Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

CÁCH THỨC tồn tại và PHÁT TRIỂN của CÔNG TY TRÁCH NHIỆM hữu hạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.29 KB, 35 trang )

MỞ BÀI
1 : TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI .
Để một công ty tồn tại và phát triển đồng nghĩa với nó là những rủi ro ,
thách thức ngày càng nhiều .Với một công ty trách nhiệm hữu hạn cũng không
ngoại trừ việc sàng lọc , cũng như loại trừ tiêu diệt lẫn nhau .ai trụ hạng được
chưa chắc điều đó chấm dứt .
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một điều kiện và yếu tố kích
thích kinh doanh. Quy luật cạnh tranh là động lực phát triển sản xuất. Sản xuất
hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá bán ra nhiều số lượng người cung ứng
ngày càng đông thì cạnh tranh ngày càng khốc liệt, kết quả cạnh tranh là loại bỏ
những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và sự lớn mạnh của những doanh
nghiệp làm ăn lớn .
2 . KẾT CẤU VỀ TIỂU LUẬN ( 2 Chương )
* Chương 1 :
+ Tim hiểu công ty trách nhiệm hữu hạn ( phân biệt )
+ Những hiểu biết ( các loại hình kinh doanh )
+ Những loại luật liên quan
• Chương 2 :
+ Những thách thức . khó khăn , biện pháp
+ Những hỗ trợ cũng như lợi ích của chính phủ mang lại
+ Những tác động của nó đến các công ty TNHH
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 1
PHOTO QUANG TUẤN
ĐT: 0972.246.583 & 0166.922.4176
Gmail: ; Fabook: vttuan85
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : PHÂN BIỆT CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
1. CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ
chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ


sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ
ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
3. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát
hành cổ phần.
1.2. CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp, trong đó:
a) Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt
quá năm mươi;
b) Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp;
c) Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại
các điều 43, 44 và 45 của Luật này.
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 2
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
3. Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phần.
2 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH
NĂNG LỰC CẠNH TRANH .
Năng lực cạnh tranh là sức mạnh của doanh nghiệp được thể hiện trên thương
trường. Sự tồn tại và sức sống của một doanh nghiệp thể hiện trước hết ở năng
lực cạnh tranh. Để từng bước vươn lên giành thế chủ động trong quá trình hội
nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh chính là tiêu chí phấn đấu của các doanh
nghiệp Việt Nam.
1 Tính tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Trờn thực tế cạnh tranh xuất hiện trong hầu hết cỏc lĩnh vực của xó hội. Mọi nơi,
mọi lúc đều có thể xuất hiện cạnh tranh. Nú khụng những tồn tại trong lĩnh vực
kinh tế mà cũn tồn tại trong lĩnh vực xó hội.

Xét trong phạm vi nền kinh tế thị trường, tồn tại rất nhiều thành phần kinh tế
khác nhau. Mỗi thành phần kinh tế có đặc điểm riêng về quan hệ sở hữu tư liệu
sản xuất, mang bản chất kinh tế khác nhau, có các lợi ích kinh tế khác nhau, thậm
chí là đối lập với nhau. Chính mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế dẫn đến
xuất hiện cạnh tranh để có thể giành được nhiều lợi ích kinh tế hơn. Cạnh tranh
trở thành động lực để cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất.
Bên cạnh đó, trong nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần, luôn diễn ra hoạt
động trao đổi hàng hóa với nhiều người mua, nhiều người bán có lợi ích kinh tế
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 3
khác nhau, và nhiều loại hàng hóa tương tự nhau về chất lượng, giá cả thỡ tất
yếu sẽ làm nảy sinh sự cạnh tranh : cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, cạnh
tranh về phương thức giao dịch mua bán, cạnh tranh giữa người bán với người
bán, cạnh tranh giữa người mua với người bán, cạnh tranh giữa người mua với
nhau…Tạo nên sự vận động của thị trường và trật tự của thị trường.
Qua đó ta có thể thấy được cạnh tranh là một yếu tố cơ bản của cơ chế thị trường.
Nó là quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hóa , là nội dung cơ chế vận
động của thị trường. Cạnh tranh xuất hiện và gắn liền với sự phát triển của nền
kinh tế hàng hóa, ở đâu có sản xuất trao đổi hàng hóa thỡ ở đó có cạnh tranh. Vỡ
vậy khụng thể lẩn trỏnh cạnh tranh mà phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh
tranh và sẵn sàng sử dụng vũ khí cạnh tranh hữu hiệu.
1.1.2 Khái niệm về cạnh tranh
Là một thuật ngữ lâu đời và được sử dụng phổ biến , thường xuyên được nhắc tới
trong mọi lĩnh vực của xó hội. Thuật ngữ “ cạnh tranh” luôn thu hút được sự
quan tâm của giới nghiên cứu và được phân tích từ nhiều góc độ khác nhau. Với
mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau thỡ cạnh tranh được định nghĩa khác nhau
Hiểu một cách chung nhất cho mọi lĩnh vực trong đời sống thỡ cạnh tranh được
định nghĩa là: “Cạnh tranh là hiện tượng tự nhiên, là mâu thuẫn quan hệ giữa các
cá thể có chung môi trường sống với các điều kiện nào đó mà các cá thể cùng
quan tâm”.

2 . Cạnh tranh trong kinh tế giữa các doanh nghiệp
Là việc sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các cơ hội của doanh nghiệp để
giành lấy phần thắng, phần hơn về mình trước các doanh nghiệp khác trong quá
trình kinh doanh, bảo đảm cho foanh nghiệp phát triển nhanh chóng và bền vũng.
- Trong nền kinh tế thị trường, trớc mỗi nhu cầu cảu những người tiêu dùng
(người muc- bên A) dới dạng các loại sản phẩn tương tự - sản phẩn thường có rất
nhiều các nhà sản xuất (người bán - bên B) tham gia đáp ứng, họ luôn phải cố
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 4
gắng để giành chiến thắng, sự cạnh tranh diễn ra là tất yếu trong môi trường luật
pháp của nhà nước, các thông lệ của thị trường và các quy luật khách quan vốn
có của nó.
3. Các loại hình cạnh tranh
Dựa vào các tiêu thức khác nhau, cạnh tranh được phên ra thành nhiều loại.
* Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường cạnh tranh được chia thành 3 loại.
- Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Người bán muốn bán hàng hoá của
mình với giá cao nhất, còn người mua muốn bán hàng hoá của mình với gái cao
nhát, còn người mua muốn muc với giá thấp nhất. Giá cả cuối cùng được hình
thành sau quá trình thương lượng giữ hai bên
- Cạnh tranh giứa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào
quan hệ cùng cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh trở
nên gay gắt, giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng lê, người mua phải chấp nhận giá
cao để mua được hàng hoá hoá mà họ cần.
Cạnh tranh giữa những nguời bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh nhằm giành giật
khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người mua.
Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra đuối sức, không chịu được
sức ép sẽ phải rút lui khỏi thị trường, nhường thị phần của mình cho các đối thủ
mạnh hơn.
* Căn cứ theo phạm vu nghành kinh tế cạnh tranh được phân thành hai loại.
- Cạnh tranh trong nội bộ nghành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp

trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ. Kết quả
của cuộc cạnh tranh này là làm cho kỹ thuật phát triển.
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 5
- Cạnh tranh giữa các nghành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
các nghành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình
này có sự phận bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giuqã các nghành, kết quả là
hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
* Căn cứ vào tính chất cạnh tranh cạnh tranh được phân thành 3 loại.
- Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Cometition): Là hình thức cạnh tranh giữa nhiều
người bán trên thị trờng trong đó không người nào có đủ ưu thế khống chế giá cả
trên thị trường. Các sản phẩm bán ra đều được người mua xem là đồng thức, tức
là không khác nhua về quy cách, phẩm chất mẫu mã. Để chiến thắng trong cuộc
cạnh tranh các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành hoặc
làm khác biệt hoá sản phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh.
- Cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect Competition): Là hình thức cạnh tranh
giữa những người bán có các sản phẩm không đồng nhất với nhau.
Mỗi sản phẩn đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau cho nên để giành đựơc
ưu thế trong cạnh tranh, người bán phảo sử dụng các công cụ hỗ trợ bán như:
Quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, ưu đãi giá cả, đây là loại hình cạnh
tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
- Cạnh tranh độc quyền (Monopolistic Competition): Trên thị trường chỉ có nột
hoặc một số ít người bán một sản phẩm hoặc dịch vụ vào đó, giá cả của sản phẩm
hoặc dịch vụ đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ thuộc vào quan hệ
cung cầu.
* Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh chia cạnh tranh thành:
- Cạnh tranh lành mạnh: Là cạnh tranh đúng luật pháp, phù hợp với chuẩn mực
xã hội và đợc xã hội thừa nhận, nó thướng diễn ra sòng phẳng, công bằng và công
khai.
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH

Trang 6
- Cạnh tranh không lành mạnh: Là cạnh tranh dựa bào kẽ hổ của luật pháp, trái
với chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án ( như trốn thuế buôn lậu, móc ngoặc,
khủng bố vv )
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 7
CHƯƠNG 2 : CÁCH THỨC TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY
TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
1 : KHÓ KHĂN
Trong bối cảnh của toàn cầu hóa, nhất là khi Việt Nam là thành viên của Tổ
chức Thương mại thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với các đối
thủ mới (các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính, công
nghệ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao), phải cạnh tranh quyết liệt trong
điều kiện mới (thị trường toàn cầu với những nguyên tắc nghiêm ngặt của định
chế thương mại và luật pháp quốc tế). Nói cách khác, các doanh nghiệp Việt Nam
đang phải đối mặt với những thách thức thật sự to lớn.
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện còn rất hạn
chế. Bởi lẽ, đa số các doanh nghiệp đều có quy mô nhỏ và ít vốn. Theo điều tra
mới nhất hiện có 51,3% doanh nghiệp có dưới 10 người lao động, 44% doanh
nghiệp có từ 10 đến 200 lao động, chỉ có 1,43% doanh nghiệp có từ 200 đến 300
lao động, 42% doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỉ đồng, 37% doanh nghiệp có vốn từ
1 tỉ đến 5 tỉ đồng và chỉ có 8,18% doanh nghiệp có vốn từ 5 tỉ đến 10 tỉ đồng[3].
Trong điều kiện quy mô doanh nghiệp nhỏ, vốn ít các doanh nghiệp Việt
Nam lại gặp một thách thức rất lớn đó là chất lượng nhân lực của doanh nghiệp
thấp. Đội ngũ chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý doanh nghiệp còn rất thiếu kiến
thức quản trị và kỹ năng kinh nghiệm quản lý. Kết quả điều tra hơn 63.000 doanh
nghiệp trên cả nước cho thấy: 43,3% lãnh đạo doanh nghiệp có trình độ học vấn
dưới trung học phổ thông, số chủ doanh nghiệp có trình độ thạc sỹ trở lên chỉ có
2,99%.[4] Có thể nói, đa số các chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư
nhân chưa được đào tạo một cách bài bản về kiến thức kinh doanh, quản lý, kinh

GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 8
tế – xã hội, văn hóa, luật pháp… và kỹ năng quản trị kinh doanh, nhất là kỹ năng
kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế. Điều đó được thể hiện rõ trong việc
nhiều doanh nghiệp chưa chấp hành tốt các quy định về thuế, quản lý nhân sự,
quản lý tài chính, chất lượng hàng hóa, sở hữu công nghiệp…
Thứ hai, sự lạc hậu về khoa học – công nghệ của các doanh nghiệp Việt
Nam. Hiện nay, đa số các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ lạc hậu
so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ, 76% máy móc, dây chuyền
công nghệ được sản xuất từ những năm 1950 – 1960, 75% số thiết bị đã hết khấu
hao, 50% số thiết bị là đồ tân trang… Tóm lại, máy móc, thiết bị đang được sử
dụng ở các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có 10% hiện đại, 38% trung bình và 52%
là lạc hậu và rất lạc hậu; tỷ lệ sử dụng công nghệ cao mới chỉ có 2% (tỷ lệ này ở
Thái Lan là 31%, Ma-lai-xi-a là 51% và Xin-ga-po là 73%). Trong khi đó, các
doanh nghiệp nước ta đầu tư cho đổi mới công nghệ rất thấp, chi phí khoảng
0,2% – 0,3% tổng doanh thu[5].
Thứ ba, hạn chế về khâu nguyên vật liệu và sự yếu kém về thương hiệu các
doanh nghiệp. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu
cho sản xuất kinh doanh. Trong những năm qua, nhiều sản phẩm xuất khẩu và
sản phẩm có sự tăng trưởng cao (hàng da giày, dệt may, chế biến thực phẩm, đồ
uống, sản phẩm thép và kim loại màu, sản phẩm nhựa, hàng điện tử, ô tô, xe
máy…) đều phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu bán thành phẩm nhập khẩu từ nước
ngoài. Trong khi đó, giá cả các loại nguyên vật liệu này trên thế giới có xu hướng
gia tăng, làm cho nhiều nhóm sản phẩm có tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu khá
cao, chiếm hơn 60% giá thành sản phẩm.
Mặt khác, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu
mạnh, chưa khẳng định được uy tín chất lượng và năng lực cạnh tranh trên thị
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 9
trường khu vực và quốc tế. Trên thực tế, trong nhiều sản phẩm của Việt Nam yếu

tố cấu thành của tri thức, công nghệ thấp, trong khi yếu tố sức lao động và
nguyên vật liệu cao… Điều đó làm cho sức cạnh tranh thấp, chất lượng sản phẩm
không có ưu thế rõ rệt trên thị trường.
Thứ tư, chiến lược phân phối, chiến lược truyền thông và xúc tiến thương mại
của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế. Đa số các doanh nghiệp Việt
Nam có quy mô vừa và nhỏ nên hạn chế tầm hoạt động và mạng lưới phân phối
sản phẩm. Trong khi đó, hoạt động xúc tiến thương mại còn giản đơn, sơ lược và
không có hiệu quả thiết thực. Có rất ít doanh nghiệp xây dựng được chương trình
xúc tiến, giới thiệu một cách bài bản về sản phẩm cho khách hàng. Hầu hết các
doanh nghiệp chưa nhận thức đúng được giá trị và ý nghĩa của xúc tiến thương
mại, quảng cáo…Vì vậy, chi phí cho quảng cáo rất thấp, chỉ dưới 1% doanh thu
(tỷ lệ này của các doanh nghiệp nước ngoài chiếm khoảng 10% đến 20% doanh
thu).
2 – Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
Việt Nam
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là khi Việt Nam là thành viên của WTO
thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh trở thành vấn đề sống còn của các doanh
nghiệp.
Một là, nâng cao trình độ học vấn, hiểu biết về kinh tế – xã hội, văn hóa, luật
pháp… cho các chủ doanh nghiệp, các bộ quản lý và người lao động trong doanh
nghiệp. Như đã nhận xét ở phần trên, hiện còn tới 43,3% chủ doanh nghiệp có
trình độ học vấn dưới trung học phổ thông, số có trình độ thạc sỹ trở lên chỉ
chiếm 2,99%. Vì vậy, giáo dục – đào tạo cần trang bị học vấn ở trình độ cử nhân
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 10
và những tri thức cơ bản về kinh tế – xã hội, văn hóa, pháp luật… cho các chủ
doanh nghiệp, giám đốc, cán bộ quản lý doanh nghiệp và những người lao động.
Hai là, tăng cường năng lực của chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý
trong các doanh nghiệp về quản trị kinh doanh, quản trị chiến lược. Trong mọi
điều kiện, doanh nhân cần thường xuyên cập nhật tri thức mới, những kỹ năng

cần thiết (kỹ năng quản trị trong cạnh tranh, kỹ năng lãnh đạo doanh nghiệp, kỹ
năng quản lý sự biến đổi, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán và giao tiếp
v.v…) để có đủ sức cạnh tranh trên thị trường và tiếp cận nền kinh tế tri thức.
Để có đủ sức cạnh tranh lâu dài và có thể tự tin bước vào kinh tế tri thức, các
doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược phát triển bền vững. Trong đó, đặc
biệt chú trọng đến chiến lược cạnh tranh và những kỹ năng mang tính chiến lược
như: Quản trị chiến lược, quản trị rủi ro, và tính nhạy cảm trong quản lý, phân
tích kinh doanh, dự báo và định hướng chiến lược phát triển…
Ba là, hiện nay đa số các doanh nghiệp Việt Nam đều có quy mô nhỏ, vốn ít,
trình độ học vấn, kiến thức kinh doanh, hiểu biết luật pháp (nhất là luật pháp
quốc tế) không cao, trình độ tay nghề của người lao động thấp… Trong điều kiện
này, để thực hiện chiến lược cạnh tranh cần phải và nhất thiết phải thực hiện
phương châm liên kết và hợp tác để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao sức
cạnh tranh trên thị trường. Sự liên kết và hợp tác không phải là phép tính cộng
tổng số các doanh nghiệp, mà chính là tạo ra sức mạnh bội phần của các nhóm,
các tập đoàn kinh tế cùng sản xuất kinh doanh một (hoặc một số) sản phẩm nhất
định và cùng thực hiện chiến lược thương hiệu, xúc tiến thương mại và quảng bá
sản phẩm trên thị trường.
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 11
Bốn là, tăng cường sự hỗ trợ của chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước
về vốn, cơ chế, chính sách, luật pháp, xúc tiến thương mại, giáo dục – đào tạo, tư
vấn về thiết bị, công nghệ hiện đại… cho các doanh nghiệp. Đồng thời, tăng
cường hơn nữa vai trò của các hiệp hội, các hội, các câu lạc bộ giám đốc và các
tổ chức chuyên môn, nghiệp vụ đối với sự phát triển của các doanh nghiệp.
Năm là, xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa có vai trò quan trọng trong sự
phát triển, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế – xã hội. Từ xưa, cha
ông ta đã đúc kết: "Phi trí bất hưng, phi thương bất phú, phi công bất hoạt". Ngày
nay, trong xã hội hiện đại, quan niệm về giá trị, về lao động sáng tạo, ý thức cạnh
tranh, ý chí làm giàu, sự tín nhiệm xã hội… có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng

cao năng lực cạnh tranh và xây dựng văn hóa doanh nghiệp.
Văn hóa doanh nghiệp, nói một cách khái quát là "đạo làm giàu", tức là làm
giàu một cách có văn hóa: Làm giàu cho bản thân, làm giàu cho doanh nghiệp,
làm giàu cho xã hội và cho đất nước. Sự giàu có về trí tuệ, về của cải và tính năng
động sáng tạo là những giá trị xã hội mà mỗi doanh nhân, mỗi doanh nghiệp phải
có. Vì vậy, xây dựng văn hóa doanh nghiệp tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh,
tích cực luôn là động lực thúc đẩy sức sáng tạo và sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp.
Tăng cường công tác thông tin
Ðể tạo điều kiện cho cộng đồng DN tiếp cận các thông tin chính thức từ các
cơ quan Chính phủ và các cơ quan liên quan, trong thời gian qua nhiều cuộc gặp
gỡ giữa các DN với các cơ quan chính quyền nhằm trao đổi thông tin, đối thoại
về những vấn đề DN quan tâm, đồng thời chia sẻ thông tin từ chính cộng đồng
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 12
DN đã được tổ chức, góp phần cung cấp những thông tin chính xác, kịp thời cho
DN để định hướng kinh doanh.
Tuy nhiên, thiếu thông tin, đặc biệt là những thông tin có tính dự báo, phục
vụ cho hoạt động kinh doanh vẫn đang là một khó khăn lớn nhất của DN hiện
nay. Vì vậy, các cơ quan chức năng của Chính phủ cần tăng cường các hoạt động
nghiên cứu, dự báo và phổ biến kịp thời, công khai các thông tin kinh tế đến các
DN và hiệp hội DN. Ðây cũng chính là cơ sở để DN có thể nâng cao chất lượng
xây dựng và điều hành chiến lược đầu tư, kinh doanh của mình.
Trong điều kiện khó khăn, nhiều DN rất chủ động trong việc điều chỉnh chiến
lược và kế hoạch kinh doanh, đưa ra những biện pháp tháo gỡ khó khăn cho
chính mình như rà soát lại và điều chỉnh đầu tư, đa dạng hóa sản phẩm, phát huy
tối đa công suất, tiết kiệm chi phí, đổi mới thiết bị, tăng năng suất, áp dụng các
biện pháp quản lý tiên tiến, đa dạng hóa các kênh huy động vốn, đa dạng thị
trường xuất khẩu, sử dụng các công cụ chống rủi ro, thương lượng với đối tác để
điều chỉnh tăng giá bán đối với các hợp đồng đã ký và hợp đồng mới, tìm nguồn

cung cấp mới, nguyên liệu thay thế rẻ hơn, chấp nhận giảm lợi nhuận để giữ chân
khách hàng
Ngoài ra, nhiều DN cũng đã chuẩn bị chiến lược kinh doanh và đầu tư, mở
rộng thị trường cho giai đoạn sau lạm phát. Mặc dù vậy, phần lớn các DN còn
lúng túng trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh và thiếu khả năng ứng xử
linh hoạt trong điều kiện môi trường kinh doanh thay đổi, một mặt do thiếu thông
tin, mặt khác do năng lực của DN còn hạn chế. Việc hỗ trợ DN về thông tin và
kiến thức để triển khai tốt công tác này là nhiệm vụ quan trọng của các hiệp hội
DN và cả các cơ quan Chính phủ. Chính phủ cần tăng cường công tác nghiên cứu
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 13
dự báo, bổ sung và hoàn thiện sớm các quy hoạch phát triển ngành, vùng, giúp
định hướng cho việc xác định chiến lược của DN.
Nâng cao trình độ quản trị DN và đào tạo đội ngũ doanh nhân
Một điểm yếu hiện nay của các DN là trình độ quản trị hạn chế và còn khoảng
cách khá xa với những chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Việc điều hành DN của
nhiều doanh nhân chủ yếu là dựa trên kinh nghiệm. Nâng cao trình độ đội ngũ
quản trị DN là một yêu cầu cấp bách hiện nay. Sớm xây dựng và triển khai thực
hiện chương trình quốc gia trợ giúp đào tạo đội ngũ doanh nhân (bao gồm đào tạo
phổ cập cho DN vừa và nhỏ và chương trình đào tạo quản trị cao cấp).
Trong điều kiện lạm phát và kinh tế khó khăn lại càng phải đề cao trách nhiệm
xã hội và văn hóa kinh doanh của DN. Bởi vì đó là cách tốt nhất để DN tăng
cường gắn bó với người lao động, khách hàng và cộng đồng, vượt qua những khó
khăn do lạm phát và bảo đảm phát triển bền vững. Thời gian qua Chính phủ và
các cơ quan có liên quan, các hiệp hội DN đã có nhiều nỗ lực trong việc tuyên
truyền, phổ biến và tư vấn hỗ trợ DN thực hiện trách nhiệm xã hội, xây dựng văn
hóa kinh doanh. Dù đã đạt những kết quả bước đầu, nhưng đây vẫn là một khâu
yếu trong hoạt động của DN. Các hiệp hội DN và các DN phải đầu tư nhiều hơn
cho công tác này. Các cơ quan Chính phủ một mặt cần tăng cường hoạt động trợ
giúp và giám sát theo chức năng, mặt khác cần củng cố năng lực của bộ máy cơ

quan chuyên trách về môi trường, lao động để bảo đảm tuân thủ kỷ cương, phép
nước trong các lĩnh vực quan trọng này.
Hiện nay, cả nước có khoảng 300 hiệp hội DN. Ngoài vai trò đại diện cho
tiếng nói của DN và xúc tiến thương mại, đầu tư, các hiệp hội DN còn có vai trò
quan trọng trong lĩnh vực quan hệ lao động, thực hiện trách nhiệm xã hội của
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 14
DN. Trong điều kiện hội nhập, các biện pháp hành chính của Chính phủ sẽ khó
có thể thực hiện trực tiếp nhằm yểm trợ cho DN. Nhưng những biện pháp hỗ trợ
gián tiếp thông qua hiệp hội DN, đặc biệt là việc liên kết tự nguyện của DN sẽ là
cơ chế phù hợp với các quy định của WTO. Do vậy cần thiết phải sắp xếp và
củng cố hệ thống các hiệp hội DN trên cả nước, bảo đảm hiệp hội DN hoạt động
một cách thiết thực và hiệu quả. Ðề nghị Chính phủ sớm ban hành nghị định về
hiệp hội DN và có chương trình trợ giúp nâng cao năng lực của các hiệp hội DN.
Mở rộng khả năng tiếp cận vốn cho DN
Trong điều kiện hiện nay, thiếu vốn là một trong những khó khăn lớn nhất của
DN, đặc biệt là khu vực DN nhỏ và vừa. Ðể giải quyết vấn đề này, một mặt các
DN cần chủ động đa dạng hóa cơ cấu vốn để không phụ thuộc quá nhiều vào vốn
vay ngân hàng. Mặt khác, rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc tăng cường
nguồn lực cho các ngân hàng và cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng cho DN
thông qua việc hỗ trợ DN về lãi suất, bảo lãnh tín dụng và năng lực xây dựng
phương án kinh doanh DN đồng thuận với chủ trương thắt chặt tín dụng và linh
hoạt trong điều hành của Chính phủ. Tuy nhiên, căn cứ vào điều kiện thực tiễn,
sự chuyển biến tích cực của chỉ số giá cả trong các tháng tới đây, đề nghị ngân
hàng Nhà nước chủ động nới lỏng các điều kiện, cho phép hệ thống ngân hàng
thương mại tăng cung ứng tín dụng, hạ thấp lãi suất cho vay, tạo điều kiện thuận
lợi cho các DN tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng. Bên cạnh đó, đề nghị
Chính phủ chỉ đạo thực hiện nghiêm túc kế hoạch cắt giảm đầu tư và chi tiêu
công và dành một phần nguồn lực tiết kiệm bổ sung cho nguồn tín dụng hỗ trợ
DN nhỏ và vừa.

Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực điều hành kinh tế
ở cấp địa phương đồng thời tăng cường năng lực công tác điều tiết và phối hợp vĩ
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 15
mô của các bộ, ngành trung ương là một yêu cầu quan trọng hiện nay. Cần tập
trung hoàn chỉnh sớm và nâng cao chất lượng các chiến lược, quy hoạch, chính
sách phát triển kinh tế ngành và liên kết vùng, tăng cường hệ thống thông tin kinh
tế, đào tạo cán bộ để hỗ trợ cho hoạt động điều hành kinh tế của các cơ quan
chính quyền, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho DN phát triển.
3 CÁC BỘ LUẬT VÀ NHỮNG CHỈ THỊ LIÊN QUAN TỚI DOANH NGHIỆP
Luật Doanh nghiệp đã được kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa X thông qua,có hiệu
lực từ ngày 01 tháng 1 năm 2000. Để đảm bảo hiệu lực thi hành của Luật Doanh
nghiệp, trong khi Chính phủ chưa kịp ban hành các Nghị định hướng dẫn thi
hành Luật Doanh nghỉệp, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị:
l. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các Sở Kế hoạch và Đầu tư
thực hiện nhiệm vụ đăng ký kinh doanh theo quy định tại Luật Doanh nghiệp cho
đến khi có quyết định mới.
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phối hợp và hỗ trợ Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết các vấn đề phát sinh
trong quá trinh thi hành Luật Doanh nghiệp.
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 16
3. Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghỉệp được thành lập theo Quyết định
số1253/QĐ-TTg ngày 29 tháng 12 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ khẩn
trương thực hiện việc rà soát, đánh giá, phân loại các văn bản quy phạm pháp luật
các loại giấy phép có liên quan đến việc thi hành Luật Doanh nghiệp trình Thủ
tướng Chính phủ xem xét, quyết định bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc tiếp tục duy
trì.

Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách
nhiệm phối hợp, tạo điều kiện để Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp thưc
hiện nhiệm vụ nêu trên.
4. Văn phòng Chính phủ phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp và các
cơ quan có liên quan khẩn trương hoàn thành các thủ tục theo quy định của pháp
luật để trình Chính phủ ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Doanh
nghiệp trong thời hạn sớm nhất.
5. Chỉ thị này có hiệu lực kể từ ngày ký. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ,Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương có tránh nhiệm tổ chức thực hiện Chỉ thị này.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm theo dõi và báo cáo Thủ
tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Chỉ thị này./.
3.2.1 Chính sách cơ bản của chính phủ:
Hà Nội, ngày 16 tháng 01 năm 2007
CHỈ THỊ CỦA BỘ TRƯỞNG BỘ XÂY DỰNG
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 17
Về một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp thuộc Bộ Xây dựng trong hội nhập kinh tế quốc tế
Những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, các
doanh nghiệp ngành Xây dựng đã và đang chủ động, tích cực tham gia vào tiến
trình chung của cả nước trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã được kết nạp vào Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), sự kiện này đã đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hội nhập,
mở ra cả cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế cả nước nói chung và các
doanh nghiệp ngành Xây dựng nói riêng.
Việc Việt Nam gia nhập WTO đem lại cho doanh nghiệp ngành Xây dựng cơ
hội mở rộng thị trường, thu hút, tiếp nhận và chuyển dịch các nguồn lực đầu tư,
tài chính; tiếp cận nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại và học tập

những kinh nghiệm, kỹ năng quản lý tiên tiến từ các nền kinh tế trên thế giới. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp ngành Xây dựng cũng phải đối mặt với không ít các
thách thức khi nước ta gia nhập WTO, đặc biệt là sự cạnh tranh gay gắt từ bên
ngoài. So với các nước trong khu vực và thế giới, các doanh nghiệp ngành Xây
dựng còn bị hạn chế về năng lực tài chính, trình độ quản lý điều hành dự án,
trình độ cán bộ quản lý, kỹ thuật, đặc biệt là hiểu biết về pháp luật và các thông
lệ quốc tế, thiếu công nghệ thiết bị tiên tiến, thiếu thông tin về thị trường khu vực
và thế giới, trình độ tổ chức thi công còn hạn chế; khả năng sử dụng nguồn lực,
thiết bị, máy móc, nhân công chưa cao, sự hợp tác giữa các nhà thầu trong nước
chưa chặt chẽ, khả năng cạnh tranh của một số sản phẩm vật liệu xây dựng còn
kém so với các sản phẩm nhập ngoại về mẫu mã, chất lượng và giá bán sản
phẩm, một số sản phẩm đã được xuất khẩu ra nước ngoài nhưng khối lượng
chưa nhiều, chưa thường xuyên Một số doanh nghiệp chưa thực sự sẵn sàng và
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 18
chuẩn bị thật tốt cho việc nghiên cứu thị trường, phân tích đánh giá đúng năng
lực và khả năng cạnh tranh của đơn vị mình để xây dựng chiến lược, kế hoạch
sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển, kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân
lực phù hợp, đảm bảo cho sự phát triển bền vững và nâng cao sức cạnh tranh.
Nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển, nâng cao sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành Xây dựng trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế nói chung và thực hiện các cam kết gia nhập WTO nói riêng, Bộ
trưởng Bộ Xây dựng chỉ thị Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc các
Tổng công ty, Công ty mẹ trong mô hình Công ty mẹ - Công ty con; Giám đốc
các công ty độc lập và Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ Xây dựng tập trung thực
hiện ngay các nhiệm vụ, giải pháp sau:
1. Nghiên cứu, quán triệt chiến lược và các cam kết cụ thể có liên quan đến
ngành Xây dựng của Việt Nam với WTO. Từng đơn vị phải nắm bắt một cách cơ
bản và hệ thống các mục tiêu, nguyên tắc, lộ trình thực hiện các cam kết liên
quan đến Ngành và các lĩnh vực hoạt động của đơn vị mình trong WTO, nhận

thức rõ những cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO để từ đó xây dựng, điều
chỉnh chiến lược, kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh của đơn vị mình cho
phù hợp với tình hình mới.
2. Đánh giá lại năng lực thực tế, sức cạnh tranh và khả năng phát triển của đơn vị
mình, có tính đến thị trường khu vực và thế giới, xây dựng chiến lược đầu tư
công nghệ mới, hoàn thiện hệ thống quản lý phù hợp cho từng giai đoạn từ nay
đến năm 2010 và 2020.
3. Xây dựng chiến lược và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, phát triển đội ngũ
cán bộ khoa học công nghệ đầu đàn, quản trị doanh nghiệp, quản lý dự án đạt
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 19
trình độ ngang tầm khu vực và thế giới. Những cán bộ này phải được trang bị
ngoại ngữ và am hiểu sâu về công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý, các tiêu
chuẩn kỹ thuật, quy chuẩn xây dựng và luật pháp quốc tế. Đào tạo và nâng cao
trình độ chuyên môn để ổn định đội ngũ thợ có tay nghề bậc cao, tăng năng suất
lao động, sản phẩm làm ra có uy tín về chất lượng và được công nhận trình độ
quốc tế.
4. Các đơn vị phải chủ động nắm bắt và vận dụng các quy luật của kinh tế thị
trường trong quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh. Tăng cường công tác tiếp
thị, thông tin thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó đặc biệt coi trọng
việc xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp; tăng
cường sự hợp tác, liên kết giữa các đơn vị sản xuất với các hộ tiêu thụ lớn.
Tăng cường công tác thông tin khoa học công nghệ, các kiến thức về kinh tế, thị
trường quốc tế; đầu tư trang thiết bị đủ mạnh đặc biệt là các thiết bị chuyên
ngành, có chương trình phần mềm ở trình độ cao, được quản lý chặt chẽ.
5. Đa dạng hoá các hình thức đầu tư và hình thức sở hữu trong đầu tư xây dựng,
nhất là trong lĩnh vực đầu tư xây dựng các nhà máy xi măng; tăng cường huy
động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác cùng đầu tư, chống khép kín
trong đầu tư xây dựng.
6. Đẩy mạnh sự liên kết giữa các công ty, tổng công ty, giữa các doanh nghiệp

thuộc các khối sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí và xây lắp để tiến tới hình thành
các Tập đoàn công nghiệp xây dựng lớn, có tiềm lực đủ mạnh, đủ sức mạnh cạnh
tranh với nhà thầu nước ngoài đồng thời với việc chú trọng tới khả năng liên
doanh, liên kết với các nhà thầu nước ngoài để tiếp cận, mở rộng thị trường tại
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 20
các nước trong khu vực và trên thế giới, tiếp thu các kỹ thuật, công nghệ mới và
các nguồn tài chính quốc tế.
7. Đối với lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng:
Các đơn vị phải tiến hành đánh giá lại toàn diện thực trạng về công nghệ sản
xuất, quản lý và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm; mức độ chủ động các yếu tố đầu
vào nhất là đối với nguồn cung cấp nguyên vật liệu; rà soát, tính toán lại giá
thành sản phẩm.
Mở rộng và đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết
trong sản xuất kinh doanh để đảm bảo lợi nhuận và thị phần.
Tăng cường đầu tư cho việc nghiên cứu chuyển đổi, áp dụng công nghệ mới.
Đối với sản phẩm clinker và xi măng: tiến tới loại bỏ công nghệ lò quay sản xuất
bằng phương pháp ướt trước năm 2010; thực hiện tốt lộ trình chuyển đổi các cơ
sở sản xuất bằng lò đứng sang lò quay trước năm 2020; nâng cao chất lượng xi
măng; tập trung sản xuất các loại xi măng mác cao, giảm dần tỷ trọng xi măng
PCB30.
Các nhà máy xi măng phải nghiên cứu áp dụng phương án sử dụng nhiệt thừa để
tự phát điện phục vụ cho sản xuất xi măng nhằm giảm chi phí điện năng, hạ giá
thành sản xuất kết hợp xử lý môi trường triệt để hơn. Giao Viện Vật liệu xây
dựng nghiên cứu, hướng dẫn các đơn vị áp dụng công nghệ này, tiến tới phổ cập
cho toàn Ngành.
Đối với các sản phẩm gạch ốp lát, ceramic, granit, Cotto: các doanh nghiệp cần
chú trọng đầu tư chiều sâu về công nghệ, đầu tư cho công tác thiết kế mẫu mã sản
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 21

phẩm mới, ứng dụng công nghệ trang trí mới để tạo ra các sản phẩm có giá trị,
hiệu quả kinh tế cao hơn, tăng sức cạnh tranh.
Đối với các sản phẩm sứ vệ sinh và kính xây dựng: chú trọng đầu tư chiều sâu về
công nghệ, có kế hoạch đào tạo cán bộ, thuê thêm chuyên gia giàu kinh nghiệm
về quản lý vận hành và thiết kế mẫu mã sản phẩm mới để tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm trong nước và xuất khẩu sang nước khác.
8. Đẩy mạnh việc thực hiện các giải pháp để lành mạnh hoá tài chính doanh
nghiệp, chủ động kiểm soát dòng tiền; đối chiếu, rà soát và phân loại các khoản
nợ phải thu, các khoản nợ phải trả đặc biệt là nợ vay đầu tư các dự án sản xuất
vật liệu xây dựng (sứ vệ sinh, gạch ceramic, granit, các dự án xi măng, ); tập
trung xử lý các khoản nợ không có khả năng thu hồi, các sản phẩm, vật tư bị tồn
kho, ứ đọng; xây dựng và tổ chức triển khai các phương án cơ cấu lại tài chính
doanh nghiệp, các phương án huy động vốn hợp lý, có hiệu quả nhất. Tận dụng
tối đa lợi thế kinh doanh về vị trí địa lý, đất đai, thương hiệu để mở rộng các hoạt
động sản xuất kinh doanh khác; tổ chức thực hiện việc giải thể hoặc bán đối với
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không có hiệu quả.
9. Thực hiện triệt để việc chuyển đổi hoạt động của các Tổng công ty sang mô
hình Công ty mẹ - Công ty con; kiện toàn tổ chức, cán bộ, xây dựng mới Điều lệ
tổ chức và hoạt động của các Công ty mẹ. Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị của Bộ
trưởng Bộ Xây dựng về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác sắp xếp, đổi mới, phát
triển doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ giai
đoạn 2007 - 2010.
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 22
Để thực hiện tốt các giải pháp nêu trên, yêu cầu các đơn vị phải xây dựng kế
hoạch, phương án cụ thể đối với từng nội dung, báo cáo Bộ trước ngày
30/3/2007.
Giao các Vụ: Kế hoạch - Thống kê, Vật liệu xây dựng, Kinh tế tài chính, Tổ chức
cán bộ, Hợp tác quốc tế theo chức năng được giao, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra
và tổng hợp tình hình báo cáo Lãnh đạo Bộ kết quả thực hiện Chỉ thị của Bộ

trưởng.
Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc các Tổng công ty, Công ty mẹ trong
mô hình Công ty mẹ - Công ty con, Giám đốc các công ty độc lập và Thủ trưởng
các đơn vị thuộc Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện
nghiêm túc Chỉ thị này./.
3.2.2
* Các quy định về an toàn và sức khoẻ
* Bảo vệ chống cạnh tranh không công bằng, lừa dối hoặc thiếu đạo đức, để
người mua được biết thực sự họ đang mua cái gì.
* Bảo vệ chống các hoạt động độc quyền - ví dụ như các thoả thuận giữa các
đối thủ cạnh tranh về mức giá bán cao, những vụ sát nhập làm huỷ hoại cạnh
tranh, hay lạm dụng vị trí thống trị trên thị trường - để đảm bảo sự cạnh tranh
thực sự giữa các doanh nghiệp.
Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có nhận
thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa mà chỉ có giải thích hạn chế và chung chung rằng, đó là một nền kinh
tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
[1]
Nguyên nhân của tình trạng này là hệ thống kinh tế
này là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử
[2]
Thêm vào đó, công tác lý
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 23
luận ở Việt Nam về hệ thống kinh tế này còn chưa theo kịp thực tiễn
[2]
Gần 20
năm theo đuổi chủ trương xây dựng hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa, nhưng các thể chế cho hệ thống này hoạt động vẫn chưa có đầy đủ.
[2]
Mãi tới hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa X, Đảng mới ra nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008
về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
[1]
.
Và, mãi tới ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chính phủ Việt Nam mới có nghị quyết
số 22/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ để thực
hiện nghị quyết 21-NQ/TW
3.3 Những kiến nghị cũng như bổ xung những vấn đề và mối liên hệ của Luật
Cạnh Tranh trong thị trường mới.
PGS.TS Nguyễn Văn Nam - Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thương mại,
thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng
1. Trong bản góp ý phản biện gửi cho Quốc hội, ông đã khuyến cáo rằng dự luật
cạnh tranh không đảm bảo những tiêu chuẩn tối thiểu cho nền kinh tế thị trường
và do vậy nếu được thông qua nó sẽ gây ra những trở ngại trong việc thực thi.
Bây giờ nhìn lại sau 5 năm Luật cạnh tranh ra đời, ông có nghĩ lời khuyến cáo
của mình là đúng?
TS Nguyễn Vân Nam : 5 năm qua, doanh nghiệp, báo chí và ngay cả các cơ quan
công quyền đều kêu ca, phàn nàn nhiều về việc Luật cạnh tranh (LCT) chưa đi
vào cuộc sống, chưa phát huy được tác dụng rất quan trọng của nó đối với hoạt
động kinh tế. Những vấn nạn liên quan chặt chẽ đến cạnh tranh vẫn không được
giải quyết như: Giá sữa, giá thuốc chữa bệnh cao một cách bất thường và vẫn tiếp
tục tăng; Giá điện, nước, xăng dầu đều đặn chỉ tăng mà không giảm theo thị
trường quốc tế; chất lượng các mạng điện thoại di động cứ đến tết, lễ là xuống
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 24
cấp; chất lượng công trình xây dựng quá thấp, hố tử thần xuất hiện; các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực luôn bị kêu ca, khiếu nại về chất lượng, số lượng các vụ việc

cạnh tranh được Cục Quản lý Cạnh tranh tranh thụ lý chỉ đếm được trên đầu ngón
tay, v…v, là những bằng chứng cho thấy LCT của ta đã không giữ được vai trò
mà nó phải có trong nền kinh tế thị trường.
2 . Thế nhưng, LCT cũng đã quy định có 9 hành vi CTKLM bị cấm mà không cần
phải có yếu tố “gây thiệt hại”?
TS Nguyễn Vân Nam: Điều đó tự mâu thuẫn với định nghĩa về hành vi CTKLM
do chính luật này đưa ra. Hơn nữa quy định này cũng bỏ lọt nhiều hành vi đáng lẽ
phải bị cấm mà nguyên nhân chính vẫn là do LCT không được xây dựng trên một
nền tảng triết lý pháp lý rõ ràng.
Ông có thể giải thích vì sao LCT chỉ bảo vệ người tiêu dùng trong giới hạn
quyền quyết định tiêu dùng của họ mà không bảo vệ họ trước thiệt hại?
TS Nguyễn Vân Nam:LCT chỉ bảo vệ môi trường cạnh tranh tự do trước các yếu
tố, hành vi có thể hạn chế cạnh tranh; bảo vệ cạnh tranh lành mạnh trước các
hành vi đi ngược chuẩn mực đạo lý nhằm thu hút khách hàng. Vì thế, người tiêu
dùng được LCT bảo vệ trong vai trò họ là một tác nhân ảnh hưởng quan trọng
đến quá trình cạnh tranh trên thị trường, là đối tượng thu hút của cuộc cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp. Nhưng người tiêu dùng chỉ có tác động đến cuộc cạnh
tranh này qua quyền tự do quyết định mua hay không mua. Vì thế, LCT chỉ bảo
vệ quyền này của người tiêu dùng mà thôi.
Theo ông Nguyễn Sinh Nhật Tân, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Công thương, đến
nay chỉ mới có 2 vụ việc về hạn chế cạnh tranh được xử lý (có quyết định giải
quyết). Tương tự, về cạnh tranh không lành mạnh, từ 2006-2009, số vụ được xử
lý là 23.
GVHD: Trần Thị Thuý Hằng Lớp: CDKT12BTH
Trang 25

×