Tải bản đầy đủ (.pdf) (315 trang)

đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.79 MB, 315 trang )

Bộ t pháp
Viện khoa học pháp lý





Đề tài KHOA HọC CấP Bộ

Đổi mới công tác đào tạo, bồi dỡng
đội ngũ công chức t pháp địa phơng















7524
22/10/2009





Hà Nội, 2007

Bộ t pháp
Viện khoa học pháp lý





Đề tài khoa học cấp bộ

Đổi mới công tác đào tạo, bồi dỡng
đội ngũ công chức t pháp địa phơng






















Hà Nội, 2007


Bộ t pháp
Viện khoa học pháp lý






Đề tài khoa học cấp bộ
đổi mới công tác đào tạo, bồi dỡng
đội ngũ công chức t pháp địa phơng





Ban chủ nhiệm đề tài:

Trần Văn Quảng Chủ nhiệm
Vũ Văn Quý Phó Chủ nhiệm
Vũ Thị Hờng Th ký
Trần Thu Hờng Th ký

Nguyễn Thị Nhung Th ký













Hà Nội, 2007

3
MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
6
Phần thứ nhất: CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC
TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG
10
I. Vị trí, vai trò của đội ngũ công chức tư pháp địa phương 10
1. Vị trí, vai trò của đội ngũ công chức tư pháp địa phương 10
2. Thực trạng năng lực của đội ngũ công chức tư pháp địa phương 14
II. Công tác đào tạo, bồi dưỡ
ng đội ngũ công chức tư pháp địa phương 20
1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng 21

2. Đặc điểm của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa
phương
24
Phần thứ hai: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ
CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG
33
I. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng 33
1. Công tác xây d
ựng quy hoạch, kế hoạch 33
2. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng 36
3. Chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng 36
4. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng 41
5. Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng 42
6. Giảng viên 42
7. Cơ sở vật chất, kỹ thuật 43
II. Đánh giá về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa
phương
44
1. Đánh giá 44
1.1. Nh
ững ưu điểm, kết quả 44
1.2. Những hạn chế 46
2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 50
Phần thứ ba: PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG
53
I. Mục tiêu và yêu cầu 53
1. Mục tiêu chung 53
2. Mục tiêu cụ thể 53
3. Yêu cầu 54

II. Giải pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡ
ng đội ngũ công chức tư pháp
địa phương
54
1. Hoàn thiện chính sách quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng 54

4
2. Đổi mới tổ chức bộ máy các cơ quan và bố trí, sử dụng hiệu quả đội ngũ
công chức tư pháp địa phương
56
3. Xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng 57
4. Đổi mới chương trình, nội dung, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng 58
5. Đa dạng hoá hình thức và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng 61
6. Xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ giảng viên 63
7. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác đào tạo, bồi dưỡng 65
III. Một số kiến nghị 65
KẾT LUẬN
73



CÁC CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Thực trạng năng lực và yêu cầu đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công
chức tư pháp địa phương
Trần Thu Hường - Vụ Tổ chức cán bộ
74
2. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa
phương
Vũ Văn Quý - Vụ Tổ chức cán bộ

91
3. Đổi mới, hoàn thiện chương trình, giáo trình và ph
ương pháp đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ công chức tư pháp địa phương
Vũ Thị Hường - Vụ Tổ chức cán bộ
110
4. Đổi mới công tác đào tạo Trung học pháp lý đối với cán bộ, công chức tư pháp địa
phương
Ths Phan Xuân Trường - Trường Đại học Luật Hà Nội
120
5. Phương hướng đổi mới quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chứ
c tư
pháp địa phương
TS Trần Quang Minh - Vụ Đào tạo, Bộ Nội vụ
132
6. Phương hướng đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức chuyên
môn, nghiệp vụ ở địa phương
TS Trần Quang Minh - Vụ Đào tạo, Bộ Nội vụ
158
7. Bồi dưỡng kỹ năng xây dựng, thẩm định và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
cho đội ngũ
cán bộ tư pháp địa phương - Thực trạng và phương hướng đổi mới
TS Lê Hồng Sơn - Cục Kiểm tra VBQPPL
167
8. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng thi hành án dân sự cho cán bộ, công chức
tư pháp địa phương - thực trạng và phương hướng đổi mới
Ths Nguyễn Thanh Thuỷ - Cục Thi hành án dân sự
178

5

9. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan tư pháp địa phương thông
qua đội ngũ cán bộ tư pháp
PGS - TS Nguyễn Tất Viễn - Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật
195
10. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và nghiệp vụ hành chính tư pháp cho cán bộ tư
pháp địa phương
TS Trần Thất - Vụ Hành chính tư pháp
207
11. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp tỉnh Hải D
ương - thực trạng và
phương hướng đổi mới
Đoàn Quang Định - Sở Tư pháp Hải Dương
216
12. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp ở thành phố Hải Phòng - thực trạng
và phương hướng đổi mới
TS Nguyễn Văn Thái - Sở Tư pháp Hải Phòng
221
13. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp ở thành phố Cần Thơ - Thực trạng
và phương hướ
ng đổi mới
Sở Tư pháp thành phố Cần Thơ
236
14. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp ở Hà Giang - Thực trạng và phương
hướng đổi mới
Sở Tư pháp Hà Giang
250
15. Đánh giá thực trạng năng lực công tác và phương hướng đổi mới công tác đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương
Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh
256

16. Công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp ở Vĩnh Long - Thực trạng và
phương hướng đổi mới
Sở Tư pháp Vĩnh Long
278
PHỤ LỤC
1. Thống kê các lớp đào tạo, bồi dưỡng dành cho đội ngũ công chức tư pháp địa
phương
290
2. Chương trình khung bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức Tư pháp - Hộ tịch xã,
phường, thị trấn
300
3. Báo cáo tổng hợp k
ết quả hội thảo về đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
công chức tư pháp địa phương
304
4. Tổng hợp tình hình thực hiện Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước giai đoạn
2001-2005
309



6
LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành, đội ngũ công chức các cơ quan tư
pháp địa phương bao gồm Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
(cấp tỉnh), Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (cấp

huyện), công chức Tư pháp - Hộ tịch (cấp xã) và các cơ quan thi hành án dân
sự cấp tỉnh, cấp huyện (sau đây gọi chung là công chứ
c tư pháp địa phương) đã
không ngừng được củng cố và kiện toàn. Hơn 20 vạn công chức tư pháp đã
giúp chính quyền các cấp quản lý nhà nước về công tác tư pháp, góp phần quan
trọng vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của địa phương, đồng thời bảo
đảm sự thống nhất quản lý công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở.
Trong giai đoạn xây d
ựng đất nước hiện nay, yêu cầu của công cuộc cải
cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong xu hướng hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế đã, đang
và sẽ tác động mạnh mẽ đến toàn bộ tổ chức và hoạt động tư pháp cùng những
yêu cầu mới và nhiệm vụ mới đặt ra cho ngành tư pháp, đặc biệt là các cơ
quan
tư pháp địa phương. Trong dòng chảy của đổi mới và cải cách, bên cạnh những
thuận lợi và thời cơ, đội ngũ công chức tư pháp địa phương đang bộc lộ những
hạn chế và bất cập. Thực trạng năng lực chuyên môn của nhiều công chức chưa
ngang tầm với yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra. Trình độ nghiệp vụ của một b

phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chức danh, khả năng tham mưu
tổ chức thực hiện pháp luật, tư vấn, giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra còn
hạn chế. Trình độ ngoại ngữ, tin học bất cập trước yêu cầu của nhiệm vụ được
giao. Mặt khác, nhiều công chức tư pháp công tác tại vùng đồng bào dân tộc ít
người l
ại không biết tiếng của dân tộc nơi công tác nên ảnh hưởng đến việc
triển khai các công tác tư pháp cơ sở như hoà giải, phổ biến giáo dục pháp
luật Trong bối cảnh đó, việc củng cố kiện toàn đội ngũ công chức tư pháp địa
phương đáp ứng với yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước đặt ra trong giai
đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng c
ủa các cấp chính quyền và các cơ quan

chuyên môn.
Những năm qua, để củng cố, kiện toàn đội ngũ công chức tư pháp địa
phương, công tác đào tạo, bồi dưỡng đã được đẩy mạnh, nhưng nhìn chung
chưa đáp ứng được với yêu cầu nâng cao chất lượng, năng lực, trình độ của đội

7
ngũ cán bộ. Thực tế, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vẫn bị coi là thứ yếu,
chi phí tốn kém mà chưa thực sự được coi là một giải pháp then chốt cho việc
nâng cao trình độ, năng lực cán bộ. Ở một số địa phương, công tác này còn
mang tính chất tình thế, chưa có quy hoạch, kế hoạch cụ thể. Nội dung, chương
trình đào tạo, bồi dưỡng dành cho cán bộ, công chức ch
ưa được xây dựng
thống nhất, có hệ thống và phù hợp với năng lực của cán bộ và đặc thù của từng
nơi, từng giai đoạn. Hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng chưa linh hoạt
và chậm được đổi mới. Thêm vào đó là khó khăn về thiếu giảng viên, thiếu
kinh phí và cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng.
Ngh
ị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị xác định
phương hướng cải cách tư pháp tới năm 2020 là “xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng nâng
cao và cụ thể hoá tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn
nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ”. Chiến
lượ
c cán bộ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà Nghị quyết Hội
nghị Trung ương lần thứ Ba (Khoá VIII) đã đề ra và chỉ rõ: học tập là quyền lợi
và nghĩa vụ của cán bộ, công chức, “mọi cán bộ, công chức phải có kế hoạch
thường xuyên học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn và năng
lực hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng đạ
o đức cách mạng”. Thể chế hoá và triển
khai thực hiện các chủ trương nói trên, chương trình cải cách tổng thể nền hành

chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 xác định mục tiêu đến năm 2010 “tuyệt
đại bộ phận cán bộ, công chức có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi hành công
vụ, tận tuỵ phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân”. Kế
hoạ
ch đào tạo, bồi dưỡng cho công tác hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2003
- 2010 ban hành kèm theo Quyết định số 137/2003/QĐ-TTg ngày 11/7/2003
của Thủ tướng Chính phủ xác định mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng là đến năm
2010 có đội ngũ những người làm công tác hội nhập kinh tế, quốc tế thông thạo
về nghiệp vụ, ngoại ngữ, am hiểu pháp luật quốc tế, đáp ứng
được với những
yêu cầu của hội nhập kinh tế, quốc tế.
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa, vai trò của công tác đào tạo bồi dưỡng trước
yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay, việc tăng cường
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung và đội ngũ công
chức tư pháp địa phương nói riêng được xác định là một nhi
ệm vụ trọng tâm
của Bộ Tư pháp, chính quyền và cơ quan tư pháp địa phương.

8
Thời gian qua, việc nghiên cứu đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ công chức tư pháp địa phương chưa được quan tâm đúng mức. Một số
công trình khoa học đã đề cập đến vấn đề này, nhưng phạm vi nghiên cứu
không toàn diện, đối tượng hạn chế như Đề tài khoa học cấp Bộ " Thực trạng
và mô hình đào tạo, bồi d
ưỡng cán bộ tư pháp cấp xã trong giai đoạn hiện
nay" năm 2002 của Viện Khoa học pháp lý, Đề tài khoa học cấp Bộ "Tổ chức
và hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện - Thực trạng và giải pháp kiện
toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động"
Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ công chức tư

pháp địa phương” là hết sức cần thiết nhằm góp phần tăng
cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương đáp
ứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá khái quát về đội ngũ cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ công chức tư pháp địa phương: nhữ
ng ưu điểm, kết quả đạt được, những
hạn chế, bất cập; tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, bất cập.
- Xác định được mục tiêu, định hướng và những giải pháp cơ bản để đổi
mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp địa phương đáp
ứng với yêu cầu thực hiện nhiệ
m vụ trong giai đoạn mới.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đội ngũ cán bộ công tác tại các cơ quan tư pháp địa phương đang đảm
nhận công việc khác nhau, trong đó có những nhiệm vụ công tác tư pháp và
những công việc hỗ trợ như kế toán, văn thư, thủ quỹ Tuy nhiên, đội ngũ
công chức tư pháp địa phương được xác định thuộc phạm vi nghiên cứu của đề
tài này là những cán bộ đang trực tiếp thực hiện những công việc liên quan đến
pháp luật, bao gồm:
- Đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân,
giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa
phương, bao gồm: Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức Tư pháp - Hộ
tịch.
- Đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan thi hành án địa phương gồm thi hành
án cấp tỉnh và thi hành án cấ
p huyện.

9
4. Nhu cầu kinh tế - xã hội và địa chỉ áp dụng
Việc nghiên cứu đề tài đã phục vụ có hiệu quả cho việc xây dựng các

chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp mà trực tiếp là tài liệu “Bồi
dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp huyện”, “Bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp xã”,
tài liệu bồi dưỡng dành cho cán bộ Tư pháp cấp xã các tỉnh Tây Nguyên và các
tỉ
nh khu vực miền núi phía Bắc.
Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn phục vụ cho việc xây dựng và thực
hiện Đề án Tổng rà soát đội ngũ cán bộ, công chức; Đề án Tăng cường năng
lực của cơ quan, công chức trực tiếp tham gia xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật thuộc Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao
chất lượng văn bản quy phạm pháp luật (ban hành kèm theo Quyết định s

909/QĐ-TTg ngày 14/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ); xây dựng Chỉ thị của
Bộ trưởng về tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với đội ngũ
công chức tư pháp địa phương.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và các
phương pháp nghiên cứu, tổng hợp, phân tích, so sánh, hệ thống, thống kê… để
từ đó làm rõ thực trạng, xác định mục tiêu, phương hướng và các giải pháp đổi
mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công
chức tư pháp địa phương.
6. Tổ chức thực hiện
Đề tài “Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp
địa phương” được tổ chức thực hiện bởi:
- Cơ quan chủ quản: Bộ Tư pháp;
- Cơ quan chủ trì: Viện Khoa học pháp lý;
- Chủ nhiệm: TS Trần Văn Quảng - Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ;
- Phó Chủ nhiệm: Vũ Văn Quý - Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ;
- Thư ký đề tài: Vũ Thị Hường - Vụ Tổ chức cán bộ
Trần Thu Hường - Vụ Tổ chức cán bộ
Nguyễn Thị Nhung - V

ụ Tổ chức cán bộ

10
Phần thứ nhất
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG

I/ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG
1. Vị trí, vai trò của đội ngũ công chức tư pháp địa phương
Với vai trò là người trực tiếp thực thi pháp luật, là nhân tố quyết định đến
chất lượng, hiệu quả hoạt động và uy tín của ngành tư pháp, đội ngũ công chức
của ngành Tư pháp nói chung và đội ngũ công chức tư pháp địa phương trong
hơn 60 năm xây dựng và phát triển đã đóng góp tích cực vào việc đưa chủ
trươ
ng, đường lối, chính sách của Đảng vào thực tiễn cuộc sống, góp phần thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị - xã hội của địa phương và bảo đảm sự
thống nhất quản lý của ngành Tư pháp từ trung ương tới cơ sở.
Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003,
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2005, Nghị định số 171/2004/NĐ-CP và
Nghị
định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ quy định tổ
chức các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban nhân
dân cấp huyện, Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ
quy định về cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và Nghị định số
121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ quy định về chế độ, chính
sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấ
n, Nghị định số
50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ quy định về cơ quan quản lý
thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công
tác thi hành án dân sự thì đội ngũ công chức tư pháp ở địa phương bao gồm:

- Đội ngũ công chức thuộc Sở Tư pháp cấp tỉnh;
- Đội ngũ công chức thuộc Phòng Tư pháp cấp huyện;
- Đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã;
- Độ
i ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện.
Là một bộ phận của chính quyền địa phương, đội ngũ công chức tư pháp
đã và đang đảm nhận một khối lượng công việc lớn và không ngừng gia tăng
trong các lĩnh vực xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, giúp chính quyền
các cấp thực hiện có hiệu quả việc quản lý xã hội bằng pháp luậ
t, góp phần giữ
gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

11
Đồng thời, để bảo đảm sự thống nhất quản lý công tác tư pháp từ trung ương
đến cơ sở, đội ngũ công chức tư pháp địa phương đang triển khai trên thực tế
các chủ trương, chính sách về công tác tư pháp trong các lĩnh vực xây dựng
pháp luật, phổ biến giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, hành chính tư pháp,
bổ trợ tư pháp…
Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ chiế
n lược xây dựng nhà nước pháp
quyền, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu quan trọng về xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới và cải cách đồng bộ tổ chức bộ máy nhà
nước trên cả ba mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp. Với chức năng, nhiệm vụ
của mình, đội ngũ công chức của ngành tư pháp đã không chỉ góp phần vào
việc thực hiện các nhiệm vụ hành pháp mà còn phục vụ cho việc thực hiện
chức năng lập pháp và tư pháp. Vai trò của đội ngũ công chức tư pháp địa
phương được thể hiện qua những nội dung sau:
Một là, tham gia vào quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
đáp ứng với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền.

Xây dựng nhà nước pháp quyền đòi hỏi trước hết phải có một hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh với vai trò tối thượng của các đạo luật. Với nhiệm vụ giúp
Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật, đội ngũ công chức thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức Tư
pháp - Hộ tịch ở cấp xã góp phần vào việc bảo đảm sự th
ống nhất, tính hợp
hiến, hợp pháp của các văn bản trong hệ thống pháp luật thông qua các hoạt
động sau:
- Thẩm định, cho ý kiến về mặt pháp lý đối với các dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân trong các lĩnh vực;
- Chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
trong lĩnh vực công tác tư pháp được phân công quản lý hoặc các l
ĩnh vực khác
do Uỷ ban nhân dân giao;
- Hướng dẫn rà soát, hệ thống hoá văn bản pháp luật trong các lĩnh vực;
- Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm
quyền theo quy định của pháp luật nhằm phát hiện và kịp thời khắc phục các
sai phạm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực.

12
Hai là, nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật qua công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật của các cơ quan tư pháp, nâng cao năng lực tiếp cận hệ thống
pháp luật, hệ thống tư pháp.
Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý xã hội, là công cụ thực hiện
quyền làm chủ và thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân. Để đáp ứng với
yêu cầu này, cùng với việc xây dựng, hoàn thiệ
n hệ thống pháp luật là việc phổ
biến, giáo dục pháp luật, nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của nhân dân
nhằm hướng tới mục tiêu pháp luật được thực hiện có hiệu quả, hiệu lực trong
cuộc sống. Từ đó nhân dân có thể tiếp cận với pháp luật, ứng xử thích hợp

trong khuôn khổ pháp luật, làm cho người dân từ biết, tuân thủ, thực hiện đến
giám sát việ
c thực hiện pháp luật.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong hoạt động thực thi
pháp luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Do đó, phổ biến,
giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của tất cả các cơ quan và công chức nhà nước,
trong đó các cơ quan và công chức tư pháp giữ một vai trò nòng cốt đưa pháp
luật vào cuộc sống, là cầu nối, mắt xích quan trọ
ng giữa Nhà nước và quần
chúng nhân dân trong việc nâng cao hiểu biết và ý thức pháp luật, hình thành
niềm tin và thói quen chấp hành pháp luật của công dân. Đội ngũ cán bộ này
không chỉ tham gia vào khâu tổ chức thực hiện thông qua hoạt động xây dựng
kế hoạch, làm đầu mối phối hợp và hướng dẫn các cơ quan, tổ chức có liên
quan thực hiện mà còn trực tiếp thực hiện các hoạt động tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật,
đặc biệt là ở cơ sở, thông qua các hình thức cụ thể như
tuyên truyền miệng, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, phương tiện thông
tin đại chúng, hoà giải…
Đồng thời, đội ngũ công chức tư pháp địa phương còn tham gia vào quá
trình trợ giúp, hỗ trợ các dịch vụ pháp lý cho những người nghèo và đối tượng
chính sách theo quy định của pháp luật thông qua các cơ quan trợ giúp pháp lý
của nhà nước; quản lý và đề xuất chính sách bảo
đảm cho sự phát triển của các
tổ chức tư vấn pháp luật và luật sư. Nhiệm vụ này góp phần vào việc bảo đảm
sự bình đẳng của người dân trong việc tiếp cận với pháp luật.
Ba là, bảo đảm thực thi pháp luật thông qua hoạt động thi hành án dân sự
và các hoạt động tư pháp khác.
Thi hành án dân sự là một hoạt động thể hiện quyền tư pháp của nhà nước.
Điều 136 Hi
ến pháp 1992 quy định “Các bản án và quyết định của Tòa án nhân


13
dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những
người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh thi hành”. Bản án, quyết định của
Toà án có được thi hành hay không liên quan trực tiếp đến tính nghiêm minh
của hệ thống pháp luật, chứng tỏ kỷ cương, phép nước được giữ vững. Đội ngũ
công chức của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện đang trực tiếp
tham gia vào việc thi hành án, bảo đảm cho bản án đã có hiệu lực pháp luật
được thi hành trên thực tế, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, cơ quan, tổ chức. Cùng với những cán bộ thuộc cơ quan thi hành án dân
sự, đội ngũ công chức của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp đang thực hiện nhiệ
m
vụ giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý công tác thi hành án dân sự trên địa
bàn với việc làm đầu mối để nâng cao hiệu quả phối hợp giữa cơ quan thi hành
án với các cơ quan có liên quan ở địa phương trong công tác thi hành án dân sự.
Đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch, theo sự hướng dẫn của cơ quan thi hành
án cấp trên còn tham gia trực tiếp vào việc thi hành các bản án có giá trị dưới
500.000 đồng. Thực tiễn cho thấy, bảo đảm bả
n án được thi hành nghiêm chỉnh
có ý nghĩa quyết định đến uy tín của ngành Tư pháp và niềm tin của người dân
với pháp luật, lẽ phải và công lý.
Đồng thời, đội ngũ công chức tư pháp địa phương còn là những người trực
tiếp thực thi các quy định của pháp luật về công tác tư pháp trong các lĩnh vực
công chứng, chứng thực, đăng ký hộ tịch, qua đó bảo đảm quyền và lợi ích
chính đáng củ
a công dân, của tổ chức và cá nhân cũng như góp phần thúc đẩy
sự phát triển lành mạnh của các quan hệ dân sự, kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, tham gia tích cực vào quá trình quản lý nhà nước bằng pháp luật

của chính quyền địa phương.
Vai trò của các công chức tư pháp địa phương được thể hiện bằng việc
tham mưu, tư vấn các vấn
đề pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền ở địa
phương đưa ra các quyết sách phù hợp trong các lĩnh vực; thực hiện nhiệm vụ
quản lý và đăng ký hộ tịch, thực hiện những nội dung về quản lý quốc tịch, lý
lịch tư pháp… đối với dân cư trên địa bàn; là thành viên của các Hội đồng tư
vấn, Hội đồng phối hợp công tác của địa phương. Với các nhiệ
m vụ cụ thể của
mình về quản lý công tác tư pháp trên địa bàn, đội ngũ công chức tư pháp địa
phương đang tham gia tích cực vào quá trình quản lý nhà nước bằng pháp luật

14
của chính quyền địa phương, đáp ứng với yêu cầu cải cách hành chính, đổi mới
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Hiến pháp 1992 khẳng định “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Để quản lý xã hội bằng
pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì việc
tổ
chức thực hiện có hiệu quả pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống thực tiễn là
hết sức quan trọng. Việc xác định nhiệm vụ, chức trách của đội ngũ công chức
tư pháp địa phương trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng
cao năng lực tiếp cận pháp luật của nhân dân và bảo đảm hiệu lực, tính nghiêm
minh của pháp luật có một ý nghĩa hết s
ức quan trọng, khẳng định vị trí, vai trò
của đội ngũ công chức tư pháp địa phương trong quá trình cải cách hành chính,
cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng thời, điều này cũng đòi hỏi phải tiếp tục kiện toàn đội ngũ công chức tư
pháp địa phương cả về số lượng, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, rèn
luyệ

n đạo đức, phẩm chất và bản lĩnh chính trị nhằm đáp ứng với yêu cầu xây
dựng đội ngũ công chức tư pháp trong sạch, vững mạnh, hiện đại và chuyên
nghiệp theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 18/5/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
2. Thực trạng năng lực của đội ngũ công chức tư pháp địa phương
2.1. Đội ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện
Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án dân sự đã
có bước phát triển mạnh về số lượng. Tính đến tháng 6/2006, các cơ quan thi
hành án dân sự địa phương đã có 6.823 cán bộ
, trong đó có 2.274 chấp hành
viên (không kể số chấp hành viên trong quân đội), gồm có 342 chấp hành viên
cấp tỉnh và 1.932 chấp hành viên cấp huyện. So với thời điểm 6/2005 thì số
lượng cán bộ của cơ quan thi hành án dân sự đã tăng 11,9% (714 người), số
lượng chấp hành viên tăng 4,6% (15người)
1
. Phần lớn số cán bộ được bổ nhiệm
chấp hành viên đều bảo đảm tiêu chuẩn, có trình độ Đại học Luật hoặc tương
đương.


1
Nếu so sánh với thời điểm tháng 12/2002 thì số lượng cán bộ của cơ quan thi hành dán dân sự địa phương đã
tăng hơn 50%; số lượng chấp hành viên tăng 9,3%. Nếu so sánh với 700 chấp hành viên lúc chuyển giao công
tác thi hành án dân sự sang Bộ Tư pháp quản lý thời điểm năm 1993 thì số lượng châp shành viên đã tăng 1574
người (gấp hơn 2 lần).

15
- Về trình độ: Trong tổng số 6.823 cán bộ thuộc cơ quan thi hành án thì

74,5% cán bộ có trình độ Đại học và tương được trở lên (5.286 người), 15,9%
cán bộ có trình độ Cao đẳng và Trung cấp nói chung (1.087 người). Số cán bộ
có trình độ sơ cấp Luật chỉ chiếm tỷ lệ 6,2%, tập trung chủ yếu ở các đơn vị
miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thi hành án dân sự đã
được quan tâm. Hàng nă
m, đội ngũ chấp hành viên trưởng, chấp hành viên mới
được bổ nhiệm đã được tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án.
Năm 2002, trường Đào tạo các chức danh tư pháp (nay là Học viện Tư pháp) tổ
chức khai giảng khoá đào tạo nghiệp vụ chấp hành viên đầu tiên với hơn 100
công chức có trình độ cử nhân luật, thuộc diện bổ nhiệm nguồn chấp hành viên.
Đến nay, Học việ
n Tư pháp đã đào tạo được hơn 1.041 công chức. Kết quả này
đã giúp cho cán bộ các cơ quan thi hành án hoàn thành tốt hơn các nhiệm vụ
được giao.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án dân sự có nhiều cán bộ trẻ, năng
động, với 65% cán bộ có độ tuổi dưới 30 và 34% cán bộ có độ tuổi từ 30 đến
50 tuổi. Chỉ có 1% cán bộ trên 50 tuổi. Điều này là thuận lợi lớn cho việc quy
hoạch, đào tạ
o, bồi dưỡng cán bộ thi hành án dân sự địa phương.
- Năm 2002, Bộ Tư pháp đã ban hành chuẩn mực đạo đức Chấp hành viên
của các cơ quan thi hành án dân sự. Cho đến nay, chuẩn mực đạo đức chấp
hành viên đã được phổ biến, triển khai đến từng chấp hành viên các cơ quan thi
hành án trong toàn quốc. Phần lớn đội ngũ chấp hành viên đã tự ý thức được vị
trí, vai trò của mình, tích cực tu dưỡng, rèn luyệ
n về tư tưởng, đạo đức, lối
sống, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của đảng , pháp luật của
nhà nước, tuân thủ những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, có ý thức tổ chức
kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm trong công tác, tận tuỵ với nhân dân, thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Mặc dù trình độ chuyên môn của
đội ngũ chấp hành viên đã từng bước
được nâng lên, nhưng kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm, năng lực thực tiễn của
đội ngũ chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án vẫn còn bộc lộ
nhiều hạn chế trước tính chất phức tạp ngày càng gia tăng của công tác thi hành
án, đặc biệt là các vụ án kinh tế lớn, có phạm vi và đối tượng thi hành án rộng,
liên quan đến nhiều lĩnh vực.

16
Một bộ phận chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án còn thiếu
tận tụy, có những biểu hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ như tham ô, nhận hối lộ, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho đương
sự (gợi ý xin tiền bồi dưỡng, tự định ra thời hạn thi hành án trái pháp luật, tiếp
xúc với đương sự tại nhà riêng…) làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với
pháp luật và các cơ
quan thực thi pháp luật. Từ năm 1993 đến năm 2002, Bộ
Tư pháp đã xử lý 493 trường hợp Chấp hành viên và cán bộ thi hành án vi
phạm kỷ luật. Thực tế này đòi hỏi bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thì cần thiết phải có biện pháp bồi dưỡng, giáo
dục, nâng cao bản lĩnh và ý thức trách nhiệm đối với đội ngũ cán bộ cơ quan thi
hành án dân sự
.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên trong một thời gian
dài chưa được thực hiện thường xuyên và có nền nếp. Hàng năm, mới chỉ được
thực hiện với đội ngũ chấp hành viên trưởng và những chấp hành viên mới
được bổ nhiệm. Các đối tượng khác thì giao lại cho Trưởng thi hành án cấp tỉnh
tổ chức tập huấn tại địa phương. Do vậy, có lúc, có nơi, m
ột số địa phương,
công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa được chú trọng, có địa phương trong gần 10
năm chỉ tổ chức tập huấn nghiệp vụ được 01 lần cho Chấp hành viên và cán bộ

làm công tác thi hành án dân sự địa phương. Chất lượng, hiệu quả tập huấn
thấp và không đồng đều. Nhiều chấp hành viên sau khi được bổ nhiệm còn gặp
nhiều lúng túng trong việc thực hiện các k
ỹ năng nghiệp vụ cơ bản của hoạt
động thi hành án, vận dụng các quy định của pháp luật trong từng vụ việc thi
hành án dân sự cụ thể, việc phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tổ
chức cưỡng chế thi hành án…
2.2. Tình hình đội ngũ công chức tư pháp thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư
pháp và công chức Tư pháp - Hộ tịch
Kết quả tổng rà soát đội ngũ cán b
ộ tư pháp cho thấy, trong 7 năm (từ năm
1996 đến năm 2004), đội ngũ công chức Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp đã tăng
40%. Đặc biệt là sau khi Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV được ban
hành, đội ngũ công chức tư pháp địa phương đã được quan tâm củng cố, kiện
toàn, bổ sung thêm cán bộ để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao (trong
đó có các nhiệm vụ mới được bổ
sung và có nhiều nhiệm vụ gia tăng về khối
lượng công việc). Đến nay, đội ngũ công chức thuộc Sở Tư pháp (bao gồm cả
công chứng viên) và Phòng Tư pháp đã tăng 24,4% so với năm 2002.

17
Riêng đối với đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã, sau khi Nghị
định số 114/2003/NĐ-CP, Nghị định số 121/2003/NĐ-CP và Thông tư liên tịch
số 04/2005/TTLT-TP-NV được ban hành, các địa phương đã quan tâm kiện
toàn, bố trí tối thiểu 01 công chức/ cấp xã để đảm nhận nhiệm vụ giúp Uỷ ban
nhân dân cấp xã quản lý công tác tư pháp. Theo số liệu báo cáo của 45 tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, tính
đến đầu năm 2006, đội ngũ công chức Tư
pháp - Hộ tịch đã là 7.197 người, tăng 6,4% so với trước khi Thông tư liên tịch
số 04/2005/TTLT-TP-NV được ban hành). 653 cấp xã đã bố trí được 02 cán bộ

đảm nhận công tác Tư pháp - Hộ tịch. Việc tăng cường về số lượng đã giúp cho
đội ngũ công chức tư pháp địa phương hoàn thành các nhiệm vụ được giao,
khẳng định vị trí, vai trò của mình trong bộ máy nhà n
ước nói chung và trong tổ
chức chính quyền địa phương nói riêng.
- Trình độ cán bộ từng bước được nâng cao trên các mặt chuyên môn
nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ, từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ có tính
chuyên môn hoá và chuyên nghiệp.
Trong những năm qua, nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ đã được thực hiện như tuyển dụng những người có đủ điều kiện, tiêu
chuẩn, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức… Nhờ đó, đội
ngũ công chức các cơ quan tư pháp địa phương đã có sự thay đổi quan trọng,
từng bước đáp ứng tiêu chuẩn chức danh cũng như yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
Nếu như năm 1996, khoảng 50% đội ngũ cán bộ, công chức của Sở Tư pháp và
30-35% cán bộ, công chức Phòng Tư pháp có trình
độ đại học, cao đẳng luật,
thì đến năm 2004, tỷ lệ này tăng lên là 67,4% đối với Sở Tư pháp và 59,7% đối
với Phòng Tư pháp. Đối với đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã, nếu
như năm 2000, tỷ lệ cán bộ có trình độ chuyên môn từ Trung học (bao gồm tất
cả các chuyên ngành) trở lên là 31%, trong đó có 18,3% cán bộ có trình độ
chuyên môn Luật từ Trung học trở lên thì đến
đầu năm 2006, tỷ lệ này đã là
67,6% và 57%. Số lượng cán bộ cấp xã đã qua bồi dưỡng nghiệp vụ đạt 81,9%.
Công tác đào tạo tin học, ngoại ngữ được quan tâm. Đến nay, đa số các công
chức của Sở Tư pháp đã qua đào tạo tin học và có thể khai thác, sử dụng máy
tính trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
- Phần lớn đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành v
ới
Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, trong sạch, lành mạnh, có năng lực chuyên
môn, ý thức tinh thần trách nhiệm để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được

giao.

18
- Đội ngũ cán bộ trong ngành có nhiều cán bộ, công chức trẻ, được đào tạo
cơ bản, năng động, sáng tạo, bảo đảm sự kế thừa giữa các thế hệ. Những năm
vừa qua, để từng bước khắc phục tình trạng thiếu cán bộ, hẫng hụt giữa các thế
hệ cán bộ, công chức, các cơ quan tư pháp địa phương đã tổ chứ
c tuyển dụng
thêm nhiều cán bộ, công chức, chủ yếu là cán bộ, công chức trẻ, có trình độ
chuyên môn từ cử nhân Luật trở lên. Theo số liệu khảo sát thực trạng đội ngũ
cán bộ thì 52% cán bộ của Sở Tư pháp có độ tuổi từ 40 trở xuống. Kết quả
đánh giá cán bộ đối với đội ngũ cán bộ trẻ này cũng cho thấy đây là lực lượng
có nhiều ch
ủ động, sáng tạo trong quá trình tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
được giao.
Bên cạnh những ưu điểm, tính tích cực, đội ngũ công chức tư pháp địa
phương cũng bộc lộ những hạn chế như sau:
Đội ngũ công chức vẫn còn thiếu về số lượng. Biên chế của các cơ quan tư
pháp địa phương vẫn chưa đáp ứng được với yêu c
ầu nhiệm vụ mặc dù trong
quá trình kiện toàn đã được quan tâm, bổ sung biên chế. Số lượng công chức tư
pháp được tăng lên chủ yếu là để bổ sung cho các tỉnh, thành phố mới được
thành lập. Số liệu tổng hợp từ 47 tỉnh cho thấy số lượng đơn vị của Sở tăng lên
10,1% nhưng số lượng cán bộ của Sở chỉ tăng thêm 5,1%, do đó số lượ
ng cán
bộ trung bình của 1 đơn vị (phòng và tương đương) trực thuộc Sở giảm từ 5,16
cán bộ/1đơn vị còn 4,8 cán bộ/đơn vị. Một số địa phương, mặc dù đã được kiện
toàn tổ chức nhưng việc giao biên chế lại không thực hiện được. Do đó, một số
địa phương, cán bộ tư pháp từ cấp tỉnh đến cấp xã luôn trong tình trạng quá tải
công vi

ệc và khó có thể tham gia các khoá đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ dài hạn.
Chất lượng đội ngũ cán bộ chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, đặc biệt
là đội ngũ cán bộ Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã với hơn 30% cán bộ chưa có trình
độ Trung học Luật. Cá biệt có thời điểm (có sự thay đổi nhân sự theo nhiệm kỳ
của Hộ
i đồng nhân dân), số lượng công chức Tư pháp - Hộ tịch có trình độ đạt
tiêu chuẩn chỉ đạt tỷ lệ 50%, có tỉnh chỉ ở mức 30% . Đội ngũ cán bộ tư pháp
tuy được đào tạo cơ bản, nhưng việc bồi dưỡng, cập nhật kiến thức và bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ chưa được thực hiện thường xuyên, kịp thời nên
đã ảnh hưở
ng một phần đến chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ được
giao. Cán bộ Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã thường không ổn định và chưa đáp
ứng được với yêu cầu nhiệm vụ. Thực tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ Tư
pháp - Hộ tịch sau khi được Sở Tư pháp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực

19
thì số cán bộ này lại được điều sang nhận công tác khác. Cán bộ thay thế một
phần không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, một phần không có kinh nghiệm làm
công tác tư pháp nên gây khó khăn không nhỏ đối với hoạt động tư pháp, khó
khăn trong công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp.
Sau một thời gian không ổn định về tổ chức, đến nay, Phòng Tư pháp cấp
huyện đ
ã được thành lập lại và củng cố tổ chức, kiện toàn đội ngũ cán bộ. Tuy
nhiên, thực tế ở các Phòng Tư pháp cấp huyện mới được thành lập lại có tình
trạng cán bộ thiếu kinh nghiệm, thực tiễn công tác, chưa được bồi dưỡng
nghiệp vụ tư pháp, cá biệt còn có trường hợp chưa đáp ứng được tiêu chuẩn
chức danh. Bên cạnh đó, do tổ chức Phòng Tư pháp không
ổn định nên đội ngũ
cán bộ tư pháp cấp huyện không được quan tâm đầu tư thoả đáng, trong đó có

nâng cao năng lực, trình độ. Mặc dù là cấp trung gian triển khai công tác tư
pháp từ cấp tỉnh đến cấp xã nhưng đội ngũ cán bộ này chưa có đủ năng lực và
kỹ năng tổ chức thực hiện công việc tư pháp trong phạm vi cấp huyện cũng như
chỉ
đạo, hướng dẫn, giải quyết các vướng mắc về chuyên môn, nghiệp vụ tư
pháp cấp xã.
* Tình hình đội ngũ công chứng viên
- Trong những năm qua, đội ngũ công chứng viên đã từng bước được tăng
cường. Tính đến tháng 6/2006, tổng số công chứng viên là 396 người, được
phân bổ cho 125 Phòng Công chứng trên toàn quốc, tăng 46% (125 người) so
với năm 2003. Ngoài ra, các Phòng Công chứng còn có các chuyên viên nghiệp
vụ, nhân viên khác, nhân viên hợp đồng lên tới gần 800 người,
đây là nguồn
cán bộ quan trọng để đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung cho đội ngũ công chứng viên
khi cần thiết.
- Nhìn chung, đội ngũ công chứng viên có trình độ đáp ứng đủ điều kiện,
tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và các yêu cầu công việc đặt ra. 100% đội
ngũ công chứng viên có trình độ Đại học Lụât và tương đương trở lên, trong
đó, số có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ chi
ếm 3,6% (14 người), Đại học chính quy
chiếm 42,9% (170người). Đa số các công chứng viên đã có trình độ trung cấp
lý luận chính trị trở lên, trong đó 14,1% có trình độ cao cấp và cử nhân. 196
người đã qua lớp đào tạo nghề công chứng viên.
- Đội ngũ công chứng viên trong cả nước về cơ bản có đạo đức tốt, có lối
sống lành mạnh, có ý thức tổ chức kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm cao trong
công tác, có nă
ng lực, trình độ và tận tâm phục vụ nhân dân. Trong những năm

20
qua, tiêu chuẩn bổ nhiệm đội ngũ công chứng viên được quy định chặt chẽ

nhằm xây dựng đội ngũ công chứng viên có đầy đủ năng lực, giỏi về chuyên
môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt, vô tư, khách quan, tận tuỵ với công
việc.
Để tạo nguồn cán bộ, bổ sung cho đội ngũ công chứng viên, trong thời
gian qua, 6 lớp đào tạo công chứng viên đã
được tổ chức với sự tham gia của
300 người, đa số là các chuyên viên nghiệp vụ Phòng Công chứng, ngoài ra, có
một số người đang công tác trong ngành tư pháp được Sở Tư pháp cho đi học
lớp đào tạo công chứng viên để tạo nguồn.
Hạn chế của đội ngũ công chứng viên đó là một tỷ lệ không nhỏ công
chứng viên có bằng Đại học hệ chuyên tu, tại chức (212 người - chi
ếm 53,5%).
Đây là vấn đề cần lưu ý khi thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng nhằm khắc phục
những tồn tại hạn chế của loại hình đào tạo, chú trọng kịp thời đến việc bổ
sung, cập nhật các kiến thức cần thiết cho cán bộ.
Công chứng viên là một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ cần phải được
khuyến khích công tác lâu dài, ổn đị
nh, nhưng một số Sở Tư pháp đã đặt vấn đề
chuyển công chứng viên sang làm công việc khác, ảnh hưởng đến hoạt động
chuyên môn và khó khăn trong việc thực hiện quy hoạch, đào tạo nghề cho cán
bộ nguồn và bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ.
II/ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƯ PHÁP
ĐỊA PHƯƠNG
Đào tạo và bồi dưỡng là hai khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong
đời sống xã hội, có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành và phát triển nguồn
nhân lực - nguồn tài nguyên quý của quốc gia. Xuất phát từ quan điểm coi cán
bộ là nhân tố hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của cách
mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng và của nhà nước. Ch
ủ tịch Hồ Chí Minh
nêu rõ “kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm

nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài
càng ngày càng phát triển thêm càng nhiều”
2
và do đó “huấn luyện cán bộ là
công việc gốc của Đảng”
3
. Từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, yêu
cầu đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng với yêu
cầu chuyển đổi cơ chế quản lý càng trở nên cấp bách. Nghị quyết Hội nghị
Trung ương lần thứ Tám (Khoá VII) đã đề ra mục tiêu cải cách nền hành chính


2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t4 tr99.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t5, tr269.

21
nhà nước, trong đó vấn đề đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Đặc biệt, Chiến lược cán bộ thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương
lần thứ Ba (Khoá VIII) đã đề ra và chỉ rõ: học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của
cán b
ộ, công chức, “mọi cán bộ, công chức phải có kế hoạch thường xuyên học
tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn và năng lực hoạt động thực
tiễn, bồi dưỡng đạo đức cách mạng”. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện chủ
trương đổi mới đất nước và đẩy mạnh hội nhập kinh tế, quốc tế, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ
X đã tiếp tục xác định “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ”
4
.
1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng
1.1. Khái niệm đào tạo
Đào tạo được hiểu là “việc dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người có hiểu biết,
có nghề nghiệp”
5
hoặc là “làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu
chuẩn nhất định”
6
. Đào tạo còn được hiểu là “một quá trình truyền thụ kiến
thức mới để cán bộ được thông qua đào tạo có văn bằng cao hơn trình độ trước
đó”
7
.
Theo các định nghĩa nói trên, có thể hiểu đào tạo là một quá trình truyền
thụ kiến thức mới để người được đào tạo lĩnh hội, nắm vững tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo một cách có hệ thống, theo một quy trình nhất định nhằm chuẩn bị cho
người đó thích nghi với cuộc sống, có khả năng nhận sự phân công lao động
nhất định, góp phầ
n vào việc phát triển xã hội. Đào tạo góp phần làm biến đổi
hành vi của con người một cách có hệ thống thông qua hoạt động giảng dạy
nhằm cung cấp, chuyển giao một khối lượng kiến thức nhất định, các giá trị văn
hoá, chuẩn mực xã hội cho người được đào tạo. Đó cũng là quá trình học tập
của con người để có kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng làm vi
ệc trong một lĩnh
vực nhất định.
Đặc điểm cơ bản của đào tạo đó là:
- Quá trình học tập có hệ thống. Đào tạo được tổ chức theo một quy trình cụ

thể, với những bước đi, thời gian thích hợp, có nội dung, chương trình và yêu
cầu đặt ra đối với giảng viên, học viên theo từng giai đoạn, được đánh giá qua


4
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, 2006, tr94,95
5
Đại từ điển tiếng Việt, Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin, 1998, tr 593
6
Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Năng và Trung tâm Từ điển học, 5/2000, tr289.
7
Đề tài “Thực trang và mô hình đào tạo cán bộ tư pháp cấp xã trong giai đoạn hiện nay”, Bộ Tư pháp, 2001,
tr12

22
các bài giảng, sự tiếp thu, các bài kiểm tra, thi tốt nghiệp… Các yếu tố trong quá
trình đào tạo tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất.
- Tạo sự biến đổi về chất sau quá trình học tập. Đào tạo không những giúp
cho người học nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng với yêu cầu đặt ra mà còn
trang bị những phương pháp, kỹ năng tạo nền móng
để cán bộ tiếp tục tiếp thu,
vận dụng những kiến thức hướng tới việc tạo ra những tri thức mới, đáp ứng
yêu cầu ngày càng tăng của nhân loại.
1.2. Khái niệm bồi dưỡng
Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt
Nam thì bồi dưỡng được hiểu là “làm cho tốt hơn, giỏi hơn”
8
. Còn theo Từ điển
Tiếng Việt thì “bồi dưỡng là làm tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất”
9

.
Như vậy có thể hiểu bồi dưỡng là quá trình học tập nâng cao trình độ hiểu
biết, tư cách đạo đức, phẩm chất chính trị của người được bồi dưỡng. Bồi
dưỡng nhằm mục đích bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ
năng nghề nghiệp trên cơ sở kiến thức đã được đào tạo bồi dưỡng trước đó.
Đi
ểm khác biệt giữa bồi dưỡng với đào tạo là bồi dưỡng chưa tạo được
bước ngoặt căn bản về trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của đối tượng được bồi
dưỡng. Tuy nhiên, bồi dưỡng thường đáp ứng được ngay yêu cầu cập nhật kiến
thức mới, bổ sung tri thức làm cho người được bồi dưỡng có thể tiếp c
ận và vận
dụng kịp thời vào thực tiễn để thực thi có hiệu quả nhiệm vụ được giao.
1.3. Các yếu tố cấu thành của “đào tạo, bồi dưỡng”
- Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng là người cần trang bị hoặc nâng cao năng
lực, trình độ. Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng giữ vai trò trung tâm để các cơ quan
quản lý và thực hiện đào t
ạo xác định mục tiêu, nội dung, chương trình cũng như
áp dụng các phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp.
- Nội dung đào tạo, bồi dưỡng là những kiến thức, kỹ năng được truyền tải
đến cho đối tượng đào tạo, bồi dưỡng. Nội dung được thể hiện cụ thể trong kế
hoạch đào tạo, chương trình đào tạo, giáo trình, giáo án và các tài liệu gi
ảng
dạy khác.
- Hình thức đào tạo, bồi dưỡng là cách thức tổ chức tiến hành đào tạo, bồi
dưỡng, có thể diễn ra dưới hình thức tập trung, chính quy, tại chức, từ xa…


8
Đại từ điển tiếng Việt, Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin, 1998, tr 191
9

Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Năng và Trung tâm Từ điển học, 5/2000, tr82

23
- Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng là hệ thống gồm một hay nhiều quy tắc
được áp dụng có tác dụng hướng dẫn một loại hình hoạt động cụ thể nào đó để
đạt được mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng.
- Đội ngũ giảng viên là những người vận dụng các hình thức, phương pháp
đào tạo, bồi dưỡng để truyền tải các nội dung đ
ào tạo, bồi dưỡng đến các đối
tượng đào tạo, bồi dưỡng nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật của đào tạo, bồi dưỡng là các điều kiện để tiến
hành đào tạo, bồi dưỡng như địa điểm, trang thiết bị, giáo cụ, các nguồn lực tài
chính…
Các yếu tố trên có mố
i liên hệ mật thiết với nhau, làm điều kiện và chi
phối lẫn nhau. Do đó, khi nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi
dưỡng thì cần thiết phải xem xét đầy đủ đến các yếu tố này, trong đó, đối tượng
đào tạo, bồi dưỡng đóng vai trò trung tâm và hướng tới mục tiêu đào tạo, bồi
dưỡng. Giữa mục tiêu và đối tượng đào tạo, bồi dưỡ
ng có mối quan hệ tác động
qua lại với nhau. Đối tượng được lựa chọn, xác định trên cơ sở mục tiêu. Mục
tiêu có đạt được hay không phụ thuộc vào lựa chọn đúng đối tượng, ngoài ra,
mục tiêu cũng được xác định trên cơ sở yêu cầu công việc, loại hình, cấp đào
tạo, bồi dưỡng…














Mục
tiêu
Đối
tượng
Hình
thức
Nội
dun
g

Cơ sở
VC-KT
Người
dạy
Phương
pháp

24
2. Đặc điểm của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư
pháp địa phương
Với ý nghĩa là quá trình nâng cao trình độ, năng lực hiểu biết, bổ sung
kiến thức cho người được đào tạo, bồi dưỡng là đội ngũ công chức thì đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương có những đặc điểm nh

ư sau:
2.1. Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng là những công chức không đồng đều
về năng lực và trình độ, đang đảm nhận các vị trí công tác có yêu cầu nhiệm
vụ và thuộc các cấp hành chính với cơ chế quản lý khác nhau
Đội ngũ công chức tư pháp địa phương được xác định bao gồm:
- Đội ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự (cấp tỉnh và cấp huyện);
- Đội ngũ công ch
ức thuộc cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân
quản lý nhà nước về công tác tư pháp: Sở Tư pháp cấp tỉnh và Phòng Tư pháp
cấp huyện;
- Đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã.
Đây là những người được tuyển dụng giữ một chức vụ, hoặc công vụ
thường xuyên trong các cơ quan tư pháp địa phương, được xếp các ngạch công
chức khác nhau, hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu s

nghiệp theo quy định của pháp luật. Do đó, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng gắn
với cương vị, vị trí công tác trong ngành Tư pháp với những đặc thù sau:
Một là, đội ngũ công chức ngành Tư pháp thuộc nhiều cơ quan ở các cấp
hành chính với cơ chế quản lý khác nhau.
Cơ chế hoạt động và quản lý đối với đội ngũ công chức tư pháp địa
phươ
ng được thực hiện theo Pháp lệnh cán bộ, công chức, Pháp lệnh Thi hành
án dân sự, Nghị định số 171/2004/NĐ-CP, Nghị định số 172/2004/NĐ-CP,
Nghị định số 114/2003/NĐ-CP, Nghị định số 121/2003/NĐ-CP, Nghị định số
50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ về cơ quan quản lý thi hành án
dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành
án dân sự và các văn bản khác có liên quan. Cơ chế hoạt động và quản lý đối
v
ới đội ngũ công chức tư pháp địa phương được phân biệt như sau:
- Đội ngũ công chức tư pháp thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công

chức Tư pháp - Hộ tịch là một bộ phận của đội ngũ công chức thuộc Uỷ ban
nhân dân cùng cấp. Theo đó, biên chế, chế độ, chính sách cán bộ do Uỷ ban
nhân dân cùng cấp quản lý và thực hiện theo quy định của pháp luật. Bộ Tư

×