Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

bài 41 tìm hiểu về quy phạm và hệ thống pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.59 KB, 16 trang )

Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
LỜI MỞ ĐẦU
Sau Cách mạng Mùa thu năm 1945, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời. Cùng với chính quyền, một hệ thống luật pháp mới dần được hình thành nhằm
củng cố chính quyền và quản lý xã hội
Sau những lần bổ sung và chỉnh sửa đến nay hệ thống pháp luật của nữa ta đã dần
đi vào ổn định, dần bắt kịp với trình độ pháp luật của các nước trên thế giới, hệ thống
pháp luật nước ta đã dần hoàn thiện hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế xã
hội của đất nước. Thể hiện rõ vai trò của pháp luật là ổn định và bảo vệ nền độc lập
của đất nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Để tìm hiểu sâu hơn về pháp luật Việt Nam chúng ta hãy cùng tìm hiểu bài tiểu
luận “ tìm hiểu về quy phạm và hệ thống pháp luật Việt Nam”
GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 1
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
NỘI DUNG
I. Tìm hiểu về quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là những quy tắc, chuẩn mực mang tính bắt buộc chung phải
thi hành hay thực hiện đối với tất cả tổ chức, cá nhân có liên quan, và được ban hành
hoặc thừa nhận bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Quy phạm pháp luật là tế
bào, đơn vị cơ bản của pháp luật theo cấu trúc (bao gồm Quy phạm pháp luật, chế
định pháp luật, ngành luật và hệ thống pháp luật. Cấu tạo của quy phạm pháp luật gồm
ba thành phần là giả định, quy định và chế tài. Tuy nhiên, không nhất thiết phải đầy đủ
ba bộ phận trong một quy phạm pháp luật.
- Bộ phận giả định: đây là bộ phận quy định địa điểm, thời gian, chủ thể, các hoàn
cảnh, tình huống có thể xảy ra trong thực tế mà nếu hoàn cảnh, tình huống đó xảy ra
thì các chủ thể phải hành động theo quy tắc xử sự mà quy phạm đặt ra. Đây là phần
nêu lên trường hợp sẽ áp dụng quy phạm đó.
- Bộ phận quy định: là bộ phận trung tâm của quy phạm pháp luật và không thể
thiếu. Nó nêu lên quy tắc xử sự mà mọi người phải thi hành khi xuất hiện những điều
kiện mà phần giả định đã đặt ra.


- Chế tài: là bộ phận chỉ ra những biện pháp tác động mà Nhà nước sẽ áp dụng đối
với chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy tắc xử sự đã được nêu
trong phần quy định của quy phạm và cũng là hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể phải
gánh chịu khi không thực hiện đúng nội dung tại phần quy dịnh.
GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 2
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
Quy phạm pháp luật được chứa đựng trong các hình thức như văn bản pháp (văn
bản quy phạm pháp luật hay văn bản pháp quy), tiền lệ pháp và tập quán pháp (Luật
tục)
Quy phạm pháp luật không đơn thuần chỉ là các quy tắc xử sự chung mà các quy
tắc xử sự chung, khi đặt vào văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hiến định hoặc luật định, chúng có màu sắc khác với các quy tắc xã hội
khác (quy phạm đạo đức, quy phạm tôn giáo…) bởi tính cưỡng chế của bộ máy công
quyền và việc tuân thủ chúng là bắt buộc.
Có thể nói, quy phạm pháp luật (trong một văn bản quy phạm pháp luật) có hai dấu
hiệu đặc trưng cơ bản:
* Đặc trưng thứ nhất là chúng có tính áp dụng chung, tính trừu tượng, không đặt ra
cho người này, người kia một cách xác định mà nhằm tới phạm vi đối tượng ít nhiều
rộng hơn (ví dụ: tất cả các công dân, tất cả những người trên 18 tuổi, các thương gia,
các Chủ tịch tỉnh hoặc Chủ tịch huyện…). Các quy phạm pháp luật được áp dụng đối
với những người thuộc đối tượng được các quy phạm pháp luật đó điều chỉnh. Như
vậy, một quyết định bổ nhiệm một người vào chức vụ Chủ tịch xã không phải là văn
bản quy phạm pháp luật nhưng văn bản quy định một số quyền hạn cho các Chủ tịch
xã sẽ là văn bản quy phạm pháp luật.
* Đặc trưng thứ hai của quy phạm pháp luật là chúng được tuân thủ và thực hiện
bởi sự cưỡng chế nhà nước. Nhà nước có thể dùng lực lượng công quyền để bảo đảm
cho việc áp dụng quy phạm pháp luật bằng việc áp dụng các chế tài. Các chế tài có thể
rất đa dạng: chế tài hình sự như hình phạt tù hoặc phạt tiền, chế tài dân sự như huỷ bỏ
hợp đồng dân sự, bồi thường thiệt hại dân sự ngoài hợp đồng… Như vậy, bất luận là

văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nào có thẩm quyền ban hành hay bất luận là
GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 3
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
hình thức văn bản nào (nghị quyết, quyết định, chỉ thị… do cơ quan nhà nước trung
ương hay các cấp chính quyền địa phương ban hành) thì chúng đều phải được tuân thủ
và thực hiện.
Do đó, khi đánh giá một văn bản có phải là văn bản quy phạm pháp luật hay không
cũng như xem xét một văn bản có chứa ''quy phạm pháp luật'' hay không cần đặc biệt
chú ý đến các đặc tính của quy phạm pháp luật, gồm: tính áp dụng chung (quy tắc
ràng buộc chung và được tôn trọng chung), tính phi cá nhân (không nhằm vào một đối
tượng, một con người nào cụ thể hay một nhóm đối tượng cụ thể), tính bắt buộc - tính
cưỡng chế nhà nước (đối tượng bắt buộc phải thực hiện, không thể thoái thác) và phải
được cơ quan có thẩm quyền ban hành (chủ thể được pháp luật trao thẩm quyền ban
hành văn bản quy phạm pháp luật).
Như vậy, đối với văn bản quy phạm pháp luật nói chung và văn bản quy phạm
pháp luật do các cấp chính quyền địa phương ban hành nói riêng đều phải có đầy đủ
các dấu hiệu nêu trên. Các dấu hiệu đặc trưng cần và đủ của văn bản quy phạm pháp
luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cũng chính là các yếu tố tạo thành định
nghĩa văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, đó là:
văn bản có chứa đựng quy phạm pháp luật; do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (ở địa
phương) ban hành; được ban hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định và được
Nhà nước bảo đảm thi hành bằng biện pháp cưỡng chế. Cũng có thể định nghĩa văn
bản quy phạm pháp luật một cách trực tiếp từ các dấu hiệu của nó như sau: văn bản
quy phạm pháp luật là văn bản có tính áp dụng chung, tính cưỡng chế, do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 4
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
1. Tìm hiểu về văn bản quy phạm pháp luật

Định nghĩa về văn bản quy phạm pháp luật nói chung cũng như văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân nói riêng chưa thực sự thỏa mãn
yêu cầu của các cán bộ thực thi pháp luật, bởi vì, trên thực tế, dù đã có định nghĩa,
nhưng chúng ta thường gặp khó khăn khi xác định một văn bản cụ thể có phải là văn
bản quy phạm pháp luật hay không. Chính vì thế, việc tìm hiểu, phân tích các dấu hiệu
đặc trưng của văn bản quy phạm pháp luật là cần thiết.
Nói về văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, về
nguyên tắc, nó hoàn toàn là một văn bản quy phạm pháp luật theo định nghĩa của Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật và điều này đã được chính Luật năm 2002
khẳng định tại khoản 3 Điều 1 “Văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; văn bản do Uỷ ban nhân dân
ban hành còn để thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp”. Như vậy, văn
bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành cũng phải nằm trong tổng thể hệ
thống pháp luật quốc gia. Như vậy, việc định nghĩa văn bản quy phạm pháp luật của
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tại Luật năm 2004 chỉ là một sự khẳng định lại
những nội dung đã được quy định trong Luật năm 2002 mà thôi.
Vậy, đâu là dấu hiệu quan trọng để nhận dạng một văn bản quy phạm pháp luật
hay một văn bản “có tính quy phạm”? Có quan điểm cho rằng, dấu hiệu văn bản được
ban hành theo trình tự, thủ tục luật định là dấu hiệu quan trọng, có tính chất quyết định
để nhận dạng đó là văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, theo tôi việc chứa đựng
“quy phạm pháp luật” mới thực sự là dấu hiệu cơ bản đầu tiên và quan trọng nhất để
xác định văn bản quy phạm pháp luật. Vì sao có thể nói như vậy? Bởi vì, việc dự kiến
ban hành một văn bản có chứa đựng ''quy phạm pháp luật'' là yếu tố đầu tiên được xác
GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 5
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
định trong toàn bộ quá trình ban hành văn bản. Chính yếu tố này đặt ra yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản phải tuân theo trình tự, thủ tục của
việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nói cách khác, nếu không có quy phạm

pháp luật thì việc soạn thảo và ban hành văn bản cũng không phải tuân theo trình tự,
thủ tục soạn thảo của văn bản quy phạm pháp luật và cũng không đòi hỏi phải được
ban hành bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền được pháp luật quy định, thậm chí đó
là thẩm quyền hiến định. Như vậy, dấu hiệu “được ban hành theo trình tự, thủ tục luật
định” chỉ là một dấu hiệu phái sinh từ dấu hiệu “chứa đựng quy phạm pháp luật” mà
thôi, và nó hoàn toàn phụ thuộc vào dấu hiệu “chứa đựng quy phạm pháp luật”. Cũng
chính vì vậy mà ngay cả thẩm quyền đặt ra các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội khác nhau cũng cần phải phân biệt chủ thể nào có thẩm quyền ban
hành - “thẩm quyền nội dung” - để phân biệt với “thẩm quyền hình thức” (thẩm quyền
được ban hành hình thức nào văn bản quy phạm pháp luật). Cần phải nói thêm rằng,
việc chứa quy phạm pháp luật là đặc trưng của văn bản quy phạm pháp luật, ngay cả
khi văn bản đó chỉ chứa duy nhất một quy phạm pháp luật.
Các dấu hiệu của văn bản quy phạm pháp luật, theo quy định của Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật là tương đối rõ. Nhưng tại sao, trên thực tế, chúng ta lại
luôn gặp khó khăn khi xác định một văn bản cụ thể là văn bản quy phạm pháp luật hay
văn bản cá biệt hoặc văn bản quản lý điều hành hành chính? Thực ra, những rắc rối
trong việc phân biệt văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản khác không nằm
trong các dấu hiệu của văn bản quy phạm pháp luật nêu trên và cũng không xuất phát
từ khái niệm của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật mà từ chính cách hiểu
thế nào là "quy phạm pháp luật" có trong các văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy, cần
phải tìm hiểu thêm các dấu hiệu đặc trưng của chính các quy phạm pháp luật này.
GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 6
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
2. Tìm hiểu về tiền lệ pháp luật
Tiền lệ pháp hay phép xét xử theo tiền lệ (án lệ) là một hình thức của pháp luật,
theo đó Nhà nước thừa nhận những bản án, quyết định giải quyết vụ việc của tòa án
(trong các tập san án lệ) làm khuôn mẫu và cơ sở để đưa ra phán quyết cho những vụ
việc hoặc trường hợp có tình tiết hay vấn đề tương tự sau đó. Tiền lệ pháp còn là quá
trình làm luật của toà án trong việc công nhận và áp dụng các nguyên tắc mới trong

quá trình xét xử.
Đây là một hình thức pháp luật chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật
Anh - Mỹ (Anglo- Sacxon). Hình thức này được sử dụng rộng rãi trên thế giới, là
nguồn chủ yếu và quan trọng trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trong Khối
Thịnh vượng chung Anh, bao gồm Anh, hầu hết các tiểu bang của Hoa Kỳ (ngoại trừ
tiểu bang Louisiana), Canada (ngoại trừ tỉnh bang Québec) và các thuộc địa trước kia
của Anh cũng như các lãnh thổ được ủy trị của Hoa Kỳ.
Trong hệ thống pháp luật Dân sự (Civil Law) hay còn gọi là Dân luật (như một số
nước Pháp, Đức, Ý…), hình thức này chỉ được coi là nguồn thứ yếu. Dù vậy, tiền lệ
pháp ngày càng có vai trò quan trong trong hệ thống Dân luật, đặc biệt là trong thời
đại toàn cầu hóa hiện nay, nhất là đối với lĩnh vực hợp đồng. Đối với nước Nga và các
nước Đông Âu, sau khi Liên bang Xô viết và các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
sụp đổ, tiền lệ pháp đã được công nhận như là một nguồn luật chính thức.
Ở Việt Nam, dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, tiền lệ pháp cũng được coi là một
nguồn trong lĩnh vực pháp luật dân sự. Trong khi đó, ở miền Bắc Việt Nam và sau này
là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiền lệ pháp không được thừa nhận
GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 7
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
là một nguồn chính thức. Nhưng thực tế nó vẫn tồn tại thông qua những biến tướng là
việc "hướng dẫn xét xử" của tòa cấp trên (để lấp những "lỗ hổng" pháp lý đang tồn
tại).
Hiện nay, đã có những tín hiệu khả quan cho thấy trong tương lai không xa, tiền lệ
pháp sẽ trở thành một nguồn luật chính thức, một hình thức pháp luật được công nhận.
Minh chứng cụ thể là việc Tòa án Nhân dân Tối cao đã xuất bản hai tuyển tập quyết
định giám đốc thẩm (về dân sự và hình sự) và chủ trương phát triển án lệ của Bộ
Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập với thế giới.
3. Tìm hiểu về tập quán pháp luật
Tập quán pháp là những tập quán được Nhà nước thừa nhận có giá trị pháp lý, trở
thành những quy tắc xử sự chung và được Nhà nước đảm bảo thực hiện . Khi Nhà

nước cần điều chỉnh một quan hệ xã hội, thông thường Nhà nước sẽ ban hành các quy
phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, quan hệ xã hội mà Nhà nước cần
điều chỉnh lại đang được điều chỉnh bởi các quy phạm tập quán. Vì thế, nếu những tập
quán này phù hợp với mục tiêu điều chỉnh các quan hệ xã hội của Nhà nước, nhiều
Nhà nước sẽ sử dụng phương pháp thừa nhận, làm cho tập quán đó trở thành quy tắc
xử sự có tính bắt buộc chung được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Như vậy, để được
coi là tập quán pháp thì bản thân quy phạm tập quán đó bắt buộc phải được Nhà nước
thừa nhận bằng một trong hai cách: hoặc thông qua một quy định mang tính nguyên
tắc cho mọi trường hợp , hoặc thông qua một quy định chi tiết cho từng trường hợp cụ
thể .
GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 8
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
II. Tìm hiểu về hệ thống pháp luật nước ta
Trong hệ thống văn bản pháp luật của nước ta, kể cả Hiến pháp, các bộ luật và văn
bản dưới luật thường có nhiều quy phạm pháp luật ghi nhận những giá trị, những
chuẩn mực đạo đức. Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: "Nghiêm trị mọi
hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân, xây dựng đất nước giàu
mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện". Ngoài ra, các bộ luật, như Bộ luật hình sự, Bộ luật
dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em đều được xây
dựng trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy,
có thể nhấn mạnh rằng, pháp luật vừa là công cụ hữu hiệu trong việc bảo tồn những
giá trị truyền thông, vừa góp phần bồi đắp nên những giá trị mới trong đó có ý thức
đạo đức. Việt Nam vốn là một nước kém phát triển, lại đang chuyển sang xây dựng
nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện như vậy, sự ít hiểu biết về pháp luật của một
bộ phận nhân dân cùng với những bất cập của hệ thống pháp luật đã dẫn đến tình
trạng vi phạm kỷ cương xã hội, coi thường pháp luật Nạn tham nhũng và các hành vi
làm ăn bất lương, vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật đang ngày càng gia tăng.
Những biểu hiện xuống cấp và suy thoái đạo đức, đặc biệt là "ở một bộ phận không

nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền" đang là nỗi bất bình
của toàn xã hội. Thực tế nhức nhối đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân do pháp luật chưa đầy đủ hoặc thiếu chặt chẽ và việc thi hành pháp luật
còn chưa nghiêm, chưa công bằng. Trong bối cảnh như vậy, luật pháp cần phải tỏ rõ
sức mạnh của mình để lập lại trật tự, kỷ cương. Bởi lẽ, nếu đạo lý không đủ mạnh để
thuyết phục thì pháp lý phải ra tay. Nếu dư luận xã hội chưa đủ độ để lên án thì luật
pháp phải kết án".
GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 9
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
Sắc lệnh:
Văn bản pháp quy của cơ quan hành pháp cao nhất, là văn bản dưới luật theo hệ
thống thang bậc văn bản do chủ tịch nước hay tổng thống ban hành. Ở Việt Nam, Hiến
pháp năm 1959, SL là văn bản hành pháp cao nhất do chủ tịch nước kí và ban hành.
Hiện nay, trong hệ thống các văn bản pháp luật của Việt Nam không có hình thức văn
bản là SL nữa
SẮC LUẬT:
Loại văn bản thuộc phạm vi luật pháp và có giá trị pháp lí như luật. SL được trình
Quốc hội hay Nghị viện thông qua để trở thành luật. Ở Việt Nam, Hiến pháp năm
1946 quy định, khi Quốc hội không họp, Ban Thường vụ có quyền biểu quyết thông
qua SL và SL đó phải đem trình Quốc hội vào phiên họp gần nhất để Quốc hội phê
chuẩn hoặc phế bỏ (điều 30, chương III). Hiến pháp 1959 và 1992 quy định, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội có quyền ra pháp lệnh. Từ đó trở đi, ở Việt Nam không dùng
thuật ngữ SL trong văn bản thuộc phạm vi luật. Xt. Pháp lệnh.
PHÁP LỆNH:
Văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan thường trực của Quốc hội ban hành. Theo
quy định (điều 91) của Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992),
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội “ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao”. PL
của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phải được quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành và phải được công bố chậm nhất là 15 ngày

kể từ ngày được thông qua. Quyền công bố PL thuộc về chủ tịch nước (điều 103, Hiến
pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992). Theo quy định của Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật, PL quy định về những vấn đề được Quốc hội
giao, sau một thời gian thực hiện trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành thành
luật (điều 21). Điều 47 Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định trình
GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 10
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
tự xem xét, thông qua dự án PL tại phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Sau
khi PL được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua, Chính phủ ban hành nghị định
quy định chi tiết thực hiện PL. Quyền giải thích PL thuộc về Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội.
LUẬT:
Một trong những loại văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất ban hành, điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội nhất định. Hiến pháp nước
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 quy định Quốc hội có thẩm quyền xây
dựng và sửa đổi L (mục 2, điều 84). Xét về hiệu lực thì L thấp hơn Hiến pháp và cao
hơn các văn bản quy phạm pháp luật khác như sắc lệnh, nghị định, vv. L phải được
ban hành phù hợp với Hiến pháp. Các văn bản quy phạm pháp luật khác phải được
ban hành phù hợp với Hiến pháp và L. Hiện nay, nhà nước ta đã ban hành nhiều L: L
thương mại, L giáo dục, L đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, vv.
Cần phân biệt L với tính cách là văn bản quy phạm pháp luật với L với tính cách là
ngành luật. Vd. luật hình sự, luật dân sự là thuật ngữ dùng để chỉ ngành luật hình sự,
ngành luật dân sự.
NGHỊ ĐỊNH:
Văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành, được quy định trong Hiến
pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, điều 115. NĐ của Chính
phủ bao gồm: a) NĐ quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của chủ tịch nước;
quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan

trực thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ thành lập;
các biện pháp cụ thể để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; b) NĐ quy
định những vấn đề quan trọng và hết sức cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện thành luật
GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 11
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lí nhà nước, quản lí kinh tế, quản lí xã hội.
Việc ban hành NĐ này của Chính phủ phải được sự đồng ý của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội.
QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÍ:
Chủ trương, chính sách, chương trình hành động do chủ thể quản lí (người lãnh
đạo cơ quan quản lí) định ra mà đối tượng quản lí phải thực hiện để giải quyết một
vấn đề của hệ thống quản lí, trên cơ sở hiểu biết các quy luật vận động khách quan của
đối tượng bị quản lí và phân tích các thông tin về hiện tượng của hệ thống. Là khâu
mấu chốt trong quá trình quản lí và mở đầu cho quy trình quản lí. Hiệu quả và hiệu
lực của ngành quản lí phần lớn phụ thuộc vào QĐQL. QĐQL phải bảo đảm các yêu
cầu: quy định rõ mục tiêu, chiều hướng phát triển của hệ thống và những biện pháp để
đạt được mục tiêu ấy; bảo đảm cung cấp những phương tiện vật chất, kĩ thuật để thực
hiện quyết định; phối hợp, bảo đảm liên kết mọi bộ phận của hệ thống thành một khối
ăn khớp trong hoạt động; cưỡng bức, động viên, bắt buộc mọi bộ phận phải tuân thủ
sự điều hành chung.
THÔNG TƯ:
Văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của bộ trưởng, thủ trưởng
cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, của Toà án Nhân dân Tối cao,
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao. Luật ban hành văn bản pháp luật quy định các cơ
quan này ban hành TT căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của chủ tịch nước,
nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của thủ tướng Chính phủ. TT
còn thể hiện dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan đó.
Thông Tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc

Chính phủ được ban hành để hướng dẫn thực hiện những quy định được luật, nghị
GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 12
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, lệnh,
quyết định của chủ tịch nước, nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị
của thủ tướng Chính phủ giao thuộc phạm vi quản lí ngành, lĩnh vực do mình phụ
trách. TT của viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao quy định các biện pháp để
bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân các cấp; quy
định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân
Tối cao. TT liên tịch giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được
ban hành để hướng dẫn thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của chủ tịch nước, nghị quyết, nghị
định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của thủ tướng Chính phủ có liên quan đến
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó.
GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 13
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
KẾT LUẬN
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là phương tiện
không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và
của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý Nhà nước hữu
hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành
mạnh hoá đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật
được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục đích xây dựng
một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ và phát triển các
giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức.
Qua bài tiểu luật chúng ta đã hiểu một phần nào đó về những quy phạm pháp
luật và hệ thống pháp luật của Việt Nam. Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy cô bộ

môn pháp luật đại cương đã nhiệt tình giúp đỡ chúng em hoàn thành bài tiểu luận này.
Xin chân thành cảm ơn!
GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 14
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
ĐÁNH GIÁ CỦA GVHD







DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
2. Báo pháp luật và đời sống
3. Trang web tailieu.vn
4. Bài giảng pháp luật đại cương
GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 15
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
I. Tìm hiểu về quy phạm pháp luật 2
1. Tìm hiểu về văn bản quy phạm pháp luật 5
2. Tìm hiểu về tiền lệ pháp luật 7
3. Tìm hiểu về tập quán pháp luật 8
II. Tìm hiểu về hệ thống pháp luật nước ta 9
KẾT LUẬN 14

GVHD: Lớp :
Sinh Viên TH: Trang: 16

×