MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
Hình 3.1: Năng suất lao động bình quân theo tổng doanh thu
Error: Reference source not found
LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Sau 20 năm đổi mới, hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài không ngừng phát triển cả về số lượng, quy mô đầu tư và chất lượng, tính đến
thời điểm 31/12/2008 có 5626 doanh nghiệp cao gấp 3,7 lần số doanh nghiệp năm
2000, bình quân mỗi năm tăng 17,7% số doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng đa dạng hoá ngành nghề và hình thức
doanh nghiệp. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là một
trong năm thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển lâu dài và bình đẳng với
các thành phần kinh tế khác. Mặc dù vốn đầu tư chỉ chiếm 17,2%, doanh thu chỉ
chiếm 18,7% so với toàn bộ doanh nghiệp, năm 2008 hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là khu vực đạt hiệu quả
kinh tế cao với lợi nhuận trước thuế chiếm tới 49% và đóng góp vào ngân sách nhà
nước chiếm tới 41% so với toàn bộ doanh nghiệp, thu hút tới 1,83 triệu lao động,
chiếm 22,4% tổng số lao động toàn doanh nghiệp, gấp 4,5 lần năm 2000 với thu
nhập gấp 1,1 lần so với thu nhập của lao động khu vực khác.
Từ trước đến nay, đã có một số luận văn, đề tài nghiên cứu về hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung nhưng chưa có luận văn nghiên cứu
hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Để có cơ sở khoa học cho những nhà quản lý và hoạch định chiến lược định
ra các chính sách thu hút vốn đầu tư và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào
Việt Nam. Việc vận dụng các phương pháp thống kê để phân tích hiệu quả sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa
quan trọng. Vì vậy, tôi chọn đề tài "Nghiên cứu thống kê hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam giai
đoạn 2000 - 2008" để viết luận văn thạc sỹ kinh tế
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đánh giá và phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ sở cho những nhà quản lý và hoạch định
chiến lược xây dựng các chính sách thu hút vốn đầu tư và khuyến khích các doanh
1
nghiệp đầu tư vào Việt Nam phù hợp với chiến lược phát triển bền vững trong từng
thời kỳ và dài hạn ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
4. Đóng góp của đề tài
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả, hiệu
quả kinh tế, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
- Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu và lựa chọn các phương pháp thống kê phân tích
hiệu quả sản xuất kinh doanh
- Trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu đã hoàn thiện, luận văn tính toán một số chỉ tiêu
để phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
- Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để phù hợp với mục đích, phạm vi và đối tượng nghiên cứu, Luận văn sử dụng
một số phương pháp thống kê như phương pháp phân tổ, phương pháp đồ thị,
phương pháp chỉ số, phương pháp hồi quy tương quan và phần mềm SPSS.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục biểu đồ,
danh mục từ viết tắt và phần phụ lục, Luận văn bao gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề chung về hiệu quả sản xuất kinhdoanh của doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương 2: Thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 2000 -2008
Chương 3: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu
2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH
NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.1 Những vấn đề chung về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1 Khái niệm hiệu quả
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm hiệu quả kinh doanh.
1) Theo từ điển học sinh - NXB giáo dục Hà Nội 1982 " Hiệu quả là kết quả rõ rệt"
2) Theo P. Samueleson và W. Nordhuas " Hiệu quả là một mối quan tâm trung
tâm của kinh tế học. Hiệu quả tức là không lãng phí"
3) Manfred Kuhn cho rằng: Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả
tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh.
4) Theo giáo trình thống kê kinh tế (dành cho sinh viên ngành kinh tế) Hiệu
quả là " làm đủ, không thừa, không thiếu những việc cần thiết, sử dụng tối ưu nguồn
lực đầu vào để tạo ra đầu ra"
5) Theo nhà kinh tế học Adam Smith cho rằng: "Hiệu quả là kết quả đạt được
trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá". Như vậy, hiệu quả được
đồng nghĩa với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh, có thể do tăng chi
phí mở rộng sử dụng nguồn lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả có hai mức chi phí
khác nhau thì theo quan điểm này doanh nghiệp cũng đạt hiệu quả.
Từ các quan điểm trên có thể hiểu một cách khái quát hiệu quả là phạm trù
phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (nhân tài, vật lực, tiền vốn ) để đạt được
mục tiêu xác định. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể được đánh gia trong
mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét xem với mỗi sự hao phí nguồn lực xác
định có thể tạo ra ở mức độ nào.
Khi nghiên cứu phạm trù hiệu quả nếu liên quan đến phương diện xét, hiệu
quả bao gồm
3
- Hiệu quả xã hội: chỉ xét về mặt xã hội
- Hiệu quả kinh tế: chỉ xét về mặt kinh tế
- Hiệu quả kinh tế - xã hội: xét cả về mặt kinh tế và xã hội
- Hiệu quả an ninh quốc phòng: chỉ xét về mặt an ninh quốc phòng
- Hiệu quả môi trường sinh thái chỉ xét về mặt môi trường sinh thái
Nếu liên quan đến quan điểm đánh giá hiệu quả thì hiệu quả bao gồm:
- Hiệu quả kinh tế quốc dân: nếu đánh giá hiệu quả theo quan điểm xã hội
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh nếu đánh giá hiệu quả theo quan điểm của
doanh nghiệp
1.1.1.2 Khái niệm và bản chất hiệu quả kinh tế
Hiện còn tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về hiệu quả kinh tế
- Theo giáo trình " Kinh tế và quản lý công nghiệp thì " Hiệu quả kinh tế là
phạm trù phản ánh trình độ và năng lực quản lý, bảo đảm thực hiện có kết quả cao
những nhiệm vụ kinh tế - xã hội đặt ra với chi phí nhỏ nhất" NXB giáo dục -1994
- Theo giáo trình thống kê kinh tế tập I, " Hiệu quả là phạm trù kinh tế , biểu
hiện quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế mà xã hội đạt được và chi phí bỏ ra để đạt
được hiệu quả đó" NXB giáo dục 2002 Tiến sỹ Phan Công Nghĩa chủ biên
- Theo giáo trình thống kê kinh tế (dành cho sinh viên khối kinh tế ) thì "Hiệu
quả kinh tế là một phạm trù kinh tế biểu hiện sự phát triển kinh tế theo chiều sâu,
phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực
hiện mục tiêu tối đa hoá lợi ích thu được và tối thiểu hoá nguồn lực bỏ ra" NXB đại
học kinh tế quốc dân 2010 TS Bùi Đức Triệu chủ biên.
Theo các khái niệm hiệu quả kinh tế ở trên, có thể thấy về bản chất hiệu quả
kinh tế là một phạm trù kinh tế tổng hợp phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả đầu
ra và chi phí đầu vào của quá trình sản xuất.
Quan hệ so sánh đó có thể là hiệu số (Hiệu quả kinh tế = kết quả đầu ra - chi
phí đầu vào) hoặc quan hệ phân số ( Hiệu quả kinh tế = kết quả đầu ra chia cho chi
phí đầu vào)
Để đánh giá hiệu quả kinh tế hiện vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về
4
tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế, có thể khái quát thanh 4 loại quan điểm sau đây:
- Quan điểm 1: Coi tiêu chuẩn đánh giá hiệu qủa kinh tế là kết quả tăng trưởng
của GO, VA (GDP) hoặc lợi nhuận
Quan điểm 2: Coi tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế là tăng năng suất lao động
- Quan điểm 3: Coi tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế là đạt được mức hiệu
quả tối đa trong những điều kiện cụ thể nhất định.
- Quan điểm 4: Coi tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế là đạt được quan hệ tỷ
lệ tối ưu giữa kết quả kinh tế đạt được so với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
1.1.1.3 Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Như trên đã trình bày, nếu đánh giá hiệu quả theo quan điểm doanh nghiệp thì
đó là hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiện còn nhiều khái niệm khác nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh
- Theo giáo trình thống kê công nghiệp, chủ biên PGS. TS Nguyễn Công Nhự
chủ biên NXB thống kê - 2004 " Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù
kinh tế phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất, nhằm
thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp" (NXB thống kê - 2004)
- Theo giáo trình thống kê kinh doanh, đồng chủ biên GS.TS Phạm Ngọc
Kiểm - PGS.TS Nguyễn Công Nhự " Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù
kinh tế biểu hiện sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, nó phản ánh trình độ khai thác
các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh"
(NXB thống kê - 2004)
- Theo sách chuyên khảo phân tích kinh tế doanh nghiệp " Hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng
nguồn nhân lực, vật lực của doanh nghiệp. Đây là vấn đề hết sức phức tạp, có
liên quan đến nhiều yếu tố, nhiều mức của quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp như lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động "
NXB Tài chính - 2/2003
1.1.2. Phân loại hiệu quả sản xuất kinh doanh:
5
Tùy theo mục đích nghiên cứu, theo từng giác độ nghiên cứu, ta phân loại hiệu
quả sản xuất kinh doanh theo các tiêu thức khác nhau:
- Theo phạm vi tính toán, có thể phân hiệu quả sản xuất kinh doanh thành
+Hiệu quả kinh tế
+ Hiệu quả xã hội
+ Hiệu quả an ninh quốc phòng
+ Hiệu quả đầu tư
+ Hiệu quả môi trường
Trong sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp và toàn xã hội cần phải phấn đấu
đạt đồng thời các loại hiệu quả trên. Có như vậy mới đảm bảo cho sự phát triển bền
vững. Song trong thực tế khó có thể đạt đồng thời các mục tiêu hiệu quả tổng hợp đó.
- Theo nội dung tính toán, có thể phân hiệu quả sản xuất kinh doanh thành:
+ Hiệu quả tính dưới dạng thuận (tức là Hiệu quả sản xuất kinh doanh = Kết
quả chia cho chi phí)
+ Hiệu quả tính dưới dạng nghịch (hiệu quả sản xuất kinh doanh = chi phí chia
cho kết quả)
- Theo phạm vi tính toán, có thể chia hiệu quả sản xuất kinh doanh thành:
+ Hiệu quả toàn phần (còn gọi là hiệu quả đầy đủ) là loại chỉ tiêu hiệu quả
được tính chung cho toàn bộ kết quả và toàn bộ chi phí của từng yếu tố hoặc tính
chung cho tổng nguồn lực.
+ Hiệu quả đầu tư tăng thêm: chỉ tính cho phần đầu tư tăng thêm và kết quả
tăng thêm của thời kỳ tính toán. Nó được xác định bằng cách so sánh phần kết quả
gia tăng do đầu tư tăng thêm đem lại.
+ Hiệu quả cận biên là kết quả so sánh giữa kết quả đạt được do đồng đầu tư
cuối cùng đem lại. Đối với các đơn vị cơ sở hiện nay chưa tính được chỉ tiêu hiệu
quả cận biên.
- Theo hình thái biểu hiện, có
+ Hiệu quả hiện
+ Hiệu quả ẩn
Trong thực tế hiện nay, các doanh nghiệp thường mới tính hiệu quả sản xuất
6
kinh doanh dưới dạng hiện.
1.1.3 Phương pháp xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh
Như trên đã trình bày, các doanh nghiệp thường mới tính hiệu quả sản xuất
kinh doanh dưới dạng hiệu.
Công thức tính hiệu quả sản xuất kinh doanh đầy đủ có dạng
+ Hiệu quả sản xuất kinh doanh dạng thuận:
CPDV
KQDR
H =
(1.1)
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết bình quân một đơn vị chi phí hoặc nguồn lực tạo
ra được bao nhiêu đơn vị kết quả kinh tế, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt
+ Hiệu quả sản xuất kinh doanh dạng nghịch:
KQDR
CPDV
H =
'
(1.2)
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết lượng chi phí hoặc nguồn lực bình quân để tạo
ra được một đơn vị kết quả kinh tế, chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt
Trong đó chi phí có thể là chi phí thường xuyên hoặc nguồn lực như lao động,
vốn, tài sản cố định…
Công thức tính hiệu quả sản xuất kinh doanh tính riêng cho phần đầu tư tăng thêm
+ Hiệu quả đầu tư tăng thêm dạng thuận:
CPDV
KQDR
E
∆
∆
=
(1.3)
+ Hiệu quả đầu tư tăng thêm dạng nghịch:
KQDR
CPDV
E
∆
∆
=
'
(1.4)
Trong đó: KQDR: Kết quả sản xuất kinh doanh đầu ra gồm GO, VA, Doanh
thu, doanh thu thuần, sản lượng, lợi nhuận, lợi nhuận thuần
KQDR
1
Kỳ báo cáo; KQDR
0
Kỳ gốc
CP chi phí cho quá trình sản xuất bao gồm lao động, vốn, các nhân tố khác (TFP)
CPDV
1
Kỳ báo cáo; CPDV
0
Kỳ gốc
KQDR∆
Sự gia tăng kết quả
011
KQDRKQDRKQDR −=∆
CPDV∆
Sự gia tăng kết quả
011
CPDVRCPDVCPDV −=∆
1.1.4 Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
7
nghiệp
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là điều kiện sống còn để
doanh nghiệp tồn tại và phát triển, nếu hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
không ngừng được nâng cao thì kết quả thu được ngày càng tăng, điều đó có nghĩa
là thu nhập của người lao động cũng tăng theo. Khi người lao động có thu nhập cao,
họ sẽ có điều kiện để chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần cho bản thân và gia
đình, mặt khác nhờ có thu nhập cao mà người lao động sẽ hăng say làm việc hơn
làm cho năng suất lao động ngày càng tăng. Điều đó sẽ giúp cho doanh nghiệp ngày
càng nâng cao được hiệu quả hoạt động nhập khẩu và làm ăn ngày càng tấn tới. Suy
cho cùng thì nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
cũng chính là nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động và ngược lại
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là sử dụng hợp lý hơn các yếu tố của
quá trình sản xuất, với chi phí không đổi nhưng tạo ra nhiều kết quả hơn. Như vậy,
phấn đấu nâng cao nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ làm giảm giá thành, tăng
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, đạt hiệu quả và nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là vấn đề quan tâm của doanh nghiệp và
trở thành điều kiện sống còn để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong nền
kinh tế thị trường.
1.2 Những vấn đề chung về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
1.2.1 Khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội
khóa IX thông qua ngày 12 tháng 11 năm 1996
1
(sau đây gọi chung là Luật Đầu tư
nước ngoài), “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” gồm doanh nghiệp liên
doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài với 04 đặc tính cơ bản sau:
(1) Sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tối thiểu 30% vốn pháp định
2
:
1
Luật này đã được sửa đổi, bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam ngày 9/6/2000
8
"Nhà đầu tư nước ngoài" theo Luật Đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế, cá
nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
"Đầu tư trực tiếp nước ngoài" là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam
vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy
định của Luật Đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp:
- Do hai bên (là bên Việt Nam và bên nước ngoài) hoặc nhiều bên (là bên Việt
Nam và các bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài và bên Việt Nam hoặc các bên
Việt Nam và các bên nước ngoài) hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp
đồng liên doanh; hoặc Hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài; hoặc
- Do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt
Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở
hợp đồng liên doanh.
Trong doanh nghiệp liên doanh, phần góp vốn của Bên nước ngoài hoặc các
Bên nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh không được dưới
30% vốn pháp định
3
.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam.
Như vậy, theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài phải có tỷ lệ tham gia của bên hoặc các bên nước ngoài không dưới
30% vốn pháp định. Đây là đặc trưng quan trọng nhất, là tiêu chí phân định khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với các khu vực khác của nền kinh tế. Tuy ngưỡng
30% cao hơn khá nhiều so với ngưỡng 10% thường được Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) và Tổ chức các nước phát triển (OECD) áp dụng nhưng cũng có ý nghĩa nhất
2
Vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là mức vốn phải có để thành lập doanh nghiệp,
được ghi trong điều lệ doanh nghiệp. Khái niệm này rất khác với khái niệm vốn pháp định của Luật Doanh
nghiệp 1999, áp dụng đối với các doanh nghiệp trong nước. Vốn pháp định theo quy định của Luật Đầu tư
nước ngoài gần với khái niệm vốn tự có của doanh nghiệp.
3
Quy định tại Điều 8 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996. Điều 14 Nghị định 24/2000/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 31 tháng 7 năm 2000 hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định phần
vốn góp của (các) Bên nước ngoài được thấp hơn 30% vốn pháp định trong một số trường hợp cụ thể nhưng
không thấp hơn 20% vốn pháp định.
9
định trong việc trong việc phân định rõ ràng giữa các thành phần kinh tế và đặc biệt
có ý nghĩa trong công tác thống kê.
(2)Vốn pháp định của doanh nghiệp không được nhỏ hơn 30% vốn đầu tư:
Theo quy định tại Điều 16 Luật Đầu tư nước ngoài, vốn pháp định của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư của doanh
nghiệp. Trong trường hợp đặc biệt, tỷ lệ này có thể thấp hơn 30% nhưng phải được
cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài chấp thuận. Trong quá trình hoạt
động, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được giảm vốn pháp định.
(3) Loại hình doanh nghiệp:
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập tại Việt Nam dưới
một hình thức duy nhất là công ty trách nhiệm hữu hạn.
Theo quy định tại Nghị định 38/2003/NĐ-CP ngày 15/4/2003 của Chính phủ
về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động
theo hình thức công ty cổ phần, một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đủ
điều kiện được thí điểm chuyển đổi sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần
có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp này không nhiều và
chỉ dưới dạng thí điểm.
(4) Tư cách pháp nhân:
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tư cách pháp nhân theo pháp luật
Việt Nam
4
.
Tuy nhiên, khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cùng các đặc
trưng của loại hình doanh nghiệp này đã thay đổi một cách căn bản theo quy định
của Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29
tháng 11 năm 2005 (sau đây gọi là Luật Đầu tư năm 2005) thay thế Luật Đầu tư
nước ngoài.
Theo quy định của Luật Đầu tư 2005, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
bao gồm (1) doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt
động đầu tư tại Việt Nam; và (2) doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài
4
Điều 6 (đối với doanh nghiệp liên doanh) và Điều 15 (đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài)
10
mua cổ phần, sáp nhập, mua lại. Như vậy, Luật Đầu tư 2005 đã mở rộng khái niệm
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bên cạnh các doanh nghiệp do nhà đầu tư
nước ngoài thành lập, các doanh nghiệp Việt Nam có sự tham gia của nhà đầu tư
nước ngoài cũng được coi là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Các đặc trưng của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định của
Luật Đầu tư nước ngoài cũng đã thay đổi:
(1) Không có quy định về tỷ lệ sở hữu tối thiểu của nhà đầu tư nước ngoài
trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Việc không quy định ngưỡng sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài để phân định
hoạt động đầu tư trong nước và nước ngoài là khó khăn lớn nhất cho công tác quản
lý nhà nước nói chung và công tác thống kê nói riêng hiện nay.
(2) Khái niệm vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như
quy định trước đây không còn
Vốn pháp định theo quy định của Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày
29 tháng 11 năm 2005 (sau đây gọi là Luật Doanh nghiệp 2005) là mức vốn tổi
thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp. Chỉ doanh
nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực, ngành nghề nhất định mới cần phải có vốn
pháp định.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, vốn điều lệ của doanh nghiệp là
số vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất
định và được ghi vào Điều lệ công ty.
Hiện không có quy định về mối liên hệ giữa vốn điều lệ của doanh nghiệp và
vốn đầu tư của dự án do doanh nghiệp thực hiện hoặc tham gia thực hiện như quy
định tương ứng nêu tại đặc trưng thứ 2 ở trên.
(3) Loại hình doanh nghiệp
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư 2005, nhà đầu tư nước
ngoài được thành lập doanh nghiệp theo tất cả các hình thức quy định tại Luật
Doanh nghiệp, gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp
danh và doanh nghiệp tư nhân.
Ngoài ra, nhà đầu tư nước ngoài còn được thành lập tổ chức tín dụng, doanh
11
nghiệp kinh doanh bảo hiểm, quỹ đầu tư và các tổ chức tài chính khác theo quy định
của pháp luật; cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, thể thao và các cơ sở
dịch vụ khác có hoạt động đầu tư sinh lợi và các tổ chức kinh tế khác.
(4) Tư cách pháp nhân
Các doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập theo các hình thức quy
định tại Luật Doanh nghiệp đều có tư cách pháp nhân, trừ doanh nghiệp tư nhân.
Theo khái niệm của cơ quan thống kê thì doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài là doanh nghiệp có có vốn đầu tư trực tiếp của chủ đầu tư không
phân biệt tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài là bao nhiêu, khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài bao gồm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên
doanh giữa nước ngoài với các đối tác trong nước.
Như vậy, trong luận văn này khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài được hiểu theo khái niệm của cơ quan Thống kê là doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài không phân biệt tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài là bao nhiêu.
1.2.2 Đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài
Về bản chất, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư của tư
nhân nước ngoài với mục đích căn bản là lợi nhuận, nhà đầu tư trực tiếp bỏ vốn và
điều hành hoạt động kinh doanh nên họ phải làm cho sản phẩm có sức cạnh tranh
trên thị trường. Do vậy, nhà đầu tư cùng với việc đưa vốn vào còn đưa cả công
nghệ, bí quyết, kỹ năng tiếp thị, quản lý, đào tạo nhân công, v.v cho nước tiếp
nhận vốn. Như vậy, ngoài việc được bổ sung nguồn vốn thiếu hụt, doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và đào
tạo đội ngũ lao động của nước tiếp nhận vốn. Do vậy, hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, về nguồn lực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi nguồn
nhân lực có tay nghề cao, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, có ngoại ngữ và chịu
được áp lực công việc.
Thứ hai, về vốn nhà đầu tư nước ngoài là người trực tiếp bỏ vốn và chịu trách
12
nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do vậy, Doanh nghiệp
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài một mặt bổ sung được nguồn vốn thiếu hụt trong
nước để đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đầu tư vẫn tập trung vào những ngành sử dụng ít
vốn, thời gian xây dựng ngắn và thu hồi vốn nhanh.
Thứ ba, về quản lý sản xuất kinhdoanh: các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài quản lý, thực hiện hoạt động động sản xuất kinh doanh phải tuân
thủ các quy định trong Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư ban hành năm 2005. Đây
là loại hình đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư nước ngoài có quyền điều hành doanh
nghiệp. Quyền này phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư vào vốn đầu tư của
doanh nghiệp. Trong trường hợp góp 100% vốn thì nhà đầu tư có toàn quyền quyết
định hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Về hình thức đầu tư thì doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đang
chuyển dần từ liên doanh là chủ yếu sang hình thức 100% vốn nước ngoài là phổ biến.
Thứ tư, về sản phẩm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài thường mang hàm lượng kinh tế cao, sản phẩm đạt tiêu chuẩn, bao bì,
mẫu mã đẹp, một mặt đáp ứng thị trường tiêu thụ trong nước thay thế hàng nhập
khẩu, mặt khác các sản phẩm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường là
xuất khẩu.
Thứ năm, về ngành nghề sản xuất kinh doanh: mục đích của các nhà đầu tư là
lợi nhuận nên các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài phần lớn tập trung vào những ngành nghề có thể mang lại lợi
nhuận cao như hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và một số
ngành dịch vụ có vị trí quan trọng như tài chính tín dụng, dịch vụ bảo hiểm, thương
nghiệp, hoạt động giáo dục và đào tạo, viễn thông….
Thứ sáu, về phân phối thu nhập: Lợi nhuận của các chủ đầu tư phụ thuộc vào
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và lợi nhuận của doanh
nghiệp được phân chia theo tỷ lệ góp vốn sau khi nộp thuế và trả lợi tức cổ phần.
Thứ bảy, về thị trường các nhà đầu tư nước ngoài thường rất tinh thông về thị
13
trường thế giới và tiến bộ kỹ thuật, hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh gắn liền
với lợi ích của chủ đầu tư nên họ có thể lựa chọn công nghệ, chất lượng nhân lực và
khả năng quản lý cho nước xúc tiến đầu tư, nhất là đối với các nước đang phát triển
như Việt Nam. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng vì lợi nhuận các nhà đầu tư nước ngoài có
thể chuyển giao một số công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, khai thác tài
nguyên khoáng sản lãng phí, đẩy các doanh nghiệp của nước sở tại tới bờ phá sản,
hoặc làm mất cân đối cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư.
1.2.3 Vai trò của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò
quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, là khu vực doanh nghiệp có tốc độ phát
triển năng động nhất.
Về mặt kinh tế:
Đóng góp của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào tổng vốn đầu tư
xã hội:
Đóng góp của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng vốn
đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên
mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ trọng này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000,
do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) và trong
5 năm 2001-2005 chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội; trong 3 năm 2007-
2009 chiếm khoảng 25.9% (Theo Niên giám Thống kê cơ cấu vốn đầu tư thực hiện
của khu vực FDI năm 2007 là 24,3% và năm 2008 là 30,9%).
Đóng góp của doanh nghiệp vào tăng trưởng kinh tế hay GDP của Việt Nam:
Vốn đầu tư của doanh nghiệp trực tiếp nước ngoài đã góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế đất nước. Từ năm 1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc
động tăng bình quân mỗi năm 7,56%, trong đó: (i) 5 năm 1991-1995: tăng 8,18%
(nông lâm ngư tăng 2,4%; công nghiệp xây dựng tăng 11,3%, dịch vụ tăng 7,2%);
(ii) 5 năm 1996-2000: tăng 6,94% (nông lâm ngư tăng 4,3%; công nghiệp xây dựng
tăng 10,6%, dịch vụ tăng 5,75%). Nhờ vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm trong
nước tăng gấp hơn 2 lần năm 1990: (iii) 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt
14
7,5% (nông lâm ngư tăng 3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng
7%; (iv) Năm 2006 đạt 8,17% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng
tăng 10,37%, dịch vụ tăng 8,29%; (v) Năm 2007 đạt 8,46% (nông lâm ngư tăng
3,76%; công nghiệp xây dựng tăng 10,22%, dịch vụ tăng 8,85% và (vi) năm 2008
đạt 6,31% (nông lâm ngư tăng 4,68%; công nghiệp xây dựng tăng 5,98%, dịch vụ
tăng 7,37%.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp:
Trong 20 năm qua doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng một
vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung và cho ngành công
nghiệp nói riêng, trong đó từng bước trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc
gia, góp phần phát triển các ngành công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người
lao động. Nhiều công trình lớn đã hoàn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả
đầu tư, nhiều công trình trọng điểm làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó
được khởi công và đẩy nhanh tiến độ, nhất là các công trình điện, dầu khí, công
nghiệp nặng, công nghiệp phục vụ xuất khẩu
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH), tăng tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong ngành công nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm 1991 lên 40%
năm 2004, 44,6% năm 2007 và năm 2008).
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài trong 5 năm qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công
nghiệp của cả nước. Cụ thể tỷ trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7%
vào 2 năm 2004 và 2005, 44,4% năm 2008.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đầu tư vào nhiều ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo và tăng cường năng lực của nhiều ngành công nghiệp
như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử và điện tử gia
15
dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may… Hiện doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp 100% sản lượng của một số sản
phẩm công nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép,
33% hàng điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản
lượng sợi, 25% hàng may mặc.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần hình thành và
phát triển trong cả nước hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ
cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số
địa phương đất đai kém màu mỡ.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy chuyển giao
công nghệ:
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thúc đẩy chuyển
giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng
của đất nước như viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo
điện tử, tin học, ô tô, xe máy Nhất là sau khi Tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ đô la Mỹ
vào Việt Nam trong dự án sản xuất linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng
các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon,
Panasonic, Ritech.v.v)
Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài cao hơn hoặc bằng các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các
nước trong khu vực. Hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ
thống quản lý hiện đại của công ty mẹ.
Trong nông-lâm-ngư nghiệp, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp đáng kể vào
NSNN và góp phần ổn định các cân đối vĩ mô:
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào ngân sách
16
ngày càng tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp đầu
tư nước ngoài đã nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5
năm 2001-2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2007 và
2008 khu vực kinh tế có vốn đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ
1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005.
Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền
kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế
thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp
qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài góp phần giúp Việt Nam hội nhập
sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI tăng nhanh, cao hơn mức
bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần
so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm
25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm
2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2006, 2007 và 2008.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm một tỷ trọng cao trong
xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh
kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng may mặc…Thông qua mạng lưới tiêu thụ
của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận
được với các thị trường trên thế giới.
Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã tạo ra nhiều khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng
như các khu du lịch, nghỉ dưỡng đáp ứng nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần
gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần
17
đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng.
Doanh nghiệp doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần mở
rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng
trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt
Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá
thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN,
APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo
hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định
tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản. Thông qua tiếng nói và sự
ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không
ngừng được cải thiện.
Về mặt xã hội, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần
quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao động, cải thiện nguồn
nhân lực:
Đến nay, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra
việc làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác
theo kết quả điều tra của WB cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao
động gián tiếp phục vụ trong khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc
lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP
đầu người tăng lên hàng năm. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam đã từng bước hình
thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng
bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và có tác phong công
nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức, kinh
nghiệm quản lý tiên tiến.
Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
18
Nam cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công
nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản
phẩm và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia
Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã dần
thay thế các chuyên gia nước ngoài trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh
nghiệp cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại.
1.2.4 Sự cần thiết phải nghiên cứu hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
Nghiên cứu hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài là quá trình nghiên cứu mặt lượng trong mối quan hệ mật thiết với
mặt chất nhằm nêu lên bản chất cụ thể và tính quy luật về kết quả sản xuất kinh
doanh trong tương quan với chi phí hoặc nguồn lực tương ứng đối với các bên liên
quan gồm có các chủ đầu tư, người lao động, nước tiếp nhận đầu tư. Qúa trình này
giúp đánh giá được thực trạng, ưu nhược điểm hoạt động sản xuất kinh doanh,
hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài nói riêng, làm cơ sở đề xuất các quyết định quản lý, giải pháp
khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài
+ Nghiên cứu hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài qua thời gian: nhằm phân tích mức độ, xu thế quy luật biến
động hiệu quả sản xuất kinh doanh.
+ Phân tích biến động hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài qua không gian: nhằm đánh giá, so sánh hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giữa các tỉnh, thành
phố, ngành, vùng kinh tế và giữa các hình thức đầu tư;
+ Phân tích hiệu quả theo bộ phận: nhằm đánh giá hiệu quả của từng bộ phận
và tác động của chúng đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài của toàn nền kinh tế như lao động, năng suất lao động, vốn và
quy mô nguồn vốn, hiệu suất sử dụng tài sản cố định, tài sản lưu động tác động đến
19
hiệu quả sản xuất kinh doanh như thế nào;
+ Phân tích tác động của hiệu quả kinh tế tới các chỉ tiêu kết quả: nhằm xác
định nguyên nhân làm căn cứ xây dựng các giải pháp tăng cường hiệu quả sử dụng
chi phí, nguồn lực và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài;
+ Phân tích hiệu quả theo nhân tố: nhằm nghiên cứu tác động của từng nhân tố
cấu thành đối với hiệu quả sản xuấ kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài;
+ Nghiên cứu mối liên hệ giữa các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài;
20
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SẢN XUẤT
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
2.1 Hệ thống chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.2.1 Sự cần thiết phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu
Để thực hiện phân tích hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài, vấn đề quan trọng là là phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ
tiêu về hiệu quả kinh tế. Hệ thống chỉ tiêu là cơ sở để đánh giá tình hình thực hiện
các định mức hiệu quả. Ngoài ra, hệ thống chỉ tiêu hiệu quả có quan hệ chặt chẽ với
hệ thống phương pháp phân tích. Các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối có phương pháp
phân tích khác với các chỉ tiêu hiệu quả tương đối. Điều này có nghĩa hệ thống chỉ
tiêu hiệu quả là cơ sở, là tiền đề để lựa chọn và xây dựng hệ thống các phương pháp
phân tích hiệu quả.
Hiện nay, Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả về doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài còn sơ sài, chưa hệ thống được các chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp cho các nhà hoạch
định chính sách. Cụ thể:
- Năng suất lao động theo doanh thu
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng bình quân một lao động làm việc tạo ra bao
nhiêu doanh thu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Năng suất lao động theo doanh thu = Tổng doanh thu sản xuất kinh
doanh/lao động bình quân
- Tỷ lệ nộp ngân sách so với doanh thu
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ nộp ngân sách của doanh nghiệp trên doanh
thu sản xuất kinh doanh
21
Tỷ lệ nộp ngân sách so với doanh thu = Tổng số phải nộp ngân sách/tổng
doanh thu sản xuất kinh doanh
- Thu nhập của người lao động
Là tổng các khoản mà người lao động nhận được do sự tham gia của họ vào
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thu nhập của người lao động
bao gồm:
+ Tiền lương, tiền thưởng và các khoản phụ cấp, thu nhập khác có tính chất
như lương: Gồm tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp và tiền thưởng trong
lương; các khoản phụ cấp và thu nhập khác của người lao động được hạch toán
vào chi phí sản xuất, vào giá thành sản phẩm như phụ cấp ca 3, phụ cấp đắt đỏ,
phụ cấp đi lại, ăn giữa ca, trợ cấp thuê nhà và các khoản phụ cấp thường xuyên,
không thường xuyên khác cho người lao động. Bao gồm các hình thức trả bằng
tiền, bằng hiện vật như: Thực phẩm, đồ uống, nhiên liệu, quần áo (trừ quần áo
bảo hộ lao động).
+ Bảo hiểm xã hội trả thay lương: Là khoản cơ quan BHXH chi trả cho
người lao động của doanh nghiệp trong thời gian nghỉ ốm, thai sản, tai nạn lao
động theo chế độ quy định hiện hành.
+ Các khoản thu nhập khác không tính vào chi phí sản xuất kinh doanh: Là
các khoản chi trực tiếp cho người lao động nhưng không hạch toán vào chi phí
sản xuất mà nguồn chi lấy từ quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, lợi nhuận của chủ
doanh nghiệp hoặc từ các nguồn khác (quà tặng, thưởng của cấp trên ).
- Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp
Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp là chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, một ngành hoặc một loại hình
kinh tế, qua đó đánh giá chất lượng, sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và là căn cứ để các nhà quản lý doanh nghiệp, nhà đầu tư, nhà hoạch định
chính sách đưa ra các quyết định phù hợp với thực tiễn.
22
+ Tỷ suất lợi nhuận tính theo doanh thu
Là tỷ lệ so sánh giữa tổng số lợi nhuận trước thuế thu được từ các hoạt động
sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác trong năm với tổng doanh thu của doanh
nghiệp, phản ánh một đồng doanh thu tạo ra trong kỳ có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Công thức tính:
Tỷ suất lợi nhuận Lợi nhuận trước thuế
tính theo doanh thu Doanh thu trong kỳ
Trong đó: Doanh thu trong kỳ bao gồm:
(i) Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ
Doanh thu thuần về bán
hàng và cung cấp dịch vụ
=
Doanh thu bán hàng và
cung cấp dịch vụ
-
Các khoản giảm trừ
doanh thu
- Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ: phản ánh tổng doanh thu bán
hàng hóa, thành phẩm, bất động sản đầu tư và cung cấp dịch vụ trong năm của
doanh nghiệp.
- Các khoản giảm trừ doanh thu: phản ánh tổng hợp các khoản được ghi giảm
trừ vào tổng doanh thu trong năm, bao gồm: Các khoản chiết khấu thương mại;Các
khoản giảm giá hàng bán; Doanh thu hàng bán bị trả lại và các khoản thuế: thuế tiêu
thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTGT của doanh nghiệp nộp thuế GTGT tính
theo phương pháp trực tiếp phải nộp tương ứng với số doanh thu được xác định
trong năm.
(ii) Doanh thu hoạt động tài chính:
Phản ánh doanh thu tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức, lợi nhuận được chia và
doanh thu hoạt động tài chính khác trong năm của doanh nghiệp, bao gồm:
- Tiền lãi: Lãi cho vay, lãi tiền gửi Ngân hàng, lãi bán hàng trả chậm, trả góp,
lãi đầu tư trái phiếu, tín phiếu, chiết khấu thanh toán được hưởng do mua hàng hoá,
dịch vụ;
- Cổ tức, lợi nhuận được chia;
23