Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương việt nam chi nhánh đống đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.01 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Đề tài:
QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
Họ và tên : Vương Thị Bích Hằng
Lớp : CH19E
Mã học viên : CH190527
Cán bộ hướng dẫn : TS Phan Hữu Nghị
Hà Nội, tháng 10/2012
MỤC LỤC
CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
1. NHNN : Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
2. TCTD : Tổ chức tín dụng
3. GHTD : Giới hạn tín dụng.
4. NHCT Việt Nam : Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
5. NHCT Đống Đa : Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
– Chi nhánh Đống Đa
6. Phòng KH : Phòng Khách hàng
7. Ban GĐ : Ban Giám đốc
8. TCKT, TCXH : Tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
9. NQH : Nợ Quá Hạn
10. CBQHKD : Cán bộ quan hệ khách hàng
11. TSĐB : Tài sản đảm bảo
12.HĐBĐ : Hợp đồng bảo đảm
13. XLRR : Xử lý rủi ro
14. TCXH : Tổ chức xã hội
15. HĐTD : Hợp đồng tín dụng.
DANH MỤC BẢNG BIỂU
PHẦN MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập quốc tế về kinh tế nói chung và Ngân hàng nói riêng
như hiện nay, với thời cơ và thách thức đan xen, nhiều Ngân hàng và tổ chức tín
dụng ra đời đã tạo ra sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các Ngân hàng muốn tồn tại,
phát triển, đạt được lợi nhuận mục tiêu và tạo ra vị thế của mình trong cạnh tranh thì
phải mở rộng quy mô hoạt động, phát triển các sản phẩm, dịch vụ, nâng cao năng
lực quản lý điều hành nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế.
Tuy nhiên, theo báo cáo của các ngân hàng tại Việt Nam mức doanh thu lợi
nhuận đạt được hằng năm vẫn đạt con số kỷ lục, nhưng thực tế thì thời gian gần
đây, việc giải thể và sáp nhập hàng loạt các ngân hàng cho thấy hệ thống tài chính
ngân hàng của chúng ta đang thực sự "có vấn đề". Bằng chứng trực tiếp của nhận
định này thể hiện qua thực tế hoạt động của nhiều ngân hàng còn rất yếu kém dẫn
đến tình trạng nợ xấu tràn lan mà nguyên nhân chính là để cạnh tranh, hệ thống
ngân hàng phải chấp nhận mức độ rủi ro quá cao, dễ bị ảnh hưởng bởi chu kỳ kinh
tế hoặc những biến động trong cũng như ngoài nước.
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam là một trong bốn ngân hàng
thương mại hàng đầu, giữ vai trò trụ cột của ngành ngân hàng Việt Nam. Trước
những thách thức của nền kinh tế vừa bước ra hội nhập với nền kinh tế thế giới đã
phải đón nhận những khó khăn liên tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính kéo theo sự
đổ vỡ hàng loạt của hệ thống ngân hàng, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
nói chung, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam nói riêng phải đối diện với
vấn đề cốt yếu để tồn tại và phát triển bền vững là khả năng quản trị và chống lại rủi
ro của bản thân ngân hàng.
Với tầm quan trọng của hoạt động tín dụng và mối tương quan của hoạt động
này với các hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng, đề tài “Quản trị rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đống Đa”
được học viên lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế có ý nghĩa cả về mặt lý
luận và thực tiễn.
1
2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu về hệ thống cơ sở lý thuyết về rủi ro tín dụng và công tác quản
trị rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại
Từ thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam – Chi nhánh Đống Đa, luận văn tập trung phân tích, chỉ rõ những
kết quả đạt được, cũng như hạn chế và nguyên nhân của những vấn đề còn tồn tại.
Từ những phân tích trên, luận văn đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm
khắc phục những tồn tại làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của Ngân hàng
thương mại nói riêng và sức khỏe của cả nền kinh tế nói chung. Phát huy hết nội
lực, đồng thời tận dụng được ngoại lực để các ngân hàng có thể phát triển ổn định
một cách vững vàng, tự tin khi tham gia vào nền kinh tế, góp phần giúp cho thị
trường tài chính Việt Nam ngày càng phát triển hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Nghiên cứu trong phạm vi Chi nhánh Ngân hàng TMCP
Công thương VN Đống Đa.
- Về thời gian: nghiên cứu hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công
thương VN Chi nhánh Đống Đa trong giai đoạn từ năm 2009 đến nay.
- Về nội dung: Đánh giá thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đống Đa, rút ra nhận xét những kết quả
đạt được, tồn tại, hạn chế. Tìm hiểu nguyên nhân và đề xuât
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích số liệu định lượng và các chỉ tiêu
định tính để làm rõ thực trạng hoạt động tín dụng cũng như thực trạng hoạt động
quản trị rủi ro tín dụng. Qua đó nghiên cứu để đưa ra nhận định, đề xuất giải pháp
đểnâng cao hiệu quả hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam – Chi nhánh Đống Đa.
2
4.1. Cơ sở lý thuyết sẽ sử dụng để phân tích

Lý thuyết về Ngân hàng thương mại, lý thuyết về tín dụng ngân hàng, lý
thuyết về quản trị rủi ro tại ngân hàng thương mại.
4.2. Các dữ liệu sẽ cần thu thập
- Số liệu về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Công thương Viêt
Nam - Chi nhánh Đống Đa.
- Số liệu về tỷ trọng các hình thức cho vay tại Ngân hàng TMCP Công
thương Viêt Nam - Chi nhánh Đống Đa.
- Số liệu về tình hình cho vay thu nợ đối với các hình thức trên (đánh giá
tình hình nợ quá hạn và tỷ trọng nợ quá hạn)
4.3. Các nguồn dữ liệu:
- Nguồn thu thập từ báo cáo tài chính riêng của Ngân hàng TMCP Công
thương Viêt Nam - Chi nhánh Đống Đa.
- Thông tin từ các cán bộ xây dựng mô hình hoạt động của Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Đống Đa.
- Nguồn thông tin từ các báo cáo, thống kê đã được công bố
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu, luận văn có kết cấu gồm
03 chương:
Chương 1: Tổng quan về quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công
thương Viêt Nam - Chi nhánh Đống Đa.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đống Đa.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Khái quát về tín dụng ngân hàng
1.1.1. Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm

Ngân hàng thương mại đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm
gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống ngân hàng
thương mại đã có tác động rất lớn đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế
thị trường thì ngân hàng thương mại ngày càng được hoàn thiện và trở thành những
định chế tài chính không thể thiếu được.
Tùy theo chức năng, nhiệm vụ hay theo các giai đoạn phát triển của ngân
hàng cũng như đặc trưng của mỗi nền kinh tế, chúng ta có những định nghĩa khác
nhau về ngân hàng. Cho đến thời điểm hiện nay, có rất nhiều khái niệm về Ngân
hàng thương mại:
Tại Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung
cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Bất
kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng sử dụng tiền
theo nhu cầu và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ
được xem là một ngân hàng
Ðạo luật ngân hàng của Pháp (1941): Ngân hàng thương mại là những Xí
nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng
dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho
chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính
Theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam năm 1997
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng như hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các
dịch vụ thanh toán và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
Như vậy, ta có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về ngân hàng thương
mại: Ngân hàng là doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh về
4
tiền tệ với hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh,
cung cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan. Ngân hàng
thương mại là tổ chức tài chính trung gian cung cấp danh mục các dịch vụ tài chính

đa dạng nhất và ngày càng giữ vai trò không thể thiếu trong nền kinh tế.
1.1.1.2. Các chức năng của ngân hàng:
Chức năng trung gian tín dụng: Ngân hàng thực hiện chức năng này với
hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai chủ
thể trong nền kinh tế: người thiếu vốn và người có vốn dư thừa. Điều tất yếu là tiền
sẽ chuyển từ người thừa vốn sang người có nhu cầu về vốn nếu cả hai cùng có lợi.
Với chức năng này, ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là
người cho vay và hưởng lợi nhuận từ khoản chênh lệch giữa lãi tiền gửi trả cho
người thừa vốn và lãi tiền vay nhận được từ người thiếu vốn. Với chức năng này,
ngân hàng đã làm cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, cung cấp những thông tin cụ thể
quan trọng chính xác và đối xứng.
Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các
quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và
dịch vụ bằng việc cung cấp các hình thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ
thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung
cấp tiền giấy khi khách hàng cần khiến cho việc thanh toán trở nên nhanh chóng,
thuận tiện và tiết kiệm chi phí. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với
nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán.
Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong
thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân
hàng trên toàn thế giới. Chức năng này biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh
toán quan trọng và hiệu quả phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toán cầu, từ đó thúc
đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó
góp phần phát triển kinh tế.
Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân hàng.
Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát
triển của mình, các ngân hàng, với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của
5

mình đã thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực
thi trên cơ sở hai chức năng vừa nêu trên của ngân hàng là chức năng trung gian tín
dụng và chức năng trung gian thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng,
ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được
khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ. Trong khi đó, với chức
năng trung gian thanh toán, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng
vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa,
thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống ngân hàng đã làm tăng tổng
phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã
hội. ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân
hàng trung ương đã áp dụng đối với ngân hàng thương mại. Do vậy ngân hàng trung
ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn
1.1.1.3. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng:
Huy động vốn: là nghiệp vụ đầu tiên, là sự khởi tạo cho hoạt động của ngân
hàng. Với hoạt động này ngân hàng đóng vai trò là nhân tố tập hợp các nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi trong xã hội thông qua các hình thức:
• Nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, tín phiếu.
• Các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ
tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận: nhận ủy thác cho vay
vốn, đi vay trên thị trường liên ngân hàng, vay ngân hàng trung ương,
vay tổ chức tín dụng khác
Sử dụng vốn: vốn huy động được sẽ được ngân hàng sử dụng cho các hoạt
động khác nhau. Nhưng chủ yếu chia thành hai loại hoạt động sau:
• Hoạt động tín dụng: hoạt động này đem lại lợi nhuận chủ yếu cho các
ngân hàng, nó chiếm tỷ trọng chủ yếu và là hoạt động cơ bản của một
ngân hàng. Tuy nhiên nó lại chứa đựng nhiều rủi ro, ảnh hưởng quan
trọng đến hoạt động của ngân hàng.
• Hoạt động đầu tư: Hoạt động này rất đa dạng và góp phần làm tăng

thêm thu nhập cho các ngân hàng. Đó là hình thức ngân hàng tham gia
vào hoạt động góp vốn, mua cổ phần của các công ty, liên doanh liên
6
kết, mua bán chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu nhằm đa dạng hoá
danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro, đem lại nhiều lợi nhuận cho các
ngân hàng.
Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản: hoạt động này thể hiện chức
năng trung gian thanh toán của ngân hàng thương mại. Ngân hàng cung cấp nhiều
phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ
thanh toán, thẻ tín dụng… Nhờ đó, các chủ thể kinh tế sẽ không phải giữ tiền mặt
cho thanh toán, tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán
an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh
tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
1.1.2. Tín dụng ngân hàng
1.1.2.1. Khái niệm
Tín dụng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua
nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ tín dụng được phát sinh ngay từ thời kỳ
chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa. Thời kỳ này, tín
dụng được thực hiện dưới hình thức vay mượn bằng hiện vật - hàng hóa. Về sau, tín
dụng đã chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ
Tín dụng xuất phát từ gốc từ Latinh: Gredittum - tức là tin tưởng, tín nhiệm.
Theo ngôn ngữ Việt Nam, tín dụng được hiểu là sự vay mượn.
Trong thực tế tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng nhưng ở bất cứ
dạng nào tín dụng cũng thể hiện 2 mặt cơ bản:
• Người sở hữu 1 số tiền hoặc hàng hóa chuyển giao cho người khác sử
dụng trong 1 thời gian nhất định.
• Đến thời hạn do 2 bên thỏa thuận, người sử dụng hoàn lại cho người
sở hữu 1 giá trị lớn hơn. Phần tăng thêm được gọi là phần lời hay nói
theo ngôn ngữ kinh tế là lãi suất.

Tín dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai chủ thể: một bên là người cho vay
và một bên là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên ràng buộc bởi cơ chế tín dụng,
thỏa thuận thời gian cho vay, lãi suất phải trả, Trong nền kinh tế hàng hóa có
nhiều loại hình tín dụng như: tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước và tín dụng
7
ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất của tín dụng là: quan hệ tin cậy lẫn
nhau trong quan hệ cho vay giữa ngân hàng với các doanh nghiệp, cá nhân khác,
được thực hiện dưới hình thức tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Luật các TCTD năm 1997 có quy định rằng:
“Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng vốn tự có, vốn huy
động được để cấp tín dụng”
“Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền
hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân
hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.”
Ngoài những đặc điểm chung, tín dụng ngân hàng đạt được ưu thế hơn các
hình thức tín dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc điểm tín
dụng bằng tiền, vốn tín dụng Ngân hàng có khả năng đầu tư chuyển đổi vào bất cứ
lĩnh vực nào của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy mà tín dụng Ngân hàng
ngay càng trở thành hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện
có.
1.1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng
 Vai trò đối với ngân hàng thương mại:
Cũng như các doanh nghiệp thông thường, mục tiêu hàng đầu mà ngân hàng
hướng đến khi tham gia vào lĩnh vực kinh doanh tiền tệ là tối đa hóa lợi nhuận. Như
đã phân tích ở trên, ngân hàng có ba hoạt động kinh doanh chính: huy động vốn, sử
dụng vốn và cung cấp các dịch vụ khác. Tùy theo đặc điểm của từng quốc gia, từng
giai đoạn phát triển của nền kinh tế mà mỗi hoạt động này đóng góp tỷ trọng khác
nhau trong mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của ngân hàng. Tuy nhiên, có thể thấy, đối

với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng thường chiếm tới hơn 1/2 tài sản và thu
nhập từ hoạt động tín dụng của ngân hàng thường chiếm từ 1/2 đến 2/3 tổng thu
nhập của ngân hàng.
Ngoài ra, hoạt động tín dụng của ngân hàng còn tạo điều kiện thuận lợi để
ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động, khẳng định vai trò và vị thế của mình trong
8
cung cấp các sản phẩm dịch vụ khác ra nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh
và thực hiện chức năng xã hội của mình.
Có thể nhận định rằng: tín dụng tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Không có
hoạt động tín dụngthì không thể có ngân hàng thương mại.
Mặt khác, rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng có xu hướng tập
trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Khi ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn
nghiêm trọng thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng. Bởi vậy, các
ngân hàng nếu muốn tồn tại và phát triển buộc phải tìm nhiều biện pháp thực hiện
việc đầu tư vốn nhằm bảo đảm thu được hiệu quả cao, đồng thời giảm rủi ro đến mức
thấp nhất. Vai trò của tín dụng đối với ngân hàng từ đó lại càng trở nên quan trọng.
 Vai trò đối với các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức sản xuất kinh doanh:
Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân, doanh nghiệp hay tổ chức sản
xuất, kinh doanh luôn phải cạnh tranh gay gắt với nhau để tránh tụt hậu và bị đào
thải. Để có thể mở rộng, phát triển hoạt động sản xuất, các chủ thể này cần có các
yếu tố như: nguồn nhân lực, công nghệ, đất đai, kỹ thuật và vốn…
Tuy nhiên, có thể khẳng định, vốn là yếu tố quan trọng nhất trong các nguồn
lực nêu trên. Vì khi có vốn, các chủ thể có thể dễ dàng tiếp cận với các nguồn lực
khác do thị trường cung ứng.
Để có thể có vốn, các chủ thể của nền kinh tế thị trường có thể huy động từ
nhiều nguồn khác nhau với chi phí sử dụng vốn khác nhau. Tuy nhiên, lại có thể
khẳng định, nguồn vốn tín dụng ngân hàng là nguồn vốn sẵn có với chi phí vốn hợp
lý nhất mà mọi chủ thể của nền kinh tế đều có thể tiếp cận và có vai trò tương đối
quan trọng đối với các chủ thể này. Cụ thể như sau:
- Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tránh tình

trạng sử dụng vốn sai mục đích đối với các tổ chức, cá nhân và tổ chức sản xuất
kinh doanh được tài trợ.
- Tín dụng ngân hàng góp phần bảo đảm cho hoạt động sản xuất, kinh doanh
được liên tục thuận lợi.
- Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các cá
nhân, doanh nghiệp và tổ chức sản xuất kinh doanh khác.
- Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh
9
nghiệp
 Vai trò đối với nền kinh tế:
- Thứ nhất, tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình tái
sản xuất đồng thời góp phần đầu tư vào phát triển kinh tế.
Bên cạnh quan hệ mua bán chịu luôn tồn tại trên thị trường, tín dụng ngân
hàng đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn trong nền
kinh tế diễn ra nhanh hơn, giúp cho người cần vốn có thể tìm được vốn nhanh hơn,
hiệu quả hơn để có thể duy trì hoạt động sản xuẩt kinh doanh được liên tục và giúp
cho người thừa vốn có thể bảo quản an toàn, đồng thời thu được lợi nhuận.
Trong nền sản xuất hàng hoá, tín dụng là một trong những nguồn hình thành
vốn cho doanh nghiệp, đã góp phần động viên vật tư hàng hoá đi vào sản xuất, thúc
đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội.
- Thứ hai, tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung
sản xuất.
Bản chất đặc trưng hoạt động ngân hàng là huy động vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi phân tán trong nền kinh tế để thực hiện cho vay tới các đơn vị kinh tế có
nhu cầu vốn phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Đầu tư tập trung là yêu cầu
tất yếu của nền kinh tế sản xuất hàng hoá, hạn chế sự lãng phí vốn, tiết kiệm mọi
nguồn lực như thời gian, chi phí huy động vốn cho sản xuất… Nhờ hoạt động này,
tín dụng ngân hàng đã góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế. Tín dụng
ngân hàng trở thành động lực khuyến khích tiết kiệm và đầu tư.
Cũng từ đó, tín dụng ngân hàng trở thành công cụ đắc lực của Ngân hàng

trung ương trong việc nâng cao chất lượng và điều hòa tiền tệ, thực hiện các chính
sách vĩ mô của Nhà nước, tạo môi trường kinh doanh ổn định.
- Thứ ba, tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và
luân chuyển tiền tệ.
Việc cấp tín dụng của ngân hàng không phải dành cho tất cả các chủ thể có
nhu cầu trong nền kinh tế mà phải trải qua một quá trình thẩm định tương đối kỹ
lưỡng. Tín dụng ngân hàng đã tham gia trực tiếp vào quá trình luân chuyển hàng
hoá và luân chuyển tiền tệ tạo điều kiện phát triển nền kinh tế, đặc biệt những ngành
kinh tế trọng điểm trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế. Hoạt động tín dụng luôn
chịu sự chi phối trực tiếp của chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ, vì vậy đã
góp phần vào việc đẩy nhanh quá trình lưu chuyển tiền tệ trong nên kinh tế thị
10
trường, hạn chế thấp nhất sự ứ đọng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh, đẩy
nhanh vòng quay của vốn.
- Thứ tư, tín dụng góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế
Với sự tài trợ tín dụng của ngân hàng, mỗi doanh nghiệp phải thực hiện một
chế độ hạch toán kinh tế và các định chế tài chính khác một cách minh bạch và hiệu
quả hơn. Khi sử dụng vốn vay ngân hàng các doanh nghiệp phải tôn trọng các hợp
đồng tín dụng, phải thực hiện thanh toán lãi và nợ vay đúng hạn, cũng nhưviệc chấp
hành các quy định ràng buộc trách nhiệm nghĩa vụ khác ghi trong hợp đồng như là
về vấn đề tài chính…
Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp khi sử dụng vốn vay của ngân hàng phải
quan tâm tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất kinh doanh,
tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Thứ năm, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước yêu cầu các doanh
nghiệp phải mở rộng mối quan hệ kinh tế không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà
còn phải mở rộng ra phạm vi khu vực và thế giới. Tín dụng ngân hàng đã trở thành
cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với thế giới và khu vực.
Tín dụng ngân hàng ngày nay là một công cụ để giúp đỡ các doanh nghiệp

trong nước có đủ năng lực để tham gia vào thị trường thế giới như tài trợ việc mua
bán chịu hàng hóa, mở rộng sản xuất , nang cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp
với yêu cầu về quy mô và chất lượng của thị trường thế giới.
- Thứ sáu, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn cho các ngành kinh tế
kém phát triển và các ngành kinh tế trọng điểm, góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế,
chính sách kinh tế và hạn chế lạm phát:
Với công cụtín dụng ngân hàng, Chính phủ sẽ tài trợ cho các ngành kinh tế
kém phát triển bằng việc cho vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời hạn dài, mức vốn lớn.
Ngoài ra, Chính phủ còn tập tung vốn tín dụng vào việc phát triển các ngành kinh tế
mũi nhọn, để tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo. Điều này
được thể hiện rõ trong chính sách, chiến lược phát triển đất nước từng thời kỳ.
Ngân hàng tạo ra các nguồn vốn chủ yếu từ việc huy động các nguồn tiền
nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua chính sách lãi suất linh hoạt hấp dẫn, sau đó
đầu tư vào nền kinh tế, vào các công trình trọng điểm trong chính sách phát triển đất
nước mà Chính phủ đã đề ra. Bên cạnh đó vẫn đảm bảo đựơc không ảnh hưởng tiêu
11
cực đến tình hình giá cả và lưu thông tiền tệ quốc gia. Ngược lại, Nhà nước sử dụng
biện pháp khác, ví dụ như phát hành tiền giấy để tạo nguồn vốn đầu tư vào nền kinh
tế, sẽ gây ra sự mất cân đối trong lưu thông, trong quan hệ hàng hoá - tiền tệ, làm
tăng lạm phát… Kết quả là ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước.
Phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng để đạt mục tiêu phát triển là một
nhiệm vụ đầy khó khăn thử thách. Song song với việc này là phải đảm bảo an toàn
tín dụng và đó là mục tiêu lớn trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng
thương mại nói chung và của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi
nhánh Đống Đa nói riêng.
1.1.2.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
a. Phân loại theo thời gian:
Theo cách này tín dụng ngân hàng được phân làm 3 loại:
• Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng dưới 12 tháng và thường được dùng

để bổ sung vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu trong ngắn hạn.
• Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 12 tháng đến dưới 60
tháng thường dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến và biến đổi kỹ
thuật, mở rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
• Tín dụng dài hạn: là khoản tín dung có thời gian trên 60 tháng được sử
dụng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản như: Đầu tư xây dựng các xí nghiệp
mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất.
Tuy nhiên, việc xác định thời hạn trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì
nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn.
b. Phân loại theo hình thức cấp tín dụng:
 Cho vay theo hạn mức thấu chi
Cho vay theo hạn mức thấu chi là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng
chấp thuận cho khách hàng sử dụng vượt mức số dư của mình trên tài khoản tiền
gửi thanh toán đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Đây
là hình thức cấp tín dụng có cơ chế linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn không cần
có đảm bảo phù hợp với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ
thu nhập ngắn.
12
 Cho vay theo hạn mức tín dụng
Cho vay theo hạn mức tín dụng là hình thức cho vay mà trong đó khách hàng
được ngân hàng cho phép duy trì một mức dư nợ cao nhất trong một thời hạn thỏa
thận, gọi là hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản
xuất, kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng có nhu cầu vốn
lưu động thường xuyên, hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định.
 Cho vay từng lần
Cho vay từng lần là hình thức cấp tín dụng mà theo đó mỗi lần vay vốn
khách hàng và Ngân hàng đều phải thực hiện những thủ tục vay vốn cần thiết và ký
kết hợp đồng tín dụng. Hình thức cấp tín dụng này chỉ phù hợp với các khách hàng
không có nhu cầu sử dụng vốn thường xuyên, hoặc hoạt động có tính chất thời vụ

hoặc Ngân hàng muốn kiểm soát chặt chẽ hơn quá trình sử dụng vốn vay của Khách
hàng.
 Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép người
vay vốn trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Phương thức
cho vay này thường được áp dụng cho đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài
trợ cho tài sản cố định hoặc hàng hóa lâu bền.
c. Phân loại theo mục đích sử dụng:
Theo tiêu thức này thì tín dụng ngân hàng được phân chia rất đa dạng và
phong phú:
• Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp thương
mại và dịch vụ.
• Cho vay công nghiệp và thương mại: là cho vay ngắn hạn để bổ xung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
• Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, con giống, lao động,
• Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu trang trải các
khoản chi phí thông thường phục vụ tiêu dùng.
• Cho vay các định chế tài chính: là hoạt động cấp tín dụng cho các tổ chức
13
tín dụng và các định chế tài chính khác trên thị trường liên ngân hàng…
• Thuê mua và các loại tín dụng khác
c. Phân loại theo mức độ tín nhiệm với khách hàng:
• Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa trên uy tín của khách
hàng.
• Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được Ngân hàng cung cấp với điều
kiện phải có tài sản thế chấp hoặc cần có bảo lãnh của bên thứ ba. Sự bảo đảm này
căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai,bổ sung cho nguồn thu nợ

thứ nhất thiếu chắc chắn nhằm bù lại khoản tiền vay trong trường hợp người vay
không có khả năng trả nợ
1.2. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Cho đến nay, ở mỗi lĩnh vực hoạt động, mỗi trường phái khác nhau, rủi ro
được định nghĩa một cách khác nhau:
“Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được.”
“Rủi ro là toàn bộ biến cố ngẫu nhiên, tiêu cực tác động lên quá trình đầu tư
làm thay đổi kết quả theo chiều hướng bất lợi”.
“Rủi ro là xác suất xuất hiện biến cố không mong đợi gây ra kết quả sai lệch
giữa thực tế so với dự kiến, là sự không chắc chắn hay các mối nguy hiểm.”
“Rủi ro được hiểu là việc lượng hóa khả năng xảy ra những thiệt hại hoặc lợi
nhuận thu về thấp hơn so với dự kiến.”
Rủi ro tín dụng theo định nghĩa Ủy ban Basel II đó là rủi ro xảy ra sự mất
mát do người đi vay hoặc đối tác gây ra.
Các định nghĩa trên đều ít nhiều khác nhau, song lại cùng đề cập đến hai vấn
đề chính:
−Sự không chắc chắn, yếu tố bất trắc.
−Một khả năng xấu: một biến cố không mong đợi, tổn thất.
Có rất nhiều dạng rủi ro như rủi ro về tỉ giá, rủi ro về thị trường, rủi ro về
pháp luật, rủi ro về tín dụng, rủi ro về lãi suất, rủi ro về bất động sản
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất mà ngân hàng phải chịu khi khách
hàng vay vốn không có khả năng trả nợ đúng hạn hoặc trả nợ không đầy đủ.
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, rủi ro tín dụng phát sinh sẽ gây
ra hàng loạt các thiệt hại: mất lòng tin trong việc huy động vốn của dân cư do không
14
thu hồi được vốn ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng, từ đó sẽ việc
phát triển các sản phẩm dịch vụ khác sẽ trở nên tương đối khó khăn, ngân hàng
buộc phải thu hẹp hoạt động của mình, lợi nhuận giảm, uy tín giảm sút… Từ đó tạo
ra vòng tuần hoàn khiến ngân hàng trở nên khó khăn và dẫn đến phá sản. Ngoài ra,

hoạt động của ngân hàng liên quan đến rất nhiều thành phần kinh tế, vì vậy, rủi ro
xảy ra trong hoạt động của ngân hàng sẽ ảnh hưởng trực tiếp và mang tính dây
chuyền đến toàn bộ nền kinh tế. Do đó phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân
hàng không chỉ là vấn đề sống còn đối với ngân hàng mà còn là một yêu cầu cấp
thiết góp phần vào sự ổn định và bền vững của nền kinh tế.
1.2.2. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Nguyên nhân từ phía khách hàng:
Đối với các doanh nghiệp, kinh nghiệm và năng lực hoạt động kinh doanh
còn đang ở trình độ thấp, hầu hết các doanh nghiệp này đều không nắm bắt được
thông tin kịp thời, thiếu thích nghi với cạnh tranh. Vì vậy, khi phương án vay vốn
gặp khó khăn, khả năng trả nợ của khách hàng gặp vấn đề, rủi ro tín dụng là điều
không thể tránh khỏi.
Lợi dụng điểm yếu của NHTM, nhiều khách hàng đã tìm cách lừa đảo để
được vay vốn. Họ lập phương án sản xuất kinh doanh giả, giấy tờ thế chấp cầm cố
giả mạo, hoặc đi vay ở nhiều ngân hàng với cùng bộ hồ sơ.
Sử dụng sai mục đích so với hợp đồng tín dụng khiến cho nguồn trả nợ trở
nên bấp bênh. Vì vậy, khi khách hàng đã sử dụng vốn sai mục đích, việc thanh toán
gốc và lãi đúng hạn rất khó xảy ra,rủi ro tín dụng xuất hiện.
Việc trốn tránh trách nhiệm và nghĩa vụ đã uỷ quyền và bảo lãnh cũng là một
nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho ngân hàng thương mại. Một số công ty, tổng công
ty đứng ra bảo lãnh hoặc uỷ quyền cho các chi nhánh trực thuộc thực hiện vay vốn
của ngân hàng thương mại để tránh sự kiểm tra giám sát của ngân hàng cho vay
chính. Khi đơn vị vay vốn mất khả năng thanh toán, bên bảo lãnh và uỷ quyền
không chịu thực hiện việc trả nợ thay.
Nguyên nhân từ phía ngân hàng:
Việc mở rộng hoạt động tín dụng quá mức thường tạo điều kiện cho rủi ro tín
15
dụng của ngân hàng tăng lên. Mở rộng tín dụng quá mức đồng nghĩa với việc lựa
chọn khách hàng kém kỹ càng, khả năng giám sát của cán bộ tín dụng đối với việc
sử dụng khoản vay giảm xuống đồng thời cũng làm cho việc tuân thủ quy trình tín

dụng bị lơi lỏng.
Trình độ cán bộ hạn chế, nhất là cán bộ tín dụng người trực tiếp nhận hồ sơ
khách hàng, phân tích và thẩm định khách hàng cũng như dự án vay vốn. Vì vậy
nếu trình độ cán bộ tín dụng không cao, thẩm định không tốt, có thể chấp nhận cho
vay những khoản vay không khả thi hoặc bị khách hàng lừa gạt.
Quy chế cho vay chưa chặt chẽ, quá cụ thể hoặc quá linh hoạt đều khiến cho
ngân hàng thương mại gặp phải rủi ro tín dụng.Việc đánh giá giá trị tài sản thế chấp,
cầm cố cũng đang là vấn đề nổi cộm trong quy chế tín dụng tại các ngân hàng
thương mại trong giai đoạn hiện nay.
Sự cạnh tranh không lành mạnh nhằm thu hút khách hàng giữa các ngân
hàng thương mại khiến cho việc thẩm định khách hàng trở nên sơ sài, qua loa hơn.
Hơn nữa, nhiều NHTM do quá chú trọng đến lợi nhuận nên đã chấp nhận rủi ro cao,
bất chấp những khoản vay không lành mạnh, thiếu an toàn.
Ngoài ra, còn rất nhiều nhân tố khác thuộc về ngân hàng thương mại gây ra
rủi ro tín dụng như: chất lượng thông tin và xử lý thông tin trong ngân hàng thương
mại, cơ cấu tổ chức và quản lý đội ngũ cán bộ, năng lực công nghệ
Nguyên nhân khác:
Thông tin không cân xứng: Trong giao dịch diễn ra trên thị trường tài chính,
một bên thường không biết tất cả những gì cần biết về bên kia để có được một quyết
định đúng đắn. Sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được gọi là thông tin
không cân xứng. Việc thiếu thông tin tạo ra những vấn đề trong hệ thống tài chính ở
hai mặt: trước khi thực hiện giao dịch và sau khi cuộc giao dịch diễn ra.
Lựa chọn đối nghịch là do vấn đề thông tin không cân xứng tạo ra trước khi
giao dịch được thực hiện. Điều này thể hiện ở các món cho vay được thực hiện cho
những trường hợp rủi ro không trả được nợ hay quyết định không cho vay đối với
các trường hợp sử dụng vốn hiệu quả và có khả năng trả nợ.
Rủi ro đạo đức là do vấn đề thông tin không cân xứng tạo ra sau khi giao
16
dịch được thực hiện. Đó là khi người đi vay xuất hiện ý muốn thực hiện những hoạt
động có ảnh hưởng không tốt đến khả năng hoàn trả nợ vay, đồng thời che giấu tình

hình bằng những con số, báo cáo không trung thực khiến người cho vay không nắm
bắt được tình hình hoạt động cũng như khả năng hoàn trả nợ vay của người đi vay.
Môi trường kinh tế: Hoạt động kinh doanh tiền tệ là hoạt động rất nhạy cảm,
chịu tác động mạnh mẽ từ các yếu tố của nền kinh tế trong nước và thế giới. Bất kỳ
một biến động nào của nền kinh tế như: suy thoái kinh tế, biến động tỷ giá, lạm phát
gia tăng cũng ảnh hưởng tới ngân hàng. Môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất quan
trọng đối với ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng.
Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện và đồng bộ, hoặc thay đổi theo hướng
bất lợi cho doanh nghiệp thì cũng khiến các khoản vay NHTM gặp khó khăn.
Ngoài ra, những rủi ro từ môi trường thiên nhiên như động đất, bão lụt, hạn
hán, tác động xấu tới phương án đầu tư của khách hàng, làm cho khách hàng khó
có nguồn trả nợ ngân hàng, từ đó cũng gây ra rủi ro tín dụng.
1.2.3. Các loại rủi ro tín dụng:
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia
thành các loại sau :
Rủi ro giao dịch: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát
sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá
khách hàng. Rủi ro giao dịch có 03 bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm
và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích
tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết
định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản
trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách thức
đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và
hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật
xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
17
Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát

sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được
phân chia thành 02 loại : rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
+ Rủi ro nội tại : xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính
riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó
xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay
vốn.
+ Rủi ro tập trung : là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá
nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong
cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc
cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.2.4. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng:
Tầm quan trọng của hoạt động tín dụng đối với ngân hàng, đối với các đối
tượng tham gia vào nền kinh tế cũng như hậu quả nghiêm trọng khi xảy ra rủi ro tín
dụng, Ngân hàng cần có biện pháp để nhận diện những dấu hiệu ban đầu của khoản
vay có vấn đề và có hành động cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế, xử lý chúng. Các
dấu hiệu này đôi khi chỉ được nhận ra trong cả một quá trình chứ không hẳn là một
thời điểm. Do vậy cán bộ ngân hàng cần phải nhân biết chúng một cách có hệ
thống. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng có thể bao gồm các nhóm sau:
1.2.4.1 Nhóm các dấu hiệu phát sinh rủi ro từ phía khách hàng:
 Nhóm dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng:
Một trong những đặc điểm của quan hệ tín dụng giữa khách hàng và ngân
hàng là việc sử dụng vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng
chịu sự kiểm soát của ngân hàng cấp tín dụng. Trong quá trình trao đổi thông tin,
việc kiểm soát này có thể cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan trọng của
rủi ro tín dụng tiềm ẩn như:
+ Khách hàng trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với Ngân hàng trong
quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình
hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng mà không có
sự giải thích minh bạch, thuyết phục.
18

Chậm gửi hoặc trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu mà không có
sự giải thích rõ ràng. Không có các báo cáo hay dự đoán về lưu chuyển tiền
tệ.
⇒ Điều này cho thấy khách hàng đang có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ
các quy định, vi phạm pháp luật trong quá trình quan hệ tín dụng, sử dụng
vốn sai mục đích hoặc có những hành động làm ảnh hưởng đến khả năng
thanh toán nợ vay đúng hạn…
+ Khách hàng đề nghị gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý do
hoặc thiếu các căn cứ thuyết phục mang tính khách quan về gia hạn hay điều
chỉnh kỳ hạn;
Sự sụt giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại Ngân hàng, xuất hiện
những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc
độ và tổng mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán của khách hàng. Chậm thanh
toán các khoản lãi đến hạn, thanh toán các khoản nợ gốc không đầy đủ, đúng
hạn.
Có dấu hiệu cho thấy khách hàng trông chờ các nguồn thu nhập bất thường
khác không phải từ hoạt động sản xuất, kinh doanh chính hoặc từ hoạt động
được đề xuất trong phương án vay vốn để đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán.
Có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác,
đặc biệt từ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng.
Khách hàng sử dụng nguồn tài trơ ngắn hạn cho các hoạt động phát
triển dài hạn, chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ với chi phí vốn cao nhất,
giảm các khoản phải trả, tăng các khoản phải thu
⇒ Khách hàng có dấu hiệu mất kiểm soát dòng tiền trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, dẫn đến mất khả năng thanh toán nợ vay đúng hạn.
 Nhóm các dấu hiệu liên quan đến tình hình hoạt động của khách hàng:
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, khách hàng còn có các giao
dịch với đối tượng khác. Các hoạt động này cũng chứa đựng những dấu hiệu của rủi
ro ảnh hưởng đến khả năng thanh toán nợ vay đúng hạn, tuy nhiên, tốc độ ảnh
hưởng chậm hơn so với các dấu hiệu bộc lộ trong mối quan hệ giữa ngân hàng và

19
khách hàng. Các dấu hiệu cụ thể như sau:
+ Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ hoạt
động của khách hàng. Xuất hiện ngày càng nhiều các khoản chi phí bất hợp
lý như sự gia tăng đột biến trong chi phí quảng cáo, tiếp khách, tập trung quá
mức chi phí để gây ấn tượng như thiết bị văn phòng rất hiện đại
+ Thay đổi thường xuyên tổ chức của Ban điều hành. Xuất hiện bất đồng và
mâu thuẫn trong quản trị, điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý. Ban
điều hành ít kinh nghiệm hay tham gia quá sâu vào vấn đề thường nhật, thiếu
quan tâm đến lợi ích của các cổ đông, chủ nợ.
+ Khách hàng sẵn sàng từ bỏ các hợp đồng có giá trị vừa và nhỏ nhưng có khả
năng thu được tỷ suất lợi nhuận cao để tìm kiếm các hợp đồng có giá trị lớn
với các bạn hàng có tên tuổi dù lợi nhuận thu về có khả năng thấp hơn, sẵn
sàng cắt bỏ lợi nhuận để đạt được các hợp đồng lớn, theo đuổi chiến lược
mượn thương hiệu.
1.2.4.2. Nhóm dấu hiệu xuất phát từ phía ngân hàng:
Hoạt động cấp tín dụng là quan hệ giữa hai chủ thể: ngân hàng và khách
hàng. Như đã phân tích ở trên, nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng có thể xuất phát
từ phía khách hàng hay từ phía ngân hàng. Do đó, không thể bỏ qua các dấu hiệu
của rủi ro tín dụng tiềm ẩn trong quy trình cấp tín dụng của bản thân ngân hàng.
Tuy nhiên, các dấu hiệu này thường ít được quan tâm trong quản trị rủi ro tín dụng
của ngân hàng, do tâm lý chủ quan và quan điểm quản trị của ban điều hành. Các
dấu hiệu cụ thể như sau:
+ Dấu hiệu đầu tiên của rủi ro tín dụng tiềm ẩn xuất phát từ phía ngân hàng là
sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng
như: đánh giá quá cao năng lực của khách hàng so với thực tế, nguồn thông
tin sử dụng để phân tích đánh giá còn hạn chế,
+ Ngoài ra, trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế nói chung và
hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng, các ngân hàng có thể cấp tín dụng
dựa trên cam kết không chắc chắn và thiếu tín đảm bảo của khách hàng về

việc duy trì một khoản tiền gửi lớn hay những lợi ích tổng thể trong việc
20
quan hệ tín dụng với khách hàng.
+ Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá: giảm lãi suất cho vay,
phí dịch vụ hay thực hiện chiến lược giữ chân khách hàng
bằng các khoản tín dụng mới để họ không quan hệ với các tổ
chức khác mặc dù biết rõ các khoản tín dụng sẽ cấp tiềm ẩn
nguy cơ rủi ro cao.
Trên đây là những dấu hiệu nhận biết rằng khả năng xảy ra rủi ro tín dụng,
do đó cần phải đặc biệt chú ý trong việc quản lý hoạt động tín dụng
1.3. Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại:
1.3.1. Khái niệm:
Quản trị rủi ro là quá trình xác định, phân tích rủi ro và đề ra các biện pháp
để kiểm soát, hạn chế các rủi ro đó xảy ra. Một cách tổng quát, đấy là quá trình xem
xét toàn bộ hoạt động, xác định các nguy cơ tiềm ẩn, và khả năng xảy ra các nguy
cơ đó. Từ đó có sự chuẩn bị các hành động thích hợp để hạn chế các rủi ro đó ở
mức thấp nhất.
Theo đó, quản trị rủi ro tín dụng là quá trình kiểm tra, giám sát, phòng ngừa
liên tục, bắt đầu từ khâu thẩm định, đánh giá khách hàng cũng như phương án/dự án
vay vốn trước khi quyết định cho vay, đến giải ngân, theo dõi để xác định rủi ro
tiềm ẩn và đề ra các biện pháp quản lý nhằm giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra.
Một cách tổng quát, đấy là quá trình xem xét toàn bộ hoạt động của tổ chức, xác
định các nguy cơ tiềm ẩn, và khả năng xảy ra các nguy cơ đó. Từ đó có sự chuẩn bị
các hành động thích hợp để hạn chế các rủi ro đó ở mức thấp nhất.
Như vậy, quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xác định và tìm cách quản lý,
hạn chế các rủi ro đó xảy ra đối với ngân hàng trong quá trình thực hiện nghiệp vụ
tín dụng.
1.3.2. Các biện pháp quản trị rủi ro tín dụng
1.3.2.1. Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro tín dụng:
Chiến lược quản trị rủi ro tín dụng là tập hợp các chuỗi hoạt động được thiết

kế nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường biến động phức tạp như hiện nay, đòi
hỏi mỗi ngân hàng đều phải xây dựng chiến lược quản trị rủi ro tín dụng rõ ràng.
21

×