Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính ở doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài ngành viễn thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.14 KB, 107 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “ Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính ở doanh
nghiệp liên doanh với nước ngoài ngành viễn thông (Lấy ví dụ tại Công ty
TNHH Các Hệ thống Viễn thông VNPT-FUJITSU)” là do bản thân tôi nghiên
cứu, sưu tầm tài liệu và xây dựng với sự hướng dẫn của Thầy hướng dẫn.
Tôi xin cam đoan và chịu toàn bộ trách nhiệm về tính trung thực cũng như sự
hợp pháp của vấn đề nghiên cứu.
Ký tên
Ngô Mai Chi
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- CBCNV : Cán bộ công nhân viên
- CNH-HĐH : Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa
- DN : Doanh nghiệp
- DNLD : Doanh nghiệp liên doanh
- ĐTNN : Đầu tư nước ngoài
- FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
- NVL : Nguyên vật liệu
- SXKD : Sản xuất kinh doanh
- TCT : Tổng công ty
- TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
- TSCĐ : Tài sản cố định
- UBND : Ủy ban nhân dân
- VFT : Công ty trách TNHH các hệ thống viễn thông VNPT-FUJITSU
- VNPT : Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam
- VT-CNTT : Viễn thông- Công nghệ thông tin
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
BẢNG


Bảng 2.1 : Tỷ lệ vốn góp của các bên liên doanh trong Công ty VFT Error:
Reference source not found
Bảng 2.2 : Vốn chủ sở hữu của Công ty VFT từ năm 2008-2010 Error:
Reference source not found
Bảng 2.3: Chi phí SXKD theo yếu tố của Công ty VFT từ năm 2006-2010
Error: Reference source not found
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 : Doanh thu của Công ty VFT từ năm 2006-2010 Error: Reference
source not found
Biểu đồ 2.2: Chi phí của Công ty VFT từ năm 2006-2010 Error: Reference source
not found
Biểu đồ 2.3: Lợi nhuận sau thuế của Công ty VFT từ năm 2006-2010 Error:
Reference source not found
SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành, các hình
thức đầu tư nước ngoài và liên doanh với nước ngoài đã được quan tâm phát
triển. Đó là nguồn vốn quan trọng cho sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại
hoá nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và nâng cao tay nghề cho người
lao động, nâng cao trình độ kỹ thuật- công nghệ cho đất nước. Tuy nhiên , bên
cạnh những thành tựu đạt được quá trinh phát triển các doanh nghiệp liên
doanh có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tồn tại một số vấn đề như : số lượng dự
án có vốn đầu tư nước ngoài mặc dù có nhiều nhưng hoạt động có hiệu quả
không nhiều, không ổn định, tác động của các doanh nghiệp liên doanh đối
với chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đạt được định hướng như mong muốn.
Chúng ta chưa khai thác có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên cơ sở
những lợi thế của đất nước Việt nam…
Từ đó đặt ra nhiều vấn đề quản lý kinh tế vĩ mô và vi mô, đặc biệt là lĩnh

vực quản lý tài chính ở doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài.
Có thể thấy rõ một nguyên nhân căn bản và ảnh hưởng trực tiếp đến
những tồn tại trên là những bất cập và yếu kém về quản lý tài chính trong
doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Nhiều vấn đề cấp thiết đặt ra như :
làm thế nào để xác định đúng nhu cầu vốn và tổ chức huy động vốn đáp ứng
kịp thời đầy đủ nhu cầu vốn cho các hoạt động của doanh nghiệp, làm thế nào
sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các nguồn thu chi và
bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp, thực hiện phân phối lợi
nhuận, nộp thuế cho nhà nước, trích lập và sử dụng các quỹ như thế nào cho
hợp lý….
1
Nhằm góp phần nhỏ bé và giải quyết những vấn đề cấp bách trên, với
tư cách là kế toán trưởng của một công ty liên doanh, tôi mạnh dạn chọn đề
tài sau làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ kinh tế là :
“ Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính ở doanh nghiệp liên doanh với
nước ngoài ngành viễn thông (Lấy ví dụ tại Công ty TNHH các hệ thống viễn
thông VNPT-FUJITSU)”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính ở doanh nghiệp đã có một
số đề tài nghiên cứu cụ thể như:
- Hoàn thiện cơ chế quản ly tài sản cố định tại Công ty Thông tin di
động VMS- Luận văn Thạc sỹ Nguyễn Hữu Hiếu
- Đổi mới cơ chế quản lý tài chính của Tổng công ty xây dựng công
trình giao thông 8 theo mô hình Công ty mẹ- Công ty con- Luận văn Thạc sỹ
Trần Vĩnh Hưng
- Hoàn thiện cơ chế quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục ở
Tỉnh Nghệ An- Luận văn Thạc sỹ Hồ Thị Xuân
- Hoàn thiện cơ chế quản lý vốn của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông
Việt Nam- Luận văn thạc sỹ.
- Đổi mới cơ chế tài chính tại Tổng công ty quản lý bay Việt Nam theo

mô hình công ty mẹ- công ty con Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thế Quang Trung.
- Tiến sỹ Mai Văn Bảo, “ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước”- Tạp chí lý luận chính trị số 8.
- TS. Huỳnh Văn Tâm, “Thấy gì qua thanh tra các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài ở Đồng Nai” - Tạp chí Hoạt động khoa học số 4 .
Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý
luận và thực tiễn thực hiện việc hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính ở doanh
nghiệp liên doanh với nước ngoài ngành viễn thông . Vì vậy đề tài vẫn có tính
cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về cơ chế quản lý tài chính của doanh
nghiệp liên doanh với nước ngoài ngành viễn thông nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý tài chính của doanh nghiệp.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát hoá quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
TNHH Các hệ thống viễn thông VNPT-FUJITSU thông qua các hoạt động tài
chính của công ty.
- Đánh giá những thành công và những tồn tại trong cơ chế quản lý tài
chính của công ty, nguyên nhân và các vấn đề đặt ra.
- Đề xuất những nguyên tắc định hướng và giải pháp hoàn thiện cơ chế
quản lý tài chính ở công ty, qua đó góp phần giải quyết các vấn đề tồn tại
trong quản lý tài chính của công ty, tạo điều kiện để công ty phát triển .
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cơ chế quản lý tài chính của
doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài ngành viễn thông.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Qua khảo sát và thực tiễn về cơ chế quản lý tài chính tại Công ty

TNHH các hệ thống viễn thông VNPT-FUJITSU .
Về thời gian : luận văn tập trung vào nghiên cứu ,phân tích về cơ chế
quản lý tài chính của Công ty TNHH các hệ thống viễn thông VNPT-
FUJITSU trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến nay.
3
5. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp nghiên cứu duy vật lịch sử, phương pháp trừu
tượng hoá, khái quát hoá, kết hợp lịch sử và lôgic.
- Kết hợp các phương pháp phân tích diễn giải, thống kê, phân tích
đánh giá và tổng hợp, so sánh, điều tra khảo sát thực tế tại Công ty VFT.
6. Những đóng góp của luận văn
- Là công trình bước đầu nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn
thiện cơ chế quản lý tài chính của doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài
ngành Viễn thông hiện nay.
- Xác định thực trạng , những nhân tố ảnh hưởng và tính tất yếu khách
quan hoàn thiện công tác quản lý tài chính của Công ty TNHH các hệ thống
viễn thông VNPT-FUJITSU.
- Đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế
quản lý tài chính của các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài ngành Viễn
thông ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, mục lục,
luận văn kết cấu gồm 3 chương :
Chương 1 : Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về cơ chế quản lý
tài chính của các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài.
Chương 2 : Thực trạng cơ chế quản lý tài chính của Công ty TNHH các
hệ thống viễn thông VNPT-FUJITSU
Chương 3 : Phương hướng và giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài
chính ở doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài ngành Viễn thông.
4

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở DOANH NGHIỆP
LIÊN DOANH VỚI NƯỚC NGOÀI
1.1 Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài: khái niệm, đặc điểm và vai trò
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài
Từ cuối thế kỷ 19, với sự xuất hiện của hoạt động xuất khẩu tư bản
giữa các cường quốc tư bản, các thực thể kinh doanh dựa trên cơ sở sự pha
trộn của các tác nhân về vốn, lao động, máy móc, thị trường của các công ty
mang quốc tịch khác nhau được hình thành. Những thực thể kinh doanh hợp
nhất này là mầm mống đầu tiên của các DNLD có vốn ĐTNN.
Trong cuốn “ Từ điển tiếng Anh kinh doanh ” của J.H. Adam đã định
nghĩa: “Xí nghiệp liên doanh là một quan hệ bạn hàng tạm thời nhưng đôi khi
có tính chất lâu dài được thành lập từ hai hoặc nhiều cá nhân hoặc công ty
hoạt động trong một lĩnh vực kinh doanh nhất định trong đó có rủi ro về thua
lỗ nhưng vẫn có thể mong đợi một tỷ lệ lợi nhuận hợp lý. Các bên liên doanh
cùng chia sẻ các khoản chi phí và lợi nhuận theo các tỷ lệ đã được thỏa
thuận”. Định nghĩa này chỉ ra rằng rủi ro và lợi nhuận là động lực để thành
lập các doanh nghiệp liên doanh.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm về liên
doanh như sau: “Trên quan điểm cạnh tranh, liên doanh là một hình thức nằm
giữa hợp đồng và liên minh trong đó hai hoặc nhiều công ty liên kết hoạt
động với nhau trong một hoặc hơn các lĩnh vực sau đây:
- Tiến hành các hoạt động mua hoặc bán.
5
- Khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phát triển hoặc điều
hành các hoạt động sản xuất.
- Nghiên cứu và triển khai.
- Hoạt động, chế tạo và xây dựng
Định nghĩa này chỉ ra được liên doanh có thể thành lập trên cơ sở hai

hoặc nhiều công ty liên kết lại với nhau, nhưng đây chỉ là những hoạt động có
tính chất bộ phận.
Liên doanh còn được định nghĩa: “Là những thỏa thuận kinh doanh
trong đó hai hoặc nhiều công ty hoặc thực thể kinh doanh kết hợp với nhau để
hình thành một hoạt động kinh doanh nhất định. Các liên doanh có thể được
thành lập giữa hai công ty đa quốc gia, giữa một công ty đa quốc gia với các
nhà kinh doanh địa phương” (cuốn Kinh doanh quốc tế - Internationl Business
của trường Đại học Tổng hợp America). Định nghĩa này đã chỉ ra liên doanh
về thực chất là những thỏa thuận kinh doanh giữa hai hay nhiều bên. Tính đa
dạng của các đối tác tham gia liên doanh cũng đã được chỉ ra trong định nghĩa
này một cách cụ thể. Cách kết hợp giữa các chủ thể tham gia liên doanh cũng
được xem như là một tiêu chuẩn để phân loại liên doanh. Tuy nhiên, yếu tố
quốc tịch của các bên tham gia liên doanh – một căn cứ quan trọng để phân
biệt liên doanh trong nước với liên doanh quốc tế vẫn chưa được đề cập trong
định nghĩa này.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đưa ra định nghĩa về DNLD như
sau: “Doanh nghiệp liên doanh được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp
đồng liên doanh lý kết giữa bên hoặc các bên Việt Nam với bên hoặc các bên
nước ngoài hoặc giữa xí nghiệp liên doanh với bên hoặc các bên nước ngoài
nhằm tiến hành hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc
dân Việt Nam. Trong trường hợp đặc biệt , DNLD có thể được thành lập trên
6
cơ sở Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
với Chính phủ nước ngoài”.
Theo cách tiếp cận này, cơ sở thành lập các DNLD là hợp đồng liên
doanh ký kết giữa bên hoặc các bên Việt Nam với bên hoặc các bên nước
ngoài. Cũng có thể các DNLD được thành lập là một bên của DNLD mới.
Tuy nhiên trong điều kiện của Việt Nam, có một ngoại lệ do hoàn cảnh lịch
sử để lại là cơ sở pháp lý của DNLD có thể là một hiệp định quốc tế được ký
giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài.

Qua phân tích trên cho thấy có nhiều cách tiếp cận đối với hình thức
DNLD với nước ngoài.
Một là, DNLD với nước ngoài là một hình thức tổ chức liên doanh có
tính chất quốc tế. Cụ thể hơn, DNLD với nước ngoài là một hình thức đầu tư
nước ngoài trực tiếp. Tính chất quốc tế được thể hiện chủ yếu ở sự khác nhau
về quốc tịch của các bên tham gia liên doanh, quá trình thành lập liên doanh
và sự hoạt động ra ngoài biên giới quốc gia của chúng.
Hai là, DNLD với nước ngoài là một quan hệ bạn hàng lâu dài và là
một mối liên kết hữu cơ của hai bên hoặc nhiều bên nhưng các bên này ít nhất
thuộc hai quốc tịch khác nhau.
Ba là, DNLD với nước ngoài được hình thành từ những sự khác nhau
của các bên về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, cùng chịu trách nhiệm
về lợi nhuận và chia sẻ các rủi ro. Điều này phản ánh thuộc tính “cộng đồng”
về trách nhiệm của các bên đối với những hoạt động của liên doanh. Bản chất
của lợi thế này của liên doanh không phải là phép cộng đơn giản các lợi thế
sẵn có của các bên mà chính là việc tạo ra những lợi thế mới hơn khả năng
nội tại của các bên.
Bốn là, lĩnh vực hoạt động của DNLD với nước ngoài có thể bao gồm
các hoạt động chế tạo, chế biến, buôn bán, hoặc các hoạt động dịch vụ như
7
dịch vụ tài chính, ngân hàng, du lịch, bảo hiểm, vận tải, tư vấn, hoạt động
nghiên cứu cơ bản và R&D,…
Năm là, cơ sở pháp lý của sự tồn tại và các hoạt động của các DNLD
với nước ngoài là hợp đồng liên doanh ký kết giữa các bên và luật pháp của
nước sở tại. Sự thỏa thuận của các bên dưới sự bảo đảm của luật pháp tạo nên
một thực thể thống nhất. Ở đây, DNLD với nước ngoài phải chấp nhận tiến
hành hoạt động kinh doanh theo hệ thống luật pháp của nước sở tại với điều
kiện hệ thống pháp luật đó phải thích ứng với thông lệ quốc tế và hấp dẫn ở
mức độ nhất định đối với các đối tác nước ngoài tham gia thành lập DNLD.
Tóm lại, DNLD với nước ngoài là một hình thức tổ chức kinh doanh

quốc tế của các bên tham gia có quốc tịch khác nhau, trên cơ sở cùng góp
vốn, cùng quản lý, cùng phân chia lợi nhuận, cùng chia sẻ rủi ro để tiến hành
các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc các hoạt động nghiên cứu,
bao gồm nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai theo các điều khoản
cam kết trong hợp đồng liên doanh ký kết giữa các bên tham gia phù hợp với
quy định luật pháp của nước sở tại.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài
1.1.2.1. Đặc trưng về mặt kinh doanh
DNLD với nước ngoài được thành lập trên cơ sở các bên cùng góp vốn,
cùng tham gia quản lý, cùng phân chia lợi nhuận và cùng chia sẻ rủi ro. Mỗi
yếu tố này phản ánh những khía cạnh khác nhau về mặt kinh doanh cua
DNLD, cụ thể là:
- Cùng góp vốn.
Các bên tham gia liên doanh cùng đóng góp tiền mặt (nội ngoại tệ,
vàng, bạc, cổ phiếu, trái phiếu, …), máy móc, thiết bị, công nghệ, giá trị
quyền sử dụng đất đai, mặt nước, nước biển, các dịch vụ sản xuất, xây dựng,
uy tín, nhãn hiệu hàng hóa, … Do tính chất đa dạng của các loại tài sản góp
8
vào liên doanh cho nên có loại tài sản có thể định giá được, có loại tài sản khó
định giá. Vì vậy, trong nhiều trường hợp khó xác định được phần góp vốn của
các bên trong liên doanh.
- Cùng tham gia quản lý.
Tùy thuộc vào tỷ lệ góp vốn pháp định của các bên tham gia liên doanh
mà số lượng thành viên tham gia Hội đồng quản trị cũng như mức độ quyết
định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các bên khác nhau. Theo như
Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam quy định ít nhất một bên tham gia có
hai thành viên trong hội đồng. Bộ máy quản lý DNLD có vai trò điều hành
hoạt động của doanh nghiệp, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân, …
- Cùng phân chia lợi nhuận.
Các bên tham gia liên doanh cùng phân chia các khoản lợi nhuận thu

được của doanh nghiệp sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về tài chính đối
với nước sở tại. Tỷ lệ phân chia lợi nhuận giữa các bên dựa theo tỷ lệ vốn góp
của chúng trong vốn pháp định của DNLD. Tuy vậy cơ chế phân chia lợi
nhuận còn tùy thuộc vào hình thức thành lập DNLD.
- Cùng chia sẻ rủi ro.
Các bên cùng chia sẻ các loại rủi ro có thể xảy ra đối với DNLD. Các
loại rủi ro rất đa dạng có thể là rủi ro về chính trị, được hiểu là sự thay đổi về
thể chế chính trị, sự thay đổi của chính phủ hay nhà nước; rủi ro về pháp lý,
được hiểu là sự thay đổi của hệ thống pháp luật, các loại chính sách và các
quy định áp dụng cho DNLD; rủi ro về kinh tế, được hiểu là sự thay đổi giá
cả, quan hệ cung cầu của các mặt hàng liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của liên doanh hoặc do tình trạng kinh tế của đất nước đang ở giai đoạn
suy thoái; rủi ro trong kinh doanh, được hiểu là sự thay đổi của khối khách
hàng, tình trạng cạnh tranh trên thị trường hoặc rủi ro do thiếu hiểu biết về
môi trường văn hóa, phong tục tập quán của người tiêu dùng tại nước sở tại.
9
Những rủi ro này càng lớn nếu thị trường hoạt động của doanh nghiệp càng
xa lạ với công ty có chiến lược đầu tư ra nước ngoài trong dài hạn. Độ rủi ro
càng cao thì khả năng thu lợi nhuận càng lớn nhưng đi đôi với đó là xác suất
đổ vỡ của các DNLD càng cao. Đối với những doanh nghiệp đầu tư một khối
lượng vốn lớn vào một lĩnh vực kinh doanh thì hình thức liên doanh sẽ tạo
điều kiện giảm bớt tổn thất xảy ra trong kinh doanh đối với doanh nghiệp này
do được chia sẻ rủi ro với các bên cùng tham gia liên doanh.
1.1.2.2. Đặc trưng về mặt pháp lý.
DNLD với nước ngoài là một thực thể pháp lý độc lập hoạt động theo
luật pháp của nước sở tại, có tư cách pháp nhân.
Trong quá trình hoạt động, DNLD phải tuân thủ pháp luật Việt Nam,
các quy định của Giấy phép đầu tư, các điều khoản của Hợp đồng liên doanh,
Điều lệ Doanh nghiệp liên doanh.
Mọi điều khoản của Hợp đồng liên doanh, Điều lệ Doanh nghiệp liên

doanh trái với nội dung của Giấy phép đầu tư này và Pháp luật Việt Nam phải
được hiểu theo quy định của Giấy phép đầu tư và pháp luật Việt Nam.
Việc xây dựng mới các công trình của DNLD phải tuân thủ các quy
định của Nhà nước Việt Nam về quản lý xây dựng cơ bản. Nếu áp dụng quy
trình, quy phạm của nước ngoài phải được Bộ Xây dựng chấp thuận.
Việc DNLD nhận công nghệ chuyển giao từ bên ngoài phải thực hiện
theo đúng các quy định của Nhà nước Việt Nam về chuyển giao công nghệ.
Hợp đồng trợ giúp kỹ thuật và hợp đồng li xăng ký giữa DNLD và công ty
nước ngoài phải được Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường xem xét, phê
duyệt theo quy định hiện hành.
DNLD phải áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường, phòng – chống
cháy, nổ và an toàn lao động theo các quy định của Nhà nước Việt Nam.
10
Đặc trưng kinh doanh và đặc trưng pháp lý có mối liên hệ qua lại lẫn
nhau. Đặc trưng kinh doanh phản ánh thực chất và quy định bản chất nội tại
của DNLD. Đặc trưng pháp lý quy định tính chất độc lập của DNLD và phản
ánh tính hợp pháp của sự tồn tại của nó theo điều kiện của nước sở tại. Cả hai
đặc trưng này đều phản ánh một thực thể độc lập – DNLD.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài đối với sự phát
triển kinh tế xã hội Việt Nam
Xét một cách tổng thể, có thể khái quát những đóng góp của các DNLD
với nước ngoài ở các mặt sau:
Thứ nhất, DNLD đã góp phần tạo ra những năng lực sản xuất mới,
ngành nghề mới, sản phẩm mới, công nghệ mới, phương thức quản lý và
phương thức sản xuất kinh doanh mới góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh.
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN luôn có chỉ số phát triển cao hơn chỉ số
phát triển của các thành phần kinh tế khác và cao hơn hẳn chỉ số phát triển
chung của cả nước. Các doanh nghiệp đang hoạt động đã tạo ra nhiều ngành
nghề mới, sản phẩm mới góp phần làm tăng năng lực của một số ngành nghề.

Khu vực kinh tế này cũng đã góp phần gia tăng nhiều công nghệ mới
hiện đại cho nền kinh tế đất nước mà biểu hiện cụ thể nhất là ở các lĩnh vực
như: viễn thông, dầu khí, hóa chất, điện tử, tin học, ô tô, xe máy, … từ đó làm
tiền đề cho sự phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn khác. Thực tế, những
thiết bị, công nghệ của nước ngoài chuyển vào Việt Nam lâu nay chưa phải là
những loại thuộc thế hệ hiện đại nhất của thế giới nhưng phần lớn là hiện đại
hơn so với những dây chuyền thiết bị đã được sử dụng trước đây ở Việt Nam.
Một số vấn đề nữa rất quan trọng là nếu như trước đây, các doanh nghiệp Việt
Nam chỉ biết sản xuất thụ động theo sự chỉ định kế hoạch của cấp trên, không
cần đầu tư cải tiến, tìm hiểu thị trường, xúc tiến quảng cáo, tiếp thị; sản phẩm
11
sản xuất ra không có sự cạnh tranh, … thì với sự xuất hiện của các doanh
nghiệp này đã trở thành nhân tố tác động mạnh mẽ làm thay đổi căn bản
phương thức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng
tích cực và ngày càng thích nghi với nền kinh tế thị trường.
Nhiều sản phẩm được sản xuất ra từ các doanh nghiệp này có chất
lượng cao hơn, giá rẻ hơn, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng hơn hẳn so
với các sản phẩm cùng loại của các doanh nghiệp trong nước. Không những
thế, các doanh nghiệp này lại còn dành dự quan tâm đáng kể cho các công tác
nghiên cứu thị trường, tiếp thị, quảng cáo, khuyến mại,…. Như vậy, sự có mặt
của các doanh nghiệp này dã đương nhiên đặt các doanh nghiệp trong nước
của Việt Nam trước hoàn cảnh bắt buộc tham gia cạnh tranh về mọi mặt để
xác định hoặc tồn tại để phát triển hoặc phá sản. Muốn vậy, các doanh nghiệp
Việt Nam buộc phải thay đổi một cách căn bản từ công nghệ, phương thức
sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực quản lý cũng như trình độ người lao
động. Cứ như vậy, một mặt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có
điều kiện tiếp cận và bắt nhịp được vào quỹ đạo của sự phát triển. Mặt khác,
người tiêu dùng lại có lợi hơn. Đồng thời, qua đó chúng ta học tập và rút kinh
nhiệm được nhiều mô hình quản lý tiên tiến và các phương thức kinh doanh
hiện đại đã được áp dụng trong các DNLD có vốn ĐTNN ở một số lĩnh vực.

Thứ hai, DNLD tham gia tích cực vào cải thiện cán cân thanh toán
quốc tế và mở rộng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Nhờ có lợi thế trong hoạt động trên thị trường thế giới nên tốc độ tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu của các DNLD cao hơn tốc độ tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước và cao hơn cả các doanh nghiệp trong nước.
Sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp này thời gian qua chủ yếu là
hàng tiêu dùng như dệt may, da giầy, điện tử, hàng nông lâm thủy sản chế
biến. Phần đóng góp này tuy chưa đáng kể nhưng nếu xét trong bối cảnh vốn
12
đầu tư thực hiện còn thấp, nhiều dự án khác tập trung vào sản xuất hàng thay
thế hàng nhập khẩu thì kết quả trên là đáng khích lệ.
Cùng với quá trình phát triển, mức đóng góp vào ngân sách thông qua
việc nộp các loại thuế theo quy định của nhà nước Việt Nam, các DNLD đã
có đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước góp phần nâng cao khả năng
chủ động của nhà nước ta trong việc cân đối ngân sách. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp này còn tạo ra nhiều hàng hóa cung ứng cho thị trường trong
nước, góp phần thay thế hàng nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước.
Thứ ba, DNLD góp phần tạo ra một khối lượng lớn việc làm cho người
lao động, góp phần hình thành cơ chế thúc đẩy việc nâng cao năng lực cho
người lao động Việt Nam, tham gia phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Tạo ra nhiều việc làm cho lao động trong nước là một trong những
mục tiêu đặt ra khi thực thi chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đến nay, ta thấy đây là mục tiêu mà chúng ta đã thu được kết quả cao hơn
so với một số mục tiêu khác.
Thứ tư, hoạt động của DNLD đã thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những hướng mở cửa và hội
nhập tương đối có hiệu quả. Khu vực kinh tế này đã trở thành một động lực
quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển, đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế ở
nước ta. Nhờ có hoạt động của khu vực kinh tế này mà các mối liên kết kinh

tế song phương, đa phương của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên
thế giới đã được thiết lập và củng cố. Với sự ra đời của các doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế này, Việt Nam đang từng bước tham gia vào quá trình
phân công lao động quốc tế, mở rộng bạn hàng và thị phần ở nước ngoài. Đối
với những hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp này đã biến các bạn hàng
truyền thống của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thành bạn hàng của
13
Việt Nam. Đối với Việt Nam, mặc dù yêu cầu mở rộng thị phần là rất lớn và
cấp bách nhưng do hạn chế về năng lực tiếp thị quốc tê, trình độ công nghệ và
quản lý nên rất khó khăn khi trực tiếp giải quyết vấn đề này. Công việc này
đối với các nhà đầu tư nước ngoài lại rất có ưu thế vì họ là người tương đối
am hiểu thị trường thế giới, có các cơ sở tiếp thị ở những thị trường quan
trọng có tiềm lực về vốn và công nghệ, có sẵn những mối làm ăn cũng như
kinh nghiệp buôn bán, có nhiều thủ thuật để chiến thắng đối thủ cạnh tranh.
Đây là cơ hội cho Việt Nam tiếp cận với thị trường quốc tế một cách thuận lợi
hơn. Qua đó từng bước hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực. Điều này có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2 Các yếu tố cấu thành, nhân tố ảnh hưởng và sự cần thiết hoàn thiện cơ
chế quản lý tài chính của doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài
1.2.1. Quan niệm về cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp liên doanh với
nước ngoài
Trong Từ điển tiếng Việt, từ “Cơ chế” được giải nghĩa là “cách thức
theo đó một quá trình được thực hiện”. Trong lĩnh vực quản lý, “Cơ chế”
được hiểu là tổng thể các phương thức, các biện pháp, các công cụ được vận
dụng để tác động lên một hệ thống liên kết, điều hòa phân phối hoạt động
giữa các bộ phận trong hệ thống nhằm đạt những mục tiêu của quá trình quản
lý nói chung và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng.
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và DNLD
với nước ngoài đều là quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào như nhà xưởng,

thiết bị, nguyên vật liệu… và sức lao động để tạo ra hàng hóa, các dịch vụ để
thu lợi nhuận .
Quá trình hoạt động của doanh nghiệp, DNLD là quá trình tạo lập, phân
phối và sử dụng quỹ tiền tệ hợp thành hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Trong quá trình đó phát sinh, tạo ra sự vận động của các dòng tiền vào, dòng
14
tiền ra gắn liền với hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh thường xuyên
hằng ngày của doanh nghiệp.
Bên cạnh quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ là các quan hệ kinh tế
dưới hình thức giá trị hợp thành các quan hệ tài chính chủ yếu dưới đây:
- Quan hệ tài chính giữa DNLD với Nhà nước: Quan hệ này được thể
hiện chủ yếu ở chỗ doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ tài chính với nhà
nước như nộp các khoản thuế, lệ phí vào ngân sách nhà nước… Đối với
doanh nghiệp nhà nước còn thể hiện ở việc: Nhà nước đầu tư vốn ban đầu và
vốn bổ sung cho doanh nghiệp bằng những cách thức khác nhau.
- Quan hệ tài chính giữa DNLD với các chủ thể kinh tế trong liên
doanh và các tổ chức xã hội khác:
Quan hệ tài chính giữa các DNLD với các chủ thể kinh tế khác là mối
quan hệ rất đa dạng và phong phú được thể hiện trong việc thanh toán, thưởng
phạt vật chất khi doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác cung cấp hàng hóa,
dịch vụ cho nhau (bao hàm cả các dịch vụ tài chính).
Ngoài quan hệ tài chính với các chủ thể kinh tế khác, doanh nghiệp còn
có quan hệ tài chính với các tổ chức xã hội khác như: doanh nghiệp thực hiện
tài trợ cho các tổ chức xã hội…
- Quan hệ tài chính giữa DNLD với người lao động trong doanh
nghiệp: Quan hệ này được thể hiện trong việc doanh nghiệp thanh toán tiền
công, thực hiện thưởng phạt vật chất với người lao động trong quá trình tham
gia vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp…
- Quan hệ tài chính giữa các chủ sở hữu của DNLD: Mối quan hệ này
thể hiện trong việc đầu tư, góp vốn hay rút vốn của chủ sở hữu đối với doanh

nghiệp và trong việc phân chia lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.
- Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là mối quan hệ
thanh toán giữa các bộ phận nội bộ doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh,
trong việc hình thành và sử dụng các quỹ của doanh nghiệp.
15
- Sự kết hợp các mối quan hệ tài chính nói trên được thực hiện thông
qua những quy định, chế độ, quy chế của liên doanh đối với các hoạt động tài
chính của mình trên cơ sở các văn bản pháp quy của Nhà nước… Qua đó, cơ
chế quản lý tài chính được thực hiện.
Như vậy, cơ chế quản lý tài chính của DNLD có vốn ĐTNN gồm nhiều
yếu tố cấu thành và có liên quan đến hàng loạt các vấn đề khác nhau.
Nói cụ thể, cơ chế quản lý tài chính của doanh nghiệp liên doanh với
nước ngoài là tổng thể các quy định pháp lý, quy trình, bộ máy quản lý, các
phương thức được thực hiện để quản lý tài chính của doanh nghiệp phù hợp
với những điều kiện cụ thể nhất định nhằm đạt các mục tiêu đặt ra.
1.2.2 Các yếu tố cấu thành cơ chế quản lý tài chính của doanh nghiệp liên
doanh với nước ngoài
1.2.2.1 Luật pháp, chính sách và những quy định liên quan đến quản lý tài
chính của doanh nghiệp
Khi đất nước ta đứng trước nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh: nền
kinh tế kém phát triển, chủ yếu là sản xuất nhỏ mang nặng tính tự cấp tự túc,
lương thực thiếu, hàng tiêu dùng khan hiếm; trình độ trang bị kỹ thuật lạc hậu,
năng suất lao động xã hội thấp, cơ cấu kinh tế mang nặng đặc trưng của nền
kinh tế nông nghiệp; GDP bình quân đầu người thuộc nhóm thấp nhất thế
giới, không có tích lũy vốn cho đầu tư phát triển; kinh tế trì trệ, xuất khẩu ít,
nhập siêu cao, lạm phát tới 3 con số; đời sống nhân dân rất cực; cơ chế quản
lý theo mô hình kế hoạch hóa - tập trung, quan liêu - bao cấp để lại nhiều tiêu
cực, tình trạng chia cắt, khép kín ở từng đơn vị, từng ngành, từng địa phương
là phổ biến; hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh rất kém; trong khi đó Mỹ
lại cấm vận…

Việt Nam phải làm gì để thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến tới thực
hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”?
16
Để trả lời câu hỏi trên phải giải quyết nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, xã
hội, trong đó có vấn đề thu hút nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của
nước ngoài phục vụ công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế.
Thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi phải có
đường lối, chủ trương, chính sách đúng và được thể chế hóa bằng hệ thống
pháp luật phù hợp với tình hình luôn biến động của thế giới, cũng như thực
tiễn của nước ta; đồng thời yêu cầu sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao trong tổ chức
thực hiện bằng những biện pháp kịp thời, có hiệu lực.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc hành vi, quy tắc xử sự do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điểu chỉnh
các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp , thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Bản chất sâu xa của pháp luật là giai cấp , biểu hiện dễ thấy nhất của pháp
luật là tính xã hội, tính dân tộc và tính mở.
Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế, xã hội: pháp luật
có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách
nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất, trên quy mô rộng lớn nhất. Do tính
chất phức tạp và phạm vi rộng lớn của chức năng quản lý kinh tế, nhà nước
không thể trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế cụ thể mà thực hiện
quản lý mang tầm vĩ mô và mang tính hành chính - kinh tế, trong việc quản lý
này không thể thiếu pháp luật. Chỉ có trên cơ sở một hệ thống pháp luật đồng
bộ và đủ mạnh nhà nước mới phát huy được hiệu lực quản lý kinh tế - xã hội.
Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà
nước: pháp luật do nhà nước ban hành nhưng không xuất phát từ tư duy chủ
quan mà từ những nhu cầu khách quan của xã hội. Pháp luật phải có quyền
lực nhà nước mới có thể phát huy tác dụng trên thực tế và nhu cầu pháp luật

17
còn là nhu cầu tự thân của chính bộ máy nhà nước để hoạt động có hiệu quả
dựa trên những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật: quy định thẩm
quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, quy định nhiệm vụ quyền hạn
của cán bộ trong các cơ quan đó,…
Căn cứ vào Luật Đầu tư, luật Doanh nghiệp, hệ thống các Thông tư
hướng dẫn thực hiện Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp đã tạo ra môi trường
pháp lý cao hơn cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhằm phát huy có
hiệu quả nguồn vốn này và tạo đà cho kinh tế phát triển, là cầu nối để Việt
Nam vươn ra thế giới. Luật đầu tư quy định về hoạt động đầu tư nhằm mục
đích kinh doanh, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư , bảo đảm quyền lợi ích
hợp pháp của nhà đầu tư, khuyến khích và ưu đãi đầu tư, quản lý nhà nước về
đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.
Để cụ thể hóa Luật Đầu tư nước ngoài, Chính phủ đã đưa ra nhiều
thông tư, quyết định ưu đãi các nhà đầu tư; Bộ Tài chính đưa ra nhiều quy
định khuyến khích đầu tư nước ngoài; các địa phương đưa ra nhiều chế tài
thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài….Các ngành, các lĩnh vực cũng xây
dựng nhiều quy chế tài chính phù hợp để các DNLD hoạt động thuận lợi…Và
việc áp dụng cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào điều chỉnh
theo Luật doanh nghiệp đã tạo được ra sân chơi chung bình đẳng cho mọi
điều kiện loại hình doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu
tư nước ngoài được tham gia vào thị trường Việt Nam.
Chủ trương của Việt Nam là khuyến khích FDI, đồng thời coi trọng
chất lượng nguồn vốn này. Việc lựa chọn dự án FDI cần đảm bảo hiệu quả
kinh tế - xã hội - môi trường và mối quan hệ hợp lý giữa phát triển nội lực và
ngoại lực. Để nâng cao chất lượng FDI, Việt Nam vừa khuyến khích các nhà
đầu tư vừa và nhỏ, vừa tranh thủ đầu tư của các nước; có các giải pháp tăng
nhanh FDI của cả các nước Châu Á, nhất là Mỹ và các nước lớn như Đức,
Pháp, Anh…
18

1.2.2.2 Quy trình quản lý tài chính của doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài
Một là : Xây dựng kế hoạch tài chính của DNLD.
Sau khi DNLD đã có kế hoạch SXKD, dự án đầu tư phù hợp với nhu
cầu thị trường, công việc đầu tiên doanh nghiệp phải làm là xây dựng kế
hoạch tài chính. Các hoạt động tài chính của DNLD cần được dự kiến trước
thông qua việc lập kế hoạch tài chính. Có kế hoạch tài chính tốt thì doanh
nghiệp mới có thể đưa ra các quyết định tài chính thích hợp nhằm đạt tới các
mục tiêu của doanh nghiệp. Kế hoạch tài chính là một bộ phận quan trọng của
kế hoạch SXKD nhằm trình bày có hệ thống các dự kiến về nhu cầu vốn, tổ
chức nguồn vốn để thực hiện các hoạt động SXKD nhằm đạt được những kết
quả trong tương lai.
Kế hoạch tài chính là một công cụ bảo đảm cho sự hoạt động thành
công của DNLD. Việc lập kế hoạch tài chính giúp cho người quản lý xác
định rõ mục tiêu cần đạt tới; từ đó cân nhắc, xem xét tính khả thi, tính hiệu
quả của các quyết định đầu tư. Kế hoạch tài chính là công cụ giúp cho
người quản lý thực hiện tốt việc điều hành SXKD, hoạt động tài chính và
hơn thế nữa là chủ động ứng phó với những biến động trên thị trường so
với dự kiến; tứ đó điều chỉnh kịp thời các hoạt động để đạt mục tiêu đề ra.
Kế hoạch tài chính còn là căn cứ để vay vốn, thu hút các nhà đầu tư khác
bỏ vốn vào doanh nghiệp.
Hai là : Thực hiện kế hoạch tài chính của doanh nghiệp.
Thực chất kế hoạch tài chính của doanh nghiệp là xác định nhu cầu
vốn và huy động đầy đủ vốn cho hoạt động SXKD trong từng thời kỳ cụ thể.
Do vậy, việc quản lý và sử dụng các nguồn vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các
khoản thu chi và bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp có vai trò
quyết định đối với sự thành công của doanh nghiệp.
19
1.2.2.3 Tổ chức thực hiện quản lý tài chính của doanh nghiệp liên doanh với
nước ngoài
Thứ nhất : Phương thức quản lý tài chính của doanh nghiệp liên doanh:

Một là : Phương thức huy động và tạo lập vốn
Tất cả các hoạt động của DNLD đều đòi hỏi phải có vốn. Quản lý vốn
và huy động vốn đóng vai trò đặc biệt quan trọng. DNLD phải xác định nhu
cầu vốn cần thiết cho các hoạt động của mình ở trong kỳ - bao hàm vốn dài
hạn và vốn ngắn hạn. Tiếp theo, phải tổ chức huy động các nguồn vốn đáp
ứng kịp thời, đầy đủ và có lợi cho các hoạt động của DNLD. Để đi đến quyết
định lựa chọn hình thức và phương pháp huy động vốn thích hợp, cần xem xét
cân nhắc trên nhiều mặt như: kết cấu nguồn vốn, những điểm lợi của từng
hình thức huy động vốn, chi phí cho việc sử dụng mỗi nguồn vốn…
Quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả số vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các
khoản thu, chi và bảo đảm khả năng thanh toán của DNLD.
Điều này đòi hỏi DNLD phải tìm mọi biện pháp huy động tối đa số vốn
hiện có của doanh nghiệp vào hoạt động kinh doanh, giải phóng kịp thời số
vốn ứ đọng, theo dõi chặt chẽ và thực hiện tốt việc thanh toán, thu hồi tiền
bán hàng và các khoản thu khác, đồng thời quản lý chặt chẽ mọi khoản chi phí
phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Thường xuyên tìm biện
pháp thiết lập sự cân bằng giữa thu và chi bằng tiền, đảm bảo cho doanh
nghiệp luôn có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Hai là : Phương thức quản lý doanh thu:
Có hai phương pháp quản lý doanh thu: một là phương pháp quản lý
tập trung, hai la phương pháp quản lý phân tán. Từ hai phương pháp này dẫn
tới phương pháp quản lý doanh thu hỗn hợp.
Doanh thu được thực hiện sau quá trình sản xuất và cung ứng sản
phẩm, giúp cho doanh nghiệp thu hồi vốn, xác định kết quả và tái sản xuất
20
kinh doanh các chu kỳ tiếp theo. Như vậy, doanh thu đóng vai trò quan trọng,
đồng thời chịu sự tác động của nhiều yếu tố như khách hàng, thời hạn thanh
toán, các điều kiện thanh toán… Vấn đề đặt ra đối với các nhà quản lý là phải
có cơ chế quản lý doanh thu như thế nào để đảm bảo khả năng thu hồi vốn
một cách nhanh nhất và đạt hiệu quả cao. Tùy theo từng loại hình doanh

nghiệp mà người ta có thể lựa chọn, xây dựng một phương pháp quản lý
doanh thu sao cho phù hợp với tình hình và dặc điểm kinh doanh của đơn vị.
Ba là : Phương thức quản lý chi phí.
Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp là toàn bộ hao phí lao động vật
hóa và hao phí lao động sống cần thiết mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Dưới góc độ doanh nghiệp, để tạo ra sản phẩm, dịch vụ thì doanh
nghiệp phải bỏ ra chi phí nhất định như khấu hao tài sản cố định, tiêu hao
nguyên, nhiên, vật liệu, tiền lương,…, đó là những chi phí sản xuất thực tế
doanh nghiệp phải bỏ ra. Thực chất, chi phí sản xuất ở doanh nghiệp là sự
chuyển dịch vốn của doanh nghiệp vào đối tượng tính giá thành nhất định, nó
là phần vốn của doanh nghiệp bỏ vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Việc quản lý chi phí trong DNLD phụ thuộc nhiều vào cơ cấu tổ chức
hoạt động, đặc điểm sản xuất kinh doanh, tính chất ngành nghề kinh doanh,
cũng như mức độ sở hữu chi phối lẫn nhau trong DNLD.
Có hai phương pháp quản lý chi phí: một là phương pháp định mức, hai
là phương pháp khoán chi; từ hai phương pháp này dẫn tới phương pháp quản
lý hỗn hợp, tức là kết hợp phương pháp định mức và phương pháp khoán chi.
Áp dụng phương pháp quản lý định mức đòi hỏi DNLD phải xây dựng
các định mức kinh tế - kỹ thuật cho một số loại chi phí có tính thường xuyên,
như hao phí nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm, mức tiền lương theo
sản phẩm… phù hợp với các quy định hiện hành của nhà nước Việt Nam. Áp
21

×