Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

giải pháp phát triển thị trường trái phiếu ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.89 KB, 38 trang )

MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam trong thời gian vừa qua đã đạt được tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân trên 8%/năm. Để đạt được tốc độ tăng trưởng như vậy, thì yếu tố nguồn
vốn phục vụ cho việc phát triển kinh tế chiếm giữ vai trò quan trọng.
Việc huy động nguồn vốn trong và ngoài nước của Việt Nam đã đạt được kết quả
hết sức khả quan. Nếu như nguồn vốn trong nước, gồm nguồn vốn huy động từ dân
cư, cá tổ chức kinh tế, giữ vai trò chủ đạo thì nguồn vốn nước ngoài, gồm vốn
FDI, ODA, FPI, là động lực và cơ sở để thay đổi công nghệ. Điều này thể hiện
chính sách, thể chế, luật pháp của Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi mới kịp
thời nhằm phù hợp hơn với xu thế quốc tế hóa. Tuy nhiên, việc huy động vốn trong
nước cũng chưa thật sự phát triển mạnh, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn.
Do đó, để đẩy nhanh việc huy động nguồn huy động dài hạn thì việc phát triển thị
trường vốn trong thời gian sắp tới là rất cần thiết. Đặc biệt là phát triển thị trường
chứng khoán, đây là kênh dẫn vốn quan trọng để phát triển nhanh nền kinh tế đất
nước.
Vừa qua, thị trường chứng khoán đã có những bước phát triển đáng kể cả về quy
mô và chất lượng hàng hóa trên thị trường. Tuy nhiên, hiện nay chỉ tập trung phát
triển thị trường cổ phiếu mà chưa đặc biệt quan tâm đến việc phát triển thị trường
trái phiếu. Do vậy, thị trường trái phiếu là thị trường hết sức tiềm năng, cần có cơ
chế, chính sách để đẩy mạnh phát triển thị trường này trong tương lai.
Với tính cấp thiết của việc phát triển thị trường trái phiếu mà nhóm em chọn đề tài
“Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam” nhằm đưa ra những giải
pháp có tính chất định hướng trong ngắn hạn và dài hạn.
Phần nội dung
Chương 1:sơ lược về thị trường chứng khoán
1.1khái niệm:
 Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của Thị trường vốn,
hoạt động của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội
tập trung thành nguồn vốn lớn tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và
Chính phủ để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư.
 Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán


các loại chứng khoán. Việc mua bán được tiến hành ở hai thị trường sơ cấp và
thứ cấp. do vậy thị trường chứng khoán là nơi chứng khoán được phát hành và
trao đổi.
1. Thị trường sơ cấp : người mua mua được chứng khoán lần đầu từ
những người phát hành;
2. Thị trường thứ cấp : nơi diễn ra sự mua đi bán lại các chứng khoán đã
được phát hành ở Thị trường sơ cấp.
 Hàng hóa giao dịch trên Thị trường chứng khoán bao gồm: các cổ
phiếu, trái phiếu và một số công cụ tài chính khác có thời hạn trên 1 năm
 Vị trí của Thị trường chứng khoán: Trong thị trường Tài chính có hai thị
trường lớn là:
1. Thị trường Tài chính ngắn hạn (Thị trường tiền tệ);
2. Thị trường Tài chính dài hạn (Thị trường vốn): bao gồm Thị trường
tín dụng dài hạn; Thị trường cầm cố; và Thị trường chứng khoán.
1.2đặc điểm:
 Đặc điểm chủ yếu của Thị trường chứng khoán:
1. Được đặc trưng bởi hình thức tài chính trực tiếp, người cần vốn và
người cung cấp vốn đều trực tiếp tham gia thị trường, giữa họ không có
trung gian tài chính;
2. Là thị trường gần với Thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Mọi người đều
tự do tham gia vào thị trường. Không có sự áp đặt giá cả trên thị trường
chứng khoán, mà giá cả ở đây được hình thành dựa trên quan
hệ cung – cầu;
3. Về cơ bản là một thị trường liên tục, sau khi các chứng khoán được
phát hành trên thị trường sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần
trên thị trường thứ cấp. Thị trường chứng khoán đảm bảo cho các nhà
đầu tư có thể chuyển chứng khoán của họ thành tiền mặt bất cứ lúc nào
họ muốn.
1.3chức năng:
Thị trường chứng khoán thực hiện các chức năng chủ yếu sau:

1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế;
2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng;
3. Cung cấp khả năng thanh toán cho các chứng khoán;
4. Đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế;
5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô.
1.4.các hình thức của thị trường:
1. Thị trường tập trung
2. Thị trường phi tập trung (OTC);
3Thị trường chợ đen
Chương 2:thị trường trái phiếu-một bộ phận của thị trường chứng khoán.
2.1. Khái niệm
Thị trường trái phiếu là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế
chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành, qua đó thực hiện chức năng
của thị trường tài chính là cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Thị trường trái phiếu là thị trường vốn dài hạn, tập trung các nguồn vốn cho đầu tư
và phát triển kinh tế, do đó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và
nền kinh tế nói chung.
2.2. Phân loại thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
2.2.1. Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các trái phiếu mới phát hành. Trên thị
trường này vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc
nhà đầu mua các trái phiếu mới phát hành
- Trái phiếu hóa các nguồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy động qua
việc phát hành chứng khoán
- Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền nhà rỗi tạm
thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền san dạng vốn dài hạn.
2.2.2. Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các trái phiếu đã được phát hành trên thị trường
sơ cấp. Là thị trường chuyển nhượng quyền nhượng quyền sở hữu trái phiếu. Thị

trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các trái phiếu đã phát hành.
- Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán trái phiếu thuộc về
các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh trái phiếu chứ không thuộc về nhà phát hành.
- Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ảnh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá trái
phiếu trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định.
- Thị trường thứ cấp là một thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể
mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
Chương 3 . tổng quan trái phiếu
3.1. Khái niệm
Trái phiếu (TP) là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích
hợp pháp của người sở hữu (Trái chủ) đốivới một phần vốn nợ của tổ chức phát
hành, gồm Chính phủ, Chính quyền địa phương và doanh nghiệp.
3.2. Đặc trưng:
Mộttrái phiếu thường có những đặc trưng sau:
3.2.1. Mệnh giá:
Là giá trị danh nghĩa của trái phiếu được in ngay trên tờ phiếu, đại diện cho
số vốn gốc được hoàn trả cho trái chủ tại thời điểm đáo hạn.
Ở VN, mệnh giá của trái phiếu được ấn định là 100.000 VNĐ và các mệnh giá
khác là bội số của 100.000 VNĐ. Mệnh giá của trái phiếu được xác định phụ thuộc
vào số tiền huy động trong kỳ và số trái phiếu phát hành.
Công thức tính:
MG = VHĐ/SPH Với:
MG: mệnh giá trái phiếu
VHĐ: số vốn huy động
SPH: số trái phiếu phát hành
3.2.2.Tỷ suất sinh lời của trái phiếu:
Là lãi suất danh nghĩa của trái phiếu quy định mức lãi mà nhà đầu tư hưởng hàng
năm. Thông thường có 2 phương thức trả lãi: 6 tháng/lần và 1 năm/ lần.
Mỗi trái phiếu có ghi lãi suất của tổ chức phát hành cam kết sẽ thanh toán cho chủ
sở hữu trái phiếu một số tiền lãi vào một ngày xác định và có thể theo định kỳ.

Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất trái phiếu:
+ Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào
chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt
ngân sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.
+ Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của
lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao.
+ Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như
nhau, nhìn chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
3.2.3. Giá mua:
Giá mua trái phiếu là khoản tiền thực tế mà nhà đầu tư bỏ ra để có được quyền sở
hữu trái phiếu. Giá mua có thể bằng, cao, hoặc thấp hơn mệnh giá. Tuy nhiên dù
giá mua thế nào thì tiền lãi luôn được xác định theo mệnh giá. Và đến ngày đáo
hạn, trái chủ sẽ được trả lại vốn gốc bằng với mệnh giá trái phiếu.
Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trái phiếu:
+ Kỳ hạn của trái phiếu: kỳ hạn càng dài, tính biến động của trái phiếu càng
lớn trước sự biến động của lãi suất thị trường.
+ Lãi suất tín dụng dài hạn: khi lãi suất này hạ thấp thì nhiều nhà đầu tư mua
TP làm cho cầu TP tăng và giá TP tăng và ngược lại
+ Tình hình lạm phát: khi nhà đầu tư mua TP các công ty phát hành cam kết
sẽ trả một lãi suất cố định trong suốt kỳ hạn của TP. Do đó khi lạm phát xảy ra, giá
TP sẽ giảm.
+ Tình hình kinh doanh và uy tín của doanh nghiệp phát hành
+ Rủi ro về tỷ giá
+ Rủi ro thanh lý: rủi ro về tính thị trường phụ thuộc vào khả năng bán dễ dàng
một TP mới.
+ Rủi ro do biến cố bất ngờ
+ Rủi ro TD: nguy cơ công ty phát hành không có khả năng chi trả đúng hạn, tức là
không có khả năng chi trả mệnh giá và lãi đúng hạn
3.2.4. Thời hạn:
Thời hạn của trái phiếu là số năm theo đó người phát hành hứa hẹn đáp ứng những

điều kiện của nghĩa vụ.
Kỳ hạn trái phiếu có ý nghĩa quan trọng vì lợi tức trái phiếu phụ thuộc vào thời hạn
của nó.
3.3. Phân loại trái phiếu
3.3.1. Căn cứ theo tính chất chuyển nhượng:
- Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ cũng
như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng chỉ,
và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng
nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân hàng
để nhận lại khoản cho vay.
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên
chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện
cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh
toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn
toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và
địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính.
3.3.2. Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu:
- Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm mục
đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm công
cụ điều tiết tiền tệ.Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh
toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất
của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất
của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
Trái phiếu chính phủ gồm những loại sau: Công tri, TP công trình, TP kho
bạc di hạn, TP đảm bảo bằng tài sản thế chấp, TP nghĩa vụ chung, TP thuế hạn chế,
TP quốc tế.
- Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho
những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở hạ tầng hay
công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ trung ương hoặc
chính quyền địa phương phát hành.

- Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài
hạn.Trái phiếu công ty có đặc điểm chung sau:
Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được tham
dự vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không được trả
lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại
mệnh giá. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán
trước các cổ phiếu. Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm
bảo cho khoản vay.
Trái phiếu công ty bao gồm những loại sau:
+ Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế chấp
cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu này được
bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có quyền đòi nợ
đối với một tài sản cụ thể.
+ Trái phiếu không bảo đảm: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo bằng tài sản
mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá sản, những trái
chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có bảo đảm,
nhưng trước cổ động. Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ
được quyền chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ
theo quy định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào,
hoặc chỉ vào những thời điểm cụ thể xác định.
Ngoài những đặc điểm trên, mỗi đợt trái phiếu được phát hành có thể được gắn
kèm theo những đặc tính riêng khác nữa nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một bên
nào đó. Cụ thể là:
+ Trái phiếu có thể mua lại cho phép người phát hành mua lại chứng khoán trước
khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành song lại bất
lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất cao hơn so với
những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể bán lại: cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán lại
trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ động trong
trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này có thể thấp

hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể chuyển đổi cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi trái
phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở thành
người chủ sở hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào nhóm hàng hoá chứng
khoán có thể chuyển đổi được đề cập tới dưới đây.
3.3.3. Theo thời gian đáo hạn:
+ Tp ngắn hạn: thời hạn 1 đến 5 năm:
+ TP trung hạn: thời hạn 5 đến 15 năm
+ TP dài hạn: trên 15 năm.
+ TP vô hạn: không ghi ngày đáo hạn
3.3.4. Căn cứ theo phương thức trả lãi
+ Tp lợi tức
+ Tp chiết khấu
3.3.5. Căn cứ theo phạm vi lưu thông
+ Tp quốc nội
+ Tp quốc tế
3.4. Điều kiện phát hành
Đối với chủ thể phát hành là doanh nghiệp phải hội đủ những điều kiện sau:
- Là công ty cổ phần, công ty TNHH, DNNN có mức vốn điều lệ đã góp tại
thời điểm đăng ký phát hành là 10 tỷ đồng VN.
- Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký phát hành phải có lãi,
đồng thơi không có lỗ luỹ kết đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản nợ
phải trả quá hạn trên 1 năm.
- Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả vốn thu được từ đợt phát
hành trái phiếu.
- Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều
kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và
các điều kiện khác.
Chương 4: Thị trường trái phiếu trong nước hiện nay
4.1: Các chủ thể phát hành trái phiếu hiện nay

- Chính phủ: Chính phủ phát hành trái phiếu nhằm thu hút vốn cho đầu tư phát
triển, xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình trọng điểm quốc gia, phục vụ phát
triển kinh tế.
- Chính quyền địa phương: Chủ yếu cho các địa phương huy động vốn phục vụ cho
việc xây dựng các công trình cơ sở vật chất hạ tầng tại địa phương của mình, chủ
yếu phát hành thông qua công chúng của chính địa phương đó thông qua KBNN.
- Ngân hàng thương mại: Các ngân hàng thương mại phát hành trái phiếu nhằm
huy động vốn trung dài hạn, đáp ứng nhu cầu kinh doanh, cho vay tín dụng của
ngân hàng.
- Doanh nghiệp: Các doanh nghiệp tham gia thị trường vói tư cách là nhà phát
hành trái phiếu trên thị trường sơ cấp, doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhằm huy
động vốn, đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh.
4.2. Phân tích thực trạng thị trường trái phiếu VN hiện nay
4.2.1. Quy mô nhỏ, thanh khoản thấp
Bất cập thứ nhất, hiện thị trường trái phiếu Việt Nam có quy mô quá nhỏ. Chủ yếu
trái phiếu Chính phủ đang ''thống lĩnh'' thị trường, trong khi trái phiếu của các DN
phát hành rất hạn chế. Tính thanh khoản của các loại trái phiếu còn thấp.
Trái phiếu Chính phủ là loại chứng khoán có độ an toàn cao nhất; nhưng đầu tư
vào loại trái phiếu này chỉ đem lại một mức thu nhập khiêm tốn.
''Theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, muốn kiếm được lợi nhuận cao thì cần
phải chấp nhận rủi ro cao. Thị trường trái phiếu Việt Nam cũng như các nhà đầu tư
cần những loại trái phiếu có độ rủi ro cao hơn vì hứa hẹn những khoản thu nhập
cao hơn. Cần có những biện pháp khuyến khích các công ty huy động vốn qua thị
trường chứng khoán thay vì qua kênh ngân hàng như truyền thống. Ví dụ việc ra
đời và hoạt động của Công ty định mức tín nhiệm sẽ giúp cho thị trường có các
mức giá (chi phí huy động vốn) phù hợp với từng đối tượng công ty - theo độ tín
nhiệm của mình. Việc phát hành trái phiếu của các công ty sẽ được tiến hành một
cách nhanh chóng với chi phí thấp hơn''.
Thị trường TPCP thiếu một cơ chế giao dịch có khả năng cung cấp thanh khoản
cho các trái phiếu Chính phủ như các nhà tạo lập thị trường, hợp đồng mua lại.

TPCP phát hành với khối lượng và giá trị niêm yết lớn, trong khi những người nắm
giữ TPCP trên thị trường sơ cấp là các nhà đầu tư có tổ chức (trừ các đợt phát hành
riêng lẻ qua hệ thống Kho bạc). Nhu cầu giao dịch phát sinh là các giao dịch lớn và
ít mang tính tương thích thời điểm, hạn chế tính thanh khoản của trái phiếu.
Giao dịch trái phiếu trong thời gian từ 2003 đến nay chỉ tập trung vào các TPCP
phát hành qua bảo lãnh, trong khi đó có rất nhiều loại trái phiếu phát hành qua đấu
thầu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM vẫn chưa có giá tham chiếu,
nghĩa là chưa một lần được giao dịch trên thị trường kể từ khi phát hành. Điều này
bắt nguồn từ đặc thù của phương thức bảo lãnh phát hành là đa số các đơn vị tham
gia mua sơ cấp và sau đó bán lại cho khách hàng. Tuy nhiên, việc luân chuyển
TPCP cũng chỉ dừng lại sau khi bán lần 1 cho khách hàng, các giao dịch tiếp theo
trên thị trường thứ cấp hầu như không tồn tại.
Về năng lực hệ thống giao dịch, trái phiếu hiện được niêm yết theo giá và áp dụng
nguyên tắc đấu giá giống như cổ phiếu (ưu tiên về giá, ưu tiên về thời gian), không
áp dụng biên độ dao động giá. Tuy nhiên, cổ phiếu và trái phiếu là hai loại hàng
hóa có đặc điểm và tính chất hoàn toàn khác nhau, việc áp dụng giao dịch trái
phiếu và cổ phiếu như nhau trên cùng một hệ thống giao dịch tại Trung tâm Giao
dịch Chứng khoán là không có hiệu quả. Do đó, cần tách biệt giao dịch trái phiếu
và giao dịch cổ phiếu ra thành 2 bảng giao dịch riêng biệt là cần thiết. Hơn nữa,
giữa các trái phiếu cùng chủ thể phát hành nhưng khác đợt phát hành cũng khác
nhau về lãi suất và thời gian đáo hạn. Việc yết giá trái phiếu theo thị giá cũng
không làm nổi bật sự khác biệt đó. Hơn nữa, nếu trong nhiều phiên liên tiếp, trái
phiếu không có giao dịch thì việc công bố giá tham chiếu dựa trên kết quả giao
dịch gần nhất trước đó cũng ít có ý nghĩa vào thời điểm giao dịch thỏa thuận hiện
tại.
4.2.2. Hệ thống các nhà đầu tư chưa phát triển
Bất cập thứ hai là hệ thống các nhà đầu tư chưa phát triển, nhất là các nhà đầu tư tổ
chức. Hiện chúng ta chưa thiết lập được hệ thống các nhà tạo lập thị trường; các
thể chế trên thị trường chưa hoàn chỉnh. Nhiều định chế tài chính trung gian như
các quỹ đầu tư tương hỗ, quỹ đầu tư mạo hiểm, công ty định mức tín nhiệm chưa

được thành lập.
Số lượng các thành viên tham gia đấu thầu qua TTGDCK TP.HCM còn hạn chế, từ
năm 2002 trở về trước chỉ giới hạn ở các thành viên đấu thầu trong nước và số
lượng thành viên cũng không nhiều. Tính đến năm 2004, số thành viên đấu thầu đủ
điều kiện tham gia đấu thầu trên TTGDCK TP.HCM là 24 thành viên, trong đó chỉ
có 2 thành viên nước ngoài bắt đầu tham gia từ năm 2003. Số lượng thành viên đủ
điều kiện tham gia đấu thầu càng ít thì số lượng thành viên tham gia đấu thầu càng
hạn chế và lãi suất đặt thầu càng ít mang tính đại diện cho thị trường.
Thị trường trái phiếu vẫn chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư và có rất nhiều
nguyên nhân khiến các nhà đầu tư ít quan tâm đến loại chứng khoán này. Lý do là
giao dịch trái phiếu đòi hỏi một lượng vốn lớn, chỉ thích hợp với các nhà đầu tư có
tổ chức, trong khi thị trường trái phiếu hiện nay có rất ít các nhà đầu tư có tổ chức.
4.2.3. Tính đồng bộ của thị trường này còn thấp
Khả năng tập trung và phân bổ nguồn lực tài chính qua thị trường chưa thực sự
hiệu quả, còn có sự chưa ăn khớp giữa cơ cấu và kỳ hạn huy động vốn với sử dụng
vốn. Sự phối hợp giữa các kênh huy động vốn còn chưa đồng bộ; vai trò của trái
phiếu Chính phủ trong việc định hướng lãi suất thị trường còn hạn chế. tỷ lệ huy
động vốn dài hạn qua kênh tín dụng ngân hàng hiện nay thấp. Trong khi đó, việc
sử dụng quá nhiều vốn ngắn hạn cho đầu tư dài hạn, làm giảm hiệu quả sử dụng và
tăng nguy cơ rủi ro tài chính; việc phối hợp điều hành lãi suất giữa thị trường tiền
tệ và thị trường vốn chưa thật ăn khớp, tiến trình cải cách hệ thống tổ chức tín dụng
còn chậm; việc kiểm soát các dòng vốn trong nền kinh tế chưa thực sự có hiệu quả,
vẫn còn tình trạng vốn dài hạn chuyển sang đầu tư ngắn hạn và ngược lại.
4.2.4. Hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh:
Khung pháp luật mới được hình thành bước đầu; một số lĩnh vực vẫn chưa có hệ
thống văn bản pháp lý hoàn chỉnh, nhất là lĩnh vực chứng khoán. Các nguyên tắc
quản lý và chuẩn mực quốc tế về tính minh bạch, kế toán, kiểm toán tuy đã được
áp dụng nhưng còn ở phạm vi hẹp.
''Sự phối hợp trong điều hành chính sách lãi suất giữa các cơ quan chức năng như
Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước còn bất cập.Một số đợt phát hành trái phiếu

Chính phủ lãi suất huy động ngang bằng với lãi suất huy động của ngân hàng
thương mại''.
Việc bao cấp tín dụng dụng dưới các hình thức như bảo lãnh vay vốn, được vay
ODA, được cấp một phần vốn Nhà nước cũng là những nguyên nhân khiến thị
trường trái phiếu doanh nghiệp kém phát triển. Điều trước tiên là phải hạn chế bớt
các kênh bao cấp tín dụng, giảm bớt việc khoanh, xóa nợ cho những đối tượng
không thuộc chính sách tránh để cho doanh nghiệp trông chờ ỷ lại vào nguồn vốn
ngân sách, tín dụng ưu đãi và sự bảo lãnh của Chính phủ.
Thể chế pháp luật còn thiếu các qui định cần thiết nên hạn chế sử dụng các công cụ
bảo hiểm rủi ro như hoán đổi lãi suất, mua bán kỳ hạn hay tái mua lại nhằm giúp
nhà đầu tư có thể bảo vệ rủi ro cho mình.
4.2.5. Tính cạnh tranh thấp
TPCP chưa cạnh tranh được với sự thuận tiện của hình thức gửi tiết kiệm, đầu tư
kỳ phiếu ở các ngân hàng thương mại cùng với tính thanh khoản kém hơn nên chưa
thu hút được tiền nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và cá nhân.
Một trong những nguyên nhân chính là mức phí giao dịch trên thị trường hiện còn
khá cao (khoảng 0,15% giá trị giao dịch) khiến cho các nhà đầu tư cá thể không
mặn mà với việc đầu tư qua phương thức giao dịch khớp lệnh vì lợi nhuận ròng sau
khi trừ đi chi phí giao dịch không đủ hấp dẫn các nhà đầu tư cá thể. Đối với các
thành viên đấu thầu, việc mua TPCP chủ yếu phục vụ cho mục tiêu nắm giữ dài
hạn. Trong khi đó, lãi suất thị trường lại biến động theo xu hướng tăng dần, các trái
phiếu mới liên tục được phát hành có lãi suất cao hơn, hấp dẫn hơn nên khả năng
bán lại trái phiếu càng khó khăn hơn.
Một thủ phạm khác làm giảm tính cạnh tranh của thị trường là, cơ chế xác định lãi
suất đấu thầu trên thị trường sơ cấp hiện không mang tính thị trường vì áp dụng lãi
suất chỉ đạo nên chưa thu hút được nhu cầu đầu tư của các cá nhân, tổ chức. Quy
định lãi suất đặt thầu phải cao hơn lãi suất chỉ đạo sẽ khiến cho lãi suất trúng thầu
mang tính khiên cưỡng chủ quan hơn là mang tính khách quan thị trường. Điều này
cũng có thể dẫn tới tình trạng khối lượng trúng thầu sẽ bị hạn chế đi rất nhiều so
với khối lượng dự định phát hành và sẽ chỉ bó hẹp trong phạm vi một số nhỏ các

nhà đầu tư. Khối lượng trúng thầu thấp cộng với một số nhỏ các nhà đầu tư nắm
giữ sẽ làm giảm tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường thứ cấp.
Hiệu ứng vòng luẩn quẩn (vicious circle) cũng là một nguy cơ. Thị trường trái
phiếu thanh khoản thấp càng làm giảm tính hấp dẫn của nó đối với các nhà đầu tư,
và càng ít nhà đầu tư càng làm giảm tính thanh khoản của thị trường. ''Đây là hiện
tượng thường thấy trên các thị trường trái phiếu mới nổi và mới đi vào hoạt động.
Sẽ có ít nhà đầu tư muốn tham gia mua trái phiếu lần đầu trên thị trường phát hành
cũng như mua lại trên thị trường thứ cấp nếu biết rằng khả năng bán lại các trái
phiếu đó là rất ít, hoặc nếu có họ phải chờ một thời gian khá lâu và bỏ lỡ các cơ hội
đầu tư khác''.
4.2.6. Từ phía các công ty: Chưa quen với kênh huy động vốn thông qua phát
hành trái phiếu
Thị trường trái phiếu công ty kém phát triển do các công ty chưa quen với việc huy
động vốn vay trực tiếp qua phát hành trái phiếu mà vẫn dựa vào nguồn vốn vay của
ngân hàng, đặc biệt là các Tổng công ty lớn, các DN Nhà nước do có khả năng tiếp
cận các nguồn vốn vay ngân hàng, vay ưu đãi. Các đơn vị này cũng thiếu tổ chức
định mức tín nhiệm giúp cho việc xác định tín nhiệm và làm tăng tính minh bạch
cho các trái phiếu phát hành; chưa xây dựng được đường cong lợi suất phi rủi ro
cho TPCP phát hành làm tiêu chuẩn cho việc định lãi suất phát hành các công cụ
nợ khác như trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị
4.2.7: Thông tin thị trường
Theo đánh giá của các chuyên gia tài chính, nguyên nhân quan trọng khiến thị
trường trái phiếu của Việt Nam kém hấp dẫn chính là việc thiếu một hệ thống cung
cấp thông tin đầy đủ. Thể hiện rõ nhất là cho đến nay vẫn chưa có những công ty
định mức tín nhiệm.
Hiện nay, trên thị trường đang có 3 loại trái phiếu và được phát hành bởi Chính
phủ, chính quyền địa phương và doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến nay, quy mô phát
triển của thị trường này còn nhỏ bé (chỉ chiếm 7% GDP). Bên cạnh những vướng
mắc xuất phát từ hệ thống văn bản chính sách khiến tính thanh khoản của trái phiếu
không được cao, lượng doanh nghiệp có uy tín tham gia phát hành thì việc thiếu

thông tin cũng khiến cho các nhà đầu tư "dè dặt" hơn trong việc đầu tư vào loại
hình này.
Hoạt động định mức tín nhiệm được coi là rất cần thiết cho việc phát triển thị
trường trái phiếu đặc biệt là thị trường thứ cấp. Các chủ thể tham gia thị trường
khó có thể nhận ra rủi ro lãi suất tiềm tàng (tức là giá) của một trái phiếu nếu
không có hoạt động định mức tín nhiệm. Điều này sẽ buộc các nhà đầu tư muốn
mua phải làm các bước như: tự phân tích chi phí đầu tư trái phiếu một cách tốn
kém; mua trái phiếu không định hướng; và cuối cùng có thể là không mua. Với sự
ra đời của công ty định mức tín nhiệm, nhà đầu tư có nhu cầu mua trái phiếu có thể
thông qua đánh giá của công ty này để chọn được doanh nghiệp vừa có khả năng
mang lại lợi nhuận cao vừa đảm bảo tính an toàn.
4.2.8: Phí giao dịch cao
Theo quy định, việc giao dịch TP CP phải thông qua các CTCK- là tổ chức trung
gian thu phí cả người mua lẫn người bán. Để một giao dịch TP CP 100 tỉ đồng
được hoàn tất thì NĐT phải mất đến cả 100 triệu đồng tiền phí, mà thông thường
những giao dịch mua bán TP CP là những giao dịch lớn, ít nhất có giá trị từ 100-
300 tỉ đồng. Chính điều này làm cho thị trường TP CP của VN không thu hút được
nhiều nhà đầu tư giao dịch, nhất là các NH nước ngoài.
4.3.tăng trưởng của thị trường trái phiếu việt nam
Năm 2011, thị trường trái phiếu của VN tăng 16,5%, tỉ lệ tăng trưởng nhanh
nhất khu vực. Song với 17 tỉ USD, VN vẫn còn là một trong những thị trường
nhỏ nhất khu vực.
Đây là thông tin từ phiên bản mới nhất của báo cáo Theo dõi Thị trường Trái phiếu
châu Á (Asia Bond Monitor) của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB). Theo đó,
thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của khu vực Đông Á mới nổi đã tăng 7% lên
5,7 nghìn tỉ USD trong năm 2011, thúc đẩy tăng trưởng hai con số trong các thị
trường trái phiếu doanh nghiệp.
Trong số những thành phần phát triển then chốt ở thị trường trái phiếu trong nước
vào năm ngoái, Hiệp hội thị trường trái phiếu Việt Nam ấn định 8 ngân hàng là các
nhà tạo lập thị trường từ tháng 1, một bước chuyển mới có thể đẩy mạnh khối

lượng thị trường, tính thanh khoản và tính minh bạch. Hiện nay tại Việt Nam, thị
trường trái phiếu chính phủ lớn mạnh hơn hẳn so với thị trường trái phiếu doanh
nghiệp, 15 tỉ USD so với 2 USD. Tổng lượng phát hành của nợ chính phủ năm
ngoái tăng 9,7% trong khi doanh số bán ra của doanh nghiệp giảm 94,2%.
Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng của khu vực Đông Á mới nổi – quỹ hưu trí,
công ty bảo hiểm và các tổ chức an sinh xã hội – ngày càng trở thành những người
mua trái phiếu doanh nghiệp quan trọng của khu vực. Nhu cầu của họ cũng tăng
khi họ tìm thấy lợi nhuận cao hơn và khoản đầu tư dài hạn hơn so với trái phiếu
chính phủ.
Sự quan tâm của nước ngoài tới trái phiếu bằng đồng nội tệ của khu vực này vẫn
duy trì ở mức cao tại hầu hết các thị trường trong năm 2011, mặc dù lượng đầu tư
nước ngoài vào Indonesia đạt mức cao nhất trong khu vực, vẫn bị chững lại vào
cuối năm 2011.
Năm ngoái, các thị trường tăng trưởng mạnh nhất trong khu vực là các thị trường ở
Việt Nam, Singapore và Malaysia với mức tăng lần lượt là 16,5%, 13,1%, và
10,4%. Philipines, Trung Quốc và Indonesia có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất là ba
tháng cuối năm 2012.
4.4.Thị trường trái phiếu Việt Nam: Những thành tựu và hạn chế
4.4.1Bức tranh thị trường trái phiếu năm 2011
Mục tiêu của Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán giai đoạn 2011 – 2020
là tăng quy mô, độ sâu và tính thanh khoản cho thị trường chứng khoán; Phấn đấu
đưa tổng giá trị vốn hóa trị trường cổ phiếu đạt khoảng 70% GDP vào năm 2020;
Đưa thị trường trái phiếu trở thành một kênh huy động và phân bổ vốn quan trọng
cho phát triển kinh tế; Đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư, phát triển hệ thống nhà đầu tư
tổ chức, khuyến khích đầu tư nước ngoài dài hạn và đào tạo nhà đầu tư cá nhân.
Nhiệm vụ phát triển thị trường trái phiếu, đặc biệt là thị trường trái phiếu chính
phủ được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu trong của Chiến lược.
Năm 2011, kinh tế Việt Nam đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thách thức từ
cả những yếu tố bên ngoài (khủng hoảng nợ công, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao…) lẫn
các yếu tố nội tại của nền kinh tế (lạm phát và mặt bằng lãi suất tăng cao; hệ thống

tài chính bộc lộ nhiều vấn đề phải giải quyết; sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp (DN) rất khó khăn; hoạt động đầu tư toàn xã hội bị thu hẹp do ưu tiên trong
chính sách điều hành kinh tế là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong bối cảnh đó, TTCK Việt Nam cũng đã trải qua nhiều biến động. Trong năm
2011, tại Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HSX), chỉ số VN – Index để mất
27,66% so với mức 485.97 điểm vào đầu năm, đóng cửa ngày 30/12/2011 ở mức
351,55 điểm. Khối lượng giao dịch bình quân trong năm 2011 đạt 33,7 triệu chứng
khoán, giá trị giao dịch bình quân vào khoảng 650 tỷ đồng, giảm 29% về khối
lượng và 57,3% về giá trị so với năm 2010 với hơn 50% mã cổ phiếu, chứng chỉ
quỹ niêm yết có thị giá thấp hơn mệnh giá. Tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
(HNX), chỉ số HNX-Index cũng giảm 48,58% so với cuối năm 2010 và dừng lại ở
ngưỡng 58,74 điểm vào ngày 31/12/2011. Khối lượng và giá trị giao dịch đều giảm
lần lượt là 9,27% và 60,34% so với năm 2010.
Thị trường trái phiếu DN trong năm 2011 cũng khá ảm đạm khi môi trường kinh tế
cả trong và ngoài nước bất ổn, khiến việc phát hành trái phiếu DN hết sức khó
khăn. Nhiều DN phải hoãn hoặc hủy kế hoạch phát hành trái phiếu như Tập đoàn
Dầu khí Việt Nam hoãn phát hành 500 triệu USD trái phiếu. Một loạt các DN trên
sàn niêm yết như Địa ốc Hoàng Quân (HQC), NHTMCP Sài Gòn (SCB); Khoáng
sản Na Rì (KSS) cũng ở trong tình trạng tương tự. Rủi ro tín dụng tăng cao dẫn tới
nhiều trái phiếu mặc dù được chào với lãi suất rất cao từ 21-23%/năm vẫn không
thể bán được, đặc biệt là trái phiếu bất động sản. Bức tranh thị trường thứ cấp cũng
không sáng sủa hơn, thanh khoản rất ít và chỉ tập trung ở một số trái phiếu của DN
lớn như EVN, Lilama, BIDV, FPT… Theo thống kê của Hiệp hội Thị trường Trái
phiếu Việt Nam (VBMA), năm 2011 ước tính có khoảng 27 đợt phát hành trái
phiếu với khối lượng giao dịch khoảng 7.000 tỷ đồng, chỉ bằng 12,5% so với năm
2010.
Ngược lại, thị trường sơ cấp trái phiếu chính phủ lại rất sôi động.Năm 2011 có thể
coi là năm thành công nhất từ trước đến nay trong huy động vốn cho ngân sách nhà
nước thông qua đấu thầu trái phiếu chính phủ tại HNX.Lượng vốn huy động được
lớn nhất và tỷ lệ huy động thành công/kế hoạch huy động cao nhất. Qua 130 phiên

đấu thầu đã huy động được 81.715,8 tỷ đồng (gấp gần 3 lần khối lượng trúng thầu
năm 2010), trong đó huy động trái phiếu kho bạc đạt 62.153,8 tỷ đồng, đạt khoảng
80% kế hoạch huy động. Lãi suất phát hành tuy ở một mặt bằng mới cao hơn năm
trước, song vẫn thấp hơn khoảng 2% so với lãi suất huy động của hệ thống ngân
hàng.
Toàn bộ trái phiếu Chính phủ phát hành qua kênh đấu thầu và bảo lãnh đều được
thực hiện niêm yết trên thị trường trái phiếu Chính phủ chuyên biệt theo quy định.
Trên thị trường thứ cấp, từ cuối năm 2010 sang năm 2011, lãi suất trái phiếu Chính
phủ đã ồ ạt tăng mạnh ở tất cả các kỳ hạn. Lãi suất đạt đỉnh vào thời điểm đầu
tháng 6/2011, với lãi suất kỳ hạn 1 năm, 3 năm và 10 năm tương ứng là 13,532%,
13,234% và 12,385%. Sau khi đạt đỉnh này, lãi suất trái phiếu Chính phủ giảm dần,
tuy vậy kết thúc năm 2011 vẫn đứng ở mức cao. Có thể phân chia thành 3 giai
đoạn thay đổi lãi suất trái phiếu Chính phủ trong năm 2011 gồm:
- Giai đoạn I (từ đầu năm đến tháng 5/2011): lãi suất trái phiếu Chính phủ liên tục
tăng, đặc biệt với kỳ hạn 1 năm khi đạt đỉnh ở mức 13,532% vào ngày 26/5/2011.
Nguyên nhân chủ yếu là do lạm phát tăng rất mạnh trong những tháng này (chỉ số
CPI tăng bình quân 2,1%/tháng).
- Giai đoạn II (từ tháng 6/2011 đến đầu tháng 10/2011): lãi suất giảm nhanh trong
giai đoạn tháng 6, 7 và giảm chậm dần trong tháng 8, 9/2011. Nguyên nhân là do
lạm phát phi mã lập đỉnh vào tháng 6 sau đó giảm dần các tháng tiếp theo cùng với
nó là việc Ngân hàng Nhà nước siết chặt trần lãi suất 14%, đặt mục tiêu hạ lãi suất
cho vay xuống 17-19%.
- Giai đoạn III (quý IV/2011): lãi suất có xu hướng tăng trở lại do xuất hiện nhiều
vụ vỡ nợ tín dụng đen, rủi ro tín dụng trên thị trường tăng lên. Một số ngân hàng
thương mại bắt buộc phải nhận hỗ trợ thanh khoản từ Ngân hàng Nhà nước.Kết
thúc năm 2011, tình hình vẫn chưa có thay đổi khi lãi suất ngắn hạn vẫn cao hơn
dài hạn. Đây là chỉ báo rõ ràng chứng tỏ thị trường vẫn chưa quay trở lại với trạng
thái thông thường, nguy cơ khủng hoảng thanh khoản đang còn hiện hữu.
Hệ thống giao dịch trái phiếu chuyên biệt đã được vận hành ổn định, an toàn với
quy mô giao dịch 90.221 tỷ đồng, giá trị giao dịch bình quân phiên đạt 364 tỷ

đồng/phiên. Có những tín hiệu cho thấy nhà đầu tư nước ngoài đã trở lại giao dịch
khá tích cực trên thị trường trái phiếu Chính phủ với giá trị giao dịch hai chiều đạt
xấp xỉ 55.000 tỷ đồng, gấp 1,7 lần so với năm 2010 và đấu thầu mua 9.000 tỷ đồng
(năm 2010 nhà đầu tư nước ngoài không thực hiện mua qua đấu thầu). Tuy nhiên,
nhà đầu tư nước ngoài giao dịch chủ yếu ở các kỳ hạn ngắn dưới 1 năm và từ 1 đến
3 năm, các kỳ hạn khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ.
Về hệ thống thành viên, trên thị trường sơ cấp, các thành viên đấu thầu hoạt động
trên một thị trường đấu thầu có tính cạnh tranh, minh bạch với chất lượng tham gia
ngày càng tăng. Tính cuối năm 2011, có 87 thành viên đấu thầu, trong đó bao gồm
30 công ty chứng khoán, 39 ngân hàng thương mại trong nước, 8 ngân hàng
thương mại nước ngoài và 10 tổ chức tài chính khác. Đối tượng nhà đầu tư được
mở rộng hơn với sự tham gia của các quỹ nước ngoài, các công ty bảo hiểm, các
ngân hàng nước ngoài uy tín như: HSBC, Deutsche, Standardered Charted Bank,
ANZ chi nhánh Hà Nội, BNP Paribas… Thị trường trái phiếu thứ cấp có 45 thành
viên, trong đó 17 thành viên ngân hàng thương mại và 28 thành viên công ty chứng
khoán. Trong số này, có 38 thành viên cũng là thành viên đấu thầu trên thị trường
sơ cấp. Tỷ trọng tham gia giao dịch của khối ngân hàng thương mại vẫn giữ ổn
định, đạt khoảng hơn 45,84% giá trị giao dịch của thị trường, công ty chứng khoán
tiếp tục duy trì hình thức môi giới giao dịch là chủ yếu (chiếm hơn 50,1%). Như
vậy, ngân hàng thương mại vẫn có vai trò là chủ thể giao dịch chính với đặc điểm
có khối lượng giao dịch rất cao; các ngân hàng thương mại chưa phải là thành viên
thứ cấp cũng là những khách hàng giao dịch chính của các công ty chứng khoán
thành viên.
4.4.2.Đánh giá những thành tựu và hạn chế
Nhìn lại hơn hai năm sau khi thị trường trái phiếu chính phủ chuyên biệt đi vào
hoạt động, có thể nói chúng ta đã đạt được những thành tựu:
- Đối với thị trường sơ cấp:
+ Đã hình thành rõ một thị trường đấu thầu trái phiếu chính phủ có xu hướng cạnh
tranh, minh bạch về giá, lãi suất phát hành có mặt bằng thấp hơn lãi suất huy động
trên hệ thống ngân hàng.

+ Cải tiến quy trình phát hành, rút ngắn thời gian từ đấu thầu lên niêm yết và giao
dịch, đồng thời cũng để kết nối thị trường sơ cấp với thị trường thứ cấp. Đáng lưu
ý là bất chấp yếu tố vĩ mô không thuận lợi nhưng thị trường trái phiếu vẫn thu hút
được nhà đầu tư đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài tham gia trên thị trường.
+ Nhằm tạo hành lang pháp lý cho thị trường trái phiếu, ngay đầu năm 2011, Chính
phủ đã ban hành Nghị định 01/2011/NĐ-CP ngày 5/1/2011 về “Phát hành trái
phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa
phương”, Nghị định quy định thêm về hoán đổi trái phiếu, đưa ra khái niệm về nhà
tạo lập thị trường. Tiếp theo, Nghị định số 90/2011/NĐ-CP ngày 14/10/2011 về
phát hành trái phiếu DN có hiệu lực đã tạo điều kiện nhằm khơi thông nguồn vốn
trên thị trường trái phiếu DN, mở rộng phạm vi điều chỉnh, nâng cao tiêu chuẩn,
quy định thêm phương thức phát hành…
- Đối với thị trường thứ cấp:
+ Hình thành cấu trúc với các quy định pháp lý cơ bản của một thị trường giao dịch
theo các tiêu chuẩn quốc tế về hệ thống giao dịch, thông tin, thanh toán bù trừ và
đang ngày càng được hoàn thiện phù hợp với điều kiện thị trường cũng như tăng
tính thanh khoản, tạo sự sôi động cho các giao dịch trái phiếu.
+ Sự kết nối giữa thị trường thứ cấp và sơ cấp trái phiếu ngày càng được củng cố
chặt chẽ thông qua sự gắn kết về lãi suất giữa hai thị trường và quy trình phát hành
– niêm yết được rút ngắn từ 11 ngày xuống 6 ngày làm việc, đẩy nhanh quá trình
tạo hàng trên thị trường thứ cấp và cơ hội đầu tư cho thành viên.
+ Hệ thống thành viên với vai trò của ngân hàng thương mại trên thị trường thứ
cấp và sơ cấp tiếp tục được giữ vững, tạo tiền đề xây dựng mô hình nhà tạo lập thị
trường cho thị trường trái phiếu.
Bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn cần phải sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp với xu thế phát triển chung của Việt Nam và thế giới đó
là:
+ Về cơ cấu kì hạn: nếu tiếp tục thực hiện phát hành và niêm yết với xu hướng tập
trung tại các kỳ hạn ngắn trong nhiều năm sẽ tạo áp lực trả nợ trong ngắn hạn rất
lớn. Thêm vào đó, các tổ chức phát hành có tình trạng phát hành cùng kỳ hạn nên

vô hình chung tạo sự cạnh tranh nguồn tiếp cận vốn trên thị trường trong cùng thời
điểm.
+ Sản phẩm gốc trên thị trường phát hành còn đơn điệu, vẫn chỉ hạn chế ở các trái
phiếu trả lãi định kỳ, chưa có những sản phẩm phát hành liên kết gắn trách nhiệm,
quyền lợi giữa Nhà nước và chủ đầu tư trái phiếu.
+ Về thành viên: số lượng thành viên nhiều nhưng mức độ tham gia còn ít, không
đồng đều, tập trung vào một số thành viên lớn, chủ yếu là các ngân hàng thương
mại lớn.
+ Hệ thống giao dịch và thông tin vẫn còn nhiều tồn tại, đặc biệt chưa hỗ trợ thành
viên trong việc điều chỉnh linh hoạt kỳ hạn repo, phòng ngừa rủi ro, chưa thực sự
giúp các thành viên tìm kiếm đối tác dễ dàng khi có nhu cầu.
+ Thanh khoản trên thị trường trái phiếu thứ cấp kém sôi động khi những người
chơi chính là các ngân hàng rơi vào tình trạng khan hiếm tiền mặt, đặc biệt ở nửa
đầu năm khi chỉ số CPI liên tục tăng mạnh kéo kỳ vọng lãi suất lên cao, thanh
khoản chỉ đạt 0,24 trong khi mức thanh khoản trung bình của các nước trong khu
vực 6 tháng đầu năm 2011 vào khoảng 0,32 đến 1,15, cá biệt thị trường Hồng
Kông là 72,75 – 72,16.
Thị trường trái phiếu Việt Nam bước sang năm 2012 được hầu hết các chuyên gia
trong ngành dự báo sẽ tiếp tục đối diện với nhiều khó khăn do ảnh hưởng của
khủng hoảng nợ công và tình hình kinh tế vĩ mô không mấy khả quan. Tuy nhiên,
với những biện pháp mới mà các cơ quan quản lý đưa ra như: Hoàn chỉnh hạ tầng
công nghệ đồng bộ để hỗ trợ cho tất cả các loại hình phát hành, giao dịch và thông
tin sơ cấp, thứ cấp trên thị trường nợ; Xây dựng hệ thống thông tin bao gồm cơ sở
dữ liệu hoàn chỉnh về thị trường trái phiếu gồm các thông tin phát hành – giao dịch
và thử nghiệm tích hợp các công cụ dự báo như đường cong lãi suất, chỉ số trái
phiếu bond – index…; Đa dạng hóa sản phẩm giao dịch như trái phiếu có nguồn
thu từ dự án, trái phiếu gắn với chỉ số lạm phát, các công cụ giao dịch trái phiếu
cho nhà đầu tư ngay từ khi có kế hoạch phát hành trái phiếu… thị trường trái phiếu
có hy vọng sẽ tăng trưởng bền vững và ổn định hơn.
chương 5: Thuận lợi và thách thức đối với sự phát triển TTCK ở Việt Nam

Khi gia nhập WTO, cũng có nghĩa là phải mở cửa và hội nhập, phải chấp nhận
những điều khoản đã ký kết với các đối tác nước ngoài và của WTO, trong đó có
lĩnh vực dịch vụ, bao gồm cả tài chính, ngân hàng và đương nhiên có cả TTCK.
Trong điều kiện đó, sự phát triển của TTCK vừa có những thuận lợi rất cơ bản,
nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức rất lớn.
Hai thuận lợi cơ bản:
Thứ nhất, là tăng trưởng chu chuyển vốn, trong đó đầu tư nước ngoài tăng đáng
kể (riêng lĩnh vực đầu tư trên TTCK của các nhà đầu tư nước ngoài như đã nêu
trên đã lên đến 4 tỉ USD). Đây là một trong những vấn đề quan trọng thúc đẩy cho
việc tăng trưởng kinh tế ở nước ta.

×