997 quy định các công
chức Cộng hoà Liên bang Đức đều là những nhân viên làm việc trong các cơ
quan nhà nước, tổ chức văn hoá, nghệ thuật, giáo dục và nghiên cứu khoa học
quốc gia, gồm nhân viên các tổ chức công, nhân viên công tác trong các xí
nghiệp nhà nước, các công chức làm việc trong các cơ quan Chính phủ, nhân
viên lao động công, giáo sư đại học, giáo viên trung học hay tiểu học, bác sỹ hộ
lý bệnh viện, nhân viên lái xe lửa [19].
+ Theo Điều lệ tạm thời về công chức nhà nước của Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa công bố ngày 14 tháng 8 năm 1993, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng
10 năm 1993, công chức nhà nước bao gồm công chức lãnh đạo và không lãnh
đạo; và phải thông qua một chế độ tuyển dụng hết sức nghiệm ngặt. Công chức
không lãnh đạo gồm: cán sự, chuyên viên, chuyên viên tổ trưởng, chuyên viên
tổ phó, trợ lý chuyên viên nghiên cứu, chuyên viên nghiên cứu, trợ lý chuyên
viên thanh tra. Chức danh lãnh đạo gồm: Thủ tướng Quốc vụ viện, Phó Thủ
tướng Quốc vụ viện, các thành viên Quốc vụ viện; chức Trưởng phó cấp bộ,
tỉnh; chức phó cấp vụ Hiện nay, Trung Quốc đã chuyển các công chức sang
chế độ hợp đồng lao động và có những cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực hành
chính để giảm biên chế.
+ Ở Pháp, quan niệm về công chức rất rộng, công chức được phân thành
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
14
hai loại. Loại thứ nhất là những công chức làm việc thường xuyên trong bộ máy
nhà nước, bị chi phối bởi luật công chức; loại thứ hai là những công chức bị chi
phối bởi luật lao động, bởi hợp đồng lao động và luật tư.
+ Ở Nhật, quan niệm công chức bao gồm cả công chức nhà nước trung
ương và công chức địa phương, có nghĩa là cả những người làm việc trong các

cơ quan chính quyền và tự quản địa phương cũng là công chức.
+ Ở Canada, công chức là những người làm việc trong các cơ quan nhà
nước ở trung ương, nếu như làm việc tại các cơ quan tự quản địa phương thì
không phải là công chức nhà nước (công chức địa phương), nhưng được hưởng
một số các quy chế như là công chức.
Còn ở Việt Nam từ khi có Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 và luật
công chức viên chức tới nay, quan niệm về công chức, viên chức nhà nước cũng
có những thay đổi nhất định. Trên cơ sở Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998,
Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17 tháng 11 năm 1998 của Chính phủ về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức tuy không đưa ra định nghĩa công
chức khái quát, nhưng đã liệt kê những đối tượng công chức, viên chức nhà nước.
Ngày 13 tháng 11 năm 2008, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua Luật cán bộ, công chức số 22/2008/QH12.
Ngày 15 tháng 11 năm 2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua Luật viên chức số 58/2010/QH12 [17],
theo đó:
(1) Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội (Sau đây gọi tắt là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo,
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
15
quản lý của các đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được đảm bảo từ quỹ lương
của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
(2) Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm,

làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng
lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Như vậy một cách chung nhất chúng ta có thể hiểu: Công chức, viên chức là
những người được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo
nghạch hoặc theo nhiệm kỳ…,nằm trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo
quy định của pháp luật.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC NGÀNH CÔNG THƯƠNG VÀ
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
1.2.1. Đặc điểm của công chức, viên chức ngành công thương
Công chức, viên chức có các đặc điểm tiêu biểu sau:
- Họ là những người trưởng thành về thể chất và trưởng thành về mặt xã hội,
họ được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm giữ một chức vụ thương xuyên trong các
công sở của Nhà nước, họ đang trực tiếp tham gia vào bộ máy công quyền của
nền hành chính quốc gia. Như vậy, họ là những người tự làm chủ được hành vi,
thái độ của mình và phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật với tư cách là một
công dân, một công chức, viên chức hành chính. Họ trưởng thành ở mặt xã hội
còn biểu hiện ở giá trị sản phẩm lao động của họ được xã hội công nhận và bằng
sức lao động của mình, họ đã nuôi sống được bản thân. hơn nữa, sự trưởng thành
về mặt xã hội còn thể hiện ở cuộc sống riêng tư của họ. họ là những người có đầy
đủ điều kiện hành vi trước pháp luật.
- Họ là những người đã có vị thế xã hội, vì công chức,viên chức là những
người đang giữ chức vụ hoặc trách nhiệm nhất định theo trình độ đào tạo và được
xếp vào ngạch bậc tương ứng trong hệ thống hành chính, bởi vậy, công chức,
viên chức đang có một vị thế xã hội nhất định để thực hiện quyền lực của Nhà
nước quản lý toàn xã hội.
- Họ hoạt động trong hai lĩnh vực kinh tế cốt yếu của xã hội là các hoạt động
công nghiệp và thương mại.
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
16

- Công chức, viên chức có nhiều kinh nghiệm sống được tích luỹ tùy theo
lĩnh vực mà họ hoạt động. Bởi là công chức, viên chức họ phải được đào tạo ở
trình độ nhất định, cùng với vị trí làm việc của mình trong bộ máy công quyền.
1.2.2. Đặc điểm của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức ngành
công thương
Công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức có các đặc điểm nổi bật
sau đây:
- Đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức là loại đào tạo cho người trưởng
thành đang làm việc, có tính kế tiếp dựa trên những kết quả giáo dục-đào tạo
trước đó của giáo dục quốc dân. Đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức có nội
dung, phương thức, hệ thống chính sách chế độ khác với giáo dục thông thường.
- Đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức là loại đào tạo theo tiêu chuẩn
nghiệp vụ, theo chức danh công chức, viên chức. Một trong những yêu cầu của
công tác đào tạo, bồi dưỡng là nhằm đảm bảo cho công chức, viên chức đáp ứng
đầy đủ các tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch công chức, viên chức, tiêu chuẩn chức
danh của từng vị trí cán bộ.
- Đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức có tính đa dạng về nội dung,
hình thức cung như địa điểm đào tạo. Nội dung đào tạo phụ thuộc theo yêu cầu
của công chức, viên chức còn hình thức rất phong phú, đa dạng có thể ngắn hạn,
dài hạn, tập trung, tại chức. Nơi đào tạo cũng đa dạng, có thể ở trong cơ quan,
ngoài cơ quan, tại cơ quan đào tạo, trong nước, ngoài nước.
1.3. CÁC HÌNH THỨC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC, VIÊN
CHỨC NGÀNH CÔNG THƯƠNG
Cho đến nay, ở Việt Nam, việc đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức
thường là qua mấy hình thức sau đây:
Một là, tự đào tạo, bồi dưỡng. Về hình thức này, có người có kế hoạch hẳn
hoi, không qua trường lớp nhưng có ý thức học tập mọi lúc, mọi nơi, nhất là qua
cả những thành công và qua cả những thất bại trong công tác để rút ra những bài
học cho bản thân mình.
Hai là, được đào tạo, bồi dưỡng theo trường, lớp, theo bài bản có hệ thống,

liên thông từ thấp đến cao. Trong thời kỳ cách mạng Việt Nam sau năm 1954,
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
17
nhiều cán bộ của Trung ương, của địa phương, các ngành được đào tạo, bồi
dưỡng theo cách này, thậm chí còn được đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài
Ba là, tham gia các bồi dưỡng ngắn hạn, tùy theo nhu cầu công việc và sự
thay đổi của tình hình xã hội
Ngoài ra có người vừa được đào tạo, bồi dưỡng theo trường lớp, vừa được
rèn luyện trong thực tế, vừa thực hiện quá trình tự đào tạo, bồi dưỡng theo như
cầu của bản thân.
1.4. VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC,
VIÊN CHỨC NGÀNH CÔNG THƯƠNG
Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước nói chung, của hệ thống hành chính
nói riêng suy cho cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và kết quả công
tác của đội ngũ công chức, viên chức nhà nước. Ở tất cả các nước trên thế giới,
việc ĐTBD đội ngũ công chức, viên chức luôn được chú trọng nhằm xây dựng
đội ngũ công chức, viên chức chuyên nghiệp, có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi
hành công vụ.
Ở nước ta, đội ngũ công chức, viên chức hiện nay đa số được đào tạo trong
thời kỳ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chưa được chuẩn hóa theo tiêu chuẩn
chức danh, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới.
Đặc biệt trong điều kiện khoa học công nghệ và thông tin phát triển như vũ bão,
thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế và xã hội, việc ứng dụng
những thành tựu khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ tin học và hiện đại
hóa nền hành chính, công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức trở nên nhu
cầu cấp thiết hơn bao giờ hết.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm trang bị, nâng cao kiến thức, năng lực
quản lý, điều hành và thực thi công vụ cho đội ngũ công chức, viên chức, nhằm
xây dựng đội ngũ công chức, viên chức chuyên nghiệp, có phẩm chất tốt và đủ

năng lực thi hành công vụ, tận tụy phục vụ đất nước và phục vụ nhân dân. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao mặt bằng
chung về trình độ và năng lực của đội ngũ công chức, viên chức; từng bước tiêu
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
18
chuẩn hoá ngạch, bậc theo qui định của nhà nước; đảm bảo cho công tác quy
hoạch và gắn liền với nhu cầu sử dụng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trong hai thập kỷ trở lại
đây đã đưa xã hội loài người bước sang một trang mới với những thành tựu quan
trọng có tính chất đột phá trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc đẩy
nhanh ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào trong sản xuất đã làm
thay đổi cơ cấu kinh tế của nhiều nước, khoa học công nghệ đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Nhiều ngành nghề mới xuất hiện, nhiều ngành nghề cũ
mất đi. Trong điều kiện đó, chỉ có lực lượng lao động linh hoạt, có kỹ năng cao
mới có khả năng đáp ứng được nhu cầu phát triển của sản xuất và quản lý. Cùng
với sự phát triển của khoa học công nghệ là xu hướng toàn cầu hoá, các quốc gia
trên thế giới đã xây dựng chiến lược hội nhập với khu vực và quốc tế đồng thời
phải giữ vững chủ quyền và bản sắc của mình. Trong bối cảnh đó, đảm bảo quyền
lực Nhà nước là một mục tiêu quan trọng mà mọi quốc gia đã hướng tới. Quyền
lực Nhà nước được đảm bảo khi Nhà nước có được một hệ thống pháp luật đầy
đủ, đồng bộ, minh bạch; có được bộ máy quản lý Nhà nước tiên tiến và có được
đội ngũ cán bộ, công chức hiện đại, trí tuệ. Vì vậy, nguồn nhân lực đã trở thành
một vũ khí cạnh tranh quan trọng của mỗi quốc gia. Chiến lược phát triển nguồn
nhân lực đã trở thành một cuộc đua giữa các nước, đặc biệt là trong các nước phát
triển.
Đào tạo, bồi dưỡng không chỉ khắc phục những hụt hẫng về năng lực công
tác của công chức, viên chức mà còn liên quan đến việc xác định và thỏa mãn các
nhu cầu phát triển khác như phát triển đa kỹ năng, tăng cường năng lực làm việc
để công chức viên chức đảm nhận thêm trách nhiệm, tăng cường năng lực công
tác toàn diện và chuẩn bị cho đề bạt, bổ nhiệm lên vị trí cao hơn với trách nhiệm

nặng nề hơn trong tương lai của công chức, viên chức.
1.5. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC NGÀNH CÔNG THƯƠNG
Để đánh giá đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức
người ta thường xem xét trên các nội dung như:
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
19
- Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng (gồm toàn bộ hệ thống giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng của nhà nước tham gia xây dựng nên trình độ, năng lực, chuyên môn của
CCVC nói chung).
- Hệ thống pháp lý đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng CCVC (gồm toàn bộ
hệ thống các văn bản pháp lý của nhà nước về công tác đào tạo, bồi dưỡng
CCVC).
- Chiến lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CCVC.
- Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng CCVC.
- Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng CCVC.
- Đội ngũ giáo viên.
- Điều kiện tổ chức (cơ sở vật chất, cơ sở khoa học kỹ thuật, cách thức tổ
chức chương trình…)
Thông qua đó để đánh giá các tiêu chí sau:
+ Mức độ phù hợp giữa nội dung chương trình với yêu cầu tiêu chuẩn
ngạch, chức vụ lãnh đạo, quản lý và yêu cầu vị trí việc làm;
+ Năng lực của giảng viên và sự phù hợp của phương pháp đào tạo, bồi
dưỡng với nội dung chương trình và người học;
+ Năng lực tổ chức đào tạo, bồi dưỡng của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng;
+ Mức độ tiếp thu kiến thức, kỹ năng của công chức và thực tế áp dụng
vào việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
Ngoài ra việc đào tạo, bồi dưỡng CCVC cần phải tuân theo một số nguyên
tắc như sau:
- Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng phải quán triệt các nguyên tắc đảm bảo

các quan điểm, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Đảng và nhà
nước. Nguyên tắc này đòi hỏi nội dung, chương trình, giáo trình đào tạo bồi
dưỡng phải phản ánh các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà
nước, phải luôn được cải tiến và không ngừng hoàn thiện theo quá trình đổi mới
của đất nước, của công cuộc CNH- HĐH và cải cách hành chính nhà nước.
- Nguyên tắc đảm bảo đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng đúng nhu cầu đào tạo.
Nguyên tác này yêu cầu việc đào tạo, bồi dưỡng phải được thực hiện trên cơ sở
nhu cầu đào tạo của cơ quan sử dụng CCVC và của bản thân CCVC. Nội dung,
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
20
chương trình, giáo trình đào tạo bồi dưỡng phải được xác định theo nhu cầu công
việc thực tế nhằm nâng cao năng lực thực hiện công việc của công chức, viên
chức. Hình thức, thời gian đào tạo cần được nghiên cứu thực hiện theo các chức
vụ, vị trí công tác khác nhau. Đào tạo bồi dưỡng đảm bảo theo sát đối tượng, lựa
chọn đối tượng đào tạo cẩn thận, tránh việc đào tạo bồi dưỡng không đúng đối
tượng, học những điều mà không dùng tới, không thiết thực.
- Nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng gắn liền với thực hành. Nguyên tắc này đòi
hỏi công tác đào tạo, bồi dưỡng phải hữu ích và thiết thực, phải đem đến cho
người học những kiến thức, kỹ năng thực tế gắn liền với công việc của họ, thống
nhất với công việc họ đang làm. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải kết hợp với
thực tế, phải liên quan đến kỹ năng chuyên môn, yêu cầu chức trách mà công
chức, viên chức đảm nhận. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng giúp cho kiến thức,
trình độ nghiệp vụ, hiệu quả công tác của công chức, viên chức được nâng lên rõ
rệt, đạt được mục đích học để làm việc, học để sử dụng được trong công việc. Vì
vậy, nội dung, chương trình giáo trình phải được tính toán tỷ lệ giữa lý thuyết và
thực hành một cách phù hợp.
- Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả thực tế trong đào tạo bồi dưỡng. Nguyên
tắc này yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức phải chú trọng đến hiệu
quả, không nên chú trọng hình thức chạy theo chỉ tiêu số lượng đào tạo. Đồng
thời cũng không phiến diện chạy theo chứng chỉ, bằng cấp, mà đào tạo, bồi

dưỡng phải đảm bảo chất lượng và hiệu quả. Trong đào tạo, bồi dưỡng phải chú
trọng sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng một cách có hiệu quả, phải đảm bảo
thực hiện tốt ở tất cả các khâu từ xác định nhu cầu đào tạo, lập kế hoạch, thực
hiện đào tạo đến khâu đánh giá.
- Nguyên tắc kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo, bồi dưỡng CCVC. Nguyên
tắc này yêu cầu cơ quan sử dụng CCVC cần quan tâm đặc biệt tới công tác đào
tạo, bồi dưỡng cho CCVC của mình, từ việc xác định nhu cầu, đối tượng đào tạo
đến việc kiểm tra, đánh giá tinh thần thái độ tham gia đào tạo, bồi dưỡng cũng
như kết quả của học viên sau khi tham gia khóa học. Có như vậy việc đào tạo, bồi
dưỡng CCVC mới thực sự đúng nghĩa và đạt yêu cầu nâng cao chất lượng cho
CCVC.
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
21
1.6. NỘI DUNG ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG
CHỨC, VIÊN CHỨC NGÀNH CÔNG THƯƠNG
Thực hiện đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Điều này xuất phát từ điều kiện phát triển thực tiễn của xã hội cũng như nhu cầu
đáp ứng đội ngũ CCVC chuẩn mực, chuyên nghiệp cho xã hội. Chính vì vậy,
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá X về đẩy
mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà
nước đã chỉ rõ phải "Đổi mới phương thức và nội dung các chương trình đào tạo,
bồi dưỡng công chức, viên chức sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực
đặt ra từ quá trình thực thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành chính ". Trong
những năm qua các cơ quan liên quan đã tham mưu, chỉ đạo thực hiện theo
hướng này. Quy chế đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức ban hành kèm theo
Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ngày 04 tháng 8 năm 2003 của Thủ tướng
Chính phủ đã quy định thực hiện đào tạo bồi dưỡng trang bị kiến thức, kỹ năng
quản lý chuyên ngành cho cán bộ, công chức; Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg
ngày 15 tháng 2 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006 - 2010 đã đề ra mục tiêu:

“Trang bị, nâng cao kiến thức, năng lực quản lý, điều hành và thực thi công vụ
cho đội ngũ công chức hành chính và cán bộ, công chức cấp xã nhằm xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi
hành công vụ, tận tụy phục vụ đất nước và phục vụ nhân dân”. Đây là những căn
cứ pháp lý để thực hiện đổi mới công tác ĐTBD CCVC.
Trong thời gian qua, chúng ta cũng đã có rất nhiều cố gắng trong việc chuẩn
bị các nguồn lực để thực hiện đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng CCVC, bao
gồm: tổ chức các khoá đào tạo, bồi dưỡng về phương pháp biên soạn tài liệu; tổ
chức tập huấn giảng viên về phương pháp giảng dạy hành chính hiện đại; nghiên
cứu sửa đổi chế độ sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng v.v. Do đó, có thể nói,
các căn cứ và điều kiện để đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng CCVC về cơ bản
đã được chuẩn bị. Tuy nhiên với những cơ sở như vậy vấn đề đặt ra là chúng ta
cần đổi mới cái gì, đổi mới như thế nào để đáp ứng yêu cầu đặt ra trong giai đoạn
đẩy mạnh CNH, HĐH và Hội nhập kinh tế Quốc tế .
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
22
Một số vấn đề cần đổi mới trong công tác đào tạo, bồi dưỡng CCVC
- Nhận thức lại chức năng đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức:
+ Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh, vị trí công việc hay là
đào tạo trình độ của CCVC;
+ Xác định lại hệ thống chương trình: trang bị những kiến thức, kỹ
năng phù hợp với từng đối tượng, phù hợp với người học hay là
những loại kiến thức mà nhà quản lý cho rằng họ cần có;
+ Đề cao vai trò tự học của công chức, viên chức: công chức, viên
chức có trách nhiệm gì trong việc nâng cao kiến thức, kỹ năng, nghiệp
vụ.
- Giao trách nhiệm cho đơn vị sử dụng công chức quyết định về nhiệm vụ và
yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng CCVC.
+ Xác định nhu cầu cần đào tạo, bồi dưỡng cho CCVC của mình
+ Chọn lựa cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CCVC phù hợp.

+ Lựa chọn chương trình phù hợp với yêu cầu công việc
- Tổ chức lại hệ thống đào tạo, bồi dưỡng: Nâng cấp, xây dựng các cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng CCVC, xây dựng các nội dung phù hợp với nhu cầu mới.
- Các quy định pháp lý: Cần có chính sách tuyển dụng chặt chẽ, công minh
để lựa chọn được những CCVC có phẩm chất tốt, chuyên nghiệp và kỹ năng
chuyên môn giỏi. Tuy nhiên, để lôi kéo được những người tài trong xã hội tham
gia vào đội ngũ CCVC cần phải có chế độ phát triển và đãi ngộ hợp lý. Đi đôi với
các quy định này cần có những ràng buộc về trách nhiệm tham gia đào tạo, bồi
dưỡng đối với CCVC để cập nhật, nâng cao trình độ chuyên môn và có cơ chế
kiểm tra giám sát rõ ràng.
- Xác định và tổ chức lại công tác đánh giá công chức, viên chức, đánh giá
công chức, viên chức chủ yếu phải dựa vào kết quả công việc và cần phải nâng
cao hiệu lực, giá trị của hoạt động đánh giá bằng những biện pháp khuyến khích
hay kỷ luật thỏa đáng.
Khi nói đến đổi mới chúng ta phải xác định được hai nội dung: Đối tượng để
đổi mới (trước đây chúng ta đã làm gì và làm cái đó như thế nào); và hướng đổi
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
23
mới (để đổi mới chúng ta phải làm gì và làm như thế nào). Những nội dung cần
đổi mới trong công tác đào tạo, bồi dưỡng CCVC bao gồm:
- Đối tượng tham gia đào tạo, bồi dưỡng: cần nhìn nhận lại đối tượng tham
gia theo các khóa bồi dưỡng cụ thể.
- Mục tiêu tham gia đào tạo, bồi dưỡng.
- Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng.
- Thời gian thực hiện các khóa đào tạo, bồi dưỡng.
- Cách thức tổ chức lớp học.
- Quy mô lớp học (số lượng CCVC tham gia lớp học đào tạo, bồi dưỡng).
- Đối tượng giảng viên.
- Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng
- Quy trình tham gia đào tạo, bồi dưỡng.

Kết luận Chương 1: Luận văn đã nêu rõ cơ sở lý luận của công tác đào tạo, bồi
dưỡng công chức, viên chức ở nước ta (về nội dung, tầm quan trọng, sự cần thiết,
các tiêu chí đánh giá kết quả v.v…) làm cơ sở cho việc đi mò phân tích thực trạng
công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức ở nước ta trong Chương 2.
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
24
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÔNG CHỨC VIÊN CHỨC NGÀNH CÔNG THƯƠNG
2.1. THỰC TRẠNG VỀ TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN NGHIỆP VỤ VÀ
NHU CẦU ĐÀO TẠO CỦA CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC CỦA NGÀNH
CÔNG THƯƠNG
2.1.1. Thực trạng về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
2.1.1.1. Về trình độ văn hóa, chuyên môn
Tiêu chí đánh giá trình độ của công chức viên chức thể hiện qua trình độ văn
hoá và tiêu chí về trình độ đào tạo nghề nghiệp, bao gồm trình độ chuyên môn,
trình độ ngoại ngữ, tin học, lý luận chính trị và quản lý nhà nước. Việc khảo sát
phần nào đã đánh giá được các tiêu chí này.
Theo số liệu bảng dưới đây, trình độ văn hóa, chuyên môn trong CCVC
ngành công thương là tốt, trong đó trình độ từ đại học trở lên chiếm tới trên 93%,
đây là một tỷ lệ khá cao, thể hiện việc tuyển dụng cũng như đào tạo, bồi dưỡng
CCVC về tiêu chuẩn chuyên môn đã phần nào đáp ứng được yêu cầu.
Về trình độ lý luận chính trị, toàn bộ các CCVC trong diện khảo sát đều đã
tham gia đào tạo, bồi dưỡng, trong đó trình độ sơ cấp về lý luận chính trị là
27,2% là hoàn toàn chấp nhận được. Tuy nhiên, về trình độ bồi dưỡng quản lý
hành chính vẫn còn khá nhiều người chưa được tham gia đào tạo, bồi dưỡng
chiếm tới 9,3%.
Tæng sè
2541 100 168 6.6 1153 45,4 816 32,1 166 6,5
Tr×nh ®é
chuyªn m«n

TiÕn sü
81 3,19 0 13 0,51 48 1,89 20
0,7
9
Nguyễn Văn Thành- Trường Đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ Công Thương TW –Luận văn tốt nghiệp – 5/ 2013
Bảng 2.1. Tổng hợp thực trạng trình độ theo ngạch công chức, viên chức
của Ngành Công thương
25

×