Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Đề tài 1 văn hóa kinh doanh mỹ và bài học cho doanh nghiệp VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.8 KB, 42 trang )

Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA THƯƠNG MẠI - DU LỊCH - MARKETING

BÀI TẬP NHÓM MÔN: QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI: “PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA MỸ
ĐẾN KINH DOANH QUỐC TẾ VÀ RÚT RA BÀI HỌC KINH
NGHIỆM CHO DOANH NGHIỆP VIỆT NAM”
GVHD: ThS. TRƯƠNG THỊ MINH LÝ
Danh sách thành viên nhóm: MSSV
1. BÙI THỊ THƠM 33131020833
2. NGUYỄN MINH NGUYỆT 33131021207
3. NGUYỄN HỒ TỐ DIỄM 33131021968
4. HUỲNH QUỐC NGHIÊM 33131022343
Trang 1
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
Danh sách các thành viên:
Phần nhận xét của giảng viên:
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………….
Trang 2
STT Họ & Tên Mã số SV Ký tên
1 Bùi Thị Thơm 33131020833
2 Nguyễn Hồ Tố Diễm 33131021968
3 Nguyễn Minh Nguyệt 33131021207


4 Huỳnh Quốc Nghiêm 33131022343
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
PHỤ LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 4
2.3.3. Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Mỹ đến quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế 21
2.3.5. Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Mỹ tới đặc tính, nhu cầu của thị trường Mỹ 24
2.4.1. Đạo đức và văn hoá doanh nghiệp Mỹ 26
3.2 Xuất khẩu hàng Việt Nam sang Mỹ 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO 41
Trang 3
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc, một trong những biến đổi
quan trọng đó là xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Xu thế toàn cầu hóa buộc các doanh
nghiệp phải tiếp xúc với những con người, những tổ chức và các thể chế hình thành trong những
nền văn hóa khác nhau. Mỗi nền văn hóa khác nhau lại định hình nên những phương pháp tư
duy và cách thức làm việc cũng như những tập quán, thói quen tiêu dùng khác nhau. Tất cả các
yếu tố đó hình thành nền văn hóa kinh doanh riêng biệt, đặc trưng của từng quốc gia.
Trong nền kinh tế thế giới, không ai có thể phủ nhận vị trí và vai trò quan trọng của nền
kinh tế Mỹ. Nhiều đối tác đã lấy thị trường này làm thị trường trọng điểm, trong đó có Việt
Nam. Thị trường Mỹ luôn là một thách thức đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam,
song nếu tiếp cận được, doanh nghiệp đó có thể chứng tỏ thực lực của mình có thể vươn tới hầu
hết các thị trường trên thế giới. Sau hàng loạt những sự kiện thúc đẩy quan hệ thương mại Việt –
Mỹ phát triển thì cơ hội dành cho doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường này càng rộng mở.
Tuy nhiên, còn không ít thách thức trước mắt các doanh nghiệp Việt Nam, đó không chỉ là hạn
chế về trình độ công nghệ, bí quyết kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, mà còn gặp phải những rào
cản rất lớn về văn hóa bởi lẽ có sự khác biệt về văn hóa kinh doanh giữa Mỹ và Việt Nam mà
nhiều doanh nghiệp chưa lường trước và chuẩn bị được.
Mặc dù trong những năm gần đây vấn đề văn hóa kinh doanh đã dần được nhắc đến như
một phần không thể thiếu khi làm ăn với nước ngoài nhưng với đặc tính luôn tiến hóa của văn

hóa, đặc biệt là một thị trường năng động như Hoa Kỳ, việc cập nhật thông tin và tìm hiểu sức
ảnh hưởng của nó là một việc rất cần thiết. Chính vì vậy nhóm quyết định chọn đề tài “Phân
tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Mỹ đến kinh doanh quốc tế và rút ra bài học kinh
nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam khi kinh doanh tại Mỹ” để nghiên cứu.
Trang 4
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
1. Môi trường văn hóa
1.1. Khái niệm môi trường văn hóa
Theo định nghĩa văn hoá của UNESCO, trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá ngày nay có thể
coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách
của một xã hội hoặc một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương,
những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và
những tín ngưỡng.
Văn hoá là những giá trị có thể học hỏi, chia sẻ và liên hệ mật thiết với nhau, nó cung cấp
những định hướng cho các thành viên trong xã hội. Những định hướng này cung cấp những giải
pháp cho những vấn đề mà xã hội cần giải quyết.
Văn hoá được hiểu là tổng thể phức tạp, bao gồm ngôn ngữ, niềm tin, nghệ thuật, đạo
đức, luật pháp, phong tục và tất cả khả năng khác mà con người có được. Văn hoá quy định
hành vi của mỗi con người, thông qua mối quan hệ giữa người với người trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Do có sự khác nhau về nền văn hoá đang tồn tại giữa các quốc gia, cho nên các nhà kinh
doanh phải sớm có những quyết định có hay không tham gia kinh doanh ở môi trường đó. Điều
này trong một chừng mực nhất định tuỳ thuộc vào sự chấp nhận của doanh nghiệp đối với môi
trường văn hoá nước ngoài. Sự khác nhau về văn hoá dẫn đến sự khác nhau trong mô hình quản
lý của các doanh nghiệp.
1.2. Các yếu tố văn hóa
 Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy và phong cách tư duy. Nó là sản phẩm của văn
hoá và là một nhân tố cấu thành của văn hoá. Nó cung cấp cho các nhà sản xuất kinh doanh một
phương tiện quan trọng để giao tiếp trong quá trình kinh doanh quốc tế. Đối với các công ty đa

quốc gia, hoạt động kinh doanh muốn mở rộng, trước hết đòi hỏi phải thống nhất việc sử dụng
ngôn ngữ. Thông thường hoạt động kinh doanh quốc tế tất yếu liên quan hoặc đòi hỏi sử dụng
nhiều ngôn ngữ khác nhau. Để giải quyết tình trạng sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau trong
Trang 5
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
giao tiếp kinh doanh, chóng ta có thể thuê phiên dịch và nhà giao dịch hoặc thuê cố vấn hay các
chuyên gia.
 Tôn giáo
Tôn giáo cũng có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động hàng ngày của các
cá nhân, tổ chức trong xã hội. Vì vậy, các doanh nghiịep kinh doanh quốc tế cần phải hiểu biết
về các tôn giáo và vai trò của chúng trong xã hội, nơi mà các doanh nghiệp tổ chức các hoạt
động kinh doanh. Thông thường, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế phải quan tâm đến bốn
vấn đề về tôn giáo, đó là:
+ Tôn giáo thống trị.
+ Tầm quan trọng của tôn giáo trong xã hội.
+ Mức độ thuần nhất của tôn giáo.
+ Sự tự do tín ngưỡng trong xã hội.
Tôn giáo có thể ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày của con người và do đó ảnh hưởng
dến hoạt động kinh doanh. Ví nhthời gian mở cửa hoặc đóng cửa, ngày nghỉ, kỳ nghỉ, lễ kỷ
niệm Vì vậy, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải được tổ chức cho phù hợp với từng
loại tôn giáo.
 Lối sống và suy nghĩ của con người
Tính cách và suy nghĩ của con người Mỹ quyết định phần lớn đến hành vi của họ. Đặc
biệt, trong quan hệ kinh doanh quốc tế, hiểu biết về đối tác của mình là vấn đề cần thiết cho bất
kỳ thương gia nào muốn giao dịch, buôn bán với các đối tác nước ngoài. Nó không những tạo ra
lợi nhuận, mà còn đem lại sự đam mê thực sự cho cả hai phía.
 Thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng
Thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu vì hàng hoá dù
có chất lượng tốt nhưng nếu không được người tiêu dùng ưa chuộng thì cũng khó được họ chấp
nhận. Ví như nếu nhà kinh doanh nào đó mang các sản phẩm chế biế từ thịt lợn đến tiêu thụ ở

Irắc, Xiri hoặc đem thịt bò đến bán ở Ên Độ thì đó là một điều nguy hiểm, vì những sản phẩm
đó theo tập quán, tôn giáo thì các quốc gia này không tiêu dùng. Nếu nắm bắt được thị hiếu, tập
quán của người tiêu dùng, doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện mở rộng khối lượng cầu một
cách nhanh chóng. Chính thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng mang đặc điểm riêng của
từng vùng, từng châu lục, từng dân téc và chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá, lịch sử, tôn
giáo.
1.3. Ảnh hưởng của môi trường văn hóa đối với hoạt động kinh doanh quốc tế
Môi trường kinh doanh của một quốc gia bao gồm 4 yếu tố: văn hóa, chính trị, luật pháp
và kinh tế. Bốn yếu tố này nói chung và văn hóa nói riêng đều có ảnh hưởng đến các hoạt động
kinh tế quốc tế, và ảnh hưởng đó không phải là gián tiếp, mà chúng liên quan mật thiết đến kinh
tế quốc tế. Rất nhiều sai lầm trong kinh doanh quốc tế bắt nguồn trực tiếp từ sự thiếu hiểu biết
về những yếu tố này, trong đó nghiêm trọng nhất là sự thiếu hiểu biết về văn hóa. Bởi vì, mỗi
nước đều có những tập tục, quy tắc, kiêng kị riêng. Chúng được hình thành theo truyền thống
văn hoá của mỗi nước và có ảnh hưởng to lớn đến tập tính tiêu dùng của khách hàng nước đó.
Giua các nền văn hóa cũng có sự khác biệt về quản lý nhân lực, chính sách Marketing…
1.3.1. Ảnh hưởng của văn hóa đến tư duy
Trang 6
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
Trong số những khía cạnh quan trọng của cuộc sống có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt
động kinh doanh, người ta thường có quan điểm khác nhau về văn hóa đối với thời gian, công
việc và thành công, với những thay đổi văn hóa. Chúng ta cùng xem xét những khía cạnh này.
 Quan điểm về thời gian
Người dân ở nhiều nền văn hóa thuộc Châu Mỹ La tinh và vùng Địa Trung Hải khá tùy
tiện về mặt thời gian. Họ có một thời gian biểu linh hoạt và thích hưởng thụ thời gian của họ
hơn là hy sinh nó vì một tính hiệu quả cứng nhắc. Chẳng hạn như các doanh nhân ở đó thường
đến muộn hơn giờ hẹn và thích dành thời gian để xây dựng niềm tin cá nhân trước khi bàn đến
công việc. Đương nhiên là điều đó khiến cho công việc tốn nhiều thời gian hơn so với ở Hoa Kỳ
hay ở Bắc Âu. Trái lại, người Nhật và người Mỹ thường đến rất đúng hẹn, có một lịch trình làm
việc chặt chẽ và làm việc nhiều giờ liền. Sự nhấn mạnh về việc sử dụng thời gian một cách hiệu
quả thể hiện giá trị tiềm ẩn về làm việc vất vả ở cả hai quốc gia này. Tuy nhiên, đôi khi người

Mỹ và người Nhật cũng khác nhau trong cách họ sử dụng thời gian. Người Mỹ cố gắng làm việc
một cách năng suất và đôi khi họ rời công sở sớm nếu công việc trong ngày đã hoàn tất. Quan
điểm này cho thấy giá trị mà người Mỹ coi trọng trong việc tạo ra những thành quả cá nhân. ở
Nhật Bản, việc trông có vẻ bận rộn trong mắt người khác là rất quan trọng, ngay cả khi công
việc không có nhiều. Người lao động Nhật Bản muốn thể hiện sự cống hiến của họ đối với cấp
trên và đồng nghiệp - đó là quan điểm dựa vào những giá trị như sự gắn bó của tổ chức.
 Quan điểm đối với công việc
Trong khi một số nền văn hóa thể hiện một thái độ làm việc mạnh mẽ thì một số nền văn
hóa khác quan tâm đến sự cân bằng giữa công việc và nghỉ ngơi. Người dân ở miền Nam nước
Pháp thường nói: “Chúng tôi làm việc để sống, còn người Mỹ sống để làm việc”. Vậy nên đời
sống ở miền Nam nước Pháp khá là chậm rãi. Người ta thích tập trung vào việc kiếm đủ tiền để
thưởng thức những món ăn, rượu ngon và những lúc vui vẻ. Các doanh nghiệp thường đóng cửa
suốt cả tháng Tám, khi người lao động hưởng những kỳ nghỉ dài cả tháng ở nước ngoài. Quan
điểm này không có ở nhiều quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam.
1.3.2. Văn hóa kinh doanh hướng dẫn quá trình giao tiếp
Việc hiểu biết văn hóa là cần thiết khi một công ty tiến hành kinh doanh ở đất nước của
mình. Và nó cũng quan trọng hơn khi tiến hành kinh doanh “xuyên văn hóa” (across culture).
Khi những người mua và người bán trên khắp thế giới gặp nhau để tiến hành kinh doanh thì họ
mang tới những hiểu biết khác nhau, những kỳ vọng và cách thức giao tiếp khác nhau. Và việc
biết cách giao tiếp với những bạn hàng đến từ những nền văn hóa khác là hết sức quan trọng đối
với các doanh nhân. ở những đất nước khác nhau, con người sống và làm việc theo những cách
khác nhau. Ví dụ, ở Mỹ, người ta thường ăn tối vào khoảng 6 giờ, còn ở Tây Ban Nha là vào
khoảng 8 hoặc 9 giờ tối. Ở Mỹ, mọi người mua sắm trong những siêu thị lớn mỗi tuần một lần,
còn người Ý mua sắm trong những cửa hàng nhỏ hàng ngày. Đó chính là những khác biệt về văn
hóa, mà nếu người làm ngoại thương nắm được những khác biệt này thì họ sẽ dễ dàng trong giao
tiếp với bạn hàng nước ngoài, tạo lập được mối quan hệ kinh doanh nhiều thuận lợi, thậm chí
thoạt đầu là một mối quan hệ cá nhân tốt đẹp và tiếp sau đó là những mối quan hệ buôn bán
thịnh vượng.
 Giao tiếp bằng ngôn ngữ có lời
Trang 7

Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
Một yếu tố văn hóa có ảnh hưởng rõ rệt đến giao tiếp trong hoạt động ngoại thương chính
là ngôn ngữ. Hiểu biết về ngôn ngữ và kỹ năng sử dụng ngoại ngữ thành thạo của thương nhân
là một thuận lợi hết sức to lớn trong việc giao tiếp với các thương gia nước ngoài, cũng như
trong việc tìm hiểu từ phong tục tập quán, thói quen làm việc, nhu cầu tiêu dùng cho đến môi
trường chính trị, luật pháp của nước mà họ có quan hệ buôn bán. Ngược lại, sự bất đồng về ngôn
ngữ đôi khi là rào cản rất lớn trong việc giao tiếp với những thương nhân và doanh nghiệp nước
ngoài. Hai người nói chuyện với nhau bằng tiếng mẹ đẻ vẫn có thể hiểu lầm nhau, bởi thế giao
tiếp bằng ngoại ngữ lại càng khó khăn hơn. Nếu năng lực ngoại ngữ hạn chế, các thương nhân
có thể gặp khó khăn trong khi đàm phán hoặc trao đổi ý tưởng kinh doanh, dẫn đến hiểu lầm lẫn
nhau và gây ra sự trì hõan trong hoạt động buôn bán song phương hay hợp tác kinh doanh.
Hiện nay, ngôn ngữ được sử dụng phổ biến nhất trong giao tiếp quốc tế là tiếng Anh, tuy
nhiên việc biết tiếng địa phương vẫn là một thuận lợi, bởi phần lớn mọi người chuộng sự khác
biệt trong ngôn ngữ riêng của họ và việc nói tiếng địa phương có thể hình thành mối quan hệ tốt,
rất quan trọng trong giao tiếp thương mại. Thông thường, doanh nghiệp hay nhà sản xuất không
hiểu tiếng địa phương có thể phạm sai lầm do dịch không chính xác. Ví dụ, hãng General
Motors đã gặp khó khăn khi đưa ra loại xe mới mang tên Chevrolet Nova ở thị trường Puerto
Rico. Khi dịch sang tiếng Tây Ban Nha thì Nova có nghĩa là ngôi sao, nhưng nếu nói như “no
va” thì lại có nghĩa là “nó không đi” do đó hãng General Motors đã phải đổi tên loại xe này
thành Caribe.
 Giao tiếp bằng ngôn ngữ không lời
Bên cạnh những thông điệp được trình bày ra rằng qua ngôn từ thì còn phải lưu ý đến
những thông điệp ẩn sau ngôn ngữ. Việc không nắm được những thông điệp ngoài ngôn từ của
người đối thoại có thể gây nên những nhầm lẫn đáng tiếc. Việc hiểu ngôn ngữ không lời của một
nền văn hóa giúp chúng ta tránh được việc gửi đi những thông điệp không dự kiến hoặc gây
phiều hà. Ở Mỹ, khoảng cách theo phong tục mà các bên tham gia thảo luận về kinh doanh phải
từ 5 đến 8 bước chân, trong khi đó ở Mỹ Latin khoảng cách này là 3 đến 5 bước. Kết quả là
nhiều người Bắc Mỹ cảm nhận một cách không ý thức rằng người Mỹ Latin đang “chiếm vị trí
con người họ” và có thể lùi khỏi suốt cuộc nói chuyện.
Việc tặng quà là một phần của giao tiếp trong đời sống hàng ngày cũng như trong kinh

doanh. Trong những nền văn hoá khác nhau, tập quán tặng quà cũng khác nhau. Ví dụ, người
Nhật tránh tặng nhau cây cối vì nó gợi liên tưởng đến sự ốm yếu, người Nga tránh tặng nhau dao
kéo vì sợ dao kéo cắt đứt mối quan hệ. Cần tìm hiểu tập quán tặng quà và quan niệm của người
nhận quà để chọn được món quà thích hợp.
1.3.3. Văn hóa kinh doanh quyết định phương thức quản trị
Trong thương mại quốc tế, các doanh nhân phải tổ chức hoạt động kinh doanh ở nhiều
quốc gia. Những vấn đề trong quản trị kinh doanh như mô hình tổ chức kinh doanh, vấn đề nhân
sự…đều chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa. Việc tuyển dụng, đề bạt nhân sự cũng vậy. Tại
một số nước “trọng nam khinh nữ” như Nhật Bản, Malaysia, Peru…phụ nữ ít khi tham gia vào
kinh doanh. Cá biệt như một số nước Hồi giáo, phụ nữ còn bị cấm đi làm.
1.3.4. Văn hóa kinh doanh góp phần hướng dẫn tiêu dùng
Trang 8
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
Mô hình tiêu dùng, phong cách sống, những nhu cầu được ưu tiên của con người đều liên
quan chặt chẽ đến văn hóa. Văn hóa mô tả phong cách mà con người ở những quốc gia khác
nhau thỏa mãn nhu cầu của họ. Thực tế đã cho thấy, hai sản phẩm chất lượng và công dụng
tương tự nhau cùng đưa vào thị trường một nước, một sản phẩm bán rất chạy còn sản phẩm kia
lại ế ẩm. Nguyên nhân tại sao? Mặc dù việc tung sản phẩm vào thị trường có thể phụ thuộc vào
những yếu tố khác nhau, nhưng trong nhiều trường hợp. nguyên nhân chính là do sự sai lầm về
mặt văn hóa.
Quá trình toàn cầu hóa đòi hỏi mỗi một người tham gia vào kinh doanh phải thể hiện một
trình độ hiểu biết nhất định về văn hóa kinh doanh - một hiểu biết chi tiết về văn hóa cho phép
con người sống và làm việc trong nó. Hiểu biết về văn hóa giúp nâng cao năng lực quản lý
người lao động, quảng bá sản phẩm và thực hiện việc đàm phán ở các quốc gia khác nhau.
Những thương hiệu toàn cầu như MTV hay Gucci có những lợi thế cạnh tranh rất lớn, nhưng
những khác biệt về văn hóa vẫn đòi hỏi phải có sự biến đổi sao cho phù hợp với các thị trường
địa phương. Bởi vì văn hóa kinh doanh quy định rằng nhiều sản phẩm phải phù hợp với thị hiếu
và những đặc điểm của địa phương, nên hiểu biết về văn hóa sẽ đưa các doanh nhân đến gần với
nhu cầu và ham thích của khách hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh. Về cơ bản, văn hóa kinh
doanh ảnh hưởng đến tiêu dùng theo các chiều hướng sau:

 Văn hóa quyết định mẫu mã sản phẩm: cùng một loại sản phẩm khi được bán ở các địa
phương, các nền văn hoá khác nhau và hướng tới những đối tượng người tiêu dùng khác nhau
thì phải có những đặc điểm đặc trưng riêng. Những đặc trưng đó được quy định bởi thị hiếu,
quan niệm và các đặc điểm khác nhau của từng nền văn hoá. Ví dụ, ở Việt Nam xe máy là
phương tiện đi lại phổ biến, người ta dùng nó để di chuyển trong thành phố, trên những con
đường nhiều chỗ rẽ, trong những ngõ nhỏ và sâu. Vì thế, xe máy sản xuất cho thị trường tiêu
dùng Việt Nam phải là loại xe có phân khối nhỏ, kích thước hợp lý để tiện đi lại, tiết kiệm nhiên
liệu và không chiếm nhiều chỗ trong những ngôi nhà nhỏ hẹp. Trong khi đó, xe máy sản xuất
hướng tới người sử dụng ở châu Âu hay châu Mỹ lại phải là xe máy phân khối lớn vì chúng
được sử dụng làm phương tiện thể thao hoặc để di chuyển trên đường cao tốc.
 Văn hóa ảnh hưởng đến việc phân phối sản phẩm: tập quán mua sắm của người tiêu
dùng ở các nên văn hoá khác nhau ảnh hưởng đến khâu phân phối trong kinh doanh. Các doanh
nghiệp khi tiếp cận một thị trường mới cần tìm hiểu thói quen mua sắm tại thị trường đó để lựa
chọn hình thức phân phối hiệu quả nhất. Người Mỹ thường thích mua hàng ở các siêu thị hoặc
các trung tâm buôn bán lớn (shopping mall). Họ thường dành dịp cuối tuần để đi mua sắm nên
việc tất cả các loại hàng hoá cùng có mặt trong một địa điểm bán hàng khiến họ cảm thấy thuận
tiện. Hơn nữa, do phần lớn các gia đình Mỹ đều có ô tô riêng nên việc mua sắm một khối lượng
hàng lớn là tiện lợi đối với họ. Trái lại, người Việt Nam lại thích mua sắm ở gần nơi ở để không
phải đi xa, và khi nào cần gì là có thể mua được ngay. Phần lớn người Việt Nam không có thói
quen mua sắm một số lượng hàng lớn để dùng trong một thời gian dài. Chỉ với những hàng hóa
có giá trị lớn thì họ mới đến các đại lý hoặc các trung tâm phân phối để mua, còn với những tiêu
dùng hàng ngày thì họ thích đến các cửa hàng tạp hoá hơn. Người Nhật thì lại thích những cửa
hàng tiện lợi mở cửa 24/24 giờ.
Trang 9
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
 Văn hóa ảnh hưởng đến giá cả: quan niệm về giá cả và chất lượng hàng hoá của người
tiêu dùng có tác động không nhỏ đến chiến lược giá của doanh nghiệp. Người Việt Nam thích
hàng hoá có chất lượng cao nhưng giá phải thấp, trong khi với người Nhật thì hàng hóa giá thấp
chưa chắc đã thu hút được họ. Người Nhật quan niệm giá cao đồng nghĩa với hàng hoá tốt,
thương hiệu được nhiều người biết đến, còn giá thấp hàm ý chất lượng không cao. Doanh nghiệp

không biết điều này có thể đưa ra sản phẩm với mức giá thấp hơn so với mức giá của đối thủ
cạnh tranh, song chưa chắc đã bán được hàng, trong khi nếu đặt một mức giá cao thì hàng sẽ bán
chạy. Vì thế, khi xây dựng chiến lược giá, các doanh nghiệp cần lưu ý tìm hiểu quan niệm của
người tiêu dùng ở thị trường mà họ nhắm tới.
 Văn hóa ảnh hưởng đến quảng cáo: ảnh hưởng dễ nhận thấy nhất của văn hoá đối với
hoạt động xúc tiến thương mại thể hiện ở quảng cáo. Cùng một kiểu quảng cáo có thể được đón
nhận nồng nhiệt ở thị trường này, bởi một nhóm người tiêu dùng này, nhưng lại bị tẩy chay ở
một thị trường khác, bởi một tập thể người tiêu dùng khác. Hãng quần bị Calvin Klein sử dụng
hình ảnh một người đàn ông cởi trần để quảng cáo cho nhãn hiệu quần CK, song mẫu quảng này
bị phản đối ở các nước theo đạo Hồi, và nhà sản xuất phải sử dụng một mẫu quảng cáo khác để
quảng bá sản phẩm của mình ở thị trường này. Tương tự như vậy, đoạn phim quảng cáo bia
Heineken với hình ảnh cô gái uống cạn cốc bia của người ngồi cùng bàn một cách thèm thuồng
được những người trẻ tuổi Việt Nam ưa thích bởi tính độc đáo thì lại gặp phải sự phản đối của
không ít những người lớn tuổi. Như vậy, doanh nghiệp cần xác định phương thức tiếp thị và
quảng bá sản phẩm thích hợp với quan niệm và thị hiếu của thị trường và nhóm người tiêu dùng
mà họ nhắm tới.
Trong kinh doanh quốc tế, các doanh nhân và các công ty luôn vươn tới những thị trường
mới, mong muốn đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng thuộc những nền văn hóa mới.
Việc quan trọng đầu tiên mà họ phải làm là tìm hiểu nền văn hóa của địa phương nơi họ định
thâm nhập hoặc định tiến hành kinh doanh. Việc tìm hiểu này không chỉ bao gồm những vấn đề
liên quan đến giao tiếp, cách thức tư duy và phong cách làm việc, mà thương nhân hay doanh
nghiệp còn phải có hiểu biết đầy đủ về những gì được coi là tốt, là đẹp trong nền văn hóa mà họ
đang dần dần tiếp cận. Chính vì thế, còn có thể kể đến vai trò của hiểu biết về mỹ học trong hoạt
động ngoại thương. Mỹ học là những gì mà văn hóa coi là hợp thị hiếu trong nghệ thuật (bao
gồm cả âm nhạc, hội họa, khiêu vũ và kiến trúc), là hình ảnh gợi nên bởi những sự biểu đạt cụ
thể, và thậm chí cả tính hình tượng của một số màu sắc nhất định cũng được gọi là mỹ học. Mỹ
học có vai trị quan trọng khi một công ty tính đến chuyện kinh doanh ở một nền văn hóa khác.
Rất nhiều sai phạm có thể xảy ra từ việc chọn màu sắc không phù hợp trong quảng cáo, đóng
gói hàng hóa và ngay cả màu sắc của đồng phục làm việc. Ví dụ, màu xanh lá cây là màu yêu
thích đối với cư dân đạo Hồi và là màu sắc trên hầu hết quốc kỳ các nước theo đạo Hồi, kể cả

Jordani, Pakistan và Cộng hịa A-rập. Điều đó dẫn tới việc hàng hóa thường được đóng gói màu
xanh lá cây để lợi dụng thông điệp về màu sắc này. Ngược lại, một loạt các nước châu á, màu
xanh lá cây thường gây liên tưởng tới sự ốm yếu.
Như vậy, chúng ta thấy rằng văn hóa có vai trò không nhỏ trong kinh doanh nói chung và
hoạt động ngoại thương nói riêng.
Trang 10
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
2. Ảnh hưởng của môi trường văn hóa Mỹ đến hoạt động kinh doanh quốc tế
2.1. Môi trường văn hóa Mỹ
Nền văn hoá của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thật đa dạng, phong phú, cũng giống như một
cây xanh cao to, gồm nhiều cành, nhánh và dĩ nhiên là chúng mọc xúm xít chung quanh thân
hình chính, làm nên diện mạo đầy đủ cho cây xanh đó.
Tuy bắt nguồn từ văn hoá Tây Âu là chính nhưng khi hình thành phát triển thì văn hoá
Mỹ thể hiện là một nền văn hoá đa dạng – phức tạp do gần 300 năm hấp thụ được ở những
người nhập cư và tỵ nạn từ khắp thế giới, tức là xã hội Mỹ có nhiều nền văn hoá và các nhánh
văn hoá phụ.
2.1.1. Ngôn ngữ và bản sắc dân tộc
Theo số liệu của Bộ lao động và thương mại nêu trong cuốn sách “một thế kỷ tăng trưởng
dân số”, cho biết: Khi người Anh đến Mỹ nhập cư ngày một gia tăng chiếm 60 đến 80% dân số
Mỹ thì 13 thuộc địa đầu tiên là do người Anh cai trị. Luật pháp, cơ cấu tổ chức chính quyền, đời
sống văn hoá xã hội thuộc địa Mỹ chủ yếu mang đặc điểm Anglo – saxon. Tiếng Anh là ngôn
ngữ được sử dụng ở tất cả mọi nơi trừ những cộng đồng “nước ngoài” biệt lập.
Cho đến tận ngày nay, nước Mỹ vẫn chưa có ngôn ngữ chính thức, 1/3 số bang lấy tiếng
Anh làm ngôn ngữ chích thức, 2/3 số bang còn lại coi tiếng Mỹ hoặc không coi ngôn ngữ nào là
chícnh thức. Riêng bang đảo Hawai lại tuyên bố có hai ngôn ngữ chính thức tiếng Anh và tiếng
Hawai. Việc ủng hộ tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức cũng khác nhau. Tuy nhiên, trong kinh
doanh quốc tế, tiếng Anh là ngôn ngữ chính được sử dụng ở tất cả mọi nơi trừ những cộng đồng
“nước ngoài” biệt lập.
Có khoảng 337 ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ bằng dấu tại Hoa Kỳ mà trong đó khoảng 176
là có nguồn gốc bản địa. 52 ngôn ngữ nói trong lãnh thổ của Hoa Kỳ ngày nay đã tuyệt chủng

Tóm lại, ngôn ngữ đa dạng và phong phú sẽ tạo ra nhiều điều kiện, thu hút kinh doanh với
các quốc gia trên thế giới.
2.1.2. Tôn giáo
Mỹ là một nước đa chủng tộc, gần như không thiếu một màu da nào, một dân tộc nào trên
đất nước này. Góp vào bức tranh xã hội đầy màu sắc, tôn giáo Mỹ hết sức đa dạng, phong phú,
mang một bản sắc riêng không thấy ở bất cứ quốc gia nào khác.
Hiện nay, ở Mỹ có khoảng 219 tôn giáo nhỏ phân chia thành 341 nghìn tổ chức địa
phương. Tôn giáo lớn nhất và quan trọng nhất nước này là Christmas (còn gọi là đạo KiTô hay
Cơ Đốc Giáo) có khoảng 76,8 triệu tín đồ; Protestant (Tân Giáo), 52 triệu tín đồ; Roman
Catholics (Thiên chúa La Mã), 3,9 triệu tín đồ; Judaism (Do Thái), 4 triệu tín đồ; tiếp theo là
Eastern Othodox Church (Chính giáo phương Đông); rồi Hồi giáo, Phật giáo, Quaker,
Mormons Với một nền tôn giáo đa giáo phái và với một số lượng khổng lồ người tham gia các
hoạt động tôn giáo như vậy mà trên nước Mỹ hiện nay không hề xảy ra các cuộc tàn sát hay
xung đột tôn giáo.
Theo thời gian, những tình cảm hoà đồng tôn giáo Mỹ trở nên bình thường, mọi cộng
đồng tôn giáo vừa độc lập, vừa cùng nhau sinh sống. Những điều đó có được là nhờ 3 yếu tố cơ
bản là Nhà nước, gia đình và tư tưởng người dân.
Trang 11
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
Ở Mỹ, hiện tượng trong một gia đình có năm người mà có ba, bốn quốc tịch là chuyện
bình thường. Như một gia đình có người bố là người Anh theo Tôn giáo, người mẹ là người
Ireland theo phái Calvin, các người con mỗi người theo một tôn giáo. Như vậy, sự hoà đồng
trong tôn giáo chỉ có ở một đất nước như Mỹ khi mà quyền tự do cá nhân được tôn trọng: Tự do
ngôn luận, tự do hội họp, tự do điều trần và không ngoại trừ tự do tín ngưỡng.
Tóm lại, phần lớn người Mỹ coi tín ngưỡng là 1 vấn đề riêng tư, họ có trình độ tin theo và
thực hành tôn giáo rất cao. Các thương gia nước ngoài đến Mỹ tìm kiếm cơ hội làm ăn, có một
số tham gia các ngày lễ tôn giáo phù hợp với mình, có 1 số người thường tránh. Mặc dù tôn
giáo không có vai trò tích cực trong việc quyết định các phương án kinh doanh, nhưng đức tin
của mỗi cá nhân đôi khi ảnh hưởng đến việc ra quyết định. Đây là 1 vấn đề nhạy cảm cần lưu ý
trong giao dịch thương mại.

2.1.3. Tính cách, lối sống và suy nghĩ của con người Mỹ
Khác với một số nền văn hóa khác, nhất là văn hóa Châu Á, nhìn chung, người Mỹ rất coi
trọng tự do cá nhân và tính tự lập. Gia đình, cộng đồng, tôn giáo, hoặc tổ chức là thứ yếu so với
các quyền cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân này cũng dẫn đến một tính cách nổi bật của người Mỹ là
cạnh tranh.
Phong cách chung của doanh nhân Mỹ là ít chú ý đến nghi lễ, đi thẳng vào vấn đề, và
muốn có kết quả nhanh. Trong đàm phán, người Mỹ thường xác định trước và rõ mục tiêu cần
đạt được, chiến lược và chiến thuật đàm phán, và dùng số liệu để chứng minh cho các luận điểm
của mình. Họ muốn dành chiến thắng về phần mình, song cũng sẵn sàng thỏa hiệp trên cơ sở đôi
bên cùng có lợi. ở Hoa Kỳ, “có đi có lại” là nguyên tắc quan trọng trong đàm phán chính trị
cũng như trong kinh doanh.
Người Mỹ thích nói thẳng, rõ ràng, và dễ hiểu. Họ không thích kiểu nói vòng vo, xa xôi,
hoặc ví von. Nhìn chung, khi người Mỹ nói “được” thì có nghĩa là được và “không được” có
nghĩa là không được. Người Mỹ không ngại ngùng khi trả lời “tôi không biết” nếu như họ không
biết về vấn đề mà bạn quan tâm, hoặc “tôi không phụ trách việc này” nếu như vấn đề bạn quan
tâm không trong phạm vi trách nhiệm của họ. Tuy nhiên, người Mỹ thường sẵn sàng chỉ cho bạn
biết bạn phải hỏi ai hoặc tìm ở đâu để có những thông tin mà bạn cần, hoặc ai là người phụ trách
việc mà bạn quan tâm.
Tính thẳng thắn và sự lịch thiệp cũng có mức độ khác nhau tuỳ theo vùng. Người New
York nổi tiếng là trực tính, và thậm chí hơi thô bạo nếu so sánh với văn hóa Châu á. Người ở
vùng Trung Tây cũng thẳng thắn nhưng thường lịch sự hơn nhiều. Người California không phải
lúc nào cũng nói đúng ý nghĩ của họ. Ví dụ ở Los Angeles – miền đất của những giấc mơ - nếu
ai đó nói với bạn “Tôi sẽ trở lại vấn đề này với bạn” thì cũng có thể là họ sẽ làm như vậy thật,
song cũng có thể họ ngụ ý là “Bạn không có cơ hội”.
Nhìn chung, người Mỹ không có thói quen nói hoặc cười to trong khi ăn uống hoặc ở nơi
công cộng. Họ rất tự giác xếp hàng đợi đến lượt mình khi có từ hai người trở lên, và không có
thói quen chen ngang hàng. Tại cửa ra vào thang máy, tầu điện ngầm, hoặc xe buýt, người ở
ngoài thường đợi cho người ở trong ra hết rồi mới vào. Người Mỹ có thói quen cám ơn khi được
người khác giúp đỡ dù chỉ là một việc rất nhỏ như nhường đường chẳng hạn.
 Thời gian là tiền bạc

Trang 12
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
Đối với người Mỹ, thời gian chính là nguồn của cải quý giá giống như nước hay than đá,
cái mà con người có thể sử dụng tốt và cũng có thể sử dụng không tốt: “Thời gian là tiền bạc”,
“Cuộc đời bạn chỉ có từng ấy thời gian và bạn nên biết cách sử dụng một cách khôn ngoan”
Ngay từ rất bé, người Mỹ đã được dạy rằng tương lai không thể tốt hơn quá khứ và hiện tại nếu
con người ta không sử dụng thời gian của mình cho những mục đích củng cố xây dựng và có
định hướng cho tương lai. Vì thế nên người Mỹ tỏ ra rất khâm phục người có “đầu óc tổ chức
tốt”, những người thường viết ra họ sẽ làm gì trong ngày. Con người có lý tưởng theo họ phải là
người đúng giờ và biết quý trọng thời gian của người khác.
Các nhà kinh doanh, khi cần sử dụng luật sư, cần phải chuẩn bị rất kỹ các câu hỏi và nội
dung cần tư vấn, và đi thẳng vào vấn đề để tiết kiệm tối đa thời gian sử dụng luật sư, tức là tiết
kiệm chi phí cho chính mình. Tương tự như vậy, các nhà kinh doanh Mỹ không có nhiều thời
gian để nói chuyện rông dài hoặc đọc những bức thư dài hoặc chờ đợi sự trả lời chậm trễ. Các
bức thư chào hàng hoặc giao dịch trước hết phải thu hút được sự chú ý của người đọc, và phải
ngắn gọn và rõ ràng, trả lời thẳng vào các vấn đề hoặc cungcấp đúng những thông tin mà đối tác
yêu cầu. Sự chậm trễ trả lời các thư hỏi hàng của đối tác Mỹ chắc chắn sẽ làm mất cơ hội kinh
doanh.
Thái độ về thời gian không được số đông trên thế giới chia sẻ, nhất là không phải là châu
Âu. Họ có thể coi thời gian như một cái gì đó đơn giản nhưng vô hình ở xung quanh họ chứ
không phải là một cái gì đó mà họ có thể sử dụng được. Một trong những điều khó đối với người
nước ngoài sống ở Mỹ là phải điều chỉnh để mình quen với khái niệm thời gian cần phải tiết
kiệm bất cứ khi nào có thể và hàng ngày phải biết cách sử dụng cho khôn ngoan.
Trong cố gắng để sử dụng thời gian cho tốt, người Mỹ bị người nước ngoài nhìn nhận
rằng, họ giống như những cỗ máy, những sinh vật không có cảm xúc. Do luôn quá coi trọng thời
gian nên họ không thể tham gia hay hoà đồng vào cộng đồng chung của loài người, điều mà
thực sự rất quan trọng trong cuộc sống.
 Niềm tin
Người Mỹ đều bình đẳng và quyền ngang nhau trong cuộc sống, được đối xử công bằng
và với mức độ tôn trọng như nhau.

Mỗi người là một cá nhân tự do. Người Mỹ không tin vào lý tưởng hoặc phong cách
chung. Cá nhân và biểu tượng cá nhân thường được tôn kính và khuyến khích.
Sự cạnh tranh tạo ra những con người tốt nhất và công việc tốt nhất. "Chỉ có những sinh
vật nào khoẻ nhất, tốt nhất mới có thể tồn tại sau cuộc cạnh tranh sinh tồn”.
Chỉ có bạn mới là người quyết định cuộc sống của bạn sẽ như thế nào và tương lai của
bạn ra sao. Người Mỹ thường không tin vào sự may rủi hoặc số phận. họ rất tự hào về thành tựu
mà cá nhân đạt được.
Sự thay đổi là một điều cần thiết và tốt đẹp. Nó sẽ mang lại sự tiến bộ và cải tiến. Truyền
thống cũ thường không được đánh giá cao ở Mỹ như các nước khác.
Tóm lại, khi giao dịch thương mại người Mỹ thường nghĩ thẳng, nói thẳng và rất có tinh
thần cạnh tranh. Doanh nghiệp Mỹ nhìn chung mạnh dạn và nhanh chóng đi vào những lĩnh
vực kinh tế mới có khả năng mang lại lợi nhuận trước mắt cao. Nền kinh tế Mỹ từng đi đầu
Trang 13
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
trong quá trình biến đổi kết cấu, nâng cao tỷ trọng công nghiệp và sau nữa là tỷ trọng của khu
vực dịch vụ. Cùng với nét văn hoá đề cao cá nhân ở phần trên, mạo hiểm và thực dụng góp
phần thúc đẩy sự bành trướng quan hệ thị trường ở Mỹ. Hoạt động kinh tế Mỹ đề cao lợi ích
ngắn hạn…và do đó, thiên về tầm nhìn ngắn hạn.
Nếu so sánh với các nước Tây Âu như Pháp, Anh, Italia thì có thể nói cuộc sống ở Mỹ
gấp gáp hơn, văn hoá Mỹ mang tính thương mại cao hơn và có nhiều biểu hiện của chủ nghĩa
cực đoan. Về phương diện nào đó, văn hoá Mỹ đồng cảm với chủ trương của các nhà vạch chính
sách Mỹ là khuếch trương một số khía cạnh văn hoá Mỹ, lối sống Mỹ ra các khu vực khác trên
thế giới, làm cho văn hoá Mỹ chiếm vị trí thượng phong, được hoan nghênh và hỗ trợ cho kỳ
vọng nước Mỹ luôn mạnh nhất thế giới, chỉ huy được các quốc gia khác, mọi quyền lợi (kể cả
văn hoá) của họ phải ít nhiều phục vụ cho chủ nghĩa thực dụng của Mỹ.
Ta có thể thấy sự khác biệt giữa người Mỹ và người Á Đông qua các bảng sau:
NĂM GIÁ TRỊ CON NGƯỜI QUAN TRỌNG NHẤT
Người Á Đông Người Mỹ
1. Cần cù 1. Tự lực cánh sinh
2. Hiếu học 2. Thành đạt cá nhân

3. Trung thực 3. Cần cù
4. Tự lực cánh sinh 4. Thành công trong cuộc sống
5. Kỷ luật 5. Giúp đỡ mọi người
SÁU GIÁ TRỊ XÃ HỘI QUAN TRỌNG NHẤT
Người Á Đông Người Mỹ
1. Một xã hội trật tự 1. Tù do ngôn luận
2. Sự hoà nhập xã hội 2. Sự hoà nhập xã hội
3. Các quan chức có trách nhiệm 3. Quyền cá nhân
4. Cởi mở đón nhận tư tưởng mới 4. Tù do tranh luận
5. Tù do ngôn luận 5. Suy nghĩ về bản thân
6. Tôn trọng chính quyền 6. Các quan chức có trách nhiệm
QUAN NIỆM KHÁC VỀ MỘT SỐ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
Giá trị Người Á Đông Người Mỹ
 Thực hiện nghĩa vụ đối với người khác 39% 19%
 Thành công trong cuộc sống 50% 59%
 Thành đạt cá nhân 33% 59%
 Hiếu học 69% 15%
 Kỷ luật cá nhân 48% 22%
2.2. Những nét chính về văn hóa kinh doanh của Mỹ
2.2.1. Văn hóa kinh doanh Mỹ mang tính cạnh tranh cao
Trang 14
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
Cạnh tranh trong kinh doanh ở Mỹ rất gay gắt và khốc liệt. Trong kinh doanh, người Mỹ
luôn muốn vượt lên đồng nghiệp, vượt qua đối thủ và chạy đua với chính bản thân mình. Họ cố
gắng đạt được doanh số bán cao hơn, lợi nhuận lớn hơn, có nhiều khách hàng hơn.
Tính cạnh tranh cao của người Mỹ bắt nguồn từ sự đề cao cá nhân và tính hiệu quả của
xã hội Mỹ. Đối với người Mỹ, cạnh tranh là cách thức chủ yếu để đạt được tham vọng và khẳng
định mình giỏi hơn, vượt trội hơn người khác. Người Mỹ tin rằng chỉ có cạnh tranh hay sự điều
tiết tự động của thị trường mới là xung lực kích thích sự phát triển của nền kinh tế một cách có
hiệu quả nhất. Nền kinh tế Mỹ vận hành theo cơ chế thị trường – nơi cạnh tranh diễn ra sôi động

và gay gắt. Người Mỹ không sợ cạnh tranh mà trái lại lao vào cuộc cạnh tranh khốc liệt. Doanh
nghiệp Mỹ luôn luôn bị ám ảnh bởi câu hỏi làm thế nào để trở nên cạnh tranh hơn, bởi họ không
chỉ tranh giành miếng bánh thị phần với các doanh nghiệp trong nước mà còn với các công ty,
các tập đoàn của Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ…đang mở rộng thị trường tại Mỹ. Bản
thân việc cạnh tranh là điều kiện không thể thiếu để các doanh nghiệp tồn tại và phát triển, điều
đáng nói là ở đây cạnh tranh trong kinh doanh ở Mỹ được đẩy lên đến mức độ khốc liệt. Thị
trường Mỹ là mảnh đất màu mỡ, quy tụ các công ty và doanh nghiệp có tiềm lực lớn, năng động,
luôn luôn muốn bành trướng thị phần và thôn tính đối thủ. Nếu muốn tồn tại và phát triển ở thị
trường này, tính cạnh tranh cao phải trở thành phẩm chất cơ bản của doanh nghiệp.
Các công ty cạnh tranh với nhau khốc liệt, tìm cách chiêu mộ nhân tài, lấy thông tin và bí
quyết kĩ thuật của công ty khác. Họ luôn tìm cách để kiếm ra nhiều tiền hơn với chi phí ít hơn.
Mỹ là một trong những nước dẫn đầu thế giới về số bằng phát minh và sáng chế mỗi năm. Sự
cạnh tranh khốc liệt thể hiện ở xu thế mua lại và sáp nhập diễn ra mạnh mẽ ở Mỹ. Các công ty
sáp nhập với nhau để trở nên mạnh hơn nhằm thôn tính thị trường hoặc để tránh bị mua lại bởi
các đối thủ cạnh tranh mạnh hơn. Điển hình cho xu thế mua lại sáp nhập ở Mỹ là Microsoft. Từ
khi thành lập, Microsoft – công ty máy tính nổi tiếng của Mỹ đã thực hiện hơn 131 vụ mua lại.
Trung bình Microsoft thôn tính sáu công ty một năm thông qua mua lại. Bằng cách này,
Microsoft đã xóa sổ các đối thủ cạnh tranh và biến sức mạnh các công ty bị mua lại thành nguồn
lực phát triển của mình.
Sự cạnh tranh diễn ra không chỉ ở bên ngoài doanh nghiệp mà ngay ở chính bên trong
doanh nghiệp. Người lao động ở Mỹ được trả lương theo kết quả làm việc nên họ tập trung phát
triển kỹ năng và trình độ của mình. Họ chuyên chú vào phát triển cá nhân để cạnh tranh hơn là
quan tâm đến mối liên hệ với tập thể. Mối liên hệ giữa những người lao động trong một cơ sở
kinh doanh không chặt chẽ và gắn bó theo kiểu Nhật Bản. Công nhân Nhật Bản gắn bó với công
ty, coi đó là gia đình của mình; họ cống hiến cho công ty một cách tận tụy, trung thành và hiếm
khi nghỉ việc để tìm đến một công ty khác. Điều này trái ngược với Mỹ. Việc đào tạo và môi
trường kinh doanh ở Mỹ được thiết kế sao cho mỗi cá nhân có thể được thay thế dễ dàng mà
không ảnh hưởng gì đến sự vận hành chung của cả một doanh nghiệp hoặc dây chuyền sản xuất.
Người lao động ở Mỹ dễ dàng thay đổi chỗ làm để tìm kiếm một môi trường làm việc tốt hơn và
mức lương cao hơn. Họ sử dụng tên công ty cũ để làm cho bản sơ yếu lí lịch của mình hấp dẫn

hơn, khiến họ có giá trị hơn khi thi tuyển vào các công ty khác. Điều này hoàn toàn được xã hội
Mỹ chấp nhận. Chính bởi sự thuyên chuyển lao động dễ dàng như vậy nên những người lao
động trong cùng một công ty, doanh nghiệp của Mĩ ít cởi mở thông tin. Người Mỹ không thích
Trang 15
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
câu hỏi về mức lương và công việc, bởi vì những người cùng làm việc với họ có thể trở thành
đối thủ trong tương lai khi họ hoặc những người này chuyển công ty.
Tính cạnh tranh cao là động lực thúc đẩy sự năng động và hiệu quả của nền kinh tế, và
làm tăng năng suất lao động. Tuy nhiên nó cũng gây ra một số hậu quả là sự chia sẻ thông tin
nội bộ không thông suốt, thậm chí hạn chế hiệu quả lao động của cả tập thể. Sự cạnh tranh thái
quá của các doanh nghiệp dẫn đến sự độc quyền.
2.2.2. Văn hóa kinh doanh Mỹ có tính năng động cao
Nền kinh tế Mỹ vận động theo nhịp độ nhanh, khẩn trường. Các chủ thể kinh doanh luôn
luôn hoạt động để nâng cao lợi nhuận. Do quan niệm về thời gian đơn chiều và do sức ép cạnh
tranh khốc liệt, người Mỹ luôn tìm cách để kiếm được nhiều tiền hơn so với đối thủ cạnh tranh
và vượt qua doanh số bán của mình trong chu kỳ kinh doanh trước. Thương nhân Mỹ rất nhanh
nhẹn và đúng giờ. Tính năng động của người Mỹ trong kinh doanh không chỉ đo bằng tác phong
khẩn trương và nhanh nhẹn mà còn ở sự chịu khó suy nghĩ và tư duy. Người Mỹ thích tìm tòi và
luôn tìm ra các chiến lược cạnh tranh hiệu quả, không ngừng cải tiến kỹ thuật và tăng năng suất
lao động.
Nền kinh tế là nền kinh tế dịch vụ. Những lĩnh vực dịch vụ phát triển nhất ở Mỹ là dịch
vụ tài chính, giáo dục, chăm sóc y tế. Ngành dịch vụ đáp ứng nhiều nhu cầu và các nhu cầu của
khách hàng trong ngành dịch vụ thường đa dạng, phong phú. Với tư cách là một nền kinh tế dịch
vụ, công việc kinh doanh ở Mỹ phát triển rất năng động để thỏa mãn đủ loại nhu cầu của khách
hàng. Thậm chí các hãng của Mỹ còn dẫn hướng, sáng tạo ra xu hướng tiêu dùng mới khi khách
hàng chưa xuất hiện nhu cầu. Nền kinh tế là kinh tế thị trường tự do, chịu sự điều chỉnh của
“bàn tay vô hình”. Chính phủ chỉ đóng vai trò rất nhỏ điều tiết nền kinh tế. Mọi thành phần kinh
tế ở Mỹ đều được khuyến khích kinh doanh. Việc kinh doanh được tạo điều kiện để phát triển
tốt nhất. Sự tác động của cái lợi và sự hạn chế tối đa các trở ngại từ phía chính phủ đến việc kinh
doanh đã khích lệ người Mỹ thỏa sức sáng tạo, kích thích họ hoạt động, phát huy hết năng lực

để kiếm ra nhiều tiền và thu về nhiều lợi nhuận hơn. Một trong những nguyên nhân gây ra cuộc
khủng hoảng tài chính bắt đầu ở Mỹ năm 2008 chính là do sự năng động của các ngân hàng
thương mại Mỹ trong việc sáng tạo ra các khoản cho vay tiền gửi tiết kiệm từ dân chúng, các
ngân hàng thương mại của Mỹ tìm cách bán lại cho nhà đầu tư như những giấy tờ có giá. Ngay
cả với các khoản nợ, các ngân hàng Mỹ cũng tìm ra cách để biến chúng ra tiền, họ không thỏa
mãn với các công cụ có lợi nhuận thấp mà nghĩ ra các công cụ cho lợi nhuận cao hơn nữa. Điều
này thể hiện rõ nét tính năng động, sáng tạo của người Mỹ trong kinh doanh dịch vụ tài chính.
Sự năng động của nền kinh tế Mỹ còn thể hiện ở sự ra đời và phá sản của các công ty
Mỹ. Người Mỹ quan niệm thất bại không phải là điều cay đắng đặt dấu chấm hết cho cả sự
nghiệp mà nó là quá trình tích lũy kinh nghiệm cần thiết trong kinh doanh. Trong năm 2005 ở
Mỹ có khoảng 671.800 công ty mới thành lập và 544.800 công ty khác được chuyển nhượng. Có
khoảng 10.000 công ty phá sản mỗi năm. Hơn 39.000 công ty ở Mỹ thông báo phá sản trong
năm 2005. Ngay cả các công ty lớn của Mỹ là Trans World Airline, United Air Lines, Delta
Airline, Northwest Airline, US Airways, Continentical Airlines, Eastern Airlines và Pan Am đã
bị phá sản trong năm 1979 khi chính phủ bãi bỏ quy định du lịch hàng không. Tính năng động
của nền kinh tế Mỹ được thể hiện rõ ở sự biến động khôn lường của các công ty trong nền kinh
Trang 16
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
tế. Năm 1986, Dow Jones niêm yết 12 công ty có chỉ số chứng khoán đại diện cho lĩnh vực
công nghiệp. Đến nay chỉ còn lại một công ty nằm lại trong danh sách chỉ số Dow Jones là
General Electric. Mười một công ty khác đã bị thôn tính bởi đối thủ cạnh tranh, hoặc trở thành
các công ty nhỏ hơn và vai trò trong ngành công nghiệp bị lu mờ hoặc bị giải thể. Vị trí đứng
đầu đã bị thay thế bởi các công ty mới ra đời, và xuất phát điểm của các công ty này chỉ là
những công ty nhỏ (17)
2.2.3. Văn hóa kinh doanh Mỹ coi trọng luật pháp
Người Mỹ tôn trọng luật pháp vì họ tin rằng có thể sử dụng các quy định của luật pháp để
bảo vệ sự tự do và quyền lợi của mình. Điều này hơi trái với những gì chúng ta hay mường
tượng về Mỹ - một xã hội “tự do”. Thực sự dân Mỹ rất tự do nhưng tự do trong khuôn khổ của
pháp luật, những gì pháp luật không cấm người dân có quyền làm. Xã hội Mỹ là điển hình của
một xã hội được vận hành theo luật lệ (rule-based society), tức là tất cả đều được qui định, viết

thành văn bản, và truyền thông rộng rãi. Tòa án là đầu mối quan trọng phân xử mọi tranh chấp
trong xã hội. Người dân biết quyền lợi và nghĩa vụ của mình, cũng như ý thức được vai trò của
các cơ quan chính phủ. Do vậy họ rất tự tin trong chức năng công dân của mình và nếu các viên
chức hay cơ quan chính phủ vi phạm quyền của công dân họ sẽ bị kiện ra tòa. Tòa án thực sự có
ý nghĩa và quyền lực vì nó là một thể chế hoàn toàn độc lập hành pháp và lập pháp. Và đây
chính là cơ chế để hạn chế tham nhũng, lạm quyền, vượt quyền của các viên chức nhà nước. Xã
hội kiểu này khác nhiều với các xã hội Á Đông – các xã hội vận hành dựa nhiều trên các mối
quan hệ (relation-based society) cá nhân. Mỗi cá nhân hay mỗi nhóm tự thiết lập các mối quan
hệ và sử dụng các mối quan hệ đó để đạt các mục tiêu xã hội của mình thay vì sử dụng hệ thống
pháp luật chung. Luật pháp không rõ ràng, đầy đủ và không được nghiêm túc thực thi chính là
cơ sở của các xã hội nhóm này. Không cấm nhưng cũng không có quyền làm – điều này làm cho
dân chúng đánh mất tự tin và tính tự tôn công dân cần thiết cho một xã hội dân chủ.
Ưa thích kiện cũng là một thói quen của người Mỹ, điều này củng cố bởi lòng tin của họ
vào luật pháp Mỹ. Tòa án Mỹ xử án theo án lệ. Bản chất của án lệ là sử dụng các phán quyết của
các vụ án có trước như là căn cứ để xét xử các vụ án sau. Kết quả của một vụ án mới phát sinh
phụ thuộc phần lớn vào khả năng của luật sư bào chữa trong việc tìm ra và chứng tỏ mối liên hệ
giữa vụ án này với một án lệ đã có kết quả xét xử có lợi cho thân chủ của họ. Hơn nữa luật pháp
Mỹ rất phức tạp, quy định pháp luật của mỗi bang với cùng một vấn đề là rất khác nhau. Do vậy
việc xét xử một vụ án ở Mỹ cho những kết quả bất ngờ, không lường trước được. Điều này thúc
đẩy người Mỹ đi kiện. Nếu như ở Việt Nam kiện tụng là việc cần tránh né vì nó làm hỏng mối
quan hệ và mang lại tiếng xấu cho cả hai bên thì chuyện kiện tụng ở Mỹ là điều bình thường.
Các doanh nghiệp Mỹ nắm rất chắc các quy định luật pháp ở Mỹ và luật pháp quốc tế, luật pháp
nước ngoài. Bởi vậy, nếu các doanh nghiệp nước ngoài chấp nhận sử dụng luật của Mỹ mà
không tìm hiểu thấu đáo sẽ bị thua kiện và thiệt hại nặng nề khi có tranh chấp xảy ra.
2.2.4. Văn hóa kinh doanh Mỹ coi trọng thời gian và hiệu quả công việc
Tính hiệu quả coi kết quả thực tế mới là điều đáng lưu tâm và có giá trị nhất. Nó kích
thích các cá nhân, tổ chức hành động để đạt được kết quả tốt nhất với các nguồn lực có hạn.
Tính hiệu quả của người Mỹ có liên quan đến chủ nghĩa thực dụng. Chủ nghĩa thực dụng
đề cao hiệu quả và kinh nghiệm, trong đó coi mọi hành động của con người là nhằm mục đích
Trang 17

Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
kiếm lợi nhuận. Chủ nghĩa thực dụng có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội Mỹ và trở thành học
thuyết triết học đặc trưng của người Mỹ.
Người Mỹ coi hiệu quả mới là thước đo quan trọng nhất. Việc tuyển mộ nhân viên mới
vào ngành thường căn cứ vào thành tích hay hiệu quả làm việc của người này trong quá khứ.
Người Mỹ không đề cao mối quan hệ trong làm ăn như người Nhật và người Trung Quốc. Với
họ, chuyện làm ăn chỉ tiến hành với những người có hiệu quả, tức là có khả năng làm tăng lợi
nhuận của họ. Trong kinh doanh, người Mỹ đặt con người ra khỏi công việc “separate people
out of business” và cái họ nhắm đến là hiệu quả làm việc của người đó chứ không phải thái độ.
Sự đề cao tính hiệu quả và áp lực cạnh tranh buộc người Mỹ phải tôn trọng thời gian và
sử dụng thời gian hợp lý. Khác với quan niệm thời gian đa chiều của người châu Á, với người
Mỹ thời gian là đơn chiều, thời gian đã qua sẽ không bao giờ phục hồi lại được nữa. Bởi vậy
cách duy nhất và hiệu quả nhất là sử dụng triệt để thời gian.
Sự tôn trọng thời gian của người Mỹ thể hiện ở việc họ luôn đúng giờ trong các buổi hẹn
hay công việc. Nếu một người Mỹ đươc mời đi ăn nhưng đến muộn thì phải gọi điện báo trước
cho người mới, nếu không sự lỡ hẹn hoặc đến muộn của người này sẽ là mất lịch sự và gây khó
chịu cho người mời. Người Mỹ luôn luôn ám ảnh với sự đúng giờ, với lịch làm việc đã sắp đặt
sẵn, thời hạn chót và ngày hoàn thành kế hoạch. Họ lập kế hoạch trước để hoàn thành tối đa
công việc trong quỹ thời gian của mình. Người Mỹ luôn xem đồng hồ, kiểm tra giờ trong điện
thoại và trên máy tính. Các câu hỏi thường gặp của người Mỹ là “Mấy giờ rồi?”, “Tôi có bị
muộn không?”, “Khi nào thì dự án hoàn thành?”, “ Chúng ta đã tiến hành được bao lâu rồi?”,
“Chúng ta còn bao nhiều thời gian nữa?”. Với đức tính như vậy, họ tạo ra cho mình một không
khí và nhịp độ làm việc khẩn trương, vào việc ngay, giải quyết vấn đề nhanh. Tuy vậy, những
nghiên cứu so sánh phương pháp làm việc Đông – Tây cũng chỉ ra rằng người Mỹ ra quyết định
nhanh nhưng thực hiện quyết định, nghĩa là triển khai dự án chậm. Ngược lại người Nhật chậm
trong khi ra quyết định nhưng một khi đã ra quyết định thì việc triển khai dự án lại nhanh.
2.3. Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Mỹ tới mối quan hệ kinh tế Việt – Mỹ
2.3.1. Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Mỹ đến quá trình tìm kiếm và tiếp xúc với
các đối tác Mỹ
Khác với phần đông thương nhân Châu Á và thương nhân một số quốc gia khác, người

Mỹ không e ngại phải làm việc với người lại. Chính vì vậy, các doanh nghiệp hoàn toàn có thể
tự làm quen với thương nhân Mỹ thông qua thư từ, email hay điện thoại trực tiếp. Tuy nhiên,
nếu doanh nghiệp có thể tìm được người giới thiệu, hay tìm cơ hội gặp gỡ với bạn hàng tại các
hội chợ, triển lãm thì sẽ rút ngắn được thời gian tìm hiểu nhau hơn. Còn nếu quyết định tự làm
quen, doanh nghiệp nên chuẩn bị đầy đủ những tài liệu về tư cách pháp nhân, khả năng kinh
doanh của mình để chiếm được lòng tin của đối tác. Dù làm quen theo phương pháp nào, cũng
chỉ nên đến gặp đối tác khi đã được hẹn trước. Những cuộc thăm viếng bất ngờ có thể bị coi là
rất bất lịch sự tại nơi này. Người Mỹ nổi tiếng là những người có tác phong giao tiếp cởi mở,
thân thiện và không cầu kỳ trong cách ăn mặc, đặc biệt là các doanh nhân. Hình ảnh Bill Gates,
người giàu nhất thế giới, thường xuất hiện trước công chúng trong bộ trang phục quần Jean và
áo chui đầu, có thể coi như phong cách điển hình của Mỹ.
Người Mỹ rất coi trọng công việc, đối với họ “business is business” nên họ coi trọng
trước hết là hiệu quả công việc. Vì vậy, việc tặng quà hay tổ chức các bữa tiệc tiếp đón không
Trang 18
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
thật sự cần thiết. Người Mỹ không coi trọng việc tặng quà. Hơn nữa, luật pháp nước Mỹ quy
định rất chặt chẽ về việc chống tham nhũng nên các thương nhân không được trao và nhận
những món quà đắt tiền. Vì vậy, khi gặp nhau các bên chỉ nên chuẩn bị những món quà mang
tính lưu niệm có logo của doanh nghiệp.
Người Mỹ luôn coi trọng thời gian và hiệu quả công việc nên phong cách làm việc của họ
thường diễn ra với tốc độc cao. Người Mỹ có khuynh hướng định đoạt mau chóng mọi chuyện.
Nếu họ không bán ngay được hàng cho bạn, họ sẽ bỏ đi bán cho người khác. Thông thường,
nhịp độ đàm phán được quyết định bởi bên có ưu thế. Vì vậy, khi giao dịch với thương nhân
Mỹ, chắc chắn các doanh nghiệp sẽ phải tăng tốc độ. Nhà đàm phán nên chuẩn bị những đơn
chào hàng với số lượng lớn hơn nhiều so với các thương vụ làm ăn với các doanh nghiệp
ASEAN hay EU. Tuy nhiên, cần lường trước năng lực của mình khi đưa ra đơn chào hàng vì
một khi đã đưa ra, các doanh nghiệp sẽ rất khó có khả năng thay đổi.
Trong giao tiếp, người Mỹ ưa thích sự thẳng thắn và phô trương. Một trong những
nguyên nhân đầu tiên dẫn đến nhận xét này là người Mỹ thường có xu hướng nói to, thích nhìn
thẳng vào người đối diện và có thái độ đòi hỏi quyền lợi một cách công khai. Họ luôn luôn thúc

đẩy cuộc thương lượng đến chỗ kết thúc một cách mau chóng nhất. Rất tự tin và phô trương, họ
dễ dàng tìm cách ép buộc bạn chấp nhận điều họ đề nghị. Điều đầu tiên là họ muốn gây ấn
tượng là họ rất hùng mạnh bằng các con số về quy mô của công ty trên thị trường, kim ngạch
mua bán hay số nhân công. Họ muốn làm cho đối phương có cảm giác được giao dịch với họ là
quyền lợi lớn nhất của doanh nghiệp.
2.3.2. Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Mỹ đến quá trình đàm phán ký kết hợp
đồng kinh tế.
Xét về tương quan giữa thế và lực của doanh nghiệp Việt Nam và Mỹ trên bàn đàm phán
thì doanh nghiệp Việt Nam thường là bên yếu hơn. Chính vì thế, mặc dù văn hóa kinh doanh của
hai nước đều có ảnh hưởng tới quá trình đàm phán mua bán hàng hóa quốc tế giữa hai doanh
nghiệp nhưng văn hóa kinh doanh Mỹ thể hiện tác động lớn hơn.
Đa phần các doanh nghiệp Mỹ và Việt Nam giao dịch thông qua fax, email, telex và gặp
gỡ trực tiếp. Tuy nhiên, chỉ có phương pháp đàm phán thông qua gặp gỡ trực tiếp mới có sự tiếp
xúc và tương tác thực tế giữa hai đoàn đàm phán gặp gỡ mặt đối mặt, sự tương tác giữa hai vùng
văn hóa kinh doanh Việt Nam và Mỹ diễn ra trực tiếp có sự phản hồi nhanh chóng, có thể quan
sát được. Do đó, ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Mỹ lên quy trình đàm phán qua gặp gỡ trực
tiếp là rõ rệt nhất. Quy trình đàm phán hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa Việt Nam và
Mỹ tiến hành tuần tự theo các bước: chuẩn bị, đàm phán chính thức và ký hợp đồng.
 Chuẩn bị đàm phán: Thực tế cho thấy ảnh hưởng của tính năng động, tính hiệu quả
và thói quen ưa mạo hiểm một cách có tính toán của người Mỹ đến đàm phán ký kết hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế với doanh nghiệp Việt Nam. Trước khi đàm phán, các doanh nghiệp
Mỹ thường tìm hiểu kỹ về đối tác Việt Nam trong các phương diện: văn hóa kinh doanh, các
quy định pháp luật điều chỉnh hàng hóa của hợp đồng và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, tư
cách pháp lý, uy tín của các doanh nghiệp Việt Nam trong ngành hàng cụ thể. Thực hiện tốt
khâu chuẩn bị đàm phán giúp doanh nghiệp Mỹ tiết kiệm được chi phí, tổn thất do không lường
hết được rủi ro hoặc do chọn sai thị trường. Đây là một biểu hiện của tính hiệu quả và cũng là
cách đảm bảo cho việc kinh doanh của doanh nghiệp Mỹ không đồng nghĩa với rủi ro.
Trang 19
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
Việc thu thập thông tin của doanh nghiệp Mỹ được tiến hành với sự hỗ trợ từ Đại sứ quán

Mỹ tại Việt Nam và các cơ quan thương mại của chính phủ Mỹ. Ngoài ra doanh nghiệp Mỹ còn
thu thập thông tin qua đại lý đặt tại Việt Nam. Người đại lý cung cấp cho doanh nghiệp Mỹ
những thông tin về văn hóa, luật pháp và tình hình kinh doanh của công ty đối tác Việt Nam.
Những thông tin này nhằm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra.
Chính bởi sự năng động và tính hiệu quả mà người Mỹ luôn giành thế chủ động trong
công tác chuẩn bị đàm phán – khâu quan trọng chiếm đến 70% thành công của một cuộc đàm
phán. Người Mỹ có một câu nói nổi tiếng “If you want something done right, do it yourself”
(Nếu bạn muốn điều gì diễn ra tốt đẹp, hãy tự làm điều đó) chính là thể hiện tinh thần chủ động
này.
 Đàm phán chính thức: Đàm phán chính thức có vai trò quyết định đến các vấn đề cần
đàm phán của hai bên. Các nội dung chủ yếu diễn ra trong đàm phán chính thức là: trình bày và
thu thập thông tin, thuyết phục, từ chối và nhượng bộ.
Thẳng thắn là điểm nổi bật trong cách trình bày thông tin của doanh nghiệp Mỹ. Họ đi
thẳng vào vấn đề cần nói, ví dụ chỉ rõ doanh nghiệp Việt Nam có lợi gì từ lời đề nghị của họ.
Nhà đàm phán Mỹ có thể thẳng thừng thể hiện sự không đồng ý của mình với phía Việt Nam.
Do Mỹ là một xã hội tôn trọng ý kiến cá nhân nên các nhà đàm phán Mỹ không lưu tâm nhiều
đến vấn đề giữ thể diện cho phía đối tác. Với họ, cách thức thể hiện không quan trọng bằng bản
thân nội dung thông điệp cần chuyển tải. Trong khi phía Việt Nam trình bày các lập luận, phía
Mỹ có thể cắt ngang và chỉ trích trực tiếp nếu như họ thấy lập luận đó là không hợp lý. Điều này
có thể bị coi là thô lỗ và không giữ thể hiện cho đối tác nếu xét từ phía đoàn đàm phán Việt
Nam nhưng với người Mỹ, đây là điều được chấp nhận và hết sức bình thường.
Bên phía đoàn đàm phán hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Mỹ thường cung cấp
thông tin trước. Theo họ, sự tin tưởng lẫn nhau trong kinh doanh phải thể hiện bằng sự trao đổi
thông tin một cách tự do, không e ngại. Họ cung cấp thông tin trước và hy vọng phía Việt Nam
cũng làm như vậy. Đối với người Mỹ, sự tin tưởng hoàn toàn được xây dựng khi cả hai bên đưa
ra thông tin cùng những đảm bảo về mặt pháp lý và đôi bên hoàn thành các cam kết trong hợp
đồng. Điều này phù hợp với tinh thần ưa mạo hiểm có tính toán của người Mỹ.
Người Mỹ ít khi đưa ra nhượng bộ. Bởi vì đối tác Mỹ thường đưa ra lời đề nghị đầu tiên
(first offer) gần với mức họ mong muốn đạt được trong đàm phán. Chẳng hạn, trong đàm phán
giá, đối tác Mỹ thường đưa ra lời đề nghị đầu tiên với mức bằng hoặc gần bằng mức giá họ cho

là hợp lý và không thể nhượng bộ hơn nữa. Tuy nhiên, bên Việt Nam thường hay mặc cả rất gắt
gao về điều khoản giá. Điều này không hiệu quả vì người Mỹ không có thói quen mặc cả điều
khoản giá với tỷ lệ lớn. Việc kinh doanh ở Mỹ thể hiện tính tiêu chuẩn hóa cao, giá cả của hàng
hóa trên thị trường đã được niêm yết và không thể thay đổi, hoặc có chênh lệch nhưng chênh
lệch không lớn như ở thị trường Việt Nam.
 Kết thúc đàm phán và ký kết hợp đồng: Hợp đồng được ký kết khi cả hai doanh
nghiệp cùng đi đến một thỏa thuận chung. Nếu hợp đồng được ký tại Việt Nam thì sau khi ký
hợp đồng, bên Việt Nam thường chiêu đãi đối tác Mỹ tại một nhà hàng hoặc khách sạn. Chi phí
chiêu đãi do doanh nghiệp Việt Nam chi ra. Điều này thể hiện thiện chí của doanh nghiệp Việt
Nam và cũng xuất phát từ văn hóa kinh doanh của cả hai nước: Khi một người được mời ăn tối
kết hợp giải quyết công việc thì chi phí sẽ do người mời chi trả. Việc chiêu đãi đoàn đàm phán
Trang 20
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
doanh nghiệp Mỹ thể hiện lòng hiếu khách và mong muốn tạo mối quan hệ làm ăn lâu dài của
phía Việt Nam. Tuy nhiên, trong văn hóa kinh doanh Mỹ, tính hiệu quả luôn được đặt lên hàng
đầu. Phía Mỹ thường không coi trọng chuyện chiêu đãi sau đàm phán. Chuyện chiêu đãi đoàn
đàm phán doanh nghiệp Mỹ không ảnh hưởng nhiều đến quyết định đặt quan hệ kinh doanh lâu
dài, trừ phi bên Việt Nam tỏ rõ rằng việc làm ăn với doanh nghiệp Việt Nam mang lại hiệu quả
thật sự cho doanh nghiệp Mỹ.
2.3.3. Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Mỹ đến quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế
 Vai trò của hợp đồng: Người Mỹ luôn sử dụng hợp đồng trong mọi tình huống. Với
họ hợp đồng là kết thúc. Sau khi ký hợp đồng họ sẽ không chịu mang theo bất cứ một trách
nhiệm nào ngoài những điều khoản của hợp đồng. Do vậy, một bản hợp đồng của người Mỹ
thường rất dài và được soạn thảo một cách tỉ mỉ và cẩn thận. Doanh nghiệp Mỹ thường thuê
những luật sư nhiều kinh nghiệm để giúp họ soạn thảo hợp đồng vì chỉ cần một điều khoản
không hợp lý gây mâu thuẩn thương mại giữa hai bên thì rất dễ bị đưa ra tòa.
Vì thế, trong quá trình làm ăn với một đối tác là doanh nghiệp Mỹ thì các doanh nghiệp
Việt Nam không nên tiếc tiền thuê một luật sư giỏi để tham vấn cách thảo hợp đồng, bởi nếu đã
phải ra tòa, có nghĩa là các bên đều bị thiệt hại. Các luật sư ở Mỹ có tinh chuyên môn hóa rất
cao, có những người chỉ chuyên về một lĩnh vực nào đó, nên các doanh nghiệp Việt Nam có thể

thuê được những luật sư đúng chuyên ngành kinh doanh để có được sự hỗ trợ tốt nhất.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam nên thận trọng, hạn chế để xẩy ra tranh chấp và
tránh dính líu đến kiện cáo vì dù giải quyết tranh chấp dưới hình thức nào thì đều gây tốn kém
và về thời gian lẫn tiền bạc cho doanh nghiệp. Kiện một người ra mua hàng không thanh toán
cho doanh nghiệp thường tốn kém hơn cả việc đòi lại được hàng. Tại Mỹ, các vụ kiện tại tiểu
bang và liên bang đều có thể kháng cáo lên tòa án tối cao Hoa Kỳ. Mỗi vụ kiện thương mại mất
từ 1 đến 5 năm kể từ khi bắt đầu đến khi có phán quyết. Điểm khác biệt của Hoa Kỳ là bên thua
kiện không phải trả phần chi phí pháp lý của bên thắng kiện.
Ngoài các tòa án, doanh nghiệp cũng có thể lựa chọn hình thức khác là trọng tài thương
mại. Các bên lựa chọn trình bày trước trọng tài thương mại và cùng phải trả chi phí cho trọng tài
thương mại. Chi phí cho trọng tài thường đắt hơn rất nhiều so với tòa án, quyết định của trọng
tài thương mại không có tính kháng cáo mặc dù có giá trị pháp lý. Ưu điểm của trọng tài thương
mại là mặc dù các hoạt động khá giống với một phiên tòa nhưng thời gian phân xử sẽ nhanh hơn
so với phân xử tại tòa án. Hiện nay các tranh chấp về thương mại giứa doanh nghiệp hai nước
thường có xu hướng sử dụng trọng tài, và khoản mục về trọng tài nhất thiết cần phải được ghi
trong hợp đồng.
Trước khi đưa vụ kiện lên tòa án hay trọng tài thương mại, doanh nghiệp có thể lựa chọn
hình thức hòa giải và các bên cùng phải trả chi phí cho trung gian hòa giải. Tuy nhiên, phương
thức này ít khi đạt được sự thỏa thuận và phán quyết của trung gian hòa giải không có tính ràng
buộc pháp lý.
 Rất nhiều rào cản về pháp luật, thương mại, kỹ thuật đối với hàng hóa: Sự rắc
rối, phức tạp của luật pháp Mỹ đang gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam nếu
muốn chen chân vào thị trường tiềm năng song còn quá mới mẻ này. Theo các chuyên gia tư vấn
Trang 21
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
kinh doanh, một trong những nguyên nhân khiến hệ thống pháp luật của Mỹ trở nên rối rắm,
phức tạp là do đất nước này ngoài luật liêng bang, còn có 50 hệ thống luật riêng của 50 bang
khác nhau với không ít các điều khoản quy định khác xa nhau. Mặt khác, các bang đều có thẩm
quyền lớn trong việc điều chỉnh các hoạt động kinh doanh và thương mại. Những điều này cộng
với đặc điểm Mỹ là một nước theo truyền thống pháp luật án lệ, đã khiến cho họ trở thành một

trong số ít các quốc gia trên thế giới tham gia nhiều vào các vụ tranh chấp thương mại quốc tế.
Trong nhiều thập kỷ qua, Mỹ luôn tích cực theo đuổi chính sách tự do hóa thương mại
toàn cầu, khu vực và song phương. Do đó, Luật Thương mại của họ có hẳn một số đạo luật quy
định về những trường hợp bồi thường, ví dụ như khi hàng hóa nước ngoài được hưởng lợi thế
không công bằng trên thị trường Mỹ hoặc hàng hóa của Mỹ bị phân biệt đối xử trên thị trường
nước ngoài. Hai đạo luật phổ biến nhất bảo hộ các ngành sản xuất của Mỹ chống lại hàng nhập
khẩu không công bằng là Luật Thuế bù giá và Luật Chống phá giá. Cả hai đạo luật này đều có
quy định, sẽ ấn định phần thuế bổ sung đối với hàng hóa nhập khẩu, nếu chúng bị phát hiện là
được trao đổi không công bằng.
Các chuyên gia kế toán, kiểm toán nhận định, hệ thống thuế của Mỹ cũng nổi tiếng là rắc
rối và ngày càng thêm phần phức tạp. Nhiều loại thuế ở 50 bang được áp dụng không chỉ ở cấp
liên bang, và tiểu bang mà còn tại ngay cả ở cấp thấp hơn (cấp địa phương). Hơn nữa, cá nhân
hay công ty đóng thuế đều phải tự khai thu nhập và đóng thuế trên thu nhập được khai, chú
không chỉ chờ lệnh từ cơ quan thuế. Chính do sự phức tạp này mà ngay cả người dân Mỹ cũng
phải thường xuyên viện đến dịch vụ của các nhà khai thuế nhằm tránh rủi ro bị phạt khi khai sai,
nộp chậm thuế…
Ngoài ra, thị trường cũng như văn hóa kinh doanh Mỹ còn có tính tiêu chuẩn hóa rất cao.
Biểu hiện của tính tiêu chuẩn hóa trong văn hóa kinh doanh Mỹ là sự đa dạng, phức tạp của hệ
thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm và quy trình sản xuất kinh doanh đới với hàng hóa
trong nước và hàng rào kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu.
Tính tiêu chuẩn hóa đối với hàng nhập khẩu của Mỹ mạnh hơn hẳn các nước châu Á.
Chẳng hạn, để nhập khẩu hàng thủy sản vào Mỹ, nước xuất khẩu phải sản xuất sản phẩm thỏa
mãn các tiêu chuẩn về độ sạch, đúng nhãn mác, không độc hại và có đầy đủ thông tin về sản
phẩm theo quy định của cơ quan thực phẩm và dược phẩm FDA (U.S Food and Drug
Administration), Cục quản lý nghề cá biển quốc gia NMFS ( national Marine Fisheries Service).
Ngoài ra, hàng thủy sản nhập khẩu vào Mỹ còn phải tuân theo các quy định của luật thực phẩm,
đạo luật chống khủng bố sinh học năm 2002 BTA (Bioterorrism Act Enforcement), Luật về
nhãn mác hàng hóa, các quy định về dán nhãn hàng hóa, và các quy định về phụ gia thực phẩm.
Vì văn hóa kinh doanh Mỹ có tính tiêu chuẩn hóa cao nên việc kinh doanh với thị trường
Mỹ đòi hỏi sự minh bạch cao. Các sản phẩm xuất khẩu vào thị trường Mỹ phải thảo mãn các

thống số, chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm vào quy trình sản xuất. Các thông số về chất
lượng, nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm phải được công bố một cách rõ rang, không được phép
mập mờ.
 Doanh nghiệp Việt Nam hay gặp sự phản kháng từ các nhà sản xuất nội địa của
Mỹ: Hoa Kỳ có rất nhiều hiệp hội doanh nghiệp và nhóm lợi ích. Những hiệp hội và nhóm lợi
ích này có ảnh hưởng lớn đối với các chính khách Hoa Kỳ, đặc biệt khi họ sử dụng vận động
Trang 22
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
hàng lang. Vì phải phân định thắng thua trong các cuộc bầu cử dân chủ nên các nghị sỹ và nhiều
chính khách Hoa Kỳ không thể không tính đến sự ủng hộ của các hiệp hội hoặc nhóm lợi ích.
Khi các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường với thị phần trong một thị trường hàng
hóa cụ thể nào đó có khả năng ảnh hưởng tới lợi ích của các nhà sản xuất Hoa Kỳ thì hiệp hội
của họ sẽ hàng đồng để bảo vệ các thành viên. Công cụ thường dùng là các vụ kiện chống bán
phá giá hoặc chống trợ cấp. Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu cá ba sa, tôm, sản phẩm dệt
may đã từng phải đối mặt với các vụ kiện như vậy. Đệ tự bảo vệ mình, doanh nghiệp Việt Nam
cần phải biết những trợ cấp nào không được sử dụng để tránh đối mặt với các vụ kiện. Các
doanh nghiệp Việt Nam cũng phải biết lưu giữ những chứng từ để minh chứng cho tình trạng
sản phẩm của mình có giá rẻ là do những thuận lợi về chi phí sản xuất chứ không phảo do bán
phá giá. Nhiều khi, dù thực tế có những lợi thế nhất định về chi phí sản xuất song các doanh
nghiệp Việt Nam không chứng minh được do thiếu những bằng chứng cần thiết. Lưu giữ chứng
từ một cách khoa học không chỉ giúp cho doanh nghiệp có được những số liệu chính xác về tài
chính mà còn rất hữu ích trong việc vượt qua các vụ kiện từ phía các doanh nghiệp Hoa Kỳ.
2.3.4. Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Mỹ đến quá trình ra quyết định kinh
doanh
Ở Mỹ, việc mua bán sáp nhập công ty diễn ra rất nhanh chóng, có khi chỉ trong vòng dăm
ba ngày là hoàn tất. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, có sự tham gia của các công ty Hoa Kỳ
là một cơ hội tốt để phát triển. Còn về phía Hoa Kỳ, các doanh nghiệp đầu tư chú trọng ở châu
Á, đặc biệt là 3 địa điểm; Trung Quốc, Ấn độ và Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam
có lợi thế về tốc độ phát triển kinh tế (Cao, ổn định), chính sách của nhà nước cởi mở hơn, vị thế
chiến lược tốt, thị trường nội địa phong phú.

Bên cạnh lợi thế của bối cảnh chung đó, các công ty Việt Nam muốn thu hút đầu tư từ
phía Mỹ thì cần làm sao cho họ thấy được công ty của mình có triển vọng, hoạch định làm ăn
của mình có khả năng sinh lợi cao cùng với chứng tỏ được rằng mình có cái mà họ đang thiếu,
chẳng hạn sự am hiểu thị trường và các nguồn lực nội địa có sẵn.
Các doanh nghiệp Mỹ rất chú trọng đến yếu tố lợi nhuận khi đầu tư nhưng họ cũng là
người rất tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, một yếu tố quan ngại cho các nhà đầu tư Hoa Kỳ chính
là sự minh bạch của công ty Việt Nam. Họ rất sợ chuyện cổ phiếu tăng vọt trong vòng thời gian
vài ba ngày vì điều gì đó biểu thị sự không chuyên nghiệp của thị trường. Khi nhận thấy doanh
nghiệp không minh mạnh thì họ không dám đầu tư. Ở nước ngoài, họ có thể bỏ ra vài tỉ USD để
mua một công ty một cách nhanh gọn vì mọi thứ đã rõ ràng minh bạch, các đối tác chỉ cần xem
xét quà quyết đoán. Thực tế, vì lợi ích nào đó, một vài doanh nghiệp Việt Nam có lý do riêng
của mình để không minh bạch. Điều này chỉ khiến cho các doanh nghiệp chỉ thu được lợi ích
ngắn hạn mà lại đánh mất đi những khoản đầu tư đáng kể từ các doanh nghiệp Mỹ.
Sự minh bạch trong hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp nên các số liệu
được dùng để tính giá thành bị lấy từ một nước thứ 3 hoặc là từ các nhà sản xuất nội địa của Mỹ.
Chính điều này đã khiến cho các nhà xuất khẩu của Việt Nam gặp bất lợi và thường bị thua kiện
trong các vụ kiện bán phá giá hàng Việt nam ở nước ngoài.
Trang 23
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
2.3.5. Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Mỹ tới đặc tính, nhu cầu của thị trường Mỹ
 Thị trườngMỹ luôn luôn chú ý đến việc bảo vệ người tiêu dùng: Doanh nghiệp Việt
Nam cần biết rằng Hoa Kỳ là quốc gia có pháp luật bảo vệ người tiêu dùng khá hiệu quả. Án lệ
về bảo vệ người tiêu dùng cho thấy nhiều doanh nghiệp đã phải bồi thường cho người tiêu dùng
những khoản tiền khổng lồ do chất lượng hàng hóa kém, gây tổn hại đến sức khỏe thậm chí tính
mạng của người tiêu dùng. Việc khối lượng lớn đồ chơi sản xuất ở Trung Quốc nhập vào Mỹ bị
thu hồi, các công ty thuốc lá bồi thường cho nhiều bệnh nhân ung thư là một vài minh chứng.
Bảo vệ người tiêu dùng ở Hoa Kỳ tồn tại dưới chế dịnh pháp lý trách nhiệm sản phẩm
(product liability) và ở mức cao hơn là trách nhiệm nghiêm ngặt (Strict liability). Các quy định
về trách nhiệm sản phẩm buộc các doanh nghiệp phải đảm bảo độ an toàn của sản phẩm khi đưa
vào lưu thông và phải cảnh báo cho người tiêu dùng những tác động xấu của việc sử dụng sản

phẩm mà họ buộc phải thấy tại thời điểm thiết kế, sản xuất hoặc đưa sản phẩm vào thị trường.Vi
phạm nghĩa vụ này, doanh nghiệp, người sản xuất phải bồi thường những tổn hại gây cho người
tiêu dùng. Trách nhiệm nghiêm ngặt còn bảo vệ người tiêu dùng ở mức cao hơn. Trách nhiệm
của nhà sản xuất, nhập khẩu bồi thường những tổn hại gây cho người tiêu dùng được áp dụng
ngay cả khi không có lỗi của người sản xuất hay nhà nhập khẩu.
Khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam phải đặc biệt chú ý
đến chất lượng và độ an toàn của sản phẩm. Doanh nghiệp Việt Nam đừng nghĩ rằng xuất được
sản phẩm sang và tiêu thu hết ở thị trường Hoa Kỳ là thành công. Thành công này chỉ có khi
chất lương sản phẩm của doanh nghiệp tốt, không gây tổn hại sức khỏe cho người tiêu dùng.
Ngược lại, doanh nghiệp Việt Nam sẽ đối mặt với những vụ kiện bồi thường thiệt hại do hiệu
lực pháp luật về trách nhiệm của sản phẩm. Sự tốn kém thời gian và tiền bạc khi phải rơi vào dù
chỉ một vụ kiện Hoa Kỳ thì doanh nghiệp Việt Nam đứng trước những chi phí lớn.
 Thị trường Mỹ là một thị trường dễ tính và thực dụng: Mỹ là một đất nước đa sắc
tộc, mỗi nơi đều có nhu cầu và thị hiếu riêng do quá trình di cư trước đây mang lại. Người Mỹ
hiện nay rất thực dụng, họ thường thích hàng hóa có nhiều công dụng, càng nhiều tính năng
càng tốt. Ví dụ; xe ô tô con của Mỹ được sản xuất với nhiều chức năng phù hợp cho gia đình khi
đi du lịch, xe tải cỡ lớn, cỡ trung bình đều có các dụng vụ gá lắp để có thể xoay trở dễ dàng
tránh va đập khi di chuyển. Chính vì phù hợp thói quen tiêu dùng này của người Mỹ nên những
loại ô tô này vẫn luôn giữ được vị thế trên thị trường ô tô của Mỹ. Trong thiết kế mặc dù có thể
không trau chuốt kỹ càng nhưng hàng hóa phải thể hiện được tính sáng tạo, nét riêng biệt, sẽ
phải có các chỉ dẫn về sử dụng, có các dịch vụ hậu mãi. Hàng hóa khi bán cho khách hàng phải
được bao gói cẩn thận và thường được trang trí đẹp, người bán trong nhiều trường hợp phải vận
chuyển tận nhà. Điều này khiến cho các nhà sản xuất, kinh doanh phải tính toán cẩn thận các chi
phí trong giá cả. Việc sản xuất ra hàng mới chỉ là một nữa nghĩa vụ đối với người tiêu dùng mà
thôi.
Thị trường Mỹ là một thị trường rất lớn, sức tiêu thụ của người tiêu dùng Mỹ được xếp
vào loại cao nhất thế giới, trung bình một người dân Mỹ tiêu dùng gấp đôi một người Nhật hay
là người châu Âu. Cũng tại Mỹ số lượng hàng hóa và sản phẩm được chào bán nhiều nhất trên
thế giới và có nguồn gốc từ rất nhiều công ty đến từ khắp nơi trên thế giới. Người tiêu dùng Mỹ
luôn tràn ngập trong các sự phong phú của các lựa chọn hàng hóa tiêu dùng cho mình, vì thế họ

Trang 24
Văn hóa kinh doanh Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
luôn chuộng những sản phẩm có mẫu mã đa dạng, độc đáo và giá rẻ. Không chỉ vậy, nhu cầu
của người Mỹ về chất lượng hàng hóa cũng rất đa dạng. Ở Mỹ có hệ thống cửa hàng dành cho
người có thu nhập cao, hệ thống cửa hàng dành cho người có thu nhập trung bình và cũng có
cửa hàng dành cho người nghèo chủ yếu bán hàng của các nước Trung Quốc, Châu Á, Châu Mỹ
La tinh có chất lượng thấp. Đây là những thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam khi thâm nhập thị
trường Mỹ.
Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam chưa nắm bắt được thị hiếu tiêu dùng của người Mỹ.
Ngay từ những năm đầu sau khi thiết lập quan hệ ngoài giao (1995), các sản phẩm thô như; cà
phê, hạt điều, hạt tiêu, tôm đông lạnh, dầu mỏ, do không bị thuế (0%) nên kim ngạch xuất khẩu
vào Mỹ tăng rất nhanh. Tuy nhiên, điểm hạn chế là: người Mỹ quen dùng cà phê Arabica trong
khi Việt Nam bán loại Robusta; Mỹ mua hạt tiêu theo tiêu chuẩn ASTA, trong khi Việt Nam chủ
yếu bán loại FAQ 500gr/l; hạt điều thì số lượng có hạn; hải sản chưa đa dạng sản phẩm, chủ yếu
là tôm đông lạnh và bị đánh thuế chống phá giá; dầu mỏ Việt Nam chưa coi Mỹ là thị trường
chính. Các sản phẩm thô nói trên giá cả biến động thất thường và theo thời vụ. Để tăng giá trị và
duy trì tăng trưởng các mặt hàng này, cần tăng tỷ lệ sản phẩm chế biến với chất lượng phù hợp.
Hiệp định Việt- Mỹ có hiệu lực ngày 10-12-2001 với việc cắt giảm mạnh thuế nhập khẩu,
đã tạo cơ hội cho nhiều sản phẩm công nghiệp và thủ công nghiệp của Việt Nam. Kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may đã tăng ngoạn mục: Từ 50 triệu USD năm 2001 lên 5 tỷ USD năm
2009. Do khó cạnh tranh về giá với Trung Quốc, Ấn Độ, nên Việt Nam xác định tập trung làm
quần áo chất lượng trung bình trở lên. Hàng giày, dép cần tăng cường năng lực thiết kế để có
nhiều mẫu giày thời trang làm dàng FOB. Các mặt hàng gốm sứ, mây tre, mỹ nghệ, trang sức,
kim khí, đồ nhựa…. thời gian qua kim ngạch đã tăng đáng kể, những chủ yếu do mở rộng số
lượng mặt hàng, chưa tạo được mặt hàng chủ lực. Đồ gỗ gia dụng mất năm gần đay kim ngạch
tăng nhanh, nhưng quy mô sản xuất còn nhỏ và phải nhập gỗ nguyên liệu giá cao.
Nhìn chung, hàng Việt Nam mới chỉ đáp ứng được yếu tố giá rẻ, chứ chưa phong phú về
chủng loại, mẫu mã, số lượng sản xuất không lớn, nên sức cạnh tranh và tiêu thụ không mạnh.
 Người tiêu dùng Mỹ chuộng quảng cáo và tiếp thị: Hàng hóa nếu có thương hiệu
nôi tiếng sẽ bán được nhiều hơn, với giá cao hơn. Hàng Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ không

thể cạnh tranh giá với hàng Trung Quốc qua một vài mặt hàng thấp cấp như quần áo, giày dép
và các mặt hàng khác. Vì thế Việt Nam cần phải tập trung vào mặt hàng trung, cao cấp và cạnh
tranh bằng chất lượng và các nét độc đáo khác. Việc này trong thực tế cũng có nhiều khó khăn.
Ví như đối với quần áo, giầy dép, Việt Nam hầu hết làm gia công, tưởng được giá cao nhưng
thường các công ty Mỹ và nước ngoài đặt hạng được hưởng lợi. Các nhà máy của chúng ta bị ép
lấy công làm lãi với giá rẻ, trong khi khách hàng lại khó tính và chúng ta phải đầu tư mua thiết
bị đắt tiền, mất nhiều năm mới thu hồi vốn.
Mặc dù Việt Nam và Mỹ đã nối lại quan hệ thuong mại từ nhiều năm nay và nhiều doanh
nghiệp Mỹ bỏ trốn vào Việt Nam đầu tư nhưng thông tin về Việt Nam đối với đa số doanh
nghiệp Mỹ và cả người tiêu dùng nước này còn rất ít. Những “ cuộc chiến” giành thị phần cá
basa hay tôm trên đất Mỹ mới thực hiện tạo ra cơ hội cho người Mỹ biết về Việt Nam và sản
phẩm xuất khẩu của Việt Nam. Hình ảnh Việt Nam gắn liền với sản phẩm gì hay doanh nghiệp
Việt Nam có lợi thế gì trong mắt các doanh nghiệp Mỹ còn rất mơ hồ. Nhờ những cuộc tranh cãi
Trang 25

×