Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tỷ giá và chính sách điều hành tỷ giá ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.56 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tỷ giá là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan đến các phạm trù kinh tế
khác và đóng vai trò như là một công cụ có hiệu lực, có hiệu quả trong việc tác động đến
quan hệ kinh tế của mỗi nước, đồng thời là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với chính sách
tiền tệ quốc gia. Đã bao thời nay, chúng ta đã và đang tiếp tục đứng trước một vấn đề có
tầm quan trọng đặc biệt này và cố gắng tiếp cận nó, mong tìm ra một nhận thức đúng đắn
để từ đó xác định và đưa vào vận hành trong thực tế một tỷ giá hối đoái phù hợp, nhằm
biến nó trở thành một công cụ tích cực trong quản lý nền kinh tế ở mỗi nước.
Tỷ giá bị chi phối bởi nhiều yếu tố và rất khó nhận thức, xuất phát từ tính trừu
tượng vốn có của bản thân nó. Tỷ giá là cái mà con người cần phải tiếp cận hàng ngày,
hàng giờ, sử dụng nó trong mọi quan hệ giao dịch quốc tế, trong việc xử lý những vấn đề
cụ thể liên quan đến các chính sách kinh tế trong nước và quốc tế. Và do vậy, nhận thức
một cách đúng đắn và sử lý một cách phù hợp một cách tỷ giá hối đoái là hết sức cần
thiết.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, khi mà quá trình quốc tế hoá đã bao
trùm tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và trong cuộc sống, thì sự gia tăng của hợp
tác quốc tế nhằm phát huy và sử dụng những lợi thế so sánh của mình đã làm cho việc
quản lý đời sống kinh tế của đất nước và là mối quan tâm đặc biệt của chính phủ các
nước trong quá trình phục hưng và phát triển kinh tế. Điều đó càng làm cho việc điều
chỉnh chính sách tỷ giá trở nên quan trọng. Cũng chính vì thế mà nhóm 01 đã lựa chọn
nghiên cứu đề tài: “ Tỷ giá và chính sách điều hành tỷ giá ở Việt Nam hiện nay”.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ VÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
1.1. Định nghĩa và phân loại tỷ giá
1.1.1 Khái niệm
Tỷ giá là giá cả của một đồng tiền này được biểu thị thông qua một số đơn vị của
đồng tiền khác.
Ví dụ:
1USD = 21.200 VND
1EUR = 1,7 USD
1.1.2 Phân loại
Dựa vào những căn cứ khác nhau người ta chia ra nhiều loại tỷ giá khác nhau:


a) Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được chia ra làm hai loại:
- Tỷ giá điện hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm
chuyển ngoại hối bằng điện( telegraphic transfer -T/T)
- Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm
chuyển ngoại hối bằng thư ( mail transfen M/T)
b) Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái chia ra các loại
- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do nhà Nước công bố được hình thành trên cơ sở
ngang giá vàng.
- Tỷ giá tự do là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường do quan hệ cung cầu
qui định .
- Tỷ giá thả nổi là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường và nhà nước không
can thiệp vào sự hình thành và quản lý tỷ giá này.
- Tỷ giá cố định là tỷ giá không biến động trong phạm vi thời gian nào đó.
c) Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá được chia ra các loại:
- Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ. Tỷ giá hối phiếu trả tiền
ngay là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ hạn bằng ngoại tệ.
- Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó việc chuyển khoản
ngoại hối không phải bằng tiền mặt, bằng cách chuyển khoản qua ngân hàng.
- Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển trả ngoại hối bằng
tiền mặt.
d) Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối:
- Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá vào đầu giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối
của chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.
- Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá vào cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối
của chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày.
- Tỷ giá giao nhận ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại
hối sẽ được thực hiện chậm nhất trong 2 ngày làm việc.
- Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận
ngoại hối sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong hợp đồng(có thể
là 1,2,3 tháng sau).

e) Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng tỷ giá chia ra làm hai
loại:
- Tỷ giá mua: là tỷ giá mà ngân hàng mua ngoại hối vào.
- Tỷ giá bán: là tỷ giá mà ngân hàng bán ngoại hối ra.
1.2 Các chế độ tỷ giá
1.2.1 Tỷ giá hối đoái cố định bản vị vàng
Theo chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái được qui định căn cứ vào hàm lượng vàng
của các đồng tiền. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại, khi thương mại quốc tế
tăng lên cùng với hoạt động đầu cơ, chế độ bản vị vàng này không đáp ứng được nhu cầu
phát triển và các nước thôi áp dụng từ năm 1971.
1.2.2 Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp
Loại tỷ giá hối đoái này được áp dụng tại các nước Xã hội chủ nghĩa thời kỳ kinh tế
kế hoạch hoá tập trung. Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp thường chênh lệch nhiều lần so
với tỷ giá hối đoái thị trường, không có vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô đối với xuất
nhập khẩu, loại tỷ giá hối đoái này được áp dụng tại Việt Nam trước năm 1989.
1.2.3 Tỷ giá hối đoái thả nổi tự do
Theo chế độ tỷ giá hối đoái này, mức tỷ giá hối đoái được quyết định hoàn toàn bởi
các lực lượng cung cấp cầu về ngoại tệ. Trong hệ thống này chính phủ giữ thái độ thụ
động, để cho thị trường ngoại tệ đánh giá giá trị của ngoại tệ - loại tỷ giá hối đoái này ít
được áp dụng vì các thị trường tiền tệ thường không hoàn hảo và do vậy luôn cần có vai
trò can thiệp của nhà nước.
1.2.4 Tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết
Theo chế độ này, chính phủ không cam kết duy trì một tỷ lệ cố định với ngoại tệ, mà
thả nổi đồng tiền của mình và có biện pháp can thiệp mỗi khi thị trường trở nên mất trật
tự , hoặc khi tỷ giá hối đoái đi chệch xa mức thích hợp loại tỷ giá hối đoái này hiện đang
được áp dụng tại các nước Tư Bản Chủ Nghĩa, nơi mà lạm phát đạt thấp, các thị trường
phát triển ở trình độ cao.
1.2.5 Tỷ giá hối đoái ổn định có điều tiết
Theo chế độ này, chính phủ không để ngoại tệ trôi nổi tự do, mà can thiệp vào thị
trường ngoại tệ bằng cách mua bán ngoại tệ nhằm ổn định tỷ giá qui định. Sau mỗi thời

gian nhất định, mức tỷ giá hối đoái lại được điều chỉnh cho phù hợp và duy trì ổn định.
1.3 Chính sách tỷ giá
1.3.1 Khái niệm và hệ thống chính sách tỷ giá
Chính sách tỷ giá là tổng thể các nguyên tắc công cụ biện pháp được nhà nước điều
chỉnh tỷ giá của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt mục tiêu đã định trong
chiến lược phát triển của quốc gia đó.
Chính sách tỷ giá là cơ chế điều hành tỷ giá và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm
đạt được mức tỷ giá nhất định để tỷ giá tác động tích cực đến các hoạt động kinh tế xã hội
của quốc gia
Để quản lý và điều hành tỷ giá NHTW thường sử dụng các chính sách chủ yếu sau:
- Chính sách chiết khấu: khi NHTW nâng cao lãi suất chiết khấu làm lãi suất trên thị
trường tăng, làm các nguồn vốn ngắn hạn trên thị trường quốc tế chạy vào nước mình để
thu lợi tức cao làm dịu sự căng thẳng của cầu vượt cung ngoại hối do đó làm tỷ giá giảm
xuống và ngược lại.
- Chính sách hối đoái: khi tỷ giá lên cao NHTW bán ngoại hối ra thị trường kéo tỷ giá tụt
xuống và ngược lại. Tuy nhiên NHTW phải có dự trữ ngoại hối đủ lớn, nếu cán cân thanh
toán thiếu hụt thường xuyên thì khó có đủ ngoại hối thực hiện phương pháp này.
- Phá giá tiền tệ: là sự nâng cao một cách chính thức tỷ giá hay là việc nhà nước hạ thấp
sức mua đồng tiền nước mình so với ngoại tệ làm đẩy mạnh xuất khẩu hạn chế nhập khẩu
cải thiện cán cân thương mại làm tỷ giá bớt căng thẳng.
- Nâng giá tiền tệ: là việc Nhà nước chính thức nâng giá đơn vị tiền tệ nước mình so với
ngoại tệ làm cho tỷ giá giảm xuống.
1.3.2 Các công cụ của Chính sách tỷ giá
a. Nhóm công cụ trực tiếp
NHTW thông qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định hay
ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định theo mục tiêu đã đề ra. Hoạt
động can thiệp trực tiếp của ngân hàng trung ương tạo ra hiệu ứng thay đổi cung tiền có
thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát không mong muốn cho nền kinh tế vì vậy đi kèm
hoạt động can thiệp này của NHTW thì phải sử dụng thêm nghiệp vụ thị trường mở để hấp
thụ lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ ở lưu thông.

Nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ được thực hiện thông qua việc NHTW tham gia
mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ. Một nghiệp vụ mua ngoại tệ trên thị trường của
NHTW làm giảm cung ngoại tệ do đó làm tăng tỷ giá hối đoái và ngược lại. Do đó đây là
công cụ có tác động mạnh lên tỷ giá hối đoái.
Nghiệp vụ thị trường mở nội tệ là việc NHTW mua bán có chứng từ có giá. Tuy
nhiên nó chỉ tác động gián tiếp đến tỷ giá mà lại có tác động trực tiếp đến các biến số kinh
tế vĩ mô khác (lãi suất, giá cả). Nó được dùng phối hợp với nghiệp vụ thị trường mở ngoại
tệ để khử đi sự tăng, giảm cung nội tệ do nghiệp vụ thị trường!mở gây ra.
Ngoài ra Chính phủ có thể sử dụng biện pháp can thiệp hành chính như biện pháp
kết hối, quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế mục đích sử
dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ, quy định hạn chế thời gian mua
ngoại tệ, nhằm giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và giữ cho tỷ giá ổn định.
b. Nhóm công cụ gián tiếp
Lãi suất tái chiết khấu là công cụ hiệu quả nhất. Cơ chế tác động đến tỷ giá hối đoái
của nó như sau: Khi lãi suất chiết khấu thay đổi kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi
suất trên thị trường. Từ đó tác động đến xu hướng dịch chuyển của dòng vốn quốc tế làm
thay đổi tài khoản vốn hoặc ít nhất làm cho người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi đồng
vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi vốn của mình
sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Cụ thể lãi suất
tăng dẫn đến xu hướng là một dòng vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ đổ vào
trong nước và người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ có xu hướng chuyển đồng ngoại tệ
của mình sang nội tệ để thu lãi suất cao hơn do đó tỷ giá sẽ giảm (nội tệ tăng) và ngược lại
muốn tăng tỷ giá sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu.
Muốn giảm tỷ giá hối đoái thì Chính Phủ có thể quy định mức thuế quan cao, quy
định hạn ngạch và thực hiện trợ giá cho những mặt hàng xuất khẩu chiến lược. Và ngược
lại sẽ làm tăng tỷ giá hối đoái.
Ngoài ra Chính Phủ có thể sử dụng một số biện pháp khác như điều chỉnh tỷ lệ dự
trữ bắt buộc bằng ngoại tệ với NHTW, quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền
gửi bằng ngoại tệ. Mục đích là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, hạn chế đầu cơ ngoại tệ, làm giảm
áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối.

CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM
2.1 Cơ chế điều hành tỷ giá Việt Nam
Trong quan hệ với các nước thuộc khối XHCN trước đây, tỷ giá của Việt Nam
được tính theo đồng Rúp clearing (sau này đổi là rúp chuyển khoản- transferable ruble)
đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước thuộc khối XHCN tự quy
định với nhau để làm sao cho tài khoản các bên, sau khi trao đổi ngoại thương theo khối
lượng đã được quy định trong hiệp định ký kết vào đầu năm thì cuối năm không còn số
dư.
Đặc trưng của chế độ tỷ giá Việt nam trong thời kỳ này là cố định, đã bộc lộ nhiều
mặt bất hợp lý, nó không những không thể hiện vai trò điều tiết tỷ giá hối đoái trong việc
cân bằng cán cân thanh toán, điều tiết tái sản xuất mà còn kìm hãm các hoạt động kinh tế
đối ngoại của nước ta là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trì trệ kinh tế trong một thời gian
dài.
Từ năm 1989 trở về sau cho đến nay, nhà nước ta đã có những chủ trương và giải
pháp đổi mới trong quan hệ đối ngoại, và chính sách tỷ giá đã từng bước xoá bỏ cơ chế
độc quyền ngoại thương, cho phép các tổ chức kinh tế được phép xuất nhập khẩu trực
tiếp với nước ngoài. Số lượng các công ty được trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu
không ngừng tăng lên, cùng với việc mở rộng ngoại thương chế độ tỷ giá cũng có những
thay đổi căn bản; chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới bản thân cơ chế điều hành tỷ
giá hối đoái đã được nhanh chóng thay đổi phù hợp với bối cảnh thực tế. Từ một cơ chế
đa tỷ giá, mang nặng tính chủ quan bao cấp, xa rời với thị trường; tỷ giá hối đoái đã được
điều chỉnh theo các quan hệ và điều kiện của các quy luật kinh tế thị trường. Cơ chế một
tỷ giá linh hoạt, có sự điều tiết của nhà nước đã phát huy được vai trò vừa là một phạm
trù kinh tế vận động theo quy luật cung cầu của nền kinh tế vừa là một công cụ điều tiết
vĩ mô quan trọng của nhà nước. Nhà nước đã áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt có sự
quản lý của nhà nước nhưng việc điều hành của nhà nước trong từng năm có khác nhau,
ta có thể chia ra 3 giai đoạn:
2.1.1 Giai đoạn thả nổi tỷ giá: 1989-1993
Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái VND/USD thể hiện qua bảng 1 dưới đây:
Bảng 1: Tỷ giá và lạm phát của Việt nam qua các năm 1989-1993

Năm
Tỉ giá USD/VND
Lạm phát
Giá chính thức
của nhà nước
Giá thị trường
tự do
Tăng giảm %
1989 4.200 4.570 +8.80 +34.070
1990 6.650 7.550 +13.50 +67.50
1991 12.720 12.550 -0.02 +68.00
1992 10.720 10.500 -0.02 +17.50
1993 10.835 10.736 -0.01 +5.20
Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, tỷ giá VND/USD qua các năm có biến động
lên xuống. Tuy nhiên tổng quát mà nói, trong khoảng thời gian này, tỷ giá VND/USD có
khuynh hướng tăng và được nhà nước điều chỉnh sát với giá thị trường tự do, điều này
chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu ngoại tệ đã được quan tâm
đầy đủ hơn, tuy nhiên sự thả nổi tỷ giá đã:
- Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá.
- Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên những cơn
sốc USD làm mất ổn định nền kinh tế.
- Quản lý ngoại tệ của chính phủ không đạt được kết quả như mong muốn.
- Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Tình trạng leo thang của giá
đồng Đôla đã kích thích tâm lý dự trữ Đôla. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được
dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong
nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại kết quả, thậm chí có những
quyết định của chính phủ về quản lý ngoại tệ đã bị mất hiệu lực ngay khi vừa mới công
bố. Giai đoạn này, ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
Trước tình hình đó, từ năm 1992 chính phủ đã chọn con đường thay đổi cách quản
lý ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái VND/USD. Nội dung chính của

những thay đổi về chính sách và cơ chế nêu trên là:
- Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vị kinh tế quốc doanh có ngoại
tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định bằng biện pháp kinh tế: mở trung tâm
giao dịch ngoại tệ để cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi mua bán ngoại tệ
với nhau theo giá thoả thuận.
- Bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa
ngân sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất nhập khẩu. Thay vào đó, trên cơ sở tỷ
giá hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ, ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá
chính thức. Cơ chế hình thành và quản lý tỷ giá hối đoái mềm dẻo như vậy cộng với
sự can thiệp điều tiết của ngân hàng nhá nước đối với lượng ngoại tệ mua bán tại các
phiên giao dịch đã giải toả được tâm lý đầu cơ ngoại tệ, ngăn được xu hướng tăng quá
mức giá Đôla Mỹ trên thị trường. Từ tháng 3/1992 giá USD bắt đầu giảm.
2.1.2 Giai đoạn cố định tỷ giá 1993 - 1996:
Bảng 2: Lạm phát và tỷ giá Việt nam qua các năm 1993-1996
Năm Tỉ giá USD/VND So sánh % năm
trước
Tốc độ lạm phát (%)
1993 10.835,00 100% 5.2
1994 11.050,00 +1.98% 14.7
1995 11.040,00 0% 12.7
1996 11.060,00 +0.18% 4.5
(số liệu lấy từ tập san khoa học ngân hàng tháng 7/1995 đến tháng 12/1995 và từ số
1/1996 đến tháng 12/1996 và từ tháng 1/1997 đến tháng 12/1997)
Do tỷ giá chính thức của nhà nước và tỷ giá thị trường tự do trong thời gian này
không chênh lệch nhiều nên chúng ta chọn tỷ giá chính thức của nhà nước làm cơ sở tính
toán. qua bảng số liệu (bảng 2), chúng ta thấy tốc độ tăng tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc độ
tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào quan hệ cung cầu ngoại tệ, vào cụm các nhân tố đối
ngoại.
Việc duy trì tỷ giá ổn định trong thời gian dài (1993 - 1996) đã không khuyến
khích được xuất khẩu đã làm cho ngoại thương kém phát triển biểu hiện cụ thể qua bảng

3 sau đây:
Bảng 3: Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm (đơn vị tính: triệu USD)
Năm Xuất khẩu Nhập khẩu So sánh
1 2 3 4=3-2
1993 2.985 3.924 -939
1994 4.054 5.825 -1.771
1995 5.448,9 8.155,4 -2.706,5
1996 7.255 11.143 -3.888
(số liệu lấy từ nguồn thời báo kinh tế Sài gòn của UBND Thành phố HCM
qua các năm 1996-1997-1998)
Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động xấu đến xuất khẩu và
khuyến khích nhập khẩu, gây thâm hụt cán cân thương mại dẫn tới tình trạng hoặc phải
tiêu giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, hoặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân
thanh toán. Tuy cơ cấu nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập máy móc thiết bị công nghệ
này càng tăng, nhưng nhập siêu vẫn kéo dài làm đất nước lún sâu vào nợ nần, khó khăn
cho nền tài chính quốc gia.
Trở lại bảng 2, ta thấy qua 4 năm phát triển kinh tế đất nước (1993 - 1996) tốc độ
lạm phát tăng tổng cộng là 36,8% trong khi tỷ giá VND so với USD chỉ tăng 2% đưa đến
thực tế giá bán hàng nội địa đã tăng trên 30% so với hàng nhập ngoại. Hàng nhập ngoại
đã trở nên rẻ hơn và được nhập vào thị trường nước ta với số lượng lớn cạnh tranh với
hàng nội địa, thể hiện qua sự gia tăng thâm hụt cán thương mại quốc tế của nước ta trong
những năm 1993-1996 từ nhập siêu 939 triệu USD năm 1993 lên 1,7 tỷ USD năm 1994
lên 2,7 tỷ USD năm 1995 lên 3,8 tỷ USD năm 1996 .
Đứng trước tình hình đó, ngay từ năm 1997 cho đến nay nhà nước đã có những chỉ
đạo:
+ Chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời tình trạng mở LC thanh
toán tràn lan và cuối năm 1996 thông qua khống chế mức mở LC At Sight là chủ yếu,
hạn chế mở LC trả chậm, xem xét cho nhập khẩu những mặt hàng cần thiết chủ yếu là
những mặt hàng về tư liệu sản xuất, dựa vào huy động vốn trung và dài hạn ngày càng
được nâng cao và huy động vốn bằng mọi biện pháp thông qua mức ký quỹ bắt buộc.

+ Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường.
2.1.3 Giai đoạn điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước từ
năm 1997 đến nay.
Giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng cũng như thị trường ngoại tệ nói
chung bị giảm sút. Thực tế sáu tháng cuối năm 1997 nhu cầu mua ngoại tệ luôn cao hơn
nhu cầu bán ngoại tệ và hoạt động của thị trường lúc ngưng trệ. Doanh số mua 6 tháng
cuối năm 1997 đạt 2,5 tỷ USD, giảm 5% so với 6 tháng đầu năm 1997, doanh số bán đạt
2,6 tỷ USD giảm 1% so với 6 tháng đầu năm 1997, nhiều doanh nghiệp không mua được
ngoại tệ đã phải mua với giá cao và chịu lỗ rất lớn do tỷ giá tăng đột biến. Ngoại tệ tăng
giá mạnh đã làm tăng nhu cầu vay vốn VNĐ do lãi xuất thấp hơn và không chịu rủi ro về
tỷ giá đã gây mất cân đối cung cầu VNĐ trên thị trường.
Nhà nước ta đã mở rộng liên độ giao dịch của các Ngân hàng thương mại từ 1%
đến 5% rồi đến 10%. Những giải pháp này cũng đã kịp thời góp phần giảm sức ép đối với
tỷ giá hối đoái VNĐ.
Nhìn lại chặng đường đã qua có thể nói rằng năm 1997 là năm có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong tiến trình đổi mới và phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, một
năm với những khó khăn và thử thách trên hầu hết các lĩnh vực Mặc dù có những tổn thất
mất mát nhưng hoạt động Ngân hàng vẫn tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng,
tạo đà thúc đẩy sự phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong những năm tiếp
theo. Những kết quả nổi bật này được thể hiện qua một số nội dung. Góp phần kiềm chế
lạm phát ở mức thấp, nhưng vẫn đảm bảo duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức nhất định.
- Ngân hàng nhà nước đã chủ động tham mưu cho chính phủ trong việc điều hành
lượng tiền cung ứng trong từng thời kỳ thích hợp nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của nền
kinh tế.
Chính sách tỷ giá đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt, một mặt tạo điều kiện
cho giá trị VNĐ phản ánh tương đối xác thực cung cầu ngoại tệ, góp phần kiềm chế lạm
phát, một mặt đáp ứng khả năng hỗ trợ xuất khẩu mặc dù giá cao xu giảm 42% dầu thô
giảm 30% giầy da và may mặc cũng đang giảm mạnh, riêng mặt hàng gạo trong năm qua
bị thiên tai, lũ lụt do cơn bão số 5 gây ra nhưng ta vẫn cố gắng khắc phục và nhanh chóng
duy trì việc xuất khẩu gạo.

-Nguyên nhân nhập siêu trong thời gian qua là do Ngân hàng điều chỉnh tỷ giá bị
đông cứng, đúng là tỷ giá có tác động lớn đến xuất nhập khẩu bởi nó là giá cả của hoạt
động mua ( nhập khẩu ) và hoạt động bán 9 xuất khẩu). Tỷ giá đứng ( trên thực tế là giảm
so với biến động giá trong nước ) làm cho bán cũng rẻ mà mua cũng rẻ. Bán rẻ sẽ không
khuyến khích bán, mua rẻ sẽ khuyến khích mua. Mua thì được khuyến khích, bán thì bị
hạn chế, do đó đưa đến tình trạng nhập siêu. Ngoài ra còn nguyên nhân khác nữa là định
hướng xuất khẩu yếu, tình trạng nhập lậu tràn lan, trốn thuế chưa được quản lý chặt.
2.2 Ưu điểm và nhược điểm trong cơ chế điều hành
2.2.1 Lợi thế
Cơ chế điều hành tỷ giá trên qui định tỷ giá chính thức tạo điều kiện cho Ngân
hàng trung ương dễ dàng kiểm soát, điều tiết được thị trường hối đoái. Trước hết là thị
trường ngoại tệ trên Ngân hàng. Biên độ giao động quanh tỷ giá chính thức là một công
cụ hữu hiệu trong suốt giai đoạn vừa qua giới hạn này mà chúng ta đã đạt sự ổn định
tương đối của tỷ giá hối đoái trong những năm qua, góp phần không nhỏ để đạt mục tiêu
ổn định và tăng trưởng cho nền kinh tế.
- Thông qua tỷ giá của các Ngân hàng thương mại trong biên độ qui định. Ngân
hàng Nhà nước có thể dễ dàng nắm bắt được diễn biến cung - cầu ngoại tệ thực tế của
nền kinh tế, nhận biết được xu hướng vận động của tỷ giá hối đoái để có kế hoạch điều
chỉnh kịp thời. Qui định chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán cho các Ngân hàng
Thương mại, ở một mức độ nào đó, hạn chế khả năng đầu cơ tỷ giá của các Ngân hàng
tránh trường hợp tỷ giá mua và tỷ giá bán quá chênh lệch.
- Cơ chế tỷ giá thống nhất đã tạo ra một môi trường pháp lý vững chắc cho các
hoạt động kinh tế - thương mại trong tổng hoá các mối quan hệ của nền kinh tế. Đồng
thời tỷ giá chính thức tạo ra được một cơ sở pháp lý, mang tính chủ quyền cho đồng tiền
Việt Nam trong các quan hệ đối ngoại.
2.2.2 Nhược điểm
- Cơ chế công bố tỷ giá chính thức hàng ngày theo phương pháp hiện tại, đôi lúc
tỏ ra có nhiều khó khăn trong việc hướng thị trường, vận động theo mục tiêu Ngân hàng
Trung ương đặt ra. Trước những biến động của tỷ giá thị trường, việc thay đổi tỷ giá
chính thức ở một chừng mực nào đó không thể giải quyết ngay lập tức biên độ để cho

phép các Ngân hàng Thương mại hoạt động kinh doanh. Bởi lẽ nếu thay đổi tỷ giá chính
thức lớn sẽ gây ra những yếu tố tâm lý sai lệch về chính sách của Ngân hàng Trung ương.
Bên cạnh đó, Ngân hàng trung ương cũng không thể thay đổi biên độ quy định giới hạn
tỷ giá mua bán của các Ngân hang Trung ương thường xuyên được.
- Việc qui định một mức tỷ giá chính thức như hiện nay. Khi mức chênh lệch
tương đối lớn với tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng Trung ương, và tỷ giá thị trường tự
do, không có ý nghĩa thực tế. Một mặt sự chênh lệch trên gây ra những yếu tố tâm lý,
không tích cực bởi không phải người dân nào cũng hiểu được cơ chế quản lý tỷ giá hối
đoái của ta. Mặt khác, khi tỷ giá giao dịch của các Ngân hang Thương mại và tỷ giá thị
trường tự do ổn định trong biên độ qui định, thì việc công bố tỷ giá chính thức hàng ngày
cách xa mức tỷ giá trung bình, trên thực tế không thể hiện vai trò quản lý của nó.
- Việc qui định một mức tỷ giá chính thức như hiện nay, khi mức chênh lệch
tương đối lớn với tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng Thương mại và tỷ giá thị trường tự
do, không có ý nghĩa thực tế. Một mặt, sự chênh lệch trên gây ra những yếu tố tâm lý
không tích cực bởi không phải người dân nào cũng hiểu được cơ chế quản lý tỷ giá hối
đoái của ta. Mặt khác, khi tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng thương mại và tỷ giá thị
trường tự do ổn định trong biên độ qui định thì việc công bố tỷ giá chính thức hàng ngày
cách xa tỷ giá trung bình, trên thực tế không thể hiện vai trò của nó.
- Việc sử dụng tỷ giá chính thức như hiện nay để tính thuế xuất nhập khẩu tỏ ra
còn có nhiều điểm chưa hợp lý, chưa thể hiện được vai trò quản lý vĩ mô và điều tiết đối
với hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi lẽ khi tỷ giá chính thức cách biệt với tỷ giá giao dịch
của các Ngân hàng Thương mại và tỷ giá thị trường tự do, thì tỷ giá tính thuế sẽ bị hạn
chế rất lớn trong vai trò điều tiết lợi nhuận thu được từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu.
Chênh lệch về tỷ giá này sẽ tạo ra bất bình đẳng trong quan hệ thương mại, một số trường
hợp không tạo được lợi thế trong cạnh tranh đối ngoại và khuyến khích xuất khẩu.
- Với biên độ giao dịch trong phạm vi 5% hiện nay việc qui định mức chênh lệch
giữa tỷ giá mua và bán tỏ ra chưa hoàn toàn hợp lý đối với
các Ngân hàng Thương mại. Thứ nhất, khi thị trường hối đoái có tính chất động, luôn
thay đổi, trong khi đó các giao dịch lại liên tục diễn ra, nên qui định mức chênh lệch chỉ
thể hiện mặt quản lý danh nghĩa, Ngân hàng Thương mại khó có thể tuân thủ đúng qui

định này được. Thứ hai, khung qui định chênh lệch như vậy là tương đối chặt chẽ đối với
hoạt động kinh doanh. Bởi lẽ các Ngân hàng Thương mại đã phải xác định chênh lệch .tỷ
giá mua, bán phải tuỳ theo vào cung - cầu của mỗi Ngân hàng, tuỳ thuộc vào khả năng dự
tính về lợi nhuận và khả năng của mỗi Ngân hàng. Thực chất qui định chênh lệch tỷ giá
mua bán quá chặt chẽ như vậy không khuyến khích hoạt động trên thị trường theo đúng
các quan hệ nội tại của nó và phần nào không tạo ra một môi trường cạnh tranh hoàn hảo
trong kinh doanh.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CHO CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM
3.1. Định hướng chính sách tỷ giá hối đoái trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Bước sang thế kỷ 21, xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên
mạnh mẽ. Sự hội nhập quốc tế của kinh tế Việt Nam thông qua cơ chế thị trường mở là
nhu cầu khách quan và tất yếu, từ đó đặt ra yêu cầu cấp bách về cải cách thể chế và pháp
luật, hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô nói chung, và chính sách tỷ giá hối đoái nói riêng.
Những năm vừa qua, chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam đã đạt được một số
thành tựu bước đầu, đặc biệt trong việc ổn định sức mua đối nội và đối ngoại của đồng
Việt Nam, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện cán cân thương mại và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các nhân tố trong cơ chế
thị trường ngày càng phát huy tác dụng thì cơ chế điều hành chính sách tỷ giá hối đoái như
hiện nay mặc dù đã hoàn thiện căn bản, phù hợp với hướng phát triển thị trường mở nhưng
vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện hơn trong thời gian tới. Để góp phần khai thác tối đa
những lợi ích và giảm thiểu những rủi ro từ hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách tỷ giá hối
đoái Việt Nam trong thời gian tới cần hoàn thiện theo những định hướng cơ bản sau:
3.1.1. Chính sách tỷ giá phải được điều chỉnh linh hoạt và theo hướng thị
trường hơn.
Việt Nam đang trong quá trình mở cửa và hội nhập, việc cam kết thực hiện các
điều kiện của tự do hóa thương mại đòi hỏi phi cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế
quan, cùng với sự nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Khi tham gia vào thị trường
quốc tế, các nhà sản xuất của Việt Nam sẽ gặp phải sự cạnh tranh mãnh liệt từ các nhà
cung ứng nước ngoài. Với tư cách là nước đi sau, mới tham gia vào thị trường quốc tế,
nhiều doanh nghiệp có thể đứng trước nguy cơ phá sản nếu như không có một sự bảo hộ

cần thiết để thích ứng dần với điều kiện mới. Do vậy, tỷ giá phải được điều chỉnh để phát
huy vai trò tích cực trong việc bảo hộ một cách hợp lý các doanh nghiệp trong nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các chính sách nói chung và chính sách tỷ giá nói
riêng phải điều chỉnh linh hoạt thích ứng với môi trường quốc tế thường xuyên thay đổi,
giảm thiểu các cú sốc bất lợi bên ngoài tác động đến nền kinh tế nội địa, đồng thời hướng
tới một tỷ giá thị trường, là sản phẩm của quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại
hối. Việc tăng tính linh hoạt của tỷ giá sẽ giúp đối phó được với các cú sốc từ bên ngoài và
có được sự kiểm soát tốt hơn đối với các điều kiện tiền tệ trong nước.
Quan điểm chung trong việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái là cần phải đẩy
mạnh quá trình tự do hóa tỷ giá hối đoái, tiến tới tỷ giá hối đoái sẽ phải do thị trường quyết
định. Thay vì sử dụng các công cụ, biện pháp hành chính như trong cơ chế tập trung, quan
liêu, bao cấp, trong thời gian tới, Chính phủ phải chủ yếu sử dụng các công cụ, các cơ chế
gián tiếp để điều tiết thị trường ngoại hối. Nhà nước cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết
(dự trữ ngoại hối, pháp lý…) và xác định rõ mục tiêu điều chỉnh tỷ giá hối đoái để có
những công cụ hoặc biện pháp điều tiết hữu hiệu, can thiệp đúng lúc.
3.1.2. Chính sách tỷ giá Việt Nam điều chỉnh theo hướng tách rời sự neo buộc
vào đồng USD.
Hiện nay, NHNN Việt Nam thông báo tỷ giá USD/VND một ngày một lần, còn
đối với hơn 20 loại ngoại tệ khác thì thông báo 10 ngày một lần và được tính chéo qua
USD. Điều này chứng tỏ đồng Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào đồng Đôla Mỹ.
Việc đồng Việt Nam neo vào đồng đôla Mỹ có thuận lợi vì đồng đôla Mỹ là một
trong những đồng tiền chủ yếu sử dụng trong thanh toán quốc tế, do đó làm đơn giản hoá
việc xác định tỷ giá đồng Việt Nam với các ngoại tệ khác. Điều này có tác dụng tích cực
khi giá trị đồng đôla Mỹ ổn định trên thị trường tài chính quốc tế. Tuy nhiên, không phải
lúc nào đồng đôla Mỹ cũng ổn định. Do sự phụ thuộc như vậy nên chỉ cần đồng đôla Mỹ
lên giá so với các ngoại tệ khác thì đồng Việt Nam cũng lên giá theo, dẫn đến giảm xuất
khẩu, tăng nhập khẩu, góp phần làm cho cán cân tài khoản vãng lai bị thâm hụt lớn.
NHNN nên xác định cơ cấu “rổ” ngoại tệ để xác định tỷ giá VND với các ngoại tệ
khác khách quan hơn, tránh sự lệ thuộc vào USD; tiến tới xác định và công bố tỷ giá
trung bình của VND với cả rổ ngoại tê.

3.2. Giải pháp chính sách tỷ giá hối đoái Việt Nam
3.2.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng nhà nước trên thị trường
ngoại hối.
Trong những năm gần đây, nhờ áp dụng cơ chế quản lý tỷ giá mới của Ngân hàng
nhà nước mà thị trường ngoại hối Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể. Sự thành công
của cơ chế mới thể hiện ở tỷ giá USD/VNĐ, cả trên thị trường chính thức và thị trường tự
do đã đạt đến trạng thái ổn định, ít biến động. Tình hình đó đã tác động tích cực đến hoạt
động xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, kiềm chế lạm phát… NHNN
đã có những can thiệp đúng lúc và hiệu quả, có thể nói là đã có vai trò lớn trong việc bình
ổn thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, vẫn còn có những rào cản cứng nhắc, những văn bản
pháp quy về điều hành tỷ giá chưa phù hợp, chồng chéo, NHNN vẫn cần phải có những
thay đổi tích cực hơn nữa tiến tới một cơ chế TGHĐ linh hoạt, theo hướng thị trường. Cụ
thể về các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của NHNN như sau:
+ NHNN tiếp tục và nhất quán thực hiện chủ trương điều hành tỷ giá linh hoạt, theo
hướng thị trường, chủ động can thiệp khi cần thiết.
Với vai trò là NHTW, hiện nay NHNN quản lý thị trường ngoại tệ chủ yếu thông
qua can thiệp mua bán, công bố tỷ giá bình quân giao dịch liên ngân hàng, quy định trần
tỷ giá giao ngay, tỷ lệ % gia tăng của tỷ giá kỳ hạn và các biện pháp quản lý ngoại hối.
Trong giai đoạn trước mắt thì các biện pháp này còn cần thiết, nhưng cần phải nới lỏng
từng bước vì các biện pháp này không phải lúc nào cũng hiệu quả, đôi khi lại trở thành
lực cản cho sự phát triển thị trường ngoại hối. Nhà nước không thể thay được vai trò của
thị trường ngoại hối trong xu thế hội nhập, mà Nhà nước chỉ can thiệp bằng các công cụ,
nghiệp vụ của mình, tránh xảy ra các cú sốc cho nền kinh tế.
Trước mắt, có thể nới ngay biên độ dao động từ mức ±0.25% lên ±0.5%, đồng thời
bỏ mức trần tỷ giá kỳ hạn. Điều này sẽ tạo điều kiện để các NHTM yết tỷ giá cạnh tranh
và tăng mức độ khách quan của tỷ giá. Về lâu dài, NHNN nên dỡ bỏ biên độ dao động và
không trực tiếp ấn định tỷ giá, mà chỉ tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối để tỷ
giá biến động có lợi cho nền kinh tế; chuyển hướng từ từ sang sử dụng công cụ lãi suất để
điều tiết thị trường ngoại tệ.
+ Việc can thiệp của NHNN cần phải diễn ra kịp thời với quy mô thích hợp.

Sự can thiệp của NHTW không thể tạo ra những thay đổi lâu dài về mức tỷ giá hối
đoái khi các mức mục tiêu không phù hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô. Do vậy,
NHNN phải xác định rõ ràng, chính xác mục tiêu của việc can thiệp, đồng thời phải xác
định thời gian và mức độ can thiệp tuân theo các quy định chung. Một khi NHNN không
tiến hành can thiệp hoặc can thiệp diễn ra chậm hoặc quy mô không thích hợp sẽ làm
phát sinh tâm lý rụt rè ngóng đợi, khiến cho thị trường rơi vào tình trạng trầm lắng, kích
thích đầu cơ và gây áp lực lên tỷ giá. NHNN có những tác động lớn đến thị trường ngoại
hối. Vì vậy, nếu có những điều chỉnh khôn ngoan thì sẽ ảnh hưởng tích cực để thị trường
tiếp tục hoạt động thông suốt và hiệu quả.
+ Nâng cao tính minh bạch trong các chính sách can thiệp của NHNN.
Sự minh bạch này giúp tạo lòng tin vào cơ chế tỷ giá mới. Việc cam kết công khai
về mục tiêu hành động, can thiệp sẽ tạo điều kiện cho thị trường có khả năng giám sát và
đồng thời nâng cao trách nhiệm của NHNN trong hoạt động ngoại hối.
3.2.2. Hoàn thiện thị trường ngoại hối.
Việt Nam đã thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt và sự can thiệp của NHNN đóng vai
trò thiết yếu. Liên quan chặt chẽ đến vấn đề này là việc phát triển thị trường ngoại hối.
Một thị trường ngoại hối có khả năng thanh khoản cao và hoạt động có hiệu quả sẽ cho
phép tỷ giá đáp ứng tín hiệu của thị trường, giảm thiểu các rủi ro tỷ giá. Do vậy, chính
sách quản lý ngoại hối phải được thực hiện nghiêm ngặt, có thể cải cách theo các hướng:
NHNN cần xây dựng quy chế thông tin, thống kê, hệ thống hoá kịp thời số liệu luồng
ngoại tệ ra, vào trong nước, từ đó dự báo về quan hệ cung cầu trên thị trường để làm căn
cứ điều hành chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối.
Quản lý chặt chẽ các khoản vay, nợ nước ngoài, đặc biệt là vay ngắn hạn. Kiểm soát
chặt chẽ việc bảo lãnh vay trả chậm của các NHTM cho các doanh nghiệp vay từ nước
ngoài. Do dự trữ ngoại hối của NHNN còn mỏng, nên NHNN cần tiếp tục kiên trì các
biện pháp thu hút kiều hối: mở rộng đối tượng được uỷ thác, làm dịch vụ chi trả kiều
hối…
NHNN cần từng bước thực hiện cơ chế tự do hoá các giao dịch vãng lai, từng bước tự
do hoá các giao dịch vốn, cho phép một số ngân hàng thương mại tiếp tục thực hiện thí
điểm một số nghiệp vụ giao dịch hối đoái theo thông lệ quốc tế, nâng cao tính linh hoạt

của thị trường ngoại hối .
Tiến tới hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng với đúng nghĩa là một “thị
trường thực sự” làm cơ sở xác định tỷ giá bình quân liên ngân hàng sát với cung- cầu
ngoại tệ trên thị trường. Thị trường ngoại tệ LNH là một cơ sở hạ tầng quan trọng để
NHNN can thiệp và điều hành tỷ giá, do đó thị trường ngoại tệ LNH phải hoạt động
thông suốt, liên tục, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian để tạo điều kiện cho
các ngân hàng trong hoạt động mua bán ngoại tệ, qua đó giải quyết nhanh chóng nhu cầu
thanh toán ngoại tệ cho các doanh nghiệp. Đồng thời có cơ chế ràng buộc các tổ chức tài
chính, tín dụng tham gia trên thị trường ý thức được trách nhiệm và quyền lợi của mình
để xây dựng một mô hình thị trường ngoại tệ liên NH hoàn thiện, điều tiết can thiệp mua,
bán ngoại tệ nhằm cân đối cung cầu và thực hiện chính sách tỷ giá theo định hướng của
Nhà nước.
Củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên NH với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động
của nó để tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị trường ngoại
tệ và nội tệ một cách thông suốt.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy phù
hợp. Các văn bản pháp quy về điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối cần được rà soát lại,
thống nhất và đơn giản hoá, bãi bỏ những quy định không phù hợp hay chồng chéo.
Thông qua cơ chế chính sách, các biện pháp quản lý hành chính của Chính phủ có thể tác
động đến hoạt động của thị trường hối đoái, quản lý các nguồn ngoại tệ trôi nổi trên thị
trường, chống những hiện tượng đầu cơ, buôn bán trái phép ngoại tệ, góp phần ổn định
TGHĐ.
Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, thông thạo ngoại ngữ,
có trình độ sử dụng các phưng tiện hiện đại phục vụ cho chuyên môn. Đầu tư các phương
tiện thông tin hiện đại để phục vụ công tác giao dịch trong nước và quốc tế cho các ngân
hàng.
3.2.3. Phá giá nhẹ đồng Việt Nam.
Nền kinh tế Việt Nam hiện đang ở tình trạng vừa thâm hụt cán cân tài khoản vãng
lai vừa có tình trạng thất nghiệp cao. Việc đánh giá cao đồng nội tệ sẽ là bất lợi vì đồng
nội tệ tăng giá thực tế có nghĩa là hàng Việt Nam trở nên đắt hơn so với hàng ngoại trên

1cả thị trường trong nước và quốc tế. Kết quả là nhập khẩu tăng, xuất khẩu bị thu hẹp,
cán cân tài khoản vãng lai sẽ ngày càng lún sâu vào thâm hụt. Một chính sách giảm giá
nhẹ đồng Việt Nam sẽ có tác dụng tích cực trong việc cải thiện đồng thời cả cân bằng bên
trong và cân bằng bên ngoài: khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tăng việc làm,
tăng sản lượng và thu nhập của nền kinh tế trong khi vẫn kiềm chế lạm phát ở mức thấp.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại, việc phá giá mạnh đồng nội tệ là không thực tế.
Mặc dù phá giá sẽ làm cho hàng hoá trong nước rẻ tương đối so với hàng ngoại, nghĩa là
tăng sức cạnh tranh, nhưng nếu phá giá mạnh thì hậu quả để lại là khôn lường. Phá giá
mạnh đồng Việt Nam sẽ làm mất lòng tin của dân chúng đối với VND và chính sách tiền
tệ của nhà nước, làm giảm đầu tư trong nước, đồng thời chức năng thanh toán và bảo tồn
giá trị của đồng tiền có thể bị xói mòn, nguy cơ về một cuộc khủng hoảng rất lớn. Mặt
khác, phá giá sẽ gây thiệt hại về kinh tế cho các hoạt động sản xuất kinh doanh có liên
quan đến vay tiền bằng ngoại tệ. Trong điều kiện hiện nay, chính sách phá giá nhẹ đồng
Việt Nam hiện nay là thích hợp, không những kích thích tăng trưởng kinh tế mà còn
không gây tổn thương cho bất cứ đơn vị kinh tế nào, hạn chế tình trạng đầu cơ trên thị
trường ngoại hối, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
3.2.4. Thực hiện chính sách đa ngoại tệ.
Hiện nay, ngoài đôla Mỹ, trên thị trường có nhiều loại ngoại tệ có giá trị thanh
toán quốc tế như Euro, JPY, CAD, GBP…Điều này tạo điều kiện cho Việt Nam có thể
thực hiện chính sách đa ngoại tệ trong thanh toán quốc tế và điều hành chính sách tỷ giá.
Việt Nam cần xây dựng một cơ chế ngoại tệ hợp lý trên cơ sở đa dạng hóa rổ ngoại tệ
mạnh, làm căn cứ cho việc ấn định tỷ giá VND. Cơ chế ngoại tệ đa dạng tạo điều kiện
cho các NHTM cung ứng bảo hiểm rủi ro về lãi suất, tỷ giá hối đoái, cho phép các ngoại
tệ mạnh trên lãnh thổ Việt Nam được tự do chuyển đổi làm cho vai trò của USD sẽ dần
hạn chế hơn. Đặc biệt chú ý đến đồng Euro và JPY vì châu Âu là một thị trường lớn, và
Nhật Bản có hệ thống tín dụng, ngân hàng hàng đầu thế giới.
Đồng thời, Nhà nước nên có chính sách khuyến khích các công ty XNK đa dạng
hoá cơ cấu tiền tệ trong giao dịch thương mại quốc tế để nâng cao sự cân đối cung, cầu
ngoại tệ, qua đó góp phần đa dạng hóa tiền tệ của nền kinh tế một cách cân đối hơn.
3.2.5. Phối hợp đồng bộ chính sách tỷ giá với các chính sách kinh tế vĩ mô

khác.
Để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách tỷ giá hối đoái đối với nền kinh
tế, cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá
và chính sách tiền tệ.
Cần duy trì chính sách tài khoá thận trọng và tiến hành điều chỉnh các chính sách
thuế. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và đàm phán ra nhập WTO, chính phủ cần
cắt giảm thuế quan, giảm thiểu và tiến tới xoá bỏ những hàng rào phi thuế quan đang cản
trở các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế. Trong chính sách chi tiêu cần phải có các
ưu tiên hợp lý hơn trong chi tiêu, loại bỏ những khoản chi không cần thiết, tăng tỉ lệ chi
đầu tư xây dựng cơ bản và có biện pháp hạn chế thất thoát lãng phí. Đảm bảo thâm hụt
ngân sách trong phạm vi có thể quản lý được, tức là ở mức có thể bù đắp được mà không
gây mất ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên chính sách tài khóa không nên thắt chặt quá
mức vì điều này sẽ gây tổn hại tăng trưởng kinh tế dài hạn.
Bên cạnh đó, chúng ta cần tiến hành chuyển đổi các công cụ của chính sách tiền tệ
từ trực tiếp hiện nay sang gián tiếp nhằm điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, hiệu
quả hơn và ít gây tiêu cực đối với nền kinh tế. Hơn nữa, khi thị trường tiền tệ phát triển,
giá cả trên thị trường (lãi suất, tỷ giá …) được hình thành theo quan hệ cung cầu, các
nguồn vốn được phân bổ hiệu quả, thị trường không bị chia cắt sẽ tránh được tình trạng
mất cân bằng kinh tế vĩ mô. từ đó tăng tính hiệu quả của việc điều hành chính sách tiền
tệ.
Như vậy, việc hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái cần phối hợp đồng bộ nhiều
giải pháp, không chỉ từ hướng NHTW. Tuỳ theo điều kiện thực tế để lựa chọn công cụ,
hay biện pháp phù hợp, nhằm thực hiện một chính sách tỷ giá theo xu hướng chung và
đem lại hiệu quả tốt nhất.
MỤC LỤC

×