Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của thị trường chứng khoán việt nam hiện nay, đưa ra giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.46 KB, 37 trang )

Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên chúng em xin chân thành cảm ơn cô Trần Thị Yến đã trực tiếp
hướng dẫn, cung cấp tài liệu và tạo mọi điều kiện thuận lợi để chúng em hoàn
thành tiểu luận.
Nhóm chúng em xin gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô giáo Trường Đại
học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh thời gian qua đã truyền đạt và trang bị cho em
đầy đủ kiến thức chuẩn bị tốt cho bài tập này.
Tuy đã cố gắng nhiều nhưng do thời gian có hạn, bài tiểu chắc chắn sẽ không
tránh khỏi sai sót. Vì vậy, chúng em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp,
bổ sung của quý thầy cô và các bạn sinh viên để đề tài được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa nhóm chúng em xin chân thành cám ơn và chúc thầy cô và các
bạn nhiều sức khỏe.
Nhóm 11 - Xin chân thành cảm ơn
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) là bước
phát triển tất yếu của một nền kinh tế thị trường. Việt Nam với nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường cũng đòi hỏi phải có TTCK để làm cầu nối giữa một
bên là các nhà đầu tư (bao gồm các tổ chức kinh tế – xã hội và dân chúng) với
bên kia là các doanh nghiệp cần vốn kinh doanh và Nhà Nước cần tiền để thỏa
mãn các nhu cầu chung của đất nước.
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH
PHOTO QUANG TUẤN
ĐT: 0972.246.583 & 0166.922.4176
Gmail: ; Fabook: vttuan85
Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
Đến nay, TTCK Việt Nam đã trải qua 5 năm đầu tiên trong lịch sử phát
triển của mình. Năm năm qua là năm năm làm quen với hoạt động của TTCK,
vượt qua bao khó khăn thử thách để vững bước phát triển thị trường. Bước đầu
công chúng đầu tư đã làm quen với phương thức huy động vốn thông qua TTCK


và các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu), được mua, bán trên TTCK. Tuy
nhiên, hoạt động của TTCK của các nhà đầu tư Việt Nam thời gian qua không
thu được kết quả khả quan như mong muốn.
Nhìn tổng thể, công sức chuẩn bị mấy năm qua cũng chỉ mới làm cho xã
hội Việt Nam có đôi chút hiểu biết về TTCK. Con đường đi đến chỗ thực sự xây
dựng được TTCK ở Việt Nam quả còn xa, chướng ngại còn không ít. Học tập
kinh nghiệm trên thế giới để đổi mới được quan niệm nhận thức và cách làm để
năng động hơn và để cho phù hợp hơn với đặc điểm lịch sử truyền thống dân
tộc, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí. Với mong muốn như vậy, nhóm 11
chúng em thống nhất chọn đề tài “Lịch sử hình thành và quá trình phát triển
của thị trường chứng khoán Việt Nam” để tìm hiểu,
2.Mục đích nghiên cứu
Mục đích của bài viết là tìm hiểu lịch sử hình thành, quá trình phát triển
của thị trường chứng khoán Việt Nam, thông qua bài viết này nhóm chúng em
muốn được hiểu sâu hơn về TTCK và những điều kiện, khả năng thu hút vốn
đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam thông qua thị trường chứng khoán.
3.Phương pháp nghiên cứu
- Quy nạp – Diễn dịch
- Logis – Lịch sử
- Phương pháp tìm hiểu, thu thập tài liệu
- Phương pháp so sánh thống kê
4.Nội dung bài viết gồm 3 chương
- Chương 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán (TTCK)
- Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH
Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
- Chương 3: Kết quả đạt được trong những năm qua, chiến lược phát triển và
tầm nhìn những năm tiếp theo (2012 – 2020) của TTCK Việt Nam
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH

Chương 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
NỘI DUNG
Chương 1:Tổng quan về thị trường chứng khoán
1.1. Khái niệm:
Thị trường chứng khoán (TTCK) trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại,
được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán
trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người
mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị
trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị
trường sơ cấp.
Như vậy, xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao
đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm
giữ chứng khoán.
1.2. Chức năng cơ bản của TTCK:
- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô
1.3. Các chủ thể tham gia TTCK
Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK có thể được chia thành các nhóm sau:
tổ chức phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
1.3.1.Tổ chức phát hành
Tổ chức phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK.
Tổ chức phát hành là tổ chức cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của
TTCK.
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính
phủ và trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái

phiếu, chứng chỉ thụ hưởng phục vụ cho hoạt động của họ.
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH
Chương 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
1.3.2.Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK.
Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có
tổ chức.
1.3.3.Các tổ chức kinh doanh trên TTCK
- Công ty chứng khoán
- Quỹ đầu tư chứng khoán
- Các trung gian tài chính
1.3.4. Các tổ chức có liên quan đến TTCK
- Cơ quan quản lý Nhà nước
- Sở giao dịch chứng khoán/Trung tâm giao dịch chứng khoán
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
1.4. Cấu trúc và phân loại cơ bản của TTCK
TTCK là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài chính (cổ
phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân hàng có kỳ hạn trên 1 năm). Sau đây là
một số cách phân loại TTCK cơ bản:
1.4.1.Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
TTCK được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
- Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.
Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang tổ chức phát hành
thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
- Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên
thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.

1.4.2.Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
TTCK được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và
phi tập trung (thị trường OTC).
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH
Chương 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
1.4.3.Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
TTCK cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị
trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
- Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu,
bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
- Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã
được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô
thị và trái phiếu chính phủ.
- Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và
mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng
quyền, hợp đồng quyền chọn
1.5. Vài nét về một số thị trường chứng khoán trên thế giới:
Vào ngày 17/5/1792 tại Wall Street, 24 nhà môi giới (broker) và thương gia
(merchant) đã chính thức ký thỏa thuận Buttonwood thành lập thị trường chứng
khoán New York (NYSE). Tại phiên họp các thương gia quyết định sẽ gặp nhau
hàng ngày tại Wall Street để giao dịch cổ phiếu và trái phiếu. Và cho đến bây giờ,
chỉ số NYSE vẫn là một trong những chỉ số quan trọng để đánh giá ttck toàn cầu.
Ngày nay, NYSE, AMEX, NASDAQ và hàng trăm các thị trường chứng khoán
khác đã góp phần quan trọng đáng kể vào nền kinh tế quốc gia và toàn cầu.
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH
Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của TTCK Việt Nam
Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của thị trường chứng
khoán Việt Nam.
2.1.Lịch sử hình thành Thị trường Chứng khoán Việt Nam
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi , ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị

định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị
trường chứng khoán Việt Nam ra đời.
Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho TTCKVN thực ra đã
do Uỷ Ban Chứng khoán Việt Nam ra đời bằng Nghị định 75/CP ngày 28-11-
1996.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM) được
thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi
vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000.
Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức chào đời
vào ngày 8/3/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao
dịch chứng khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho
các DN nhỏ và vừa (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
ϖ Chỉ số VN – Index:
VN - Index là ký hiệu của chỉ số chứng khoán Việt Nam. VN - Index xây
dựng căn cứ vào giá trị thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết. Với hệ
thống chỉ số này, nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một cách
tổng quát
Chỉ số VN -Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ
sở vào ngày gốc 28-7-2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt
động.
Giá trị thị trường cơ sở trong công thức tính chỉ số được điều chỉnh trong các
trường hợp như niêm yết mới, huỷ niêm yết và các trường hợp có thay đổi về vốn
niêm yết.
Công thức tính chỉ số VN - Index:
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH
Chỉ số VN -Index =
Giá trị thị trường hiện hành
Giá trị thị trường cơ sở
x 100

Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của TTCK Việt Nam
Trong đó:
Pit: Giá thị trường hiện hành của cổ phiếu i
Qit: Số lượng niêm yết hiện hành của cổ phiếu i
Pi0: Giá thị trường vào ngày gốc của cổ phiếu i
Qi0: Số lượng niêm yết vào ngày gốc của cổ phiếu i
2.2.Qúa trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
2.2.1. Giai đoạn 2000-2005: Giai đoạn chập chững biết đi của thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa
vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày
20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời
điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM)
với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch.
Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn sốt vào
năm 2001(chỉ số VN index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng
chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết
đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN Index sụt từ 571,04 điểm vào ngày
25/4/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001. Trong 4 tháng
“hoảng loạn” này, trong khi nhiều nhà đầu tư tháo chạy khỏi thị trường với lời
nguyền không bao giờ quay lại thì một số nhà đầu tư khác vẫn bình tĩnh bám trụ,
âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm được lợi nhuận. thì trong 5 năm chỉ số VN-
Index lúc cao nhất chỉ có 300 điểm, mức thấp nhất xuống đến130 điểm. Lý do
chính là ít hàng hoá, các doanh nghiệp niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng, không
hấp dẫn nhà đầu tư trong nước, trong khi "room" cũng hết.
Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN)
chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ
lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực
ngân hàng).
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH

Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của TTCK Việt Nam
Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự
quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường
chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền
kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân.
Ta có thể nhận định rõ được điều đó thông qua bảng số liệu sau:
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Số CT NY/ĐKGD 5 5 20 22 26 32
Mức vốn hoá TTCP (% GDP) 0.28 0.34 0.48 0.39 0.64 1.21
Số lượng CTCK 3 8 9 11 13 14
Số tài khoản KH 2.908 8.774 13.520 15.735 21.616 31.316
Nguồn: TTGDCK Tp. HCM và TTGDCK Hà Nội
Theo thống kê của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết năm 2005,
tổng giá trị thị trường chứng khoán việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng, chiếm
0,69% tổng thu nhập quốc nội (GDP). Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện có
4.500 tỷ đồng cổ phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu tư và gần 35.000 tỷ đồng
trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, thu hút 28.300 tài khoản
giao dịch .Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán gấp
đôi so với năm 2004, huy động được 44,600 tỷ đồng, hiện giờ giá trị cổ phiếu so
với GDP của cả nước đạt gần 1%.
2.2.2. Giai đoạn 2006 : Sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam.
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột
phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với
hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung
tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC
Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường chứng
khoán Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới, chỉ
sau Dim-ba-buê. Và sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng "hút
hồn" các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Không thể phủ nhận năm 2006 vừa qua thị trường chứng khoán Việt Nam non

trẻ này đã có “màn trình diễn” tuyệt vời và có thể sẽ không bao giờ có lại được
với khối lượng vốn hoá tăng gấp 15 lần trong vòng 1 năm.
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH
Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của TTCK Việt Nam
Năm 2006 , TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-Index tại
sàn giao dịch TP. Hồ Chí Minh (HASTC) tăng 144% năm 2006, tại sàn giao dịch
Hà Nội (Hastc) tăng 152,4%
Thị trường chứng khoán Việt Nam 2006: VN-Index cuối năm tăng 2,5 lần so
đầu năm
Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP)
giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD,
chiếm 16,4% mức vốn hóa của toàn thị trường.
Hàng ngày có khoảng 80-100 công ty có cổ phiếu giao dịch, đây là những cổ
phiếu được phát hành theo Luật Doanh nghiệp là chính. Trên thị trường phi tập
trung, tổng khối lượng giao dịch gấp khoảng 6 lần so với khối lượng giao dịch
trên Hastc.
Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193
công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so
với 6 năm trước. Trong vòng một năm, chỉ số Vn-Index tăng hơn 500 điểm, từ
hơn 300 điểm cuối 2005 lên 800 điểm cuối 2006.
Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở
nước ta mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những
người mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện
tượng “bong bóng” là có thật
Mức vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng đột biến, tháng
12-2006 đạt 13,8 tỉ USD (chiếm 22,7% GDP) Đặc biệt, số lượng các nhà đầu tư
mới tham gia thị trường ngày càng đông, tính đến cuối tháng 12- 2006, có trên
120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở, trong đó gần 2.000 tài khoản
của nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 2006, kỷ lục mới của VN-Index được xác lập ở mốc 809,86 điểm. Với

HASTC-Index là nỗ lực chạm mốc 260 điểm. Tính chung, so với đầu năm, chỉ số
VN-Index đã có mức tăng trưởng tới 146% và HASTC-Index tăng tới 170%. Đây
là những mức tăng mà các thị trường trên thế giới phải thừa nhận là quá ấn tượng.
Tính đến phiên 29/12/2006, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM đã có sự
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 10
Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của TTCK Việt Nam
góp mặt của 106 cổ phiếu, 2 chứng chỉ quỹ và 367 trái phiếu với tổng giá trị niêm
yết theo mệnh giá là trên 72 nghìn tỷ đồng. Còn tại Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Hà Nội, số lượng chứng khoán tham gia đã lên đến 87 cổ phiếu và 91 trái
phiếu với tổng mức đăng ký giao dịch theo mệnh giá đạt 29 nghìn tỷ đồng. Xét
riêng về mức vốn hoá cổ phiếu, toàn bộ thị trường chứng khoán chính thức Việt
Nam với 193 cổ phiếu vào phiên cuối năm, đã lên tới 220 nghìn tỷ đồng, tương
đương với 13,8 tỷ USD.
2.2.3. Giai đoạn 2007: Giai đoạn thị trường chứng khoán bùng nổ.
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị
trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc
tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường.
VNIndex đạt đỉnh 1.170,67 điểm
HASTC-Index chạm mốc 459,36 điểm
Nhìn chung diễn biến của thị trường và giá cả chứng khoán trong các phiên
giao dịch có nhiều biến động, Index của cả 2 sàn giao dịch đều có biên độ giao
động mạnh. Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VNIndex đạt 927,02 điểm, Hastc-
Index dừng ở mức 323,55 điểm, như vậy sau 1 năm hoạt động VNIndex đạt được
mức tăng trưởng là 23,3%; Hastc-Index tăng 33,2% so với mức điểm thiết lập vào
cuối năm 2006.
Tính đến ngày 28/12/2007, SGDCK TP.HCM đã thực hiện được 248 phiên
giao dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương
với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần khối
lượng và 2,8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006. Bình quân mỗi phiên giao dịch
có 9,2 triệu chứng khoán được chuyển nhượng tương đương với 980 tỷ đồng.

TTGDCK Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng khối
lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán tương đương với
tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về khối
lượng và 15,8 lần về giá trị giao dịch so với năm 2006. Quy mô giao dịch tăng
trưởng mạnh khi mức giao dịch bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ đồng/phiên trong
khi năm 2006 chỉ đạt 19 tỷ đồng/phiên.
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 11
Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của TTCK Việt Nam
Các giai đoạn phát triển của thị trường
Nhìn nhận khách quan từ góc độ thị trường, bên cạnh những thành công,
TTCK qua một năm hoạt động cũng ghi lại dấu ấn cho những giai đoạn thăng
trầm nhất định khi thị trường trải qua những biến động trồi sụt thất thường: giai
đoạn thị trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm, thị trường bắt đầu hạ nhiệt và
điều chỉnh mạnh vào 5 tháng giữa năm, tiếp đến là một đợt phục hồi trước khi đi
vào thoái trào trong 4 tháng cuối năm .
• Giai đoạn thị trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm 2007:
Đây là giai đoạn thị trường có những đợt sóng cao, khiến Index của cả 2 sàn
giao dịch đều lập kỷ lục: chỉ số VNIndex đã đạt mức đỉnh là 1.170,67 điểm sau 7
năm hoạt động và Hastc – Index thiết lập mức đỉnh 459,36 điểm sau 2 năm hoạt
động. Có thể nói, đây là giai đoạn thị trường đạt mức tăng trưởng với tốc độ lớn
nhất khi đạt mức tăng 126% chỉ trong vòng 3 tháng giao dịch.
Nhờ sự tăng trưởng về giá của các cổ phiếu, tổng giá trị vốn hóa của thị
trường trong giai đoạn này lên đến con số 398.000 tỷ đồng. So với tổng giá trị
vốn hóa 492.900 tỷ đồng của cả năm 2007, con số của 3 tháng đầu năm đã chiếm
tỷ trọng 4/5. Nhưng điều quan trọng góp phần gia tăng giá trị vốn hóa của thị
trường không phải do số lượng chứng khoán niêm yết gia tăng mà do yếu tố giá
cổ phiếu tăng mạnh.
Trong giai đoạn này, giá các cổ phiếu tăng trưởng với tốc độ phi mã, đồng loạt
các cổ phiếu từ Blue – chip, Penny stock, các cổ phiếu mới niêm yết trên sàn… tất
cả đều đạt mức tăng trưởng trên 50% giá trị so với mức giá giao dịch đầu năm, trong

đó có những cổ phiếu đạt mức tăng trưởng trên 100% như: STB (113,57%), REE
(122,66%), ACB (197%),…. Rất nhiều mã CP thiết lập mức giá đỉnh kể từ khi lên
sàn trong giai đoạn này như: SJS (728.000 đ/CP), FPT (665.000 đ/CP), DHG
(394.000đ/CP), REE (285.000đ/CP), SSI (255.000đ/CP), SAM (250.000đ/CP),
KDC (246.000đ/CP), VNM (212.000đ/CP), ACB (292.000đ/CP)…
Yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng nóng trong giai đoạn này phải
kể đến sức cầu trên thị trường tăng một cách đột biến khiến giá trị giao dịch trung
bình mỗi phiên giao dịch lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Tại sàn HCM, bình quân mỗi
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 12
Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của TTCK Việt Nam
phiên giá trị giao dịch đạt trên 1.000 tỷ đồng, sàn HN cũng đạt con số 300 tỷ
đồng.
• Giai đoạn thị trường điều chỉnh từ Tháng 4/2007 đến đầu Tháng 9/2007
Với nỗi lo sợ về một “thị trường bong bóng”, các cơ quan quản lý nhà nước
cũng như Chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường bằng các biện pháp
kiểm soát thị trường chặt chẽ, ban hành những thiết chế để kiềm chế sự tăng
trưởng quá nóng của thị trường. Phản ứng trước điều này, TTCK đã có những đợt
điều chỉnh rõ rệt. Một đợt điều chỉnh giảm của thị trường đã diễn ra trong một
khoảng thời gian rất dài (từ cuối Tháng 3 đến đầu Tháng 9).
Giai đoạn điều chỉnh này ghi nhận sự trầm lắng của cả 2 sàn HOSE và
HASTC, tất cả các yếu tố của thị trường đều giảm sút nghiêm trọng. VNIndex chỉ
trong vòng 1 tháng giao dịch đã rơi xuống mức 905,53 điểm (24/04/2007), giảm
tới 22,6% so với mức đỉnh vào tháng 3. Hastc – Index trở về mốc 321,44 điểm
(24/04/2007), giảm 30% so với mức đỉnh. Thị trường đã mất điểm quá nhanh
trong 1 thời gian ngắn khiến giá giao dịch của các cổ phiếu đã trở về gần mức giá
thiết lập vào đầu năm.
Trong giai đoạn này, thị trường cũng có một đợt hồi phục vào giai đoạn cuối
Tháng 5/2007 khi VNIndex quay trở về mốc 1.107,52 điểm (23/05/2007). Nhưng
do tác động tâm lý quá mạnh của các chính sách kiềm chế thị trường trước đó như
Chỉ thị 03, Luật thuế thu nhập cá nhân,…., thị trường nhanh chóng trở lại trạng

thái mất cân bằng và liên tục sụt giảm mạnh khiến giai đoạn đầu Tháng 8, thị
trường xác lập mức đáy 883,9 điểm của VNIndex (6/8/2007) và 247,37 điểm của
Hastc - Index (23/08/2007).
Vào giai đoạn thị trường xuống sâu nhất (khoảng đầu Tháng 8), sàn HCM có
những phiên giao dịch chỉ có hơn 3 triệu cổ phiếu được khớp lệnh (ngày
30/07/2007 chỉ có 3.296.340CP được giao dịch), sàn HN cũng chỉ có vẻn vẹn
600.000 CP được chuyển nhượng thành công (ngày 8/8/2007 khớp lệnh 603.100
CP).
Giai đoạn này, các NĐTNN cũng tỏ ra khá thờ ơ khi lượng giao dịch của khối
này trên cả 2 sàn giao dịch đều sụt giảm mạnh. Giá trị giao dịch bình quân của
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 13
Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của TTCK Việt Nam
khối NĐTNN trong giai đoạn này đạt khoảng 170 tỷ đồng/phiên, giảm tới 52% so
với giai đoạn đầu năm.
• Giai đoạn phục hồi của thị trường vào những tháng cuối năm
Thị trường bước vào giai đoạn phục hồi mạnh mẽ trong khoảng thời gian đầu
tháng 9 đến cuối Tháng 10/2007.
Giá các cổ phiếu trên sàn có xu hướng phục hồi nhanh chóng, đặc biệt là các
mã cổ phiếu blue – chip trên cả 2 sàn đều lấy lại được những gì đã mất trong 6
tháng giữa năm, tuy nhiên sức bật của các cổ phiếu không đủ mạnh để đưa các cổ
phiếu trở về mức giá đỉnh thiết lập vào tháng 3. Trong giai đoạn này, VNIndex đã
có những phiên giao dịch vượt lên trên ngưỡng 1.100 điểm (1.106,6 điểm vào
ngày 3/10/2007), Hastc – Index cũng gần chạm trở lại ngưỡng 400 điểm (393,59
điểm ngày 01/10/2007).
Đà tăng giá của các cổ phiếu trong giai đoạn này thể hiện rõ nét nhất ở nhóm
các cổ phiếu blue – chip như DHG, FPT, VIC… tại HOSE và nhóm cổ phiếu
Sông Đà: S99, SDA, S91…. tại HASTC. Lượng giao dịch bình quân phiên tại
HOSE luôn ở trên mức 10 triệu CP (phiên giao dịch kỷ lục đạt 19.047.000 CP vào
ngày 01/10/2008), sàn HASTC cũng đạt lượng giao dịch bằng 1/2 sàn HOSE với
trung bình phiên có 5 triệu CP được chuyển nhượng.

Tuy nhiên, Thị trường sau một đợt phục hồi đã nhanh chóng điều chỉnh giảm
vào 2 tháng cuối năm. Trong giai đoạn này, thị trường thỉnh thoảng cũng có các
đợt phục hồi giả với sự tăng lên mạnh mẽ của tất cả các yếu tố. Tuy nhiên sự
phục hồi này không duy trì được lâu, thậm chí đã có dấu hiệu suy giảm chỉ sau 1
phiên tăng điểm. Chính điều này đã dẫn tới việc các nhà đầu tư bị đọng vốn,.
Trong khi nguồn cầu có xu hướng cạn kiệt, thì nguồn cung vẫn tiếp tục gia tăng.
Tương quan cung cầu mất cân bằng khiến thị trường ngày càng tuột dốc cả về giá
lẫn khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch. VNIndex giảm xuống dưỡi ngưỡng
điểm 1.000 và chỉ xoay quanh mốc 900 điểm, với lượng chứng khoán chuyển
nhượng rất hạn chế.
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 14
Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của TTCK Việt Nam
2.2.4. Giai đoạn 2008: Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, TTCK Việt
Nam khép lại năm 2008 với sự sụt giảm mạnh.
Nhìn lại thị trường sau 01 năm giao dịch, những điểm nổi bật của thị trường:
Index giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã CP rơi xuống
dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp
của các c ơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các NĐT.Tính từ đầu năm
đến hết ngày 31/12/2008, TTCKVN trải qua 03 giai đoạn chính.
Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc
Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, đặc biệt là các DN quy mô lớn, kinh
doanh hiệu quả và việc bán bớt CP Nhà nước trong các DN đã CPH, chưa kể
hàng loạt ngân hàng, Công ty chứng khoán, doanh nghiệp phát hành trái phiếu,
cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng thị trường CK có nguy cơ thừa
"hàng".
• Giai đoạn 1: Từ tháng 01 tới tháng 06 - Thị trường giảm mạnh do tác động
từ tác động của kinh tế vĩ mô
Khởi đầu năm tại mức điểm 921,07, VNIndex đã mất đi gần 60% giá trị và trở
thành một trong những thị trường giảm điểm mạnh nhất trên thế giới trong nửa
đầu năm 2008.

Các thông tin tác động xấu tới tâm lý nhà đ ầu tư trong giai đoạn này chủ yếu
xuất phát từ nội tại nền kinh tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát, chính
sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, sự leo dốc của giá xăng dầu và sức ép giải chấp
từ phía ngân hàng đối với các khoản đầu tư vào TTCK.
Nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của thị trường, các cơ quan điều hành
bắt đầu đưa ra những chủ trương và biện pháp hỗ trợ:
(1) UBCKNN thu hẹp biên độ giao dịch;
(2) SCIC tham gia mua vào cổ phiếu;
(3) NHTM được vận động ngừng giải chấp;
(4) Tổ chức niêm yết được khuyến khích mua vào cổ phiếu quỹ.
Tuy nhiên, phần lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn hạn,
và thị trường tiếp tục sụt giảm, cơn bão giải chấp cổ phiếu không ngừng tác động
tới tâm lý các nhà đầu tư. Trong 103 phiên giao dịch của giai đoạn này, có tới 71
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 15
Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của TTCK Việt Nam
phiên VNIndex giảm điểm. Đỉnh điểm là chuỗi 34 phiên VN-Index giảm điểm
liên tiếp từ giữa tháng 04 đến đầu tháng 06/2008. Sau 103 phiên giao
dịch,VNIndex giảm mất 550,52 điểm- tương đương 59,77%. Bình quân trong mỗi
phiên, toàn thị trường có 8,02 triệu CP&CCQ được chuyển nhượng, tương đương
khoảng 482 tỷ đồng.
Trong đợt suy giảm này, nhóm cổ phiếu chịu nhiều tác động nhiều nhất là
nhóm cổ phiếu tài chính ngân hàng, công nghệ và công nghiệp (chủ yếu là các
doanh nghiệp BĐS).
Trong lịch sử hoạt động của TTCK, chưa có năm nào UBCKNN phải can
thiệp vào thị trường bằng các biện pháp mạnh tay nhiều như năm 2008. Tổng
cộng trong năm 2008, UBCKNN đ ã có 04 lần thay đổi biên độ dao động giá trên
cả 2 sàn chứng khoán. Nhằm hỗ trợ thêm cho sức cầu trên thị tr ường, ngăn đà
suy giảm mạnh của các chỉ số chứng khoán, ngày 04/03/2008, Chính phủ đã đưa
ra nhóm 19 giải pháp ứng cứu thị trường: Cho phép SCIC mua vào cổ phiếu trên
thị trường,kêu gọi và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp niêm yết mua vào cổ

phiếu quỹ
Sự tăng trưởng nóng trong năm 2007, đặc biệt vào những tháng cuối năm đã
đưa đến những dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô. Chỉ số tiêu dùng băt đầu gia tăng
với mức trung bình 2,07%/tháng trong 02 cuối năm 2007. Tiếp nối xu thế này,
trong quý I/ 2008, chỉ số CPI tiếp tục gia tăng với tốc độ bình quân 3,06%/tháng
và đạt đỉnh vào tháng 05/200822 với mức tăng 3,91%.
Trong chu kỳ tăng giá nửa đầu năm 2008, tại đa số thời điểm, lương thực
được coi là yếu tố tác động chủ yếu đến chỉ số giá. Tính đến tháng 06, giá lương
thực đã tăng 57,22% so v ới tháng 12/2007.
Chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ lệ lạm phát tăng cao trong nước và sự biến
động mạnh của giá cả hàng hóa trên thế giới, thị tr ường hàng hóa và thị trường
tiền tệ Việt Nam tiếp tục có những biến động mạnh.
Trên thị trường hàng hóa, xăng dầu - loại hàng hóa cơ bản thuộc sự kiểm soát
của Chính phủ - đã được điều chỉnh mạnh. Trên thị trường tiền tệ, lãi suất từ
NHNN và NHTM liên tiếp xác định các mặt bằng mới. Chịu tác động sức ép từ
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 16
Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của TTCK Việt Nam
lạm phát, l ãi suất từ các NHTM tăng mạnh trong cuối quý II, dao động từ 16 -
18% đối với huy động tiền gửi và 20-21% đối với các khoản vay. Đặc biệt các
sản phẩm huy động vốn với kỳ hạn ngắn, lãi suất cao là tiêu điểm của hệ thống
NH trong giai đoạn này. Sự căng thẳng về thanh khoản và sự xáo trộnvề dòng
chảy của tiền gửi huy động là nỗi lo của các NHTM trong giai đoạn này. Thâm
hụt thương mại cao nhất vào trong năm tháng đầu năm với mức trung bình là
khoảng 2,6 tỷ USD/tháng.
Trước thực trạng này chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp vào tháng 3/2008
với mục tiêu kiềm chế lạm phát và thâm h ụt thương mại. Các chính sách chủ yếu
được thực hiện thông qua việc sử dụng công cụ điều hành lãi suất cơ bản và thắt
chặt đầu tư công để hạn chế nguồn cung tiền trên thị trường.
• Giai đoạn 2: Tháng 06 tới đầu tháng 09 - Phục hồi trong ngắn hạn
Nhờ vai trò dẫn dắt của một số cổ phiếu blue -chip như STB, FPT, DPM…và

đặc biệt là SSI với sức cầu hỗ trợ từ đối tác n ước ngoài, cả hai sàn chứng khoán
đã có được những phi ên tăng điểm mạnh trong giai đoạn này. VNIndex và Hastc-
Index liên tiếp vượt qua các ngưỡng cản tâm lý quan trọng và thường xuyên có
được những chuỗi tăng điểm kéo dài. Đây cũng là giai đoạn thị trư ờng hoạt động
sôi động nhất. Sức cầu mạnh, kéo theo khối lượng giao dịch v à giá trị giao dịch
thường xuyên ở mức cao. VNIndex tăng được 168,55 điểm, tương đương
45,52%. Khối lượng giao dịch bình quân đạt 16,9 triệu CP&CCQ, tương đương
599,18 tỷ đồng/phiên.
Trong giai đoạn này, nhóm cổ phiếu được ưa thích nhất là nhóm cổ phiếu dầu
khí (tăng 80,33%), nguyên vật liệu v à công nghệ (tăng 89,78%). Các đại diện
tiêu biểu cho nhóm cổ phiếu n ày bao gồm: PVS, PVD, PTC, HPG, FPT…
• Giai đoạn 3: Từ tháng 09 tới tháng 12 - Thị trường rơi trở lại chu kỳ giảm do
tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Đây là thời kỳ VNIndex rơi trở lại xu hướng giảm, thậm chí đã phá vỡ đáy
thiết lập được trong giai đoạn đầu của năm 2008. Tổng kết cả giai đoạn này,
VNIndex m ất 223,48 điểm, tương đương 41,45%. Khối lượng giao dịch trung
bình đạt 15,82 triệu CP&CCQ, tương đương 497,58 tỷ đồng/phiên.
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 17
Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của TTCK Việt Nam
Nguyên nhân tác động lớn nhất tới TTCK trong giai đoạn này chính là sự lan
tỏa mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới. Hòa cùng xu thế
giảm điểm của TTCK các nước, 02 chỉ số chứng khoán tại sàn HoSE và HaSTC
liên tiếp giảm điểm. Trong 86 phiên giao dịch tại HoSE, 49 phiên VNIndex mất
điểm. Đáy mới thiết lập trong giai đoạn này là 286,85 điểm vào ngày 10/12/2008.
Cùng với nỗ lực giải cứu nền kinh tế của Chính phủ và động thái từ NHNN,
xen lẫn giữa những phiên giảm điểm , TTCK Việt Nam vẫn có những phiên phục
hồi mạnh. Tuy nhiên, các “con sóng” trên thị trường thường rất ngắn và không ổn
định. Kết thúc giai đoạn này, VNIndex giảm mất 239,52 điểm, tương đương
43,15%
Tốc độ giảm mạnh nhất trong giai đoạn này thuộc nhóm cổ phiếu các ngành

nguyên vật liệu, công nghiệp, tài chính và công nghệ. Nguyên nhân của sự suy
giảm trong giai đoạn này được nhận định một phần do sự tác động của xu thế
chung thị trường, ngoài ra, cũng là hệ quả của việc tăng khá chóng mặt của các
các cổ phiếu này trong giai đoạn trước đó. Một trong những đề tài nóng hổi và
được báo giới chú ý trong những tháng cuối năm là phong trào trả cổ tức bằng
tiền mặt, với tỷ lệ khá cao của các công ty niêm yết.
Nguồn vốn FII vào Việt Nam chủ yếu thông qua các quỹ đầu tư. Tuy nhiên,
kể từ cuối tháng 08/2008 cùng với sự sụt giảm của TTCK thế giới nói chung,
TTCK Việt Nam cũng giảm mạnh. Tính đến tháng 12/2008, những dấu hiệu về
khả năng nhà đầu tư nước ngoài rút vốn ra khỏi thị trường chứng khoán cũng bắt
đầu xuất hiện, thể hiện qua việc bán ròng của khối ngoại trong những tháng cuối
năm.Ngoài ra, mặc dù lạm phát được kiềm chế nhưng lại có sự lo ngại về giảm
phát do chỉ số CPI tăng trưởng âm trong những thángcuốinăm.
Trong quý cuối năm, CPI đã giảm 0,23% trong tháng 10 và tăng lên thành
0,81% trong tháng 12 (so từng tháng). Tính cả năm 2008 , tỷ lệ lạm phát là
19,89% (so với tháng 12/2007) v à xấp xỉ 23% (so với bình quân 2007)
Giải pháp tài chính kịp thời trong những tháng cuối năm 2008 được thực hiện
thông qua việc điều chỉnh giảm lãi su ất cơ bản nhằm kíchcầu sản xuất tiêu dùng,
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 18
Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của TTCK Việt Nam
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vay vốn một cách dễ dàng hơn, đồng
thời giảm áp lực tín dụng cho các ngân hàng thương mại.
2.2.5. Giai đoạn năm 2009:
TTCK Việt Nam là thị trường tăng trưởng tệ nhất châu Á tính từ đầu năm
2009 đến nay. Lợi nhuận các công ty năm 2008 giảm tới 30%. Tuy nhiên một số
công ty vẫn có kết quả kinh doanh tốt và giá cổ phiếu của những công ty này hiện
vẫn ở trong mức rất hấp dẫn.
Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn tiếp tục đi xuống trong năm 2009. Chỉ
số Vn-Index từ đầu năm đến nay hạ 22%, mức hạ tệ nhất so với các thị trường
châu Á khác. Giá trị giao dịch cổ phiếu trung bình trong ngày tháng 2/2009 tại

Sàn giao dịch chứng khoán TPHCM và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội chỉ là
13 triệu USD. Tổng giá trị vốn hoá thị trường rơi xuống mức khoảng 10 tỷ USD,
không một cổ phiếu niêm yết nào có giá trị vốn hoá thị trường lớn hơn 1 tỷ USD
và chỉ có 4 cổ phiếu có giá trị vốn hoá hơn 500 triệu USD.
Nhà đầu tư nước ngoài đã giảm bán, sau khi bán ra số cổ phiếu với tổng giá
trị 127 triệu USD trong khoảng thời gian từ tháng 9/2008 đến hết tháng 12/2008,
nhà đầu tư nước ngoài chỉ bán ra lượng cổ phiếu có giá trị khoảng 2 triệu USD từ
đầu năm đến nay. Nguyên nhân chính cho điều này là phần lớn tiền đầu tư của
nhà đầu tư nước ngoài, nếu không tính đến những quỹ đóng, đã rút hết khỏi thị
trường Việt Nam (Quỹ đầu tư chứng khoán PXP Vietnam Emerging Equity Fund
mới đây cho phép nhà đầu tư rút cổ phiếu ra và sau đó họ có thể bán số cổ phiếu
này).
Chưa hết thông tin về lợi nhuận các công ty không mấy tích cực. Tăng trưởng
doanh số khoảng 40% so với cùng kỳ năm trước nhưng lợi nhuận hoạt động chỉ
tăng 8%. Thua lỗ ở các khoản đầu tư địa ốc và chứng khoán đẩy lợi nhuận ròng
giảm 25%. Trong số 329 công ty niêm yết, 23 công ty thua lỗ, trong đó có cả một
số công ty trước đây từng được nhà đầu tư nước ngoài hết sức ưa chuộng như
Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE), Công ty cổ phần Gemadept (GMD) và Công
ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông (SAM).
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 19
Chương 2: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của TTCK Việt Nam
Tuy nhiên cũng có một số công ty công bố lợi nhuận ấn tượng, đây là những
công ty có hoạt động kinh doanh đi theo hướng thế mạnh và không đầu tư vào thị
trường bất động sản và ngân hàng.Một số nhà đầu tư mạo hiểm có thể tiếp tục
tham gia vào thị trường với mục tiêu dài hạn, họ có thể mua một số cổ phiếu của
các công ty tốt. Tuy nhiên theo đánh giá của HSBC thị trường chứng khoán Việt
Nam năm nay sẽ vẫn khó khăn.
Suốt 2 tháng đầu năm 2009, thị trường chứng khoán luôn trong tình trạng ảm
đạm, èo uột. Cảnh vắng lặng tại sàn giao dịch cho thấy thị trường chứng khoán đã
không còn sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư trong thời điểm này. Bởi trong suốt

năm 2008, thị trường vẫn tiếp tục chuỗi ngày suy giảm với mức độ ngày càng
trầm trọng hơn. Nhà đầu tư mất niềm tin vào thị trường, các ngân hàng bán cổ
phiếu giải chấp… tất cả những yếu tố này đã làm thị trường giảm sâu.
Tính chung cho cả tháng 2/2009 VN Index đã mất 57,47 điểm (18,95%) so
với phiên cuối tháng 1.
Bất ngờ, sáng (11/3) thị trường chứng khoán tập trung của Việt Nam trở nên
rất sôi động, mở đầu cho một loạt các phiên tăng điểm của thị trường chứng
khoán. Các nhà đầu tư đã chứng kiến một tháng 3 tăng điểm ấn tượng nhất kể từ
tháng 11/2008. VN-Index không chỉ khởi sắc về điểm số mà khối lượng giao dịch
cũng tăng mạnh trong hai tuần cuối tháng, mức tăng kỷ lục trong nửa năm qua.
Kết thúc tháng 3, VN-Index đã tăng lên 280,67 điểm, tăng 14%. Chỉ số
HASTC tăng 17% lên 98,37.
Ngày 24-6 tới, thị trường UPCoM - sàn giao dịch cổ phiếu của các công ty đại
chúng chưa niêm yết sẽ chính thức đi vào hoạt động.Đồng thời đổi tên HASTC
index thành HNX index. Hi vọng trong thời gian tới chứng khoán của nước ta sẽ
ngày càng khởi sắc và phát triển cùng với nhiều sự thay đổi trong thời gian gần
đây.
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 20
Chương 3: Kết quả đạt được, chiến lược phát triển và tầm nhìn của TTCK VN
Chương 3: Kết quả đạt được trong những năm qua, chiến lược phát triển
và tầm nhìn những năm tiếp theo (2012 – 2020) của TTCK Việt Nam
3.1. Kết quả đạt được
3.1.1.Về khung pháp lý, thể chế chính sách
Kể từ khi Luật Chứng khoán được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006 và
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007, đã tạo lập được khuôn khổ pháp lý
cao, đồng bộ và thống nhất cho hoạt động của TTCK, từng bước loại bỏ những
mâu thuẫn, xung đột với các văn bản pháp luật khác có liên quan (về cơ bản
thống nhất với Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư); phù hợp hơn với luật pháp,
thông lệ quốc tế, tạo nền tảng cho TTCKVN khả năng hội nhập với các thị
trường vốn quốc tế và khu vực; tăng cường tính công khai minh bạch cho thị

trường và nâng cao khả năng quản lý giám sát thị trường của cơ quan quản lý
nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đã đạt được thìLuật Chứng khoán vẫn còn
hẹp về phạm vi điều chỉnh, mới chỉ bao hàm những nội dung cơ bảnvà chưa bao
quát mọi hoạt động trên TTCK theo thông lệ quốc tế; một số quy định của văn
bản hướng dẫn Luật Chứng khoán còn chồng chéo, chưa thống nhất với các văn
bản pháp luật khác; việc ban hành các quy định pháp lý nhìn chung đều có độ trễ
so với mục tiêu đề ra, đồng thời, nhiều quy định tại Luật Chứng khoán chưa
được hướng dẫn thực hiện,…
3.1.2.Về quy mô và hàng hóa (nguồn cung) của thị trường
Quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước
đóng vai trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho
sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Trong suốt thời kỳ từ 2000-
2005, vốn hóa thị trường chỉ đạt trên dưới 1% GDP. Quy mô thị trường đã có
bước nhảy vọt mạnh mẽ lên 22,7% GDP vào năm 2006 và tiếp tục tăng lên mức
trên 43% vào năm 2007. Trước biến động của thị trường tài chính thế giới và
những khó khăn của nền kinh tế trong nước, chỉ số giá chứng khoán đã sụt giảm
liên tục trong năm 2008 và làm mức vốn hóa thị trường giảm hơn 50%, xuống
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 21
Chương 3: Kết quả đạt được, chiến lược phát triển và tầm nhìn của TTCK VN
còn 18%. Khi nền kinh tế trong nước và thế giới bắt đầu hồi phục nhẹ từ quý
II/2009, chỉ số giá chứng khoán đã bắt đầu tăng trở lại cùng với số lượng các
công ty niêm yết trên thị trường cũng gia tăng nhanh chóng. Giá trị vốn hóa thị
trường cổ phiếu tính đến cuối năm 2009 đã đạt 37,71% GDP. Ước tính đến cuối
năm 2010 sẽ đạt khoảng từ 40-50% GDP.
Hoạt động phát hành huy động vốn trên TTCK thực tế chỉ mới phát sinh
từ năm 2006 trở lại đây. Trong năm 2006, có 44 công ty cổ phần thực hiện việc
chào bán hơn 203 triệu cổ phiếu và đến năm 2007, hoạt động phát hành mới
thực sự bùng nổ, khi có gần 200 đợt phát hành của 192 công ty và 4 ngân hàng
thương mại được đăng ký với UBCKNN với tổng lượng vốn huy động lên đến

gần 40.000 tỷ VND. Trong năm 2008, do sự suy giảm của TTCK, tổng số vốn
huy động chỉ đạt hơn 14.300 tỷ đồng thông qua hơn 100 đợt chào bán chứng
khoán ra công chúng. Thị trường hồi phục vào năm 2009 đã tạo điều kiện cho
hoạt động phát hành qua thị trường chứng khoán, đặc biệt là phát hành cổ phiếu.
Tổng số vốn huy động qua phát hành cổ phiếu năm 2009 đã tăng hơn 50% so
với 2008, đạt 21.724 tỷ đồng.
Ngoài ra, công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đã được
gắn kết với việc huy động vốn từ công chúng đầu tư, góp phần thúc đẩy nhanh
việc sắp xếp khu vực DNNN theo tiến trình cải cách nền kinh tế của Chính phủ
và huy động vốn cho ngân sách nhà nước. Thực tế, việc gắn kết công tác cổ
phần hóa DNNN với công tác tạo hàng cho TTCK là nhân tố chủ đạo quyết định
thành công trong việc tạo ra một nguồn hàng phong phú, góp phần thúc đẩy tăng
trưởng quy mô của thị trường.
Hoạt động phát hành trái phiếu qua Sở giao dịch chứng khoán dần trở
thành một kênh huy động vốn quan trọng cho Chính phủ. Dư nợ trái phiếu
Chính phủ (TPCP) tính đến cuối 2009 vào khoảng 16,9% GDP. Các trái phiếu
doanh nghiệp được phát hành chủ yếu theo hình thức phát hành riêng lẻ, do vậy,
số trái phiếu doanh nghiệp được niêm yết trên TTGDCK/SGDCK không nhiều.
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 22
Chương 3: Kết quả đạt được, chiến lược phát triển và tầm nhìn của TTCK VN
Tuy nhiên, hoạt động phát hành của các công ty đại chúng vẫn còn mang tính tự
phát, không hoàn toàn dựa trên nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp, làm
giảm hiệu quả sử dụng vốn. Không ít tổ chức phát hành huy động vốn trên
TTCK để đầu tư trở lại vào chứng khoán mà không phải để mở rộng sản xuất
kinh doanh, góp phần tạo nên bong bóng thị trường và rủi ro mất vốn khi thị
trường sụt giảm. Hoạt động chào bán riêng lẻ không có sự điều chỉnh đầy đủ của
pháp luật và quản lý của các cơ quan có thẩm quyền dẫn đến các hành vi lạm
dụng, ảnh hưởng đến sự lành mạnh của TTCK. Bên cạnh đó, việc tuân thủ chào
bán ra công chúng phải đăng ký với UBCKNN còn hạn chế (đặc biệt vào thời kỳ
ngay sau khi Luật chứng khoán mới ban hành) đã tạo nên những rủi ro tiềm ẩn

cho TTCK. Hoạt động phát hành TPCP còn nhiều bất cập, công tác kế hoạch
hoá phát hành trái phiếu chưa tốt, cơ chế phát hành trái phiếu còn nhiều bất cập,
chưa có các tổ chức tạo lập thị trường TPCP đúng nghĩa để đảm bảo thành công
cho các đợt phát hành cũng như tạo tính thanh khoản cho thị trường thứ cấp.
Thiếu đường cong lợi suất chuẩn và tổ chức định mức tín nhiệm.
3.1.3.Về niêm yết và giao dịch chứng khoán
Năm 2000, với 02 công ty niêm yết khi đưa TTGDCK TP.HCM vào hoạt
động, TTCK đã có mức tăng trưởng nhanh về giá do nguồn cung hàng hóa khan
hiếm, chỉ số VN Index liên tục tăng và đạt tới đỉnh điểm là 571,04 điểm ngày
25/6/2001. Sau đó, thị trường đã liên tục sụt giảm trong suốt 3 năm sau đó, trước
khi tăng mạnh trở lại vào cuối năm 2003. Năm 2005, sau khi TTGDCK Hà Nội
đi vào hoạt động, tổng số các công ty niêm yết trên cả hai thị trường là 44 công
ty với tổng giá trị niêm yết là 4,94 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, nhìn chung, giai
đoạn 2000-2005 là giai đoạn hoạt động khá trầm của TTCK Việt Nam.
Kể từ năm 2006 đến nay, TTCK Việt Nam bắt đầu khởi sắc và đã có bước
tăng trưởng mạnh mẽ cả về số lượng công ty niêm yết lẫn doanh số giao dịch.
Tính đến cuối năm 2009, đã có 541 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả hai
SGDCK và 4 chứng chỉ quỹ đại chúng niêm yết, với tổng giá trị niêm yết đạt
127,489 nghìn tỷ đồng, tăng 66,5 lần so với cuối năm 2005. Tổng giá trị vốn hóa
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 23
Chương 3: Kết quả đạt được, chiến lược phát triển và tầm nhìn của TTCK VN
thị trường tính tại thời điểm ngày 31/12/2009 ước đạt 620,551 ngàn tỷ đồng
tương đương với gần 38% GDP cả năm 2009.
Thị trường chứng khoán đã có sự tăng trưởng không chỉ về quy mô niêm
yết mà cả về tính thanh khoản của thị trường. Nếu như năm 2005, bình quân có
667.600 cổ phiếu được giao dịch một phiên, thì năm 2006, con số này tăng lên
2,6 triệu đơn vị (tăng 3,93 lần), tiếp tục tăng lên 9,79 triệu và 18,07 triệu trong
hai năm sau đó. Tốc độ luân chuyển thị trường trong giai đoạn này liên tục tăng
từ 0.43 lần (năm 2006) lên 0.64 lần (năm 2007), 0.68 lần (năm 2008) và ước đạt
1.13 lần (năm 2009).

Giai đoạn 2006-2009 cũng chứng kiến những kỷ lục của TTCKVN.
Tháng 3/2007, các chỉ số chứng khoán đạt được mức cao nhất. VNIndex đạt
mức 1,170.67 điểm và HASTC-Index đạt 459.36 điểm. Trong khi đó, xét về
khối lượng giao dịch, tháng 5/2009 là tháng có khối lượng giao dịch lớn nhất,
bình quân có 77 triệu cổ phiếu được giao dịch mỗi phiên, với giá trị đạt 2.270,57
tỷ đồng.
Đồng thời, với sự mở rộng của các thị trường chính thức, có sự quản lý
với số lượng ngày càng lớn các tổ chức đăng ký niêm yết, đăng ký giao dịch là
sự thu hẹp của thị trường tự do (thị trường OTC). Mặc dù còn nhiều loại cổ
phiếu giao dịch trên thị trường OTC, chủ yếu từ các DNNN cổ phần hóa, tuy
nhiên, tính thanh khoản của thị trường này trong năm 2009 đã sụt giảm rõ rệt.
Ngoài ra, nhằm từng bước hoàn chỉnh cấu trúc thị trường, mở rộng thị trường có
tổ chức, có sự quản lý của Nhà nước, từng bước thu hẹp thị trường tự do, hệ
thống giao dịch UpCom trên SGDCK Hà Nội – hệ thống giao dịch cho các
chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết – cũng đã được đưa vào vận
hành vào ngày 24/6/2009. Cuối 2009, đã có 34 cổ phiếu được giao dịch trên hệ
thống Upcom với tổng giá trị giao dịch đạt gần 540 tỷ đồng. Giá trị thị trường
ngày 31/12/2009 đạt 4.075 tỷ đồng.
Trong giai đoạn 2000-2002, TPCP là hàng hóa niêm yết chủ đạo trên
SGDCK Tp.HCM, tuy nhiên, số lượng không nhiều (40 mã). Trong giai đoạn
này, TPCP tương đối kém thanh khoản, giá trị giao dịch bình quân cũng rất thấp,
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 24
Chương 3: Kết quả đạt được, chiến lược phát triển và tầm nhìn của TTCK VN
với khoảng 2% giá trị TPCP niêm yết. Giai đoạn 2004-2007, giá trị trái phiếu
niêm yết so với GDP tăng đáng kể, lên tới 11,3% GDP, đồng thời, nhiều quy
định mới được áp dụng nhằm thúc đẩy giao dịch trái phiếu như: không giới hạn
tỷ lệ nắm giữ đối với trái phiếu của các tổ chức, cá nhân nước ngoài; bỏ biên độ
dao động giá; cơ chế giao dịch thỏa thuận; rút ngắn thời gian thanh toán T+1. Vì
vậy, tính thanh khoản của thị trường cũng tăng dần. Trong thời gian gần đây, do
biến động của lãi suất, việc phát hành TPCP không được như mong muốn, dẫn

đến tỷ lệ giá trị niêm yết so với GDP giảm xuống và chỉ còn khoảng 10,81% vào
cuối năm 2009. Tuy nhiên, nếu so sánh với tổng dư nợ trái phiếu phát hành là
16,9% GDP thì vẫn còn một lượng khá lớn trái phiếu chưa được đưa vào niêm
yết và giao dịch trên các SGDCK. Số trái phiếu này phần lớn là trái phiếu doanh
nghiệp phát hành trong thời gian gần đây.
Trước năm 2006, TPCP được giao dịch đồng thời tại HoSE và HNX. Tuy
nhiên, từ ngày 24/9/2009, hệ thống giao dịch TPCP chuyên biệt với gần 30
thành viên, trong đó, có nhiều ngân hàng thương mại và các công ty chứng
khoán lớn đã chính thức hoạt động. Hệ thống này tách biệt khỏi hệ thống giao
dịch cổ phiếu và với nhiều đặc điểm mới, được phát triển phù hợp với các đặc
thù của giao dịch trái phiếu đã khắc phục một số hạn chế của hệ thống giao dịch
trái phiếu trước đây.
Mặc dù đã có những bước phát triển nhảy vọt nhưng thị trường giao dịch
cổ phiếu còn nhiều biến động và hạn chế về tính thanh khoản đặc biệt khi thị
trường có dấu hiệu suy giảm. Bên cạnh đó, hàng hóa niêm yết trên TTCK chưa
đa dạng, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư và phòng ngừa rủi
ro của nhà đầu tư (chưa có các sản phẩm phái sinh, các sản phẩm đầu tư tập thể).
Các dịch vụ tiện ích cho nhà đầu tư trên thị trường còn nghèo nàn (chưa có
nghiệp vụ bán khống, vay ký quỹ, bán trước ngày hoàn thất giao dịch), tính
minh bạch của thị trường chưa đáp ứng nhu cầu của công chúng đầu tư.
3.1.4.Về hệ thống cơ sở nhà đầu tư (cầu đầu tư):
Thực hiện: Nhóm 11 – Lớp NCKT4BTH 25

×