Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước trên địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.32 KB, 97 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ
VIẾT TẮT
NGHĨA ĐẦY ĐỦ
TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT
ASK Bán
AUD The Australian Dollar Đô la Úc
BID Mua
CLS Clearing Systems Hệ thống thanh toán bù trừ
Cut off time Giờ đóng cửa
DTNT Dự trữ ngoại tệ
EUR Đồng tiền chung Châu Âu
FED Federal Reserve System Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ
GBP The Great Brisish Pound Đồng bảng Anh
HKD The Hong Kong Dollar Đô la Hồng Kông
JPY The Japanese yen Yên Nhật
L/C Letter of Credit Thư tín dụng
NH NH
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTW Ngân hàng trung ương
KDNT Kinh doanh ngoại tệ
RRTT Rủi ro thị trường
SEK The Swedish Krona Kron Thụy Sỹ
TCTC Tổ chức tài chính
TCTD Tổ chức tín dụng
THB The Thailand Baht Đồng Baht Thái Lan
VCB Bank for Foreign Trade
Commecial Join Stock of Viet


Nam
NH thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam
Vietinbank Vietnam Joint Stock Commercial
Bank for Tndustry and Trade
NH Công thương Việt Nam
VND Việt Nam Đồng
USD The United States of Dollar Đô la Mỹ
XK Xuất khẩu
XNK Xuất nhập khẩu
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH
BẢNG
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của chuyên đề
Việt Nam đã mở cửa nền kinh tế đẩy mạnh giao lưu kinh tế với thế
giới. Trong công cuộc này, hệ thống NH luôn là chiếc cầu nối quan trọng cho
mọi hoạt động kinh tế với bên ngoài. Chính hệ thống NH là bộ phận tham gia
sâu rộng nhất vào hoạt động tài chính quốc tế và sự hội nhập này ngày càng ở
mức độ cao hơn, sâu hơn. Hoạt động tài chính quốc tế và các nghiệp vụ liên
quan tới ngoại hối do vậy ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động
kinh doanh của NH.
Điều đáng lưu ý là những hoạt động liên quan tới ngoại hối bản thân nó
đã tiềm ẩn vô số những rủi ro cho các chủ thể tham gia. Từ lâu, các nhà quản
trị NH thương mại cổ phần nhà nước trên địa bàn Hà Nội nhận định quản trị
rủi ro ngoại hối là một trong những nghiệp vụ phức tạp nhất trong quản trị
NH. Cùng với tỷ trọng ngày càng cao trong hoạt động kinh doanh của NH
thương mại cổ phần nhà nước trên địa bàn Hà Nội, rủi ro ngoại hối cũng ngày
càng có ảnh hưởng lớn hơn. Việt Nam cũng như mọi quốc gia khác đều biết
tới tầm quan trọng của NH thương mại đối với nền kinh tế. Rủi ro trong hoạt
động kinh doanh NH có phản ứng dây chuyền và ngày càng có biểu hiện phức

tạp. Sự yếu kém của các NH có ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ đời sống kinh
tế - chính trị và xã hội của Việt Nam. Ngày nay, trên thế giới, khoa học về
quản trị rủi ro ngoại hối trong kinh doanh NH đã đạt được trình độ tiên tiến và
hiện đại, nhưng ở Việt Nam vấn đề này đang ở trong giai đoạn phôi thai cùng
với sự đổi mới của đất nước.
Được tách ra từ NH Nhà nước Việt Nam, hai NH thương mại cổ phần
nhà nước Việt Nam chiếm thị phần lớn trong thị trường tài chính Việt Nam và
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính
liên quan đến kinh tế đối ngoại trong đó kinh doanh ngoại tệ là một mảng lớn
1
cũng như tham mưu cho ban lãnh đạo NH Nhà nước về các chính sách quản
lý ngoại tệ, kinh doanh ngoại tệ để hạn chế rủi ro tới mức tối đa.
Tuy nhiên trong thực tế, do thiếu kinh nghiệm thực tiễn, thời gian tham
gia vào hoạt động ngoại hối quốc tế chưa nhiều, trình dộ nghiệp vụ chuyên
môn chưa cao, kinh nghiệm quản lý yếu kém nên không ít NH TMCP nhà
nước Việt Nam đã gặp phải những rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ
đến hàng chục tỷ đồng. Do đó, quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh
ngoại tệ là một vấn đề hết sức bức xúc, đòi hỏi sự nghiên cứu tìm ra những
giải pháp góp phần nâng cao khả năng quản lý rủi ro trong lĩnh vực kinh
doanh ngoại tệ. Xuất phát từ thực trạng trên việc nghiên cứu, đánh giá các loại
rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của NH thương mại cổ phần nhà nước Việt
Nam và đưa ra những biện pháp phòng ngừa cụ thể rõ ràng là rất cần thiết cả
về mặt thực tiễn cũng như về mặt lý luận, vì thế luận văn: “Quản trị rủi ro
trong kinh doanh ngoại tệ tại các NH thương mại cổ phần nhà nước trên
địa bàn Hà Nội” được chọn để nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Chuyên đề hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quản trị rủi ro và đánh
giá tình hình quản trị rủi ro kinh doanh ngoại tệ, đồng thời đề xuất những giải
pháp có hiệu quả nhằm quản trị rủi ro phát sinh trong kinh doanh ngoại tệ tại

các NH thương mại cổ phần nhà nước trên địa bàn Hà Nội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng hợp và đánh giá tổng thể về hoạt động quản lý rủi ro trong các
NH thương mại cổ phần nhà nước trên địa bàn Hà Nội.
- Phân tích nguyên nhân phát sinh rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ của
các NH thương mại cổ phần nhà nước trên địa bàn Hà Nội.
2
- Đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm quản trị rủi ro trong kinh
doanh ngoại tệ của các NH thương mại cổ phần nhà nước trên địa bàn Hà
Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng: Các loại rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh
ngoại hối và các kỹ thuật quản trị rủi ro ngoại hối.
3.2. Phạm vi: Quản trị rủi ro ngoại hối là mảng lớn trong các lý thuyết
tài chính quốc tế. Trong điều kiện cho phép, chuyên đề không đề cập đến toàn
bộ vấn đề này mà chỉ tập trung vào nghiên cứu các rủi ro ngoại hối thường
gặp trong kinh doanh NH và việc áp dụng vào kinh doanh ngoại tệ tại các NH
thương mại cổ phần nhà nước trên địa bàn Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử kết hợp với phân tích, tổng hợp và so sánh nhằm giải quyết vấn đề
đặt ra một cách có hệ thống.
5. Tài liệu
Tài liệu sử dụng trong chuyên đề được thu thập từ NH Nhà nước Việt
Nam, Tổng Cục Thống kê và bộ phận quản lý rủi ro của các NH thương mại
cổ phần nhà nước trên địa bàn Hà Nội như: NH TMCP Ngoại thương Việt
Nam, NH TMCP Công thương Việt Nam.
6. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
được kết cấu trong 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ và
bài học kinh nghiệm
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ của
các NH thương mại cổ phần nhà nước trên địa bàn Hà Nội
3
Chương 3: Định hướng và giải pháp quản trị rủi ro trong kinh doanh
ngoại tệ tại các NH thương mại cổ phần nhà nước trên địa
bàn Hà Nội
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG KINH DOANH
NGOẠI TỆ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1.1.
TỔNG QUAN VỂ KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA CÁC NH THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm NH và hoạt động NH
NH trước tiên là một tổ chức trung gian tài chính. Trung gian tài chính
là một tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân thực hiện các chức năng trung
gian giữa hai hay nhiều bên trong một hoạt động tài chính nhất định.
Ngân hàng bán lẻ là khái niệm chỉ những hệ thống ngân hàng lớn,
nhiều chi nhánh mà đối tượng phục vụ thường là các khách hàng cá nhân, đơn
vị riêng lẻ và tập trung và các dịch vụ là tiết kiệm, tạo tài khoản giao dịch,
thanh toán, thế chấp, cho vay cá nhân, các loại thẻ tín dụng, Ngược lại ngân
hàng bán buôn lại là dạng ngân hàng chỉ cung cấp dịch vụ cho các doanh
nghiệp, làm vai trò trung gian cho các doanh nghiệp.
Ngân hàng bán buôn: chủ yếu cấp tín dụng cho các tập thể hay nói cách
khác là các công ty, các tổ chức có nhu cầu về tín dụng là chủ yếu với các
khoản vay lớn ngân hàng bán lẻ: hoạt động chủ yếu của nó là cấp tín dụng cho
cá nhân hộ gia dình với các khoản vay không lớn lắm. Các ngân hàng thương
mại cổ phần nhà nước tại Việt Nam là ngân hàng bán buôn.
1.1.2. Khái niệm ngoại tệ

Ngoại hối là một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trị dùng
để thanh toán giữa các quốc gia. Tùy theo quan niệm của luật quản lý ngoại
hối của mỗi nước mà khái niệm ngoại hối có thể là không giống nhau. Tại
VIỆT NAM theo pháp lệnh Số: 28/2005/PL-UBTVQH11 của UỶ BAN
THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI ban hành ngày 13 tháng 12 năm 2005, Ngoại hối
bao gồm:
5
a) Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng
tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực; (phạm vi
nghiên cứu của luận văn);
b) Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối
phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác;
c) Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
d) Vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài
của người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp
mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;
đ) Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử
dụng trong thanh toán quốc tế.
1.1.3. Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ
Mua bán ngoại tệ giao ngay (spot) là giao dịch hai bên thực hiện mua,
bán một lượng ngoại tệ theo tỷ giá thỏa thuận giao ngay tại thời điểm giao
dịch và kết thúc thanh toán trong vòng 2 (hai) ngày làm việc tiếp theo. Giao
dịch này phù hợp với các doanh nghiệp có nguồn thu chi ngoại tệ nhỏ, không
có kế hoạch ổn định.
Giao dịch hối đoái hoán đổi (swap) là giao dịch bao gồm đồng thời cả
hai giao dịch: giao dịch mua và giao dịch bán dùng một số lượng đồng tiền
này với một đồng tiền khác (chỉ có hai đồng tiền được sử dụng trong giao
dịch), trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch khác nhau và tỷ giá của

hai giao dịch được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng. Giao dịch này cho
phép doanh nghiệp tận dụng lợi thế lãi suất của các đồng tiền và quản lý hiệu
qủa nguồn vốn ngoại tệ của mình.
Giao dịch quyền chọn (option) là giao dịch ngoại tệ trong đó bên mua
có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải thực hiện giao dịch đã cam kết với
bên bán, trong khi đó bên bán có nghĩa vụ phải thực hiện giao dịch đã cam kết
6
khi bên mua có yêu cầu theo tỷ giá đã thỏa thuận trước. Phí quyền chọn
(premium) là mức phí mà bên mua quyền chọn phải trả cho bên bán quyền
chọn khi mua quyền chọn. Loại giao dịch này tối ưu hóa việc phòng ngừa rủi
ro tỷ giá, phù hợp với doanh nghiệp có kế hoạch thu chi ngoại tệ ổn định, có
kinh nghiệm theo dõi biến động tỷ giá ngoại tệ hàng ngày.
Giao dịch kỳ hạn (Forward) là giao dịch trong đó hai bên cam kết sẽ
mua, bán với nhau một lượng ngoại tệ theo một tỷ giá xác định và việc thanh
toán sẽ được thực hiện vào thời điểm xác định trong tương lai. Khách hàng có
thể xác định tỷ giá ngay tại thời điểm ký hợp đồng và hạn chế một phần rủi ro
biến động tỷ giá. Loại hình này thích hợp với các doanh nghiệp có kế hoạch
thu chi ngoại tệ ổn định, ít có kinh nghiệm về sự biến động tỷ giá hàng ngày
Hoạt động giao dịch hối đoái của ngân hàng bao gồm:
* Mua và bán ngoại tệ với khách hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu muốn
mua và bán của khách hàng.
* Mua và bán ngoại tệ với đối tác nhằm điều chỉnh trạng thái ngoại hối
của đồng tiền đó của ngân hàng để giảm thiểu rủi ro.
* Mua và bán ngoại tệ giữa hội sở với Chi nhánh, phòng giao dịch
nhằm thỏa mãn nhu cầu muồn mua và bán của Chi nhánh, phòng giao dịch.
Phạm vi giao dịch: Bộ phận nguồn vốn được thực hiện toàn bộ các họat
động giao dịch hối đoái. Chi nhánh, phòng giao dịch chỉ thực hiện họat động
giao dịch hối đoái trong hạn mức trạng thái ngoại tệ của đơn vị mình và trong
quy trình kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh, phòng giao dịch.
1.1.4. Vai trò của kinh doanh ngoại tệ

Hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong ngân hàng có chức năng cung cấp
ngoại tệ trong giao dịch thương mại quốc tế cũng như giúp luân chuyển các
khoản đầu tư quốc tế, giao dịch tài chính quốc tế và cung cấp các công cụ bảo
hiểm rủi ro tỷ giá cho các khoản thu xuất khẩu, thanh toán nhập khẩu, các
khoản đầu tư hay đi vay bằng ngoại tệ. Như vậy nhu cầu về ngoại tệ cho
7
doanh nghiệp cũng như sự phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của các
ngân hàng thương mại trong tiến trình hội nhập là rất lớn.
Trong tất cả các giao dịch ngoại tệ, ngân hàng có thể vừa là nhà tạo thị
trường, nhà môi giới, nhà chấp nhận giá, nhà đầu cơ và nhà bảo hiểm rủi ro
ngoại hối.
1.2. QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI TỆ
1.2.1. Quản trị rủi ro
Rủi ro (risk) được hiểu là việc lượng hóa khả năng xảy ra những thiệt
hại hoặc lợi nhuận thu về thấp hơn so với dự kiến. Có rất nhiều dạng rủi ro
như rủi ro về tỷ giá, rủi ro về thị trường, rủi ro về pháp luật, rủi ro về tín dụng,
rủi ro về lãi suất, rủi ro về bất động sản.
Quản lý rủi ro là quá trình xác định, phân tích và chấp nhận hoặc hạn
chế những nguy cơ tiềm ẩn trong các quyết định đầu tư. Quản lý rủi ro là vô
cùng cần thiết bất cứ khi nào nhà đầu tư hoặc người quản lý phân tích và cố
gắng định lượng nguy cơ bị lỗ trong một quyết định đầu tư từ đó có những
hành động phù hợp, điều chỉnh lại mục tiêu đầu tư và mức độ rủi ro có thể
chấp nhận được.
Nói một cách đơn giản quản lý rủi ro gồm có hai bước chính: xác định
rõ các rủi ro tiềm ẩn trong một quyết định đầu tư và do đó kiểm soát những
rủi ro này theo cách phù hợp nhất với mục tiêu đầu tư của bạn.
Quản lý rủi ro vô hình quản lý một dạng rủi ro mới: rủi ro có khả năng
xảy ra 100% nhưng lại bị bỏ qua do nhà đầu tư không có khả năng xác định
được. Ví dụ : rủi ro về hiểu biết xảy ra khi nhà đầu tư không có kiến thức mà
vẫn tiến hành một công việc đó. Rủi ro về quan hệ xảy ra khi các bên hợp tác

với nhau kém hiệu quả. Rủi ro về quá trình xảy ra khi việc vận hành không
trơn tru. Những rủi ro này làm giảm năng suất, giảm chi phí hiệu quả, giảm
lợi nhuận, giảm chất lượng, ảnh hưởng đến danh tiếng và doanh số. Quản lý
rủi ro vô hình có khả năng nhận dạng và giảm thiểu các rủi ro đe doạ đến lợi
nhuận từ đó tạo ra giá trị cho người quản lý.
8
Việc quản lý rủi ro cũng gặp những khó khăn nhất định trong việc phân
bổ nguồn lực. Đây chính là biểu hiện của lý thuyết chi phí cơ hội. Dù quản
lý rủi ro làm giảm thiểu nguy cơ gặp rủi ro song các nguồn lực được sử dụng
để quản lý rủi ro lại có thể được sử dụng cho các hoạt động khác có khả năng
sinh lợi cao hơn.
Theo Mary Parker Follett: quản trị là nghệ thuật đạt được mục đích
thông qua người khác. James Stoner và Stephen Robbín: Quản trị là tiến
trình hoạch định

, tổ chức

, lãnh đạo

và kiểm soát những hoạt động của các
thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác của tổ chức
nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Nếu xét riêng từng từ một thì ta có thể
giải thích như sau:
Quản: là đưa đối tượng vào khuôn mẫu qui định sẵn.
Trị: là dùng quyền lực buộc đối tượng phải làm theo khuôn mẫu đã
định. Nếu đối tượng không thực hiện đúng thì sẽ áp dụng một hình phạt nào
đó đủ mạnh, đủ sức thuyết phục để buộc đối tượng phải thi hành nhằm đạt
được mục tiêu.
1.2.2. Đánh giá rủi ro
Việc đánh giá rủi ro đòi hỏi phải xác định được những rủi ro lớn liên

quan đến các sản phẩm, dịch vụ hay hoạt động của TCTD, phải có các chốt
kiểm tra nằm trong các quy trình nghiệp vụ (hệ thống kiểm soát nội bộ -
KSNB) để kiềm chế rủi ro trong các hạn mức đã được đề ra cùng với các biện
pháp để theo dõi các trường hợp ngoại lệ vượt hạn mức rủi ro.
Quy trình đánh giá rủi ro có 4 yếu tố: nhận biết rủi ro, định lượng rủi
ro, theo dõi rủi ro và kiểm soát rủi ro.
- Nhận biết rủi ro: Bước đầu tiên để có một chương trình quản trị rủi ro
hiệu quả là phải nhận biết và xác định được các loại rủi ro mà TCTD có thể
gặp phải thông qua phân tích đặc thù của các sản phẩm, dịch vụ và các quy
trình hoạt động.
9
- Định lượng rủi ro: là việc đề ra và xem xét lại hạn mức rủi ro, giúp ban
điều hành xác định được rủi ro cần được ưu tiên theo dõi và kiểm soát. Hiện
nay trên thực tế có 3 phương pháp định lượng cơ bản sau:
+ Phương pháp thống kê: Bản chất của phương pháp này là dựa trên việc
tính toán xác suất xảy ra thiệt hại đối với những nghiệp vụ được nghiên cứu.
+ Phương pháp kinh nghiệm: Phương pháp này được hình thành trên kinh
nghiệm của các chuyên gia. Và để chính xác hơn các nhà quản trị ngân hàng có
thể kết hợp phương pháp thống kê và phương pháp kinh nghiệm với nhau.
+ Phương pháp tính toán - phân tích: Phương pháp này dựa trên việc xây
dựng đường cong xác suất thiệt hại và đánh giá rủi ro ngân hàng dựa trên
động thái biên thiên của đồ thị toán ứng dụng bằng phương pháp ngoại suy.
- Theo dõi rủi ro: là việc thực hiện đầy đủ các hệ thống, các thủ tục kiểm
soát, nhờ đó ban điều hành có thể theo dõi được mức rủi ro của từng lĩnh vực
kinh doanh.
- Kiểm soát rủi ro: Rủi ro được kiểm soát bằng việc thực hiện các thủ tục
nằm trong hệ thống KSNB trong các quy trình kinh doanh và hoạt động nhằm
giảm thiểu rủi ro. Chi phí cho các thủ tục kiểm soát cao có thể giảm thiểu rủi
ro tối đa nhưng hiệu quả lại thấp, ngược lại chi phí cho các thủ tục kiểm soát
thấp có thể đem lại lợi nhuận cao nhưng rủi ro cũng có thể cao. Ban điều hành

phải tìm ra sự cân bằng tối ưu giữa chi phí cho các thủ tục kiểm soát và lợi ích
đem lại từ các thủ tục đó, từ đó lựa chọn các thủ tục kiểm soát rủi ro phù hợp.
1.2.3. Các nguyên tắc trong việc quản trị rủi ro Ngân hàng
- Nguyên tắc chấp nhận rủi ro;
- Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép;
- Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt;
- Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập;
- Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính;
- Nguyên tắc hiệu quả kinh tế;
- Nguyên tắc hợp lý về thời gian;
10
- Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng;
- Nguyên tắc chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép;
1.2.4. Nguyên nhân của rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ
Về bản chất, kinh doanh ngoại hối tự nó chứa đựng rủi ro rất cao.
Ngoài các rủi ro thông thường mà các hoạt động khác cũng phải đối mặt như:
rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro kỹ thuật, rủi ro hoạt
động, rủi ro pháp lý, rủi ro quốc gia…, thì kinh doanh ngoại hối còn chịu thêm
một rủi ro đặc biệt, đó là rủi ro tỷ giá. Do tỷ giá biến động thường xuyên và
không theo quy luật, nên rủi ro tỷ giá được xem là rủi ro thường trực, gắn liền
và trở thành rủi ro đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NH.
Rủi ro thị trường là rủi ro về lỗ phát sinh từ những thay đổi trong giá trị
các tài sản và công nợ (bao gồm cả các tài sản và công nợ ngoài bảng cân đối
kế toán) do những biến động của các nhân tố mang tính rủi ro như lãi suất, tỷ
giá và giá chứng khoán và rủi ro về lỗ phát sinh từ những thay đổi trong thu
nhập có được từ các tài sản và nghĩa vụ.
Có ba loại rủi ro thị trường lớn:
(1) Rủi ro lãi suất: Rủi ro về lỗ phát sinh từ những thay đổi về lãi suất.
Do sự không phù hợp của lãi suất liên quan đến các tài sản và công nợ
và/hoặc sự khác biệt về thời gian trong kỳ hạn thanh toán liên quan, một tổ

TCTD có thể bị lỗ hoặc bị giảm lợi nhuận do những thay đổi về lãi suất.
(2) Rủi ro tỷ giá: Rủi ro về lỗ phát sinh từ sự khác biệt giữa tỷ giá
thực tế và tỷ giá giả thiết trong trường hợp một TCTD có duy trì một trạng
thái dòng dài hạn hay ngắn hạn liên quan đến các tài sản và công nợ có gốc
ngoại tệ.
(3) Rủi ro thay đổi giá: Rủi ro về lỗ phát sinh từ việc giảm giá trị các tài
sản do những thay đổi về giá của chứng khoán…
1.2.4.1. Rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ đến từ hoạt động đầu cơ
Hoạt động mua bán ngoại hối của ngân hàng bao gồm:
11
- Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng nhằm mục đích thanh toán hợp
đồng ngoại thương;
- Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng (hoặc cho chính mình) nhằm
mục đích thực hiện đầu tư nước ngoài trực tiếp hay gián tiếp;
- Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng (hoặc cho chính mình) nhằm
điều chỉnh trạng thái ngoại hối của đồng tiền có thể giảm rủi ro ngoại hối;
- Mua và bán ngoại tệ nhằm mục đích đầu cơ trong việc dự tính sự biến
động của tỷ giá.
Hai hoạt động đầu tiên, ngân hàng thường thực hiện cho khách hàng để
thu phí, và do đó, rủi ro ngoại hối ngân hàng thường ít phải gánh chịu. Hoạt
động thứ ba, ngân hàng tiến hành nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối
(phòng vệ), tức là nhằm giảm rủi ro ngoại hối. Như vậy, rủi ro ngoại hối thực
chất chỉ liên quan đến trạng thái ngoại hối mở (open position) đối với những
hoạt động mua bán mang tính đầu cơ (unhedged position) tức là hoạt động
thứ tư. Trạng thái ngoại hối mở thường được thực hiện trong các giao dịch
giữa các ngân hàng với nhau trên thị trường ngoại hối và đặc biệt là đối với
những ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư lớn là những ngân hàng tạo
thị trường bằng cách niêm yết tỷ giá mua bán hai chiều “Bid – Ask” đối với
ngoại tệ giao dịch.
1.2.4.2. Sự không cân xứng giữa tài sản nợ và tài sản có

Khía cạnh thứ hai của rủi ro ngoại hối mà các ngân hàng phải chịu là sự
không cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với từng loại ngoại tệ. Tài
sản có bằng ngoại tệ là các khoản mục trên bảng tổng kết tài sản, như: các
khoản cho vay bằng ngoại tệ; các chứng khoán bằng ngoại tệ; tiền gửi bằng
ngoại tệ ở ngân hàng khác; tiền mặt bằng ngoại tệ,… Tài sản nợ bằng ngoại tệ
là các khoản mục trên bảng tổng kết tài sản, như: phát hành các chứng chỉ tiền
gửi bằng ngoại tệ; phát hành trái phiếu; và các hình thức huy động vốn khác
bằng ngoại tệ. Do tính chất toàn cầu hóa, thị trường tài chính đã tạo ra những
khả năng to lớn để tăng nguồn vốn của các ngân hàng bằng các ngoại tệ khác
12
nhau. Đây là lợi thế to lớn không những đa dạng hóa nguồn vốn và sử dụng
vốn bằng ngoại tệ, mà còn tạo ra những cơ hội để tăng được lợi tức đầu tư và
giảm được chi phí vốn huy động.
1.2.5. Vai trò của quản trị rủi ro kinh doanh ngoại tệ
Quản trị rủi ro kinh doanh ngoại tệ có vai trò: tối đa hóa thu nhập ròng
hoặc tài sản ròng của mỗi ngân hàng tương ứng với mức độ rủi ro chấp nhận,
đảm bảo các giới hạn an toàn trong hoạt động của ngân hàng, kiểm soát rủi ro
tỷ giá theo quy định, xác định, hệ thống nội dung quản lý rủi ro tỷ giá nhằm
nhận diện, đo lường, đánh giá, giám sát và giảm thiểu rủi ro tỷ giá trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng, hạn chế mức độ tổn thất giá trị tài sản ròng
của ngân hàng trước biến động tỷ giá trong quá trình hoạt động kinh doanh,
phân rõ quyền hạn, trách nhiệm của cá nhân, đơn vị trong quá trình quản lý
rui ro tỷ giá.
1.2.6. Quy trình quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ
1.2.6.1. Hoạch định
Mức độ rủi ro tỷ giá chấp nhận trong từng thời kỳ thể hiện bằng hạn
mức giá trị rủi ro tỷ giá được xác định trên cơ sở:
Chiến lược kinh doanh đã được từng ngân hàng lựa chọn: thông thường
nhiều ngân hàng xác định tỷ giá sẽ ổn định trong giai đoạn Quý I và II của
năm và biến động mạnh vào giai đoạn 2 quý cuối năm. Vì vậy, các ngân hàng

thường giữ trạng thái âm hoặc giữ trạng thái dương với mức nhỏ trong nửa
đầu năm và giữ trạng thái dương nhiều vào cuối năm.
Tuân thủ chính sách, pháp luật của Nhà nước: hạn mức rủi ro tỷ giá sẽ
quyết định mức trạng thái mà ngân hàng được .
Khẩu vị rủi ro của từng ngân hàng: là quan điểm vể rủi ro, bao gồm loại
rủi ro, mức độ chấp nhận, tổ chức quản lý rủi ro và ảnh hưởng tác động trong
hoạt động kinh doanh. Tùy thuộc vào chiến lược kinh doanh của ngân hàng và
phong cách lãnh đạo của ban điều hành ngân hàng mà lựa chọn mức độ rủi ro
cao hay thấp. Thông thường mức rủi ro là chấp nhận được <= 5%.
13
1.2.6.2. Tổ chức
a. Phương pháp và mô hình áp dụng
Hầu hết đều áp dụng theo phương pháp đánh giá lại giá trị tài sản theo
giá thị trường (mark to market - MTM) cho các hoạt động kinh doanh ngoại tệ
bao gồm: giao dịch giao ngay, giao dịch có kỳ hạn, giao dịch hoán đổi và giao
dịch quyền chọn.
Phương pháp này áp dụng trong việc đo lường, đánh giá và quản trị rủi
ro tỷ giá.
b. Quản lý trạng thái ngoại hối
Quản lý trạng thái ngọai hối nhằm đảm bảo an toàn hoạt động kinh
doanh ngoại tệ nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung.
Trạng thái ngoại hối được xác định hàng ngày cho từng loại đồng tiền
giao dịch, tổng thể quy đổi USD cho tất cả các loại giao dịch.
Tổng các trạng thái ngoại hối không được vượt quá giới hạn so với vốn
tự có theo quy định của ngân hàng nhà nước.
c. Xác định mức độ biến động tỷ giá
Những yếu tố cần xem xét khi đưa ra dự báo về mức độ biến động tỷ
giá trong một thời kỳ bao gồm:
Số liệu thống kê về các mức tỷ giá cụ thể của các kỳ hạn.
Chính sách hiện hành và xu hướng quản lý thị trường ngoại hối của

ngân hàng Nhà Nước.
Dự báo các chỉ số kinh tế vĩ mô Việt Nam và các đồng tiền giao dịch.
- Xác định giá trị rủi ro tỷ giá
Giá trị rủi ro tỷ giá được xác định thông qua lượng hóa sự ảnh hưởng
của các yếu tố biến động tỷ giá đến giá trị danh mục kinh doanh ngoại tệ tiềm
tàng theo phương pháp:
VAR = MV*VOL*SD*√DP
14
VAR: giá trị rủi ro tỷ giá, biểu thị mức độ biến động tối đa của giá trị
danh mục kinh daonh ngoại tệ khi có sự thay đổi tỷ giá trong khoảng thời gian
nhất định, tương ứng với mức độ tin cậy nhất định.
MV: giá thị trường của danh mục kinh doanh ngoại tệ
VOL: độ biến động, đo lường mức độ thay đổi của các biến số về tỷ giá
và độ biến động ngầm định của chúng trong một khoảng thời gian.
SD: độ lệch chuẩn, là thước đo sự biến động của tỷ giá trên cơ sở sự
biến động của dữ liệu quá khứ.
DP: thời gian thanh khoản hay nắm giữ tài sản
d. Các hạn mức quản lý rủi ro tỷ giá
- Hạn mức trạng thái lỗ: bộ phận kinh doanh ngoại tệ được ALCO hoặc
Hội đồng Quản trị cho phép tự doanh nhưng với một hạn mức lỗ nhất định.
Hạn mức lỗ này áp dụng cho cả phòng kinh daonh ngoại tệ, cho mỗi chuyên
viên kinh daonh ngoại tệ trong mỗi giao đoạn nhất định.
- Hạn mức lỗ tối đa: khi các chuyên viên vào trạng thái, nhưng diễn
biến thị trường bất lợi, khi đó giao dịch bị lô, chuyên viên kinh doanh ngoại tệ
sẽ dựa vaog hạn mức lỗ đựợc phép, hạn mức lỗ tối đa để stoplost.
- Hạn mức giá trị rủi ro tỷ giá
e. Quản lý các sản phẩm ngoại hối mới
Tất cả các sản phẩm mới đều được đánh giá, kiểm soát đầy đủ các yếu
tố rủi ro tỷ giá có thể xảy ra.
Quá trình nghiên cứu, ban hành và đưa vào triển khai bất cứ sản phẩm

nào thuộc tài sản nợ, tài sản có đều phải đảm bảo:
+ Mọi rủi ro tỷ giá phát sinh khi đưa sản phẩm mới vào áp dụng phải
được nhận diện và đo lường đầy đủ.
+ Tuân thủ quy trình ban hành sản phầm ngoại hối mới, trong đó phải
có sự tham gia của khối quản lý rủi ro.
15
1.2.6.3. Lãnh đạo
Trách nhiệm quản lý rủi ro tác nghiệp thuộc về;
- Hội đồng quản trị ban hành các chính sách quản lý rủi ro tác nghiệp.
- Hội đồng rủi ro tác nghiệp chỉ đạo điều hành triển khai các chính sách
quản lý rủi ro tác nghiệp do hội đồng quản trị ban hành.
- Phòng quản lý rủi ro thị trường và tác nghiệp tại trụ sở chính là đầu
mối tổng hợp toàn hệ thống, tham mưu cho Hội đồng rủi ro tác nghiệp về
công tác quản lý rủi ro tác nghiệp.
- Phòng quản lý rủi ro tại Chi nhánh, Sở giao dịch là đơn vị đầu mối
thực hiện công tác quản lý rủi ro tác nghiệp tại Chi nhánh, Sở giao dịch.
- Ban kiểm tra, kiểm soát nội bộ thực hiện kiểm tra toàn bộ hoạt động
công tác quản lý rủi ro tác nghiệp của toàn hệ thống ngân hàng.
- Các phòng ban tại Trụ sở chính, Trung tâm công nghệ thông tin; các
phòng ban tại các Chi nhánh, Sở giao dịch là những đơn vị trực tiếp thực hiện
toàn bộ quá trình quản trị rủi ro tác nghiệp tại bộ phận mình.
Như vậy mấu chốt của công tác quản trị rủi ro tác nghiệp là từng phòng
ban xác định được đây là nhiệm vụ mà các đơn vị cần phải trực tiếp thực hiện
vì nó đem lại hiệu quả, lợi ích cho chính mỗi phòng ban. Quản trị rủi ro tác
nghiệp yêu cầu lãnh đạo từng phòng, ban nắm bắt được mọi hành vi, mọi hoạt
động tác nghiệp của từng cán bộ để kiểm soát được rủi ro, phòng chống được
rủi ro, tổn thất do tác nghiệp gây ra.
Quy trình quản lý rủi ro: Việc kiểm soát rủi ro phải được thực hiện theo
một quy trình chặt chẽ và phối hợp với đặc thù của từng tổ chức, doanh
nghiệp. Tổng quát, quy trình quản lý rủi ro cơ bản bao gồm các bước

chính được trình bày ở hình 1.1. Ở mức chi tiết hơn, quy trình quản lý rủi
ro bao gồm các bước cùng với trình tự xử lý và mối quan hệ giữa chúng
như hình 1.2.
16
Hình 1.1. Quy trình quản lý rủi ro cơ bản
17
Nhận
diện rủi
ro
Giám sát
Kiểm soát
rủi ro
Phân tích
rủi ro
Điều
chỉnh
Đề xuất
Thông
tin mới
Phản hồi
Thực
hiện
Lực
chọn
Hình 1.2. Mối quan hệ và trình tự các bước trong quy trình quản lý rủi ro
Phân tích rủi ro và kiểm soát rủi ro
Trong thực tế những rủi ro có thể xảy ra trong một tổ chức, doanh
nghiệp, dự án là khá nhiều và việc giải quyết hết tất cả các rủi ro là không cần
thiết. Thông thường người ta áp dụng nguyên tắc 20/80 để xác định và giải
quyết những rủi ro quan trọng, những nguyên nhân gốc có ảnh hưởng tới rủi

Động não
Bảng câu hỏi
Phiếu kiểm tra
Dữ liệu quá khứ
Ý kiến chuyên
gia
Ảnh hưởng của
rủi ro
Xác suất xảy ra
rủi ro
Thời điểm xảy ra
rủi ro
Phân loại rủi ro
Sắp xếp rủi ro
theo độ ưu tiên
Khảo sát Rủi ro
Xác định
rủi ro
Phân tích
rủi ro
Các yếu tố đầu
vào
Nhận diện
rủi ro
Kiểm soát rủi ro
Kiểm soát và
đo lường
Các chiến
lược đối
phó rủi ro

18
ro của tổ chức. Điều này dẫn tới việc phải phân tích để chọn ra những rủi ro
cần giải quyết đó. Có nhiều kỹ thuật phân tích rủi ro được áp dụng, thông
thường người ta sử dụng phương pháp chính sau:
• Phân tích khả năng xuất hiện của rủi ro (Risk probability)
Có 4 mức để đo lường khả năng xuất hiện của rủi ro, mỗi mức độ được gán
với một giá trị số (tùy thuộc tổ chức, doanh nghiệp, dự án) để có thể ước
lượng sự quan trọng của nó.
6 - Thường xuyên: Khả năng xuất hiện rủi ro rất cao.
4 - Hay xảy ra: Khả năng xuất hiện rủi ro cao.
2 - Đôi khi: Khả năng xuất hiện rủi ro trung bình.
1 - Hiếm khi: Khả năng xuất hiện thấp, chỉ xuất hiện trong những điều
kiện nhất định.
Hình 1.3. Ví dụ đơn giản dùng sơ đồ xương cá định vị rủi ro
• Phân tích thời điểm xuất hiện rủi ro ( Risk Frame): Có 4 mức để ước
lượng thời điểm rủi ro xuất hiện, mỗi mức được gán với một giá trị số (tùy
thuộc tổ chức, doanh nghiệp, dự án) để có thể ước lượng sự tác động của nó.
6 - Ngay lập tức: Rủi ro xuất hiện gần như tức khắc
4 - Rất gần: Rủi ro sẽ xuất hiện trong thời điểm rất gần thời điểm
phân tích
Thay đổi quá nhiều
Dự án thất bại hoặc sẽ
gặp khó khăn lớn
Ngoại ngữ kém
Thời gian quá gắt
Thiếu kinh nghiệm
19
2 - Sắp xảy ra: Rủi ro sẽ xuất hiện trong tương lai gần
1 - Rất lâu: Rủi ro sẽ xuất hiện trong tương lai xa hoặc chưa định được.
1.2.6.4. Kiểm tra

Ban giám đốc có trách nhiệm thành lập, điều hành và kiểm soát hệ
thống kiểm soát nội bộ phù hợp với mục tiêu của tổ chức. Để hệ thống này
vận hành tốt, cần tuân thủ một số nguyên tắc như: Xây dựng một môi trường
văn hóa chú trọng đến sự liêm chính, đạo đức nghề nghiệp cùng với những
quy định rõ ràng về trách nhiệm, quyền hạn và quyền lợi. Các quy trình hoạt
động và kiểm soát nội bộ được văn bản hoá rõ ràng và được truyền đạt rộng
rãi trong nội bộ tổ chức. Xác định rõ các hoạt động tiềm ẩn nguy cơ rủi ro
cao. Mọi hoạt động quan trọng phải được ghi lại bằng văn bản. Bất kỳ thành
viên nào của tổ chức cũng phải tuân thủ hệ thống kiểm soát nội bộ. Quy định
rõ ràng trách nhiệm kiểm tra và giám sát. Tiến hành định kỳ các biện pháp
kiểm tra độc lập. Định kỳ kiểm tra và nâng cao hiệu quả của các biện pháp
kiêm soát nội bộ.
Theo định nghĩa của Viện Kiểm toán quốc tế, “Hệ thống kiểm soát nội
bộ” là tập hợp bao gồm các chính sách, quy trình, quy định nội bộ, các thông
lệ, cơ cấu tổ chức của ngân hàng, được thiết lập và được tổ chức thực hiện
nhằm đạt được các mục tiêu của ngân hàng và đảm bảo phòng ngừa, phát hiện
và xử lý kịp thời các rủi ro xảy ra.
Hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết lập nhằm các mục tiêu:
- Bảo đảm cho ngân hàng hoạt động tuân thủ pháp luật và các quy định,
quy trình nội bộ về quản lý và hoạt động, và các chuẩn mực đạo đức do ngân
hàng đặt ra.
- Đảm bảo mức độ tin cậy và tính trung thực của các thông tin tài chính
và phi tài chính.
- Bảo vệ, quản lý và sử dụng tài sản và các nguồn lực một cách kinh tế
và hiệu quả.
20
- Hỗ trợ thực hiện các mục tiêu do Ban lãnh đạo ngân hàng đề ra.
Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm 5 cấu phần, cụ thể: là môi trường
kiểm soát, hệ thống quản lý và đánh giá rủi ro, hoạt động kiểm soát, hệ thống
thông tin và cơ chế trao đổi thông tin, và cơ chế giám sát hoạt động kiểm soát.

Môi trường kiểm soát là nền tảng cho toàn bộ các cấu phần của hệ
thống kiểm soát nội bộ, bao gồm cơ cấu tổ chức, cơ chế phân cấp, phân
quyền, các chính sách, thông lệ về nguồn nhân lực, đạo đức nghề nghiệp,
năng lực, cách thức quản trị, điều hành của các cấp lãnh đạo.
Hệ thống quản lý và đánh giá rủi ro là quy trình định dạng và phân tích
mọi rủi ro liên quan đến việc hoàn thành các mục tiêu của tổ chức tín dụng, cụ
thể bao gồm (i) việc xác định mục tiêu, (ii) mức độ phù hợp của các mục tiêu,
(iii) việc định dạng các rủi ro liên quan, (iv) đánh giá rủi ro, và (v) các biện
pháp nhằm giảm thiểu rủi ro.
Hoạt động kiểm soát là các chính sách, quy trình, thông lệ được xây
dựng nhằm đảm bảo thực hiện các kế hoạch, các yêu cầu do các cấp quản lý
điều hành đặt ra và các quy trình giảm thiểu rủi ro liên quan.
Hệ thống thông tin và cơ chế trao đổi thông tin là hệ thống hỗ trợ toàn
bộ các cấu phần của hệ thống kiểm soát nội bộ thông qua việc đảm bảo các
thông tin được nắm bắt đầy đủ và kịp thời trong toàn ngân hàng.
Cơ chế giám sát hoạt động kiểm soát là quá trình đánh giá chất lượng
của hệ thống kiểm soát nội bộ do Tổng giám đốc (Giám đốc) ngân hàng tổ
chức thực hiện và do Bộ phận kiểm toán nội bộ của ngân hàng và/hoặc tổ
chức kiểm toán độc lập bên ngoài thực hiện.
Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát chịu trách nhiệm cuối cùng về mức
độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ thông qua
một Bộ phận chuyên trách độc lập. Bộ phận này chính là Bộ phận kiểm toán
nội bộ của ngân hàng. Chức năng cơ bản của Bộ phận kiểm toán nội bộ là
thực hiện đánh giá độc lập về mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ
21
thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng, đồng thời đưa ra những khuyến nghị
nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ.
Bên cạnh đó, hệ thống kiểm soát nội bộ còn được thường xuyên tự
đánh giá. Công việc này do Tổng giám đốc của ngân hàng chịu trách nhiệm tổ
chức thực hiện.

1.3. KINH NGHIỆM QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG KINH DOANH
NGOẠI TỆ VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1.3.1. Kinh nghiệm quản trị rủi ro của một số ngân hàng
1.3.1.1. Quản trị rủi ro kinh doanh ngọai tệ của ngân hàng DUESTBANK
Việt Nam
Đối với NHTM, tất cả các cấp từ hội đồng quản trị, ban tổng giám đốc,
và tất cả các nhân viên đều phải nhận thức được tầm quan trọng của rủi ro
trong kinh doanh ngoại tệ. Hội đồng quản trị phải thuê tư vấn xây dựng khung
quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ phù hợp cho ngân hàng của mình và
môi trường kinh doanh. Trong đó, hai vấn đề chủ chốt cần được đầu tư là:
Xây dựng và hoàn thiện chiến lược cho quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại
tệ trong đó có hoạt động kinh doanh ngoại tệ, và hoàn thiện cấu trúc quản trị
rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Chiến lược quản trị rủi ro trong
kinh doanh ngoại tệ thường bao gồm các vấn đề sau đây:
(i) xác định rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ và nhận biết các nguyên
nhân gây rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ,
(ii) mô tả hồ sơ rủi ro (ví dụ: các rủi ro chính của các quy trình quản
lý phụ thuộc vào quy mô, sự phức tạp của hoạt động kinh doanh);
(iii) Mô tả về các trách nhiệm quản lý rủi ro hoạt động vào tổng thể
quản lý rủi ro nói chung của ngân hàng.
Về vấn đề cấu trúc quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ, NHTM
cần thành lập, hoàn thiện ủy ban quản lý rủi ro riêng biệt, trong đó rủi ro trong
22

×