Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

mô hình công ty bảo hiểm tương hỗ ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493 KB, 89 trang )

Lời mở đầu
Trong những năm gần đây, hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam
đã đạt đợc tốc độ tăng trởng nhanh chóng, đóng góp đáng kể cho việc giảm
thiểu rủi ro trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội; cải thiện môi trờng
đầu t; giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nớc, thúc đẩy phát triển kinh tế xã
hội. Nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sự thành công đó là sự xuất hiện và
lớn mạnh của các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc mọi thành phần kinh tế: doanh
nghiệp Nhà nớc, công ty cổ phần, doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp
100% vốn nớc ngoài. Tuy nhiên, do sự phát triển không ngừng của nền kinh tế
xã hội dẫn đến nhu cầu bảo hiểm ngày càng đa dạng, phong phú và các sản
phẩm bảo hiểm hiện có trên thị trờng vẫn cha đáp ứng đợc hay đáp ứng không
hiệu quả nhu cầu của ngời dân. Chẳng hạn nh nhu cầu bảo hiểm cho những rủi
ro mang tính đặc thù nh: nông nghiệp, tín dụng và rủi ro tài chính, thiên tai,
hoạt động hành nghề y dợc, luật s, đánh bắt cá xa bờ, Nguyên nhân của tình
trạng trên là do tính chất đặc thù của những rủi ro này mà trên thực tế các loại
hình doanh nghiệp bảo hiểm hiện tại khó đáp ứng đợc. Điều ny có thể phn
no khắc phục đợc thụng qua loại hình doanh nghiệp bảo hiểm tơng hỗ, một loại
hình bảo hiểm mang tính chất tơng trợ nhau mà thành viên vừa là bên bảo hiểm,
vừa là bên mua bảo hiểm. Việc phát triển hoạt động bảo hiểm tơng hỗ đóng một
vai trò quan trọng trong ổn định và phát triển thị trờng bảo hiểm ở các nớc phát
triển và các nớc đang phát triển. Xuất phát từ thực tế đó và tình hình hoạt động
kinh doanh bảo hiểm trên thị trờng bảo hiểm Việt Nam, em ó chọn đề tài: H-
ớng xây dựng mô hình công ty bảo hiểm tơng hỗ ở Việt Nam.
1
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài đợc chia
thành 3 chơng:
Ch ơng I : Một số vấn đề lý luận về kinh doanh bảo hiểm và doanh
nghiệp bảo hiểm tơng hỗ.
Ch ơng II: Sự cần thiết phải xây dựng công ty bảo hiểm tơng hỗ ở Việt
Nam.
Ch ơng III: Một số kiến nghị nhằm xây dựng thành công mô hình công


ty BHTH ở Việt Nam.
Đợc sự hớng dẫn tận tình của cô giáo - ThS. Nguyn Th Lệ Huyền và sự
giúp đỡ của Vụ Bảo hiểm - Bộ Tài chính em đã hoàn thành đề tài một cách tốt
đẹp. Em xin chân thành cảm ơn và mong sự đóng góp ý kiến của cô và các anh
chị cán bộ của Vụ Bảo hiểm để đề tài này đựơc hoàn thiện hơn nữa.
2
Chơng i
một số vấn đề lý luận về kinh doanh bảo hiểm
và bảo hiểm tơng hỗ
I. tổng quan về kinh doanh bảo hiểm
1.1. Khái niệm về kinh doanh bảo hiểm :
Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cũng nh trong lao động sản xuất kinh
doanh, mặc dù không muốn nhng con ngời luôn đứng trớc những nguy cơ rủi ro
có thể xảy ra. Do vậy, nhu cầu an toàn đối với các cá nhân và tổ chức trong xã
hội là vĩnh cửu. Lúc nào con ngời cũng tìm cách để bảo vệ chính bản thân và tài
sản của mình trớc những bất hạnh của số phận và những biến cố bất ngờ xảy ra
trong sản xuất kinh doanh. Ngay từ thời cổ đại đă xuất hiện các tổ chức gần
giống với bảo hiểm, chẳng hạn ngời Ba-Bi-Lon đã đa ra những quy tắc tổ chức
phơng tiện vận tải bằng xe kéo để phân chia các thiệt hại do mất cắp và bị cớp
cho các thơng gia cùng gánh chịu. Hoặc vào thế kỷ thứ V trớc công nguyên, Pê-
Ri-Clex đã tổ chức Hội đoàn tơng hỗ nhằm hoạt động trợ giúp cho các thành
viên và gia đình của họ trong các trờng hợp bị tử vong, ốm đau, bệnh tật hay hoả
hoạnSang thời Trung cổ, các quy tắc về bảo hiểm hàng hải đã bắt đầu đợc
hình thành, song phải đến năm 1347 bản hợp đồng bảo hiểm đầu tiên mới đợc
ký kết tại Gênes. Và cũng chính tại Gênes năm 1424, công ty bảo hiểm hàng hải
đầu tiên đã ra đời, đánh dấu sự phát triển của ngành bảo hiểm và sự ra đời hoạt
động kinh doanh bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày càng phát
triển mạnh mẽ và đến nay nó đã thành một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt, phổ
biến ở tất cả các nền kinh tế trên thế giới.
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục

đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của bên mua bảo
hiểm, trên cơ sở bên mua đống phí bảo hiểm để doanh nghiệp trả tiền bảo hiểm
3
cho ngời thụ hởng hoặc bồi thờng cho bên mua bảo hiểm khi có sự kiện bảo
hiểm xảy ra.
Mục đích kinh tế của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là lợi nhuận, chỉ có
thu đợc lợi nhuận doanh nghiệp bảo hiểm mới có thể tồn tại và phát triển đợc
trong điều kiện kinh tế thị trờng. Lợi nhuận giúp doanh nghiệp trang trải cho các
cá nhân và tổ chức cung cấp vốn cho họ. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có thể thu
hút đợc nguồn vốn của các nhà đầu t khác nếu tỷ suất lợi nhuận của doanh
nghiệp bằng hoặc cao hơn loại hình đầu t của họ trên thị trờng. Mức lợi nhuận
cao còn giúp doanh nghiệp duy trì đợc nguồn quỹ dự phòng đủ lớn, hạn chế sự
chuyển nhợng tái bảo hiểm và có điều kiện để nâng cao mức thu nhập cho cán
bộ nhân viên. Bên cạnh mục tiêu chính là lợi nhuận, kinh doanh bảo hiểm còn
phải đáp ứng đợc các nhu cầu của khách hàng, giúp khách hàng nhanh chóng ổn
định cuộc sống và sản xuất kinh doanh khi không may tổn thất, thiệt hại xảy ra
đối với họ, đồng thời thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nớc. Doanh nghiệp
bảo hiểm cũng giống nh các tổ chức khác trong xã hội rất mong muốn tạo dựng
một xã hội an toàn và ổn định góp phần làm cho xã hội thịnh vợng và phồn vinh.
Điều đó thể hiện ở mục đích và những mong muốn giảm bớt và phòng tránh các
tổn thất về ngời và tài sản cho xã hội. Ngoài ra, doanh nghiệp bảo hiểm còn
đóng góp vào quỹ do các tổ chức y tế giáo dục, các tổ chức xã hội khác và hình
thành các chơng trình phúc lợi cho các cán bộ, công nhân viên của bản thân
doanh nghiệp.
Thực chất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là các doanh nghiệp bảo
hiểm chấp nhận rủi ro mà bên tham gia bảo hiểm chuyển giao cho họ, đồng thời
chấp nhận trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thờng cho bên tham gia khi có các sự kiện
bảo hiểm xảy ra. Đổi lại doanh nghiệp sẽ thu đợc phí bảo hiểm để hình thành
quỹ dự trữ, bồi thờng, trang trải các khoản chi khác có liên quan và có lãi. Tuy
4

nhiên, không phải mọi rủi ro mà bên tham gia chuyển giao, doanh nghiệp bảo
hiểm đều có thể chấp nhận bảo hiểm.
Kinh doanh bảo hiểm thờng gắn liền với hoạt động kinh doanh tái bảo
hiểm. Kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm
mục đích sinh lời, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận một khoản phí bảo hiểm
khác để cam kết bồi thờng cho các trách nhiệm đã nhận bảo hiểm. Nh vậy, hai
loại hình kinh doanh này đều tồn tại ngay trong một doanh nghiệp bảo hiểm.
Trong đó, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là chủ yếu nhng kinh doanh tái bảo
hiểm cũng nhất thiết phải đặt ra. Ngoài mục đích sinh lời, kinh doanh tái bảo
hiểm còn giúp doanh nghiệp bảo hiểm mở rộng quan hệ với các bạn hàng, tranh
thủ nguồn vốn, học hỏi kinh nghiệm, nắm thêm thông tin, hỗ trợ đào tạo cán bộ.
Hơn thế nữa, đến lợt mình các doanh nghiệp bảo hiểm còn phải thực hiện tái bảo
hiểm để đảm bảo ổn định kinh doanh, tránh phá sản trong những trờng hợp mà
đối tợng tham gia có số tiền lớn, hoạt động ở địa bàn quá xa, doanh nghiệp
không đủ khả năng tài chính và khả năng kiểm soát rủi ro. Hiện nay, trên thế
giới đặc biệt là các nớc phát triển ngoài sự tồn tại của các công ty tái bảo hiểm
thì hình thức công ty bảo hiểm tơng hỗ cũng tơng đối phổ biến. Các công ty bảo
hiểm tơng hỗ có giá trị vốn góp rất lớn đã và đang đóng vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo khả năng thanh toán và ổn định thị trờng bảo hiểm ở các quốc gia
này.
1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1.2.1. Đối tợng kinh doanh đa dạng
Khác với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thơng mại có đối tợng bảo hiểm là tài
sản, trách nhiệm dân sự và bảo hiểm về con ngời.
Bảo hiểm tài sản là bảo hiểm những tài sản có thực, tiền, giấy tờ có giá trị
đợc bằng tiền và các quyền tài sản.
5
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là bảo hiểm trách nhiệm bồi thờng của ngời
đợc bảo hiểm .
Bảo hiểm con ngời là bảo hiểm tính mạng, sức khoẻ, tai nạn và nói chung

là những sự kiện có liên quan đến tuổi thọ của con ngời.
Mỗi đối tợng bảo hiểm bao gồm rất nhiều nghiệp vụ cụ thể. Mỗi nghiệp vụ
là một hoạt động kinh doanh dới hình thức doanh nghiệp bán sản phẩm bảo
hiểm ra thị trờng và thu về phí bảo hiểm. Phí đó đợc tính toán trên cơ sở khoa
học đảm bảo thu bù chi làm nghĩa vụ đối với Nhà nớc và có lãi cho doanh
nghiệp.
Với số lớn các nghiệp vụ (quy luật số lớn phát huy) thì luôn đảm bảo đẳng
thức:
Với sự đa dạng đối tợng bảo hiểm, quy luật số lớn trong kinh doanh bảo
hiểm càng phát huy tác dụng; do đó, mục đích lợi nhuận sẽ đạt đợc.
1.2.2. Bảo hiểm là ngành kinh doanh có nguồn vốn pháp định lớn
Nguồn vốn doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm vốn điều lệ, phí bảo hiểm thu
đợc, lãi đầu t v.v...Trong đó, vốn điều lệ phải đảm bảo nh mức vốn pháp định do
luật quy định (công ty BHNT 140 tỷ VND, công ty bảo hiểm phi nhân thọ 70 tỷ
VND). Vốn pháp định lớn nh vậy là do đặc thù kinh doanh bảo hiểm - kinh
doanh rủi ro.
1.2.3. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn phải có dự phòng nghiệp
vụ bảo hiểm - là nguồn vốn đầu t sinh lời
Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phải trích lập dự phòng nghiệp vụ từ
phí bảo hiểm của từng nghiệp vụ (hoặc hợp đồng bảo hiểm đối với bảo hiểm
nhân thọ) đối với phần trách nhiệm giữ lại của doanh nghiệp.
6
Phí
thu
=
Chi hoạt động
kinh doanh
+
Nộp
thuế

+
Lãi kinh
doanh
Dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ có
khác nhau.
a) Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, dự phòng nghiệp vụ
bao gồm:
- D phũng toỏn hc l khoản chênh lệch giữa giá trị hiện tại của số
tiền bảo hiểm và giá trị hiện tại của phí bảo hiểm sẽ thu đợc trong tơng lai
để trả tiền bảo hiểm khi sự kịên bảo hiểm xảy ra thuộc trách nhiệm của
bảo hiểm;
- Dự phòng phí cha đc hởng áp dụng đối với các hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ ngắn hạn (dới một năm) để trả tiền bảo hiểm sẽ phát sinh
trong thời gian còn hiệu lực của năm hợp đồng tiếp theo;
- Dự phòng bồi thờng đợc sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm nhng cha đợc giải quyết cho đến cuối năm tài chính;
- Dự phòng chia lãi đợc sử dụng để chia lãi theo thoả thuận của bên
mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm ;
- Dự phòng đảm bảo cân đối đợc sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm do đó có biến động lớn về tỷ lệ tử vong, lãi suất kỹ
thuật.
b) Đối với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, dự phòng nghiệp vụ
bảo hiểm bao gồm:
- Dự phòng phí cha đợc hởng dùng để bồi thờng cho trách nhiệm sẽ
phát sinh trong thời gian còn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm trong năm
tiếp theo;
- Dự phòng bồi thờng cho khiếu nại cha đợc giải quyết;
- Dự phòng bồi thờng cho các dao động lớn về tổn thất để bồi thờng
khi có giao động lớn về tổn thất hoặc tổn thất lớn xảy ra mà phí giữ lại
7

sau khi đã trừ đi hai loại dự phòng nghiệp vụ trên không đủ để trả tiền bồi
thờng thuộc phần trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm.
Các dự phòng nghiệp vụ trên là nguồn vốn để đầu t sinh lời nhất là dự
phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ vừa có nguồn vốn lớn vừa dài hạn.
1.2.4. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn gắn kết với hot động
đầu t
Hoạt động đầu t là một bộ phận trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Hoạt động đầu t vừa góp phần phát triển quỹ tài chính, tạo điều kiện mở rộng
quy mô của doanh nghiệp; tăng quỹ phúc lợi, vừa tăng thu nhập cho ngời lao
động; vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn vốn đầu t phát triển gồm có vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc và tự
nguyện, các khoản lãi của những năm trớc cha sử dụng, vốn nhàn rỗi từ DPNV
bảo hiểm.
1.2.5. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải tuân thủ các quy định của
pháp luật và các điều ớc quốc tế có liên quan
Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải tuân thủ
quy định của luật kinh doanh bảo hiểm, các quy đinh khác của pháp luật có liên
quan và các điều ớc quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Tuân thủ pháp luật cũng nh các điều ớc quốc tế nhằm đảm bảo kinh doanh
đúng hớng, đạt hiệu quả cao, đảm bảo lợi ích của ngời tham gia, doanh nghiệp
bảo hiểm và Nhà nớc.
II. các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm
8
Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp đợc thành lập, tổ chức và hoạt
động theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm và các quy đinh khác của
pháp luật có liên quan đến kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm.
Nếu kinh tế thị trờng là nền kinh tế đa dạng, phang phú các hoạt động kinh
tế - xã hội. Trong nền kinh tế đó có nhiều thành phần kinh tế tham gia. Vì vậy,
các tổ chức kinh tế cũng phù hợp với thành phần kinh tế đó. Cụ thể trong thị tr-
ờng bảo hiểm thòng bao gồm các hình thức tổ chức nh sau:

- Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nớc;
- Công ty cổ phần bảo hiểm ;
- Công ty bảo hiểm t nhân;
- Tổ chức bảo hiểm tơng hỗ;
- Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh;
- Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu t nớc ngoài.
Đây là hình thức tổ chức của các công ty độc lập. Ngoài ra, còn có doanh
nghiệp (hay công ty) trực thuộc trong các tổng công ty (hay tập đoàn) kinh
doanh lớn. Chẳng hạn, công ty bảo hiểm quốc tế Mỹ AIA thuộc tập đoàn công
ty bảo hiểm và dịch vụ tài chính hàng đầu thế giới AIG; Công ty bảo hiểm
Samsung, Công ty bảo hiểm dầu khí trong Tổng công ty dầu khí v.v
2.1. Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nớc
Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nớc là doanh nghiệp do Nhà nớc thành lập,
đầu vốn và quản lý với t cách là ngời chủ sở hữu. donh nghiệp bảo hiểm Nhà n-
ớc là một pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trớc pháp
luật.
ở Việt Nam hiện nay có 2 doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nớc: Tổng công ty
bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt), Công ty Bảo hiểm Dầu khí (PVIC) và Công ty
tái bảo hiểm quốc gia (VINARE).
9
Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) đợc thành lập ngày
17/12/1964, vốn điều lệ khi thành lập lại (vào tháng 3/1996) là 629 tỷ đồng và
đợc xếp hạng đặc biệt theo Quyết định số 745/TTg của Thủ tớng chính phủ. Bảo
Việt kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ có hệ thống các
công ty thành viên khắp các tỉnh thành trong cả nớc; có quan hệ với nhiều công
ty bảo hiểm các nớc trên thế giới v. v
Công ty Bảo hiểm Dầu khí (PVIC) - Công ty bảo hiểm ngành trong tổng
công ty lớn - Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đợc thành lập ngày 23/1/1996, với
vốn điều lệ là 22 tỷ đồng. PVIC kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ và đợc phép
thực hiện bảo hiểm y tế bắt buộc với tất cả cán bộ công nhân viên trong ngành

dầu khí.
2.2. Công ty cổ phần bảo hiểm
Công ty cổ phần bảo hiểm là loại hình doanh nghiệp do các cổ đông tham
gia đóng góp vốn thông qua hình thức phàt hành cổ phiếu, trái phiếu và có trách
nhiệm hữu hạn. Đây là doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, cùng chia lợi, cùng
chịu lỗ tơng ứng với số vốn góp.
ở Việt Nam hiện nay có 5 công ty cổ phần bảo hiểm là:
- Công ty cổ phần Bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long) thành lập 11/7/1995,
vốn điều lệ 22 tỷ đồng , kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ; có văn phòng đại
diện khắp các địa phơng
- Công ty cổ phần Petrolimex (PJICO) thành lập 21/6/1996, vốn điều lệ 55
tỷ đồng, kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, có văn phòng đại diện khắp các
địa phơng.
- Công ty cổ phần bảo hiểm Bu điện (PTI) thành lập cuối năm 1998, vốn
điều lệ 30 tỷ đồng.
- Công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh) thành lập ngày
28/11/1994, có vốn điều lệ là 45 tỷ đồng, kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ;
10
có mạng lới văn phòng đại lý khắp nớc Ngy 31/08/2004 Bo Minh ó cú
quyt nh chuyn thnh cụng ty c phn bo him. K t ngy 1/10/2004,
cụng ty c phn Bo Minh chớnh thc hot ng trờn th trng Bo him
- Công ty Tái bảo hiểm quốc gia (VINARE) đợc thành lập ngày 27/9/1994,
với vốn điều lệ là 40 tỷ đồng. Chức năng của VINARE là kinh doanh tái bảo
hiểm đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nớc và nớc ngoài. Đây là công
ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp đầu tiên của Việt Nam. Theo Quy nh s
2299/Q-BTC ngy 21/7/2004 ca B Ti chớnh phờ duyt ỏn c phn
hoỏ ca VI IARE. Tng cụng ty c phn Tỏi bo him Quc gia Vit Nam
chớnh thc hot ng t ngy 01/01/2005.
2.3. Công ty bảo hiểm t nhân
Công ty bảo hiểm t nhân là công ty bảo hiểm do một cá nhân làm chủ và tự

chịu trách nhiệm về hoạt động của công ty trớc pháp luật. Công ty đợc thành lập
theo luật doanh nghiệp.
2.4. Tổ chức bảo hiểm tơng hỗ
Tổ chức bảo hiểm tơng hỗ là tổ chức có t cách pháp nhân đợc thành lập để
kinh doanh bảo hiểm nhằm tơng trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên.
Thành viên tổ chức bảo hiểm tơng hỗ vừa là chủ sở hữu vừa là bên mua bảo
hiểm. Về mặt pháp lý, họ vừa là hội viên, vừa là những ngời đợc bảo hiểm.
Tổ chức bảo hiểm tơng hỗ chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của tổ chức trong phạm vi tài sản của tổ chức.
2.5. Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh
Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh đợc hình thành trên cơ sở vốn góp của
các bên (trong nớc và nớc ngoài). Chẳng hạn, của bên Việt Nam và bên nớc
ngoài. Vị trí các bên trong doanh nghiệp phụ thuộc vào mức vốn góp. Các thành
11
viên trong doanh nghiệp hởng lợi nhuận cũng nh chịu thua lỗ tơng ứng với mức
vốn góp.
Hiện nay ở Việt Nam số công ty bảo hiểm liên doanh đang hoạt động:
- Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam (V.I.A) thành lập ngày
05/8/1996, vốn điều lệ 6 triệu USD. VIA là công ty liên doanh giữa Bảo
Việt với công ty Tokio Marine and Fire Insurance Co.Ltd của Nhật Bản
và công ty Commercial Union của Anh. V.I.A kinh doanh trong lĩnh vực
bảo hiểm phi nhân thọ, chủ yếu đối với các doanh nghiệp có vốn đầu t n-
ớc ngoài.
- Công ty bảo hiểm Liên hiệp (U.I.C) thành lập ngày 01/11/1997, vốn
điều lệ 6 triệu USD. U.I.C là công ty liên doanh giữa công ty Bảo hiểm
thành phố Hồ Chí Minh - Bảo Minh với công ty Ysuda Fire and Marine
Insurance Co. Ltd của Nhật Bản. Lĩnh vực kinh doanh là bảo hiểm phi
nhân thọ.
- Công ty Liên doanh môi giới bảo hiểm Aon-Inchinbrok thành lập năm
1993, vốn điều lệ là 250.000 USD. Đây là công ty liên doanh giữa Bảo

Việt với tập đoàn môi giới bảo hiểm AON của Mỹ.
- Công ty Liên doanh bảo hiểm Bảo Minh - CMG thành lập tháng
3/2000 với vốn điều lệ 10.000.000 USD. Bảo Minh - CMG là công ty liên
doanh giữa Bảo Minh với tập đoàn dich vụ tài chính Colonial (Australia).
Bảo Minh - CMG kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ.
2.6. Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu t nớc ngoài
Đây là các doanh nghiệp bảo hiểm do nớc ngoài đầu t vốn hoạt động tại n-
ớc sở tại, theo luật pháp của nớc sở tại đồng thời chịu sự chỉ đạo của công ty mẹ
ở chính quốc.
ở Việt Nam, doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu t nớc ngoài chủ yếu
hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ: Chẳng hạn, công ty Prudentail của
12
Anh quốc, công ty AIA của Mỹ, công ty Manulife của Canada v.vCác công ty
này chịu sự chi phối của luật kinh doanh bảo hiểm, luật đầu t, luật doanh nghiệp
và các luật khác có liên quan.
Theo Luật Kinh doanh Bảo hiểm của Việt Nam, doanh nghiệp bảo hiểm
bao gồm 5 loại theo tính chất sở hữu:
- Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nớc
- Công ty cổ phần bảo hiểm
- Tổ chức bảo hiểm tơnh hỗ
- Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh
- Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu t nớc ngoài.
III. doanh nghiệp bảo hiểm tơng hỗ
3.1. Lịch sử hình thành và phát triển của bảo hiểm tơng hỗ
Trên thế giới, các tổ ch7ức tơng hỗ có truyền thống khá lâu đời. Hình
thức hợp tác và tơng hỗ đợc bắt nguồn từ việc những ngời có quan hệ họ hàng,
hàng xóm, những ngời cùng nhóm kết hợp với nhau nhằm bảo vệ bản thân từ
các rủi ro nh cháy, nổ hoặc các tai nạn khác. Những ngời này thành lập một hệ
thống chia sẻ rủi ro giữa một số lợng lớn cá nhân có cùng chung mối đe dọa, rủi
ro. Trong giai đoạn đầu, tính chất tơng hỗ đợc thể hiện thông qua việc các cá

nhân thỏa thuận chia sẻ các khoản chi phí xác định giữa họ khi xảy ra rủi ro. Sau
đó các tổ chức tơng hỗ đợc hình thành với chức năng xác lập các nguyên tắc và
bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các thành viên của tổ chức. Các tổ chức bảo
hiểm tơng hỗ có đặc thù là đợc thành lập, sở hữu và kiểm soát bởi chính các
thành viên của mình là bên mua bảo hiểm. Trong giai đoạn phát triển ban đầu,
các tổ chức bảo hiểm tơng hỗ chịu trách nhiệm vô hạn theo đó các thành viên
cùng có nghĩa vụ chịu trách nhiệm đối với toàn bộ các tổn thất và chi phí phát
13
sinh. Tuy nhiên, cho đến nay, hầu hết các tổ chức bảo hiểm tơng hỗ đợc tổ chức
dới hình thức trách nhiệm hữu hạn.
Cỏc cụng ty bo him tng h ó hỡnh thnh v phỏt trin ph bin khỏ
lõu Phỏp, M. Phỏp, tiờu biu cho vic hot ng theo mụ hỡnh t chc
tng h nụng nghip l Tp on bo him Groupama. õy l tp on bo
him mnh v cú uy tớn trong th trng nụng nghip ca Phỏp. L t chc
bo him tng h u tiờn ca Phỏp, do nhng ngi nụng dõn Phỏp xõy
dng vo cui th k 19 nhm phc v nhu cu ca chớnh mỡnh. Hin nay,
ng thi vi vic cng c v trớ l nh bo him nụng nghip hng u, sau
khi mua li cụng ty bo him GAN thỏng 7-1998, Groupama ó tr thnh
cụng ty bo him tng hp ln th hai ca th trng Phỏp v ng u chõu
u v bo him nụng nghip.
Ti M, cụng ty bo him tng h u tiờn M c thnh lp ti
thnh ph Philadenphia (bang Pennsylvania) nm 1784 kinh doanh bo
him chỏy. Khi mi thnh lp, cỏc cụng ty bo him tng h cú ngun gc t
cỏc hp tỏc xó v c t chc trờn c s cỏc cng ng dõn c a phng.
Cho n trc khi cuc cụng nghip hoỏ v thnh th hoỏ nụng thụn din
ra mnh m trong na u th k 19, nhu cu ca cụng chỳng i vi bo
him nhõn th M cũn thp. Cụng ty bo him nhõn th tng h u tiờn -
Cụng ty bo him nhõn th tng h New York bt u hot ng nm 1842
v sau ú l mt s cụng ty khỏc trong ú ỏng chỳ ý l cụng ty bo him
New York Life c thnh lp nm 1845.

Trong giai on ny, hỡnh thc bo him tng h t ra thụng dng v
cnh tranh vi hỡnh thc cụng ty c phn trong vic cung cp ngun vn da
trờn c s ri ro. Vi c cu tng h, vic bi thng tn tht, thit hi c
14
phân bổ rộng rãi hơn cho nhiều người so với các công ty bảo hiểm cổ phần do
một số ít người làm chủ. Nhờ đó, có thể làm giảm đáng kể rủi ro phát sinh khi
một công ty không thể đáp ứng nghĩa vụ bồi thường (Chẳng hạn, đám cháy
khủng khiếp ở New York năm 1835 đã khiến cho một số công ty bảo hiểm
cháy được tổ chức dưới hình thức công ty bảo hiểm cổ phần bị phá sản). Theo
cách nói hiện nay, các công ty bảo hiểm tương hỗ của thế kỷ 18 thường hoạt
động với chi phí vốn nhỏ hơn và chịu rủi ro ít hơn.
Sự phát triển của các loại hình bảo hiểm tương hỗ cũng đã tạo ra vị thế
đáng kể của loại hình doanh nghiệp này trên thị trường bảo hiểm Mỹ. Từ giữa
những năm 1920 đến năm 1960, các công ty bảo hiểm phi nhân thọ tương hỗ
đã tăng thị phần của mình trong khi các công ty bảo hiểm cổ phần lại bị giảm
thị phần. Tính đến cuối những năm 1960, các công ty bảo hiểm tương hỗ
chiếm khoảng 30% tổng số phí bảo hiểm của toàn thị trường. Kể từ đó trở đó,
thị phần bảo hiểm Mỹ được chia theo tỷ lệ 30/70 giữa các công ty bảo hiểm
tương hỗ và các công ty bảo hiểm cổ phần.
Hiện nay, ở Mỹ có khoảng 1.000 công ty bảo hiểm tương hỗ hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, tập hợp trong một tổ chức
có tên gọi “Hiệp hội các công ty bảo hiểm tương hỗ liên bang (NAMIC)”,
được thành lập năm 1895. Trong số đó có khoảng 700 công ty bảo hiểm tương
hỗ nông nghiệp, hoạt động chủ yếu trong phạm vi một địa hạt hành chính và
chỉ được phép cung cấp các sản phẩm bảo hiểm có liên quan đến sản xuất
nông nghiệp và phục vụ đời sống sinh hoạt ở nông thôn. Có khoảng 1/2 trong
tổng số thành viên của NAMIC có doanh thu phí bảo hiểm hàng năm dưới 15
triệu USD.
15
Cựng vi s phỏt trin v nhu cu bo him ca nn kinh t trong tng

giai on, t chc bo him tng h cng cú nhng thay i ỏng k v hỡnh
thc phỏp lý: chuyn i t hỡnh thc tng h sang hỡnh thc c phn v
ngc li. Cú th thy tỡnh trng ny khụng ch xy ra Phỏp m cũn khỏ ph
bin M, nc cú loi hỡnh bo him tng h phỏt trin rt mnh.
Hiện nay các công ty bảo hiểm tơng hỗ vẫn đang đó một vai trò quan trọng
trên toàn cầu. Theo tài liệu nghiên cứu về bảo hiểm tơng hỗ của Swiss Re năm
1999, 6 trong số 10 công ty bảo hiểm lớn nhất thế giới (về tài sản) là các công ty
bảo hiểm tơng hỗ. Tại 5 quốc gia có thị trờng bảo hiểm lớn nhất (chiếm 3/4 tổng
số các giao dịch bảo hiểm trên toàn thế giới), trong năm 1997, các công ty bảo
hiểm tơng hỗ chiếm khoảng 42% thị phần phí bảo hiểm.
Hình 1: Thị phần phí bảo hiểm của các công ty bảo hiểm tơng hỗ năm 1997
Bên cạnh đó, tài liệu nghiên cứu của Swiss Re năm 1999 cũng cho thấy
trong giai đoạn 1995-1997, các công ty bảo hiểm tơng hỗ trong lĩnh vực phi
nhân thọ có đợc mức độ an toàn tài chính cao hơn các công ty bảo hiểm cổ phần
trong khi vẫn duy trì đợc mức tỷ lệ chi phí thấp hơn. Tài liệu này cũng chỉ rõ các
công ty bảo hiểm tơng hỗ hoạt động có hiệu quả tơng tự nh các công ty bảo
hiểm cổ phần khác.
Hình 2: Khả năng thanh toán của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ
16
72%
34.50%
24.50%
22%
15%
42%
0%
20%
40% 60% 80%
Thị phần tại 5 nước
Nhật

Mỹ
Anh
Đức
Pháp
giai đoạn 1995-1997
Hình 3: Tỷ lệ chi phí của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ
giai đoạn 1995-1997
Bảng 1: Thị phần và số lợng công ty bảo hiểm tơng hỗ
trong lĩnh vực phi nhân thọ ở một số nớc trên thế giới
Quốc gia
Thị phần bảo hiểm tơng hỗ
(%)
Số lợng công ty bảo hiểm tơng
hỗ
1987 1992 1997 1987 1992 1997
Mỹ
31 35 33 293 427 389
Nhật Bản
4 4 3 2 2 2
Anh
14 14 8 24 25 17
Đức
19 17 16 79 73 67
17
Pháp
40 37 37 113 110 109
Tổng số 24 26 24 511 637 584
Bảng 2: Thị phần và số lợng công ty bảo hiểm tơng hỗ
trong lĩnh vực nhân thọ ở một số nớc trên thế giới
Quốc gia

Thị phần bảo hiểm tơng hỗ
(%)
Số lợng công ty bảo hiểm t-
ơng hỗ
1987 1992 1997 1987 1992 1997
Mỹ
40 41 35 125 109 100
Nhật Bản
93 91 89 16 16 15
Anh
46 48 33 58 57 47
Đức
31 27 26 66 61 53
Pháp
10 8 5 17 16 17
Tổng số 57 57 52 282 259 232
3.2. Khái niệm, bản chất của bảo hiểm tơng hỗ:
Cú nhiu khỏi nim khỏc nhau v t chc BHTH. Di õy l mt s
khái niệm cơ bản :
- Cụng ty BHTH l mt cụng ty trong ú, cỏc thnh viờn úng gúp mt
khon tin t cc, ký qu, tin gi v cựng nhau tho thun rng nhng thit
hi, tn tht xy ra t mt ri ro c bo him s c bi thng theo
nguyờn tc tng h v on kt
- Cụng ty BHTH l mt doanh nghip m trong ú cỏc thnh viờn va l
ngi bo him va l ngi c bo him. Trong cụng ty BHTH, phớ bo
him do cỏc thnh viờn úng gúp trc hoc sau khi xy ra tn tht bi
thng cho cho cỏc tn tht v thc hin nhng ngha v phỏp lý. Phn chờnh
lch gia ti sn v trỏch nhim ca cụng ty BHTH c gi l thng d v c
gi li ch yu chi tr cho nhng tn tht khụng lng trc hoc gim phớ
bo him thụng qua chia bo tc.

18
- BHTH l mt hỡnh thc bo him trong ú, mt s ngi cựng nhau
thnh lp mt t chc bo v cho quyn li ca chớnh h; cỏc thnh viờn
cựng nhau lp qu bi thng cho cỏc tn tht hoc chi phớ phỏt sinh.
Trong cỏc t chc ny, mi thnh viờn va l ngi c bo him va l
ngi bo him.
- Cụng ty BHTH l cụng ty thuc quyn s hu ca nhng ngi tham
gia bo him.
- T chc bo him tng h l t chc cú t cỏch phỏp nhõn c
thnh lp kinh doanh bo him nhm tng tr, giỳp ln nhau gia cỏc
thnh viờn. Thnh viờn t chc bo him tng h va l ch s hu va l
bờn mua bo him.
T nhng nh ngha nờu trờn cú th nhn thy cỏc t chc BHTH cú
chung 3 c trng c bn nh sau:
- BHTH l mt loi hỡnh DNBH hot ng vỡ mc tiờu li nhun;
- Cỏc thnh viờn ca t chc BHTH va l ngi bo him va l ngi
tham gia bo him;
- T chc BHTH c thnh lp nhm mc ớch tng tr, giỳp ln
nhau gia cỏc thnh viờn.
3.3. Vai trò, chức năng của bảo hiểm tơng hỗ:
Ngoi cỏc vai trũ, chc nng m cỏc t chc bo him tng h mang
li nh cỏc loi hỡnh bo him thng mi khỏc, vai trũ ca t chc bo him
tng h cũn c th hin trờn cỏc khớa cnh sau:
19
Thứ nhất, khôi phục khả năng tài chính, thúc đẩy sự ổn định tài chính và
giảm bớt các nỗi lo âu về tinh thần của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm
sau khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Bằng cách trả tiền bồi thường cho người bị
thiệt hại hay tổn thất, bảo hiểm tương hỗ đem lại sự ổn định tài chính và ổn
định xã hội, đồng thời góp phần làm giảm bớt sự lo âu về tinh thần cho các cá
nhân và tổ chức tham gia bảo hiểm trong đời sống hàng ngày cũng như trong

hoạt động sản xuất, kinh doanh. Về khía cạnh này, trước những tổn thất lớn và
có tính chất thảm họa thì hình thức bảo hiểm tương hỗ tỏ ra vượt trội hơn so
với hình thức bảo hiểm cổ phần vì rủi ro được san sẻ giữa các thành viên trong
tổ chức, chẳng hạn, đám cháy khủng khiếp ở New York năm 1835 đã khiến
cho một số công ty bảo hiểm cháy được tổ chức dưới hình thức công ty bảo
hiểm cổ phần bị phá sản.
Thứ hai, bảo hiểm tương hỗ có thể thay thế cho các chương trình đảm
bảo xã hội do Nhà nước thực hiện, nhờ đó làm giảm gánh nặng cho ngân sách
nhà nước và nâng cao hiệu quả của việc phân bổ các nguồn lực trong xã hội.
Ví dụ: Các họat động sản xuất nông nghiệp hay đánh bắt cá xa bờ thường diễn
ra trên diện rộng và phụ thuộc rất nhiều và các điều kiện tự nhiên do vậy khả
năng gặp tổn thất rất lớn và các họat động kinh doanh bảo hiểm thương mại
thông thường rất khó đáp ứng, đáp ứng không hiệu quả hoặc với mức phí bảo
hiểm phải đóng rất cao gây bất lợi cho người tham gia bảo hiểm. Trong nhiều
trường hợp, với các tổn thất mang tính chất thảm họa thì các doanh nghiệp bảo
hiểm này sẽ không đủ khả năng thanh toán và có thể bị phá sản. Do vậy, để
giảm bớt mức độ thiệt hại, giảm bớt sự tài trợ của ngân sách nhà nước và tạo
quyền chủ động trong việc đề phòng, hạn chế tổn thất thì việc tham gia tổ
chức bảo hiểm tương hỗ là rất cần thiết.
20
Thứ ba, thúc đẩy các hoạt động thương mại, hoạt động sản xuất kinh
doanh. Thực tế cho thấy nhiều loại hàng hoá và dịch vụ chỉ có thể tiêu thụ
được trên thị trường nếu đi kèm với các hợp đồng bảo hiểm cho những trách
nhiệm phát sinh liên quan đến việc sử dụng các hàng hoá và dịch vụ đó. Ngoài
ra, bảo hiểm cũng hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh bằng cách tăng cường
lòng tin của khách hàng. Ví dụ, một trong những điều kiện tiên quyết mà
người đi vay cần thoả mãn trước khi được cho vay là phải mua bảo hiểm cho
những tài sản được dùng để thế chấp, hoặc phải mua bảo hiểm nhân thọ cho
tính mạng của người chịu trách nhiệm chính trong việc trả nợ. Chính vì lý do
này mà người ta còn ví rằng “bảo hiểm là chất bôi trơn của hoạt động thương

mại”.
Trong khi đó, với tấm lá chắn bảo hiểm (bảo hiểm tương hỗ) các hộ sản
xuất kinh doanh đánh bắt cá xa bờ, nuôi trồng thuỷ hải sản, sản xuất nông
nghiệp,...có thể yên tâm sản xuất.
Thứ tư, là kênh huy động vốn tiết kiệm quan trọng cho đầu tư phát triển,
đồng thời thúc đẩy việc phân bổ một cách có hiệu quả hơn những nguồn vốn,
thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường vốn trong một quốc gia. Thông
qua các nguồn vốn huy động được (phí bảo hiểm), các công ty bảo hiểm tiến
hành đầu tư vào các công trình, dự án hay các công cụ tài chính dưới các dạng
đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Thứ năm, là công cụ hữu hiệu để quản lý rủi ro có hiệu quả thông qua
việc định giá, chuyển giao rủi ro, đóng góp quĩ để chi trả cho các tổn thất và
giảm bớt thiệt hại. Các công ty bảo hiểm thực hiện việc định giá sản phẩm
thông qua việc xét nhận bảo hiểm và đầu tư, theo nguyên tắc rủi ro càng lớn
thì phí bảo hiểm càng cao. Các chủ doanh nghiệp, các nhà quản lý, nhà đầu tư,
chủ nợ và các cổ đông có thể sử dụng những “tín hiệu” thu được từ việc định
21
giá sản phẩm này để đưa ra những quyết định dựa trên thông tin đầy đủ. Nhờ
đó, hiệu quả kinh tế cũng được nâng cao.
Các công ty bảo hiểm cũng cho phép các doanh nghiệp và cá nhân
chuyển giao các tài sản, trách nhiệm, tổn thất thu nhập và các rủi ro khác để
đáp ứng nhu cầu của chính bản thân họ một cách tốt hơn. Ngoài ra, các công
ty bảo hiểm nhân thọ còn giúp các tổ chức và cá nhân chuyển giao các khoản
tiết kiệm của họ sang một hình thức mới với độ thanh khoản cao, an toàn hơn
và mức độ rủi ro thấp hơn. Mặt khác, theo qui luật số lớn, các công ty bảo
hiểm thu phí của số đông người tham gia bảo hiểm để bồi thường cho số ít
những thiệt hại, tổn thất xảy ra. Thông qua hoạt động đầu tư, các công ty bảo
hiểm có thể phân tán rủi ro cho nhiều đối tượng tiếp nhận đầu tư khác nhau và
nhờ đó đa dạng hoá danh mục đầu tư, làm giảm bớt sự không ổn định và dễ đổ
vỡ.

Với ý nghĩa kinh tế - xã hội to lớn như đã nêu trên, trong thời gian tới,
cùng với việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về kinh doanh bảo hiểm
và việc từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, chắc chắn
ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và bảo hiểm tương hỗ nói riêng sẽ đóng
góp nhiều hơn cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xứng
đáng với tiềm năng và vị trí của nó trong nền kinh tế quốc dân.
3.4. Các hình thức tổ chức và quản lý Tổ chức BHTH:
Công ty BHTH có thể được phân loại dựa theo nhiều tiêu chí khác nhau.
a) Nếu căn cứ theo thời điểm đóng phí bảo hiểm, công ty BHTH được
phân thành: Công ty BHTH phí bảo hiểm đóng trước và công ty BHTH phí
bảo hiểm đóng sau
22
- Công ty BHTH phí bảo hiểm đóng trước:
Đây là hình thức phổ biến nhất của công ty BHTH. Phương thức hoạt
động của công ty này giống công ty cổ phần ở chỗ phần lớn hoặc toàn bộ chi
phí bảo hiểm được công ty thu trước, vào thời điểm cấp hợp đồng bảo hiểm.
Về nguyên tắc, trong quá trình hoạt động, chủ hợp đồng bảo hiểm sẽ không
phải đóng thêm bất kỳ khoản tiền nào, ngay cả khi công ty làm ăn thua lỗ. Các
công ty BHTH thuộc loại này kinh doanh nhiều loại nghiệp vụ bảo hiểm khác
nhau và hoạt động trên địa bàn rộng.
Khi kết thúc thời hạn hợp đồng bảo hiểm, một phần số phí bảo hiểm đã
thu có thể được trả lại cho người tham gia bảo hiểm dưới dạng bảo tức, sau
khi đã trừ đi các chi phí tổn thất, chí phí hoạt động, trích lập dự phòng nghiệp
vụ và để lại lợi nhuận nhằm bổ sung vốn hoạt động. Chủ hợp đồng bảo hiểm
sẽ không thể biết về số tiền thực tế mà người đó được nhận cho đến sau khi
hợp đồng kết thúc, điều này tùy thuộc vào các thức phân loại loại các chủ hợp
đồng bảo hiểm mà công ty áp dụng.
- Công ty BHTH phí bảo hiểm đóng sau:
So với các công ty BHTH phí đóng trước, các công ty BHTH phí đóng
sau ít phổ biến hơn nhất là trong giai đoạn hiện nay. Ở Mỹ, những công ty này

thường khai thác một số loại hình bảo hiểm đặc thù như bảo hiểm cháy và bão
cho các trang trại và nhà tư nhân tại các thành phố nhỏ. Đối với phương thức
hoạt động này, việc đóng phí được thực hiện theo 2 cách:
C ¸ch thø nhÊt: Công ty bảo hiểm sẽ tạm thu một phần phí bảo hiểm từ
người tham gia bảo hiểm. Sau khi tổn thất xảy ra, hoặc hết hạn hợp đồng, công
ty sẽ tính toán lại và cân đối với số phí đã đóng trước khi quyết định có thu
thêm phí bảo hiểm từ các thành viên hay không.
23
C ¸ch thø hai: Một số công ty BHTH chấp nhận hoàn toàn không thu phí
bảo hiểm khi tham gia vào công ty. Chỉ đến sau khi tổn thất xảy ra, hoặc sau
khi hết hạn hợp đồng, công ty mới tính toán để phân bổ số phí mà các thành
viên phải đóng góp.
Như vậy, trong cả 2 trường hợp, việc chi trả quyền lợi sẽ phụ thuộc vào
việc thu phí bảo hiểm từ các thành viên toàn bộ hoặc một phần sau khi tổn thất
xảy ra. Tuỳ thuộc vào từng hợp đồng cụ thể mà quyền yêu cầu người được
bảo hiểm đóng góp sau khi xảy ra tổn thất có thể chỉ hạn chế trong một số tiền
nhất định hoặc không khống chế về mức tối đa. Một thành viên của công ty
BHTH phí đóng sau nhưng tham gia với mức trách nhiệm không hạn chế sẽ
phải đóng một phần phí bảo hiểm theo tỷ lệ trên tổng số tiền tổn thất và các
chi phí hợp lý, hợp lệ của công ty. Hình thức doanh nghiệp này có nhược điểm
là không đảm bảo sự ổn định và chắc chắn trong hoạt động của công ty cũng
như khả năng thanh toán đến cùng các trách nhiệm về tài sản. Do đó, nó chỉ
thích hợp với giai đoạn đầu của ngành bảo hiểm, còn đến nay, loại công ty
BHTH này đã không còn phổ biến nữa.
b) Nếu căn cứ theo số phí bảo hiểm phải nộp, công ty BHTH bao gồm:
công ty BHTH đầu tư không hạn chế và công ty BHTH đầu tư hạn chế.
- Công ty BHTH đầu tư không hạn chế:
Công ty BHTH đầu tư không hạn chế có thể yêu cầu mỗi người được bảo
hiểm đóng góp một khoản đầu tư bổ sung với số tiền không vượt quá khoản
đầu tư đã đóng trước đó nếu tổn thất và các chi phí hoạt động của công ty cao

hơn khoản đầu tư đã đóng trước đó cộng với các khoản thu nhập của công ty.
Như vậy, loại hình công ty BHTH này có nhiều điểm tương đồng với loại
công ty BHTH phí bảo hiểm đóng sau. Để thành lập công ty BHTH đầu tư
24
không hạn chế, các sáng lập viên phải đóng góp ít nhất 30% số vốn của công
ty.
- Công ty BHTH đầu tư hạn chế:
Đối với các công ty BHTH đầu tư hạn chế, số tiền góp vốn của các sáng
lập viên ít nhất phải bằng 50% tổng vốn cổ phần của công ty tuỳ thuộc vào
việc công ty dự kiến kinh doanh một hoặc nhiều loại hình bảo hiểm.
c ) Công ty BHTH truyền thống và công ty BHTH cổ phần
Trong công ty BHTH truyền thống, các chủ hợp đồng bảo hiểm được
hưởng những quyền lợi theo hợp đồng mà họ đã tham gia (trong đó có quyền
được trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm). Ngoài ra, với tư cách là
thành viên công ty, họ còn có những quyền nhất định gần giống với quyền của
các cổ đông trong công ty cổ phần, chẳng hạn như quyền bầu các thành viên
HĐQT, quyền được chia số tài sản còn lại của của công ty khi giải thể hoặc
chuyển sang hình thức doanh nghiệp khác. Chính vì vậy, chủ hợp đồng bảo
hiểm đồng thời là người sở hữu công ty BHTH.
Trong những năm gần đây, trước những lời chỉ trích cho rằng việc
chuyển từ hình thức công ty BHTH sang hình thức công ty cổ phần (hay còn
gọi là phi tương hỗ hoá) là một quá trình tốn kém và làm thay đổi thuộc tính
cơ bản của công ty, một số bang ở nước Mỹ đã thông qua các đạo luật cho
phép các công ty BHTH được thành lập dưới một hình thức mới kết hợp giữa
công ty BHTH và công ty bảo hiểm cổ phần với tên gọi - công ty bảo hiểm cổ
phần tương hỗ. Trong chừng mực nhất định, hình thức này cho phép việc
“tương hỗ hoá một phần” và do đó giải pháp này đã gây ra nhiều tranh cãi
trong ngành bảo hiểm.
25

×