Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

tìm hiểu nội dung cơ bản của học thuyết giá trị thặng dư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.75 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình học tập, nhiệm vụ làm bài tiểu luận là rất cần thiết đối với
mỗi sinh viên, trên cơ sở tự tìm tòi, tự học hỏi sau những kiến thức được các
thầy cô ở trường đã giảng dạy. Nhận thức được tầm quan trong đó, em làm
bài tiểu luận với những kiến thức được thầy (cô)…………. chỉ dạy và những
kiến thức tự nghiên cứu ở trên các tài liệu tham khảo.
Tuy nhiên, để có hiệu quả cao em lựa chọn đề tài “ tìm hiểu nội dung cơ bản
của học thuyết giá trị thặng dư” thiết nghĩ, trong môn học, chủ đề này tuy
đã được cô nhiệt tình chỉ dạy, nhưng quá trình tiếp thu còn nhiều vấn đề chưa
hiểu, và qua bài tiểu luận này em có được thời gian để tìm hiểu sâu hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu về những phạm trù giá trị thặng dư: sự chuyển hóa tiền tệ thành
tư bản; hang hóa và sức lao động; bản chất của giá trị thặng dư; tiền lương
dưới chủ nghĩa tư bản.
- Tìm hiểu về các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư: Phương pháp bóc
lột giá trị thặng dư tuyệt đối; Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Qua tìm hiểu về nội dung trên lý luân, nghiên cứu tìm hiểu trên thực tiễn.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích – Tổng hợp
- Quy nạp – Diễn dịch
- Logic – Lịch sử
NỘI DUNG
LÍ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1
I- PHẠM TRÙ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ:
1- Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản:
Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định. Nhưng
bản thân tiền không phải là tư bản, mà tiền chỉ biến thành tư bản khi được sử
dụng để bóc lột lao động của người khác.
Nếu tiền được dùng để mua bán hàng hoá thì chúng là phương tiện giản đơn


của lưu thông hàng hoá và vận động theo công thức: Hàng- Tiền- Hàng(H-T-H),
nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền tệ, rồi tiền tệ lại chuyển hoá
thành hàng. Còn tiền với tư cách là tư bản thì vận động theo công thức: Tiền -
Hàng - Tiền (T-H-T), tức là sự chuyển hoá tiền thành hàng và sự chuyển hoá
ngược lại của hàng thành tiền. Bất cứ tiền nào vận động theo công thức T-H-T
đều được chuyển hoá thành tư bản.
Do mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng nên vòng lưu
thông chấm dứt ở giai đoạn hai. Khi những người trao đổi đã có được giá trị sử
dụng mà người đó cần đến. Còn mục đích lưu thông của tiền tệ với tư cách là tư
bản không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì
vậy nếu số tiền thu bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên vô nghĩa.
Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ
của tư bản là: T-H-T’, trong đó T’= T + ∆T. ∆T là số tiền trội hơn so với số tiền
ứng ra, C. Mác gọi là giá trị thặng dư. Số tiền ứng ra ban đầu chuyển hoá thành
tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích của lưu thông T-
H-T’ là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động T-H-T’ là
không có giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn.
Sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông theo công thức T-
H-T’, do đó công thức này được gọi là công thức chung của tư bản.
Tiền ứng trước, tức là tiền đưa vào lưu thông, khi trở về tay người chủ của nó
thì thêm một lượng nhất định (∆T). Vậy có phải do bản chất của lưu thông đã
làm cho tiền tăng thêm, và do đó mà hình thành giá trị thặng dư hay không?
2
Các nhà kinh tế học tư sản thường quả quyết rằng sự tăng thêm đó là do lưu
thông hàng hoá sinh ra. Sự quả quyết như thế là không có căn cứ.
Thật vậy, trong lưu thông nếu hàng hoá được trao đổi ngang giá thì chỉ có sự
thay đổi hình thái của giá trị, còn tổng số giá trị, cũng như phần giá trị thuộc về
mỗi bên trao đổi là không đổi. Về mặt giá trị sử dụng, trong trao đổi cả hai bên
đều không có lợi gì. Như vậy, không ai có thể thu được từ lưu thông một lượng
giá trị lớn hơn lượng giá trị đã bỏ ra (tức là chưa tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T).

C.Mác cho rằng trong xã hội tư bản không có bất kì một nhà tư bản nào chỉ
đóng vai trò là người bán sản phẩm mà lại không phải là người mua các yếu tố
sản xuất. Vì vậy khi anh ta bán hàng hoá cao hơn giá trị vốn có của nó, thì khi
mua các yếu tố sản xuất ở đầu vào các nhà tư bản khác cũng bán cao hơn giá trị
và như vậy cái được lợi khi bán sẽ bù cho cái thiệt hại khi mua. Cuối cùng vẫn
không tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T.
Nếu hàng hoá được bán thấp hơn giá trị, thì số tiền mà người đó sẽ được lợi
khi là người mua cũng chính là số tiền mà người đó sẽ mất đi khi là người bán.
Như vậy việc sinh ra ∆T không thể là kết quả của việc mua hàng thấp hơn giá
trị của nó.
Mác lại giả định rằng trong xã hội tư bản có một loại nhà tư bản rất lưu manh
và xảo quyệt, khi mua các yếu tố sản xuất thì rẻ, còn khi bán thì đắt. Điều này
chỉ giải thích được sự làm giàu của những thương nhân cá biệt chứ không thể
giải thích được sự làm giàu của tất cả giai cấp tư sản, vì tổng số giá trị trước lúc
trao đổi cũng như trong và sau khi trao đổi đều không thay đổi mà chỉ có sự
thay đổi trong việc phân phối giá trị giữa những người trao đổi mà thôi. Và Mác
kết luận rằng đây chẳng qua là hành vi móc túi lẫn nhau giữa các nhà tư bản
trong cùng giai cấp.
Vậy từ ba trường hợp cụ thể trong lưu thông Mác cho rằng: Trong lưu thông
không thể tạo ra giá trị và giá trị thặng dư vì vậy không thể là nguồn gốc sinh ra
∆T.
Ở ngoài lưu thông Mác xem xét cả hai yếu tố là hàng hoá và tiền tệ:
3
Đối với hàng hoá ngoài lưu thông: Tức là đem sản phẩm tiêu dùng hay sử
dụng và sau một thời gian tiêu dùng nhất định thì thấy cả giá trị sử dụng và giá
trị của sản phẩm đều biến mất theo thời gian.
Đối với yếu tố tiền tệ: Tiền tệ ở ngoài lưu thông là tiền tệ nằm im một chỗ. Vì
vậy không có khả năng lớn lên để sinh ra ∆T.
Vậy ngoài lưu thông khi xem xét cả hai yếu tố hàng hoá và tiền tệ đều không
tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T.

“ Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện
ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không
phải trong lưu thông” (C.Mác: Tư bản. NXB Sự thật, HN, 1987, Q1, tập 1,tr
216). Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.
Khi Mác trở lại lưu thông lần thứ hai và lần này Mác đã phát hiện ra rằng: Ở
trong lưu thông người có tiền là nhà tư bản phải gặp được một người có một thứ
hàng hoá đặc biệt đem bán, mà thứ hàng hoá đó khi đem tiêu dùng hay sử dụng
nó có bản tính sinh ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó,
hàng hoá đặc biệt đó chính là sức lao động.
2- Hàng hoá - sức lao động:
Số tiền chuyển hoá thành tư bản không thể tự làm tăng giá trị mà phải thông
qua hàng hoá được mua vào (T-H). Hàng hoá đó phải là một thứ hàng hoá đặc
biệt mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng
hoá đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường.
Như vậy, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con
người, thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong quá trình sản xuất
ra một giá trị sử dụng.
Không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá, mà sức lao động chỉ biến
thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định.
C.Mác đã nhấn mạnh sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ hai điều
kiện tiền đề:
4
Một là, người lao động phải tự do về thân thể, phải làm chủ được sức lao
động của mình và có quyền đem bán cho người khác. Vậy người có sức lao
động phải có quyền sở hữu sức lao động của mình.
Hai là, người lao động phải tước hết tư liệu sản xuất để trở thành người vô
sản và bắt buộc phải bán sức lao động, vì không còn cách nào khác để sinh sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu dẫn đến chỗ sức lao động
biến thành hàng hoá là điều kiện chủ yếu quyết định của sự chuyển hoá tiền
thành tư bản.

Cũng như những hàng hoá khác, hàng hoá - sức lao động cũng có hai thuộc
tính là giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị của hàng hoá sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần
thiết để nuôi sống người công nhân, vợ con anh ta; những yếu tố tinh thần, dân
tộc, tôn giáo của người công nhân, những chi phí đào tạo người công nhân.
Giá trị hàng hoá sức lao động giống giá trị hàng hoá thông thường ở chỗ: Nó
phản ánh một lượng lao động hao phí nhất định để tạo ra nó. Nhưng giữa chúng
có sự khác nhau căn bản: Giá trị của hàng hoá thông thường biểu thị hao phí lao
động trực tiếp để sản xuất hàng hoá nhưng hàng hoá - sức lao động lại là sự hao
phí lao động gián tiếp thông qua việc sản xuất ra những vật phẩm tiêu dùng để
nuôi sống người công nhân. Còn hàng hoá sức lao động ngoài yếu tố vật chất, nó
còn có yếu tố tinh thần lịch sử, dân tộc, yếu tố gia đình và truyền thống, nghề
nghiệp mà hàng hoá thông thường không có.
Cũng giống như các hàng hoá thông thường, hàng hoá sức lao động có khả
năng thoả mãn những nhu cầu nhất định nào đó của người mua. Nhưng giá trị sử
dụng của hàng hoá sức lao động có thuộc tính đặc biệt, nó khác hoàn toàn với
hàng hoá thông thường ở chỗ: Khi đem tiêu dùng hay sử dụng nó thì không
những không bị tiêu biến theo thời gian về giá trị và giá trị sử dụng mà ngược lại
nó lại tạo ra một lượng giá trị mới c + m ( c + m > v, với v là giá trị sử dụng của
bản thân nó). Khoản lớn lên được sinh ra trong quá trình sử dụng sức lao động
chính là ∆T hay giá trị thặng dư.
5
Từ đó Mác kết luận: Hàng hoá - sức lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị hơn
thế nữa là tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Bởi vì, sức lao động càng đem
tiêu dùng hay sử dụng thì người công nhân hay người lao động càng tích luỹ
được kinh nghiệm nghề nghiệp, càng nâng cao năng suất lao động. Vì vậy sẽ
làm giảm giá trị hay mức tiền lương mà nhà tư bản đã trả cho họ. Vì vậy, dưới
chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư bản rất ưa thích loại hàng hoá đặc biệt này.
Vậy quá trình người công nhân tiến hành lao động là quá trình sản xuất ra
hàng hoá và đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân

giá trị sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản đã
chiếm đoạt. Như vậy, hàng hoá - sức lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra
giá trị. Đó là đặc điểm cơ bản nhất của hàng hoá - sức lao động so với các hàng
hoá khác. Nó là chìa khoá để giải thích tính mâu thuẫn của công thức chung của
tư bản.
3- Bản chất giá trị thặng dư:
Nói chung, trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, giá trị sử dụng không phải là mục đích. Giá trị sử dụng được sản xuất chỉ
vì nó là vật mang giá trị trao đổi.
Nhà tư bản muốn sản xuất ra một giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi, nghĩa
là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hoá có giá trị
lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà nhà tư bản
đã bỏ ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản
xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C.Mác viết: “
Với tư cách là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình tạo ra giá
trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự
thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản
xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của
nền sản xuất hàng hoá”.
6
Quá trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động
có hai đặc trưng:
Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống
như những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiêụ
quả nhất.
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không phải của
người công nhân
C.Mác đã lấy ví dụ về việc sản xuất sợi ở nước Anh làm đối tượng nghiên cứu
quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Để nghiên cứu, Mác đã sử dụng phương pháp

giả định khoa học thông qua giả thiết chặt chẽ để tiến hành nghiên cứu: Không
xét đến ngoại thương, giá cả thống nhất với giá trị, toàn bộ giá trị tư liệu sản
xuất đem tiêu dùng chuyển hết một lần vào giá trị sản phẩm và chỉ nghiên cứu
trong nền kinh tế tái sản xuất giản đơn.
Từ các giả định đó, Mác đưa ra một loạt các giả thiết để nghiên cứu:
Nhà tư bản dự kiến kéo 10 kg sợi; giá 1 kg bông là 1 đôla; hao mòn thiết bị
máy móc để kéo 5 kg bông thành 5 kg sợi là 1 đôla; tiền thuê sức lao động 1
ngày là 4 đôla; giá trị mới 1 giờ lao động của công nhân là 1 đôla và chỉ cần 4
giờ người công nhân kéo được 5 kg bông thành 5 kg sợi.
Từ đó, có bảng quyết toán như sau:
Tư bản ứng trước Giá trị của sản phẩm mới
Giá 10 kg bông 10 đôla
Lao động cụ thể của công
nhân bảo tồn và chuyển giá
trị 10 kg bông vào 10 kg
sợi.
10 đôla
Hao mòn máy móc 2 đôla Khấu hao tài sản cố định 2 đôla
Tiền thuê sức lao động
trong một ngày
4 đôla Giá trị mới do 8 giờ lao
động của người công nhân
tạo ra
8 đôla
7
Tổng chi phí sản xuất 16 đôla Tổng doanh thu 20 đôla
Nhà tư bản đối chiếu giữa doanh thu sau khi bán hàng (20 đôla) với tổng chi
phí tư bản ứng trước quá trình sản xuất (16 đôla) nhà tư bản nhận thấy tiền ứng
ra đã tăng lên 4 đôla, 4 đôla này được gọi là giá trị thặng dư.
Từ sự nghiên cứu trên, chúng ta rút ra một số nhận xét sau:

Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận thấy mâu
thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển hoá tiền
thành tư bản diến ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời không diễn ra trong
lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hoá
đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hoá đó
trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất giá trị thặng dư cho
nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới biến thành tư bản.
Hai là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (10 kg sợi), chúng ta thấy
có hai phần:
Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân mà
được bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ.
Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình lao động
gọi là giá trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá
trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư.
Ba là, ngày lao động của công nhân trong xí nghiệp tư bản được chia thành
hai phần:
Một phần gọi là thời gian lao động cần thiết: Trong thời gian này người công
nhân tạo ra được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức
tiền công mà nhà tư bản đã trả cho mình (4 đôla).
Phần thời gian còn lại là thời gian lao động thặng dư: Trong thời gian lao
động thặng dư người công nhân lại tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị sức
lao động hay tiền lương nhà tư bản đã trả cho mình, đó là giá trị thặng dư (4
đôla) và bộ phận này thuộc về nhà tư bản (nhà tư bản chiếm đoạt).
8
Từ đó, Mác đi đến khái niệm về giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngoài giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị vượt khỏi
điểm mà ở đó sức lao động của người công nhân đã tạo ra một lượng giá trị mới
ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả cho

họ. Thực chất của sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá trị vượt khỏi giới
hạn tại điểm đó giá trị sức lao động được trả ngang giá.
4- Tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản:
Trong nền kinh tế tư bản người công nhân sau quá trình làm việc cho nhà tư
bản sẽ nhận được một khoản thu nhập dưới hình thức tiền công hay tiền lương.
Với cách trả lương như vậy các nhà lí luận tư sản khẳng định rằng tiền lương
hay tiền công là giá cả của lao động. Và trong quá trình sản xuất nhà tư bản trả
đúng giá cả của lao động. Vì vậy dưới chủ nghĩa tư bản không có bóc lột.
Nhưng C.Mác đã khẳng định tiền lương không phải là giá cả của người lao
động. Bởi vì, lao động là một phạm trù trừu tượng nên người ta không thể bán
cái trừu tượng. Hơn nữa, lao động chỉ thể hiện khi vận dụng sức lao động để tiến
hành quá trình sản xuất.
Vì vậy Mác khẳng định: Tiền lương chính là giá cả của sức lao động nhưng
nó được biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả của lao động. Bởi vì sức lao động
phản ánh năng lực lao động của mỗi con người, nó là cái có thật thể hiện toàn bộ
ở sức óc, sức thần kinh và sức cơ bắp của con người. Nó nói lên năng lực và khả
năng của từng người. Vì vậy mỗi một sức lao động khác nhau sẽ có một giá cả
khác nhau.
Việc nghiên cứu bản chất tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản cho ta thấy tiền
lương chỉ là một phần giá trị của sức lao động của công nhân tạo ra, nó tương
ứng với thời gian lao động cần thiết của người công nhân trong xí nghiệp nhà tư
bản. Phần giá trị còn lại do sức lao động tạo ra là giá trị thặng dư thuộc về nhà tư
bản.
II- CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ:
9
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư, do đó giai
cấp tư sản đã không từ bất cứ một thủ đoạn nào để bóc lột giá trị thặng dư.
Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư
tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối.
1- Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối:

Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối được tiến hành bằng cách kéo dài tuyệt đối
thời gian lao động trong ngày của người công nhân trong điều kiện thời gian lao
động cần thiết (hay mức tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là không
đổi).
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và
4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là
100%. Giả định ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao
động cần thiết không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt
đối, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên đạt 200%
(m’ = 200%)
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài
ngày lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các
nhà tư bản. Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là
hàng hoá, nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngoài
thời gian người công nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người công
nhân đòi hỏi còn phải có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức
lao động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố
vật chất người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh
hoạt về tinh thần, vật chất, tôn giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào
của giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động
trong ngày.
Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh
vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
2- Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối:
10
Bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách rút ngắn thời
gian lao động cần thiết để trên cơ sở đó mà kéo dài tương ứng thời gian lao động
thặng dư, trong điều kiện độ dài của ngày lao động là không đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và
4 giờ là thời gian lao động thặng dư, trình độ bóc lột là 100%. Bây giờ chúng ta

lại giả thiết rằng, công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị
bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động
thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư trong trường
hợp đó cũng thay đổi. Khi đó thời gian lao động cần thiết là 2 giờ, thời gian lao
động thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc lột của nhà tư bản lúc này là 300%
(m’ = 300%).
Để có thể rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì các nhà tư bản phải tìm mọi
biện pháp, đặc biệt là phải áp dụng tiến bộ và công nghệ vào trong quá trình sản
xuất để nâng cao năng suất lao động xã hội, giảm giá thành và tiến tới giảm giá
cả thị trường của sản phẩm. Đặc biệt nâng cao năng suất lao động xã hội trong
những ngành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người
công nhân. Từ đó tiến tới hạ thấp giá trị sức lao động.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi mà kỹ thuật phát triển, sản xuất
giá trị thặng dư tương đối chiếm vị trí chủ yếu. Hai phương pháp trên được các
nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm
thuê trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
KẾT LUẬN
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất ra giá trị sử
dụng, mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị
thặng dư bằng bất cứ thủ đoạn nào là mục đích, động cơ thúc đẩy sự hoạt động
11
của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư sản. Sản xuất ra giá trị
thặng dư quả thực là động lực vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. C.Mác viết: “ Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giàu, là
nhân giá trị lên, làm tăng giá trị, do đó bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra giá trị
thặng dư”.
Để sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, các nhà tư bản tăng cường bóc lột công
nhân làm thuê không phải bằng cưỡng bức siêu kinh tế (roi vọt), mà bằng cưỡng
bức kinh tế (kỷ luật đói rét) dựa trên cơ sở mở rộng sản xuất, phát triển kỹ thuật

để tăng năng suất lao động, tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động.
Vậy sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư
bản. C.Mác viết: “ Việc tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của
phương thức sản xuất đó”. Nội dung chủ yếu của quy luật này là để thu được giá
trị thặng dư một cách tối đa, nhà tư bản đã tăng số lượng lao động làm thuê và
tìm mọi thủ đoạn để bóc lột họ.
Trong giai đoạn hiện nay, các nhà tư bản thực hiện cải tiến kỹ thuật hoàn
thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao động để tăng năng suất lao động, làm giảm
giá trị hàng hoá. Đồng thời thu hút một đội ngũ các kỹ sư, quản lý, mà chức
năng của họ suy cho cùng là bảo đảm sử dụng có hiệu quả nhất tất cả các nhân
tố của sản xuất mà trước hết là sức lao động, nhờ đó mà tăng giá trị thặng dư.
12

×