Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Biện pháp hoàn thiện xuất khẩu TOCONTAP hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.91 KB, 62 trang )

Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
1
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
BỘ MÔN: KINH TẾ QUỐC TẾ

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT
ĐỘNG XUẤT KHẨU Ở CÔNG TY CP XNK TẠP
PHẨM TOCONTAP HANOI
Giảng viên hướng dẫn :
Họ và tên sinh viên :
Mã sinh viên :
Chuyên ngành :
Lớp :
Hệ :
Thời gian thực tập :
Hà Nội, tháng 12/2013
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
2
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
STT Tên Trang
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
3
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
1 Các bước thực hiện hợp đồng xuất khẩu 22
2 Mô hình tổ chức TOCONTAP HANOI 30
3 Danh mục các thị trường xuất khẩu chính của Công ty cổ phần


XNK tạp phẩm
36
4 Kết quả kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập
khẩu tạp phẩm
38
5 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Tocontap Hà Nội thời kỳ 2006-
2012
40
6 Chỉ tiêu thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu của Tocontap Hà Nội
giai đoạn 2014 - 2020
45
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
4
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Nghĩa tiếng Anh Nghĩa tiếng Việt
1 CN Chi nhánh
2 CP Cổ phần
3 CTHĐQT Chủ tịch hội đồng quản trị
4 ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông
5 HĐQT Hội đồng quản trị
6 IMF Quỹ tiền tệ thế giới
7 KH Kế hoạch
8 L/C
Letter credit
Thư tín dụng
9 TOCONTAP
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu tạp
phẩm
10 USD

United States of Dollar
Đô la Mỹ
11 WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
12 XK Xuất khẩu
13 XNK Xuất nhập khẩu
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
5
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế khu vực và thế giới là điều tất
yếu và là điều kiện bắt buộc cho sự phát triển kinh tế cũng như phát triển mọi mặt
của một quốc gia. Trong quá trình hội nhập kinh tế, hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu là hoạt động kinh tế chủ yếu có vai trò quan trọng tạo ra tiền đề cơ sở vật chất,
là động lực thúc đẩy nhanh chóng và quyết định thành công của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khi quá trình phân công lao động quốc tế đang
diễn ra hết sức sâu sắc, kinh doanh xuất nhập khẩu được xem như là một điều kiện
tiền đề cho sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Thực tế cho thấy, không một
quốc gia nào có thể tồn tại chứ chưa nói gì đến phát triển nếu tự cô lập mình không
quan hệ kinh tế với thế giới. Kinh doanh xuất nhập khẩu đã trở thành vấn đề sống
còn vì nó cho phép thay đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao mức tiêu dùng cuả dân cư
một quốc gia.
Thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước là đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nền kinh tế nước ta và đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp, đặc biệt là chủ trương chuyển dịch cơ cấu hướng về xuất khẩu, trong
những năm qua một số doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư, phát triển kinh doanh, sản
xuất hàng hoá xuất khẩu và đã đạt được một số thành công nhất định, trong đó có
phần đóng góp không nhỏ của công ty CP xuất nhập khẩu tạp phẩm. Tuy nhiên, tình

trạng cạnh tranh gay gắt giữa các công ty xuất nhập khẩu trong nước và quốc tế
đang diễn ra quyết liệt và ngày càng gay gắt. Vì vậy, để kinh doanh trong lĩnh vực
xuất khẩu thành công, công ty phải có chiến lược kinh doanh thích hợp để khẳng
định chỗ đứng của mình trên thị trường.
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
6
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
Qua nhận thức về mặt lý luận, cùng với thời gian thực tập tại công ty CP
xuất nhập khẩu tạp phẩm và với những kiến thức đã tích lũy trong quá trình học tập
tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, được sự hướng dẫn tận tình của Ths. Lê Tuấn
Anh cùng các cô chú trong công ty nên em đã chọn đề tài "Một số biện pháp hoàn
thiện hoạt động xuất khẩu ở công ty CP XNK tạp phẩm TOCONTAP
HANOI" cho chuyên đề thực tập của em.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lí luận về hoạt động xuất khẩu, đánh giá hoạt động xuất khẩu
hàng hóa tại công ty CP XNK tạp phẩm. Từ đó đề ra một số biện pháp nhằm đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu các mặt hàng thế mạnh nói riêng và hàng hóa mà công ty
đang kinh doanh nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Chủ yếu là hoạt động xuất khẩu hàng hóa của công ty trong thời gian gần đây và
các giải pháp để đẩy mạnh hoạt động này.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Các mặt hàng xuất khẩu của công ty trong thời gian 2007-2012
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh.
5. Kết cấu chuyên đề
Ngoài danh mục chữ viết tắt, lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, chuyên đề được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về xuất khẩu và sự cần thiết phải hoàn thiện

xuất khẩu
Chương 2: Tình hình hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần xuất nhập
khẩu tạp phẩm
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
7
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
Chương 3: Định hướng và một số biện pháp hoàn thiện hoạt động xuất khẩu
của công ty cổ phần xuất nhập khẩu tạp phẩm
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU VÀ SỰ CẦN
THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN XUẤT KHẨU
1.1 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM XUẤT KHẨU
1.1.1 Khái niệm
Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam
hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ việt nam được coi là khu vực hải
quan riêng theo quy định của pháp luật (theo điều 28, mục 1, chương 2 luật thương
mại Việt Nam 2005). Hàng hóa được vận chuyển qua biên giới quốc gia, tiền tệ ở
đây có thể là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai quốc gia. Hoạt động xuất khẩu là hình
thức cơ bản của hoạt động ngoại thương đã xuất hiện từ lâu đời và ngày càng phát
triển.
Hoạt động xuất khẩu có nhiều điểm khác biệt so với hoạt động buôn bán
trong nước. Trong buôn bán nội địa, hàng hóa chỉ được vận chuyển trong phạm vi
của một quốc gia, đồng tiền thanh toán thông thường là đồng nội tệ của quốc gia đó.
Các bên chủ thể chủ yếu là có chung quốc tịch. Còn trong hoạt động xuất khẩu,
hàng hóa được vận chuyển xuyên qua biên giới quốc gia, đồng tiền thanh toán là
ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên và các đối tác kinh doanh có quốc tịch khác
nhau. Cũng có trường hợp hàng hóa được bán ra khỏi phạm vi lãnh thổ một quốc
gia cho đối tác là người cùng quốc tịch nhưng không nhiều.
Xuất khẩu hàng hóa là hệ thống các quan hệ mua bán trong nền thương mại
có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm hàng hóa sản xuất trong
nước ra ngoài thu ngoại tệ. Qua đó, có thể đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phát triển,

chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và nâng cao từng bước đời sống nhân dân. Hoạt
động xuất khẩu hiện nay diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, trong tất cả các lĩnh vực,
các ngành của nền kinh tế, từ vật phẩm tiêu dùng đến tư liệu sản xuất , từ chi tiết
linh kiện nhỏ nhất đến các loại máy móc khổng lồ, các loại công nghệ kỹ thuật cao,
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
8
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
không chỉ có hàng hóa hữu hình mà cả hàng hóa vô hình và với tỷ trọng ngày càng
cao và phát triển không ngừng.
1.1.2 Đặc điểm
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là một hoạt động diễn ra trên phạm vi rộng
lớn cả về không gian và thời gian. Hoạt động này được thực hiện không chỉ giữa
các quốc gia lân cận, mà còn diễn ra giữa các nước ở xa tạo ra một thị trường rộng
lớn và nhiều tiềm năng khai thác. Kinh doanh xuất nhập khẩu có thể diễn ra nhanh
chóng trong vài giờ hoặc có thể kéo dài lâu hơn thậm chí kéo dài hàng năm.
Kinh doanh xuất khẩu chủ yếu là hoạt động ngoại thương, do đó nó chịu tác
động mạnh mẽ của các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô như chế độ chính sách, luật
pháp, kinh tế, văn hóa, đặc biệt là chịu ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái và tỷ suất
ngoại tệ hàng xuất khẩu. Ngoài ra, các yếu tố thuộc môi trường vi mô như sự cạnh
tranh của các đối thủ, tiềm năng tài chính, chiến lược kinh doanh của công ty cũng
có những ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động xuất khẩu. Do chịu sự chi phối của các
nhân tố trên nên hoạt động kinh doanh xuất khẩu mặc dù có lợi nhuận cao nhưng
tính rủi ro tương đối lớn.
Hoạt động xuất khẩu xét về mặt bản chất chính là hợp đồng thương mại quốc
tế được ký kết trên cơ sở tự nguyện của các bên. Do đó, nó chịu sự điều chỉnh bởi
nhiều hệ thống luật như luật quốc gia, luật quốc tế. Khi hoạt động này diễn ra đồng
nghĩa với việc các bên đã ký kết hợp đồng mua bán quốc tế, khi đó người bán sẽ
chuyển giao chứng từ có liên quan đến hàng hoá và chuyển giao quyền sở hữu hàng
hoá ấy cho người mua. Người mua sẽ phải có trách nhiệm thanh toán và nhận hàng.
Quá trình này diễn ra kèm theo với nó là các thủ tục hải quan và thủ tục hành chính

khác có liên quan. Nhưng đồng tiền thanh toán phải là ngoại tệ đối với một trong
hai đối tác, thông thường đó là các ngoại tệ mạnh trên thế giới như USD, JPY,
EURO…
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán hàng hoá vượt ra khỏi biên giới
quốc gia nên phải sử dụng các phương tiện vận tải chuyên dụng như: vận tải đường
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
9
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
biển, đường sắt, máy bay hoặc đường bộ. Vận chuyển hàng hoá từ người bán đến
tận tay người mua thường là phải trải qua thời gian, quãng đường dài, do đó hàng
hoá phải được đóng gói trong bao bì đảm bảo an toàn, phù hợp với phương tiện vận
tải, điều kiện khí hậu, tránh hao mòn, mất mát và hư hỏng.
Để đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu được thực hiện một cách an toàn và
thuận lợi, mỗi doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải tiến hành theo các khâu sau của
một quy trình xuất khẩu chung. Trong quy trình gồm nhiều bước có quan hệ chặt
chẽ với nhau, bước trước là cơ sở, tiền đề để thực hiện tốt bước sau. Tranh chấp xảy
ra trong quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng thường là do lỗi yếu kém ở một khâu
nào đó. Để quy trình xuất khẩu được tiến hành thuận lợi thì làm tốt công việc ở từng
bước là hết sức cần thiết. Thông thường, một quy trình xuất khẩu hàng hóa gồm bốn
bước lớn theo trình tự sau: nghiên cứu thị trường tìm kiếm đối tác, lập phương án
kinh doanh, đàm phán và ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Một khi công ty đã được tổ chức để phục vụ xuất khẩu thì cần phải lựa chọn
một hệ thống phân phối thích hợp cho mỗi thị trường. Các hệ thống này bao gồm
các đại diện thương mại, các đại lý, các nhà phân phối, các nhà bán lẻ và những
người tiêu thụ sau cùng.
Văn phòng đại diện hoặc chi nhánh của công ty ở nước ngoài: Khi công
ty đủ năng lực và muốn mở rộng thị trường ra quốc tế, việc lập văn phòng đại diện
ởnước ngoài là điều hoàn toàn có thể. Chúng giúp nghiên cứu thị trường nước sở tại
được chu đáo trước khi tiến hành triển khai các chiến lược kinh doanh phù hợp ở
đó.

Ðại diện thương mại: Một nhà đại diện thương mại thường phụ trách đại
diện cho nhiều hệ thống thương mại hoặc sản xuất có thể bổ sung cho nhau nhưng
không cạnh tranh với nhau. Ðại diện thương mại thường hoạt động trên cơ sở được
hưởng hoa hồng, không gánh chịu rủi ro hoặc trách nhiệm. Ðại diện thương mại có
thể làm việc trên cơ sở độc quyền hoặc không độc quyền.
Ðại lý: Thường là một người đại diện có nhiều quyền hạn và có thể được ủy
nhiệm để hành xử mọi vấn đề thay mặt công ty mà ông ta làm đại diện.
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
10
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
Nhà phân phối: Là một nhà buôn mua hàng của nhà xuất khẩu với một giá
có chiết khấu và bán lại hàng hóa đó để kiếm lời. Nhà phân phối chuyên nghiệp
thường phân phối một loạt nhiều sản phẩm có thể bổ sung cho nhau nhưng không
cạnh tranh lại với nhau.
Nhà bán lẻ nước ngoài: Một công ty xuất khẩu cũng có thể bán hàng trực
tiếp cho một nhà bán lẻ ở nước ngoài mặc dù trong các loại thương vụ như thế, thì
hệ thống người tiêu dùng nói chung thường bị giới hạn.
Bán hàng trực tiếp cho người sử dụng sau cùng: Một công ty xuất khẩu có
thể bán sản phẩm hoặc dịch vụ của mình trực tiếp cho người sử dụng hoặc tiêu dùng
sau cùng ở nước ngoài. Những người mua hàng trực tiếp này có thể là các chính
phủ nước ngoài, các cơ quan như bệnh viện, trường học hoặc các doanh
nghiệp.Thông thường mỗi sản phẩm bán ra nước ngoài phải kèm theo sự bảo đảm,
bảo hành hoặc dịch vụ kèm theo nhà xuất khẩu có thể tổ chức nhờ hệ thống phân
phối của mình ở nước ngoài để thực hiện các dịch vụ trên.
Thời gian lưu chuyển hàng hoá trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu bao
giờ cũng dài hơn so với thời gian lưu chuyển hàng hoá trong hoạt động kinh doanh
nội địa do khoảng cách địa lý cũng như các thủ tục, chứng từ phức tạp để xuất khẩu
hàng hoá. Do đó, để xác định kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu, người ta chỉ
xác định khi hàng hoá đã luân chuyển được một vòng hay khi đã thực hiện xong
một thương vụ ngoại thương.

Trong trường hợp xuất khẩu hàng hóa, số lượng hàng hóa vận chuyển ra
nước ngoài trong một chuyến hàng thường rất lớn để tiết kiệm chi phí vận chuyển.
Cần phải có thời gian cho công đoạn tập kết hàng hóa cho đủ số lượng. Và phương
thức vận chuyển hàng hóa khối lượng lớn thường là vận tải bằng đường biển. Do đó
thời gian để lưu chuyển hàng hóa thường kéo dài. Ví dụ, khi vận chuyển hàng hóa
từ Việt Nam sang Canada thì thời gian vận chuyển thông thường là từ 28 đến 35
ngày.
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
11
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
1.2 CÁC PHƯƠNG THỨC VÀ HÌNH THỨC XUẤT KHẨU
1.2.1 Các phương thức xuất khẩu
1.2.1.1 Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một công ty cho
khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài. Các công ty có kinh nghiệm quốc
tế thường trực tiếp bán các sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài. Khách
hàng của công ty không chỉ đơn thuần là người tiêu dùng. Những ai có nhu cầu
mua và tiêu dùng sản phẩm của công ty đều là khách hàng của công ty. Xuất khẩu
trực tiếp có hai hình thức chủ yếu sau:
- Đại diện bán hàng: là hình thức bán hàng không mang danh nghĩa của mình
mà lấy danh nghĩa của người ủy thác nhằm nhận lương và một phần hoa hồng trên
cơ sở giá trị hàng hóa bán được. Trên thực tế, đại diện bán hàng hoạt động như nhân
viên bán hàng của công ty ở thị trường nước ngoài. Công ty sẽ kí hợp đồng trực tiếp
với khách hàng ở thị trường nước đó.
- Đại lý phân phối: là người mua hàng hóa của công ty để bán theo kênh
tiêu thụ ở khu vực mà công ty phân định. Công ty khống chế phạm vị phân phối,
kênh phân phối ở thị trường nước ngoài. Đại lý phân phối chấp nhận toàn bộ rủi
ro liên quan đến việc bán hàng hóa ở thị trường đã phân định và thu lợi nhuận qua
chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
1.2.1.2 Xuất khẩu gián tiếp

Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hóa và dịch vụ của công ty ra
nước ngoài thông qua trung gian. Các trung gian mua bán chủ yếu trong kinh
doanh xuất khẩu là: đại lý, công ty quản lý nhập khẩu và công ty kinh doanh xuất
nhập khẩu. Các trung gian mua bán này không chiếm hữu hàng hóa của công ty
nhưng trợ giúp công ty xuất khẩu hàng hóa sang thị trường nước ngoài.
Đại lý (Agent): là các cá nhân hay tổ chức đại diện cho nhà xuất khẩu thực
hiện một hay một số hoạt động nào đó ở thị trường nước ngoài. Đại lý chỉ thực hiện
một hay một số hoạt động nào đó cho công ty ủy thác và nhận thù lao. Đại lý không
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
12
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
chiếm hữu và sở hữu hàng hóa. Đại lý là người thiết lập quan hệ hợp đồng giữa
công ty và khách hàng ở thị trường nước ngoài.
Công ty quản lý xuất khẩu (Export management company): là các công
ty nhận ủy thác và quản lý công tác xuất khẩu hàng hóa. Công ty quản lý xuất khẩu
hàng hoạt động trên danh nghĩa của công ty xuất khẩu nên là nhà xuất khẩu
giántiếp. Công ty quản lý xuất khẩu đơn thuần làm các thủ tục xuất khẩu và thu phí
dịch vụ xuất khẩu. Bản chất công ty quản lý xuất khẩu là làm các dịch vụ quản lý và
thu được khoản tiền thù lao nhất định từ các hoạt động đó.
Công ty kinh doanh xuất khẩu (Export trading company): là công ty hoạt
động như nhà phân phối độc lập có chức năng kết nối các khách hàng nước ngoài
với các công ty xuất khẩu trong nước để đưa các hàng hóa ra nước ngoài tiêu thụ.
Ngoài việc thực hiện các hoạt động liên quan trực tiếp đến xuất khẩu, các công
tycòn cung ứng các dịch vụ xuất nhập khẩu và thương mại đối lưu, thiết lập và
mởrộng các kênh phân phối, tài trợ cho các dự án thương mại và đầu tư, thậm chí
trực tiếp thực hiện sản xuất để bổ trợ một công đoạn nào đó cho sản phẩm, ví dụnhư
bao gói, in ấn Bản chất của công ty kinh doanh xuất khẩu là thực hiện các dịch vụ
xuất khẩu nhằm kết nối các khách hàng nước ngoài với công ty xuất khẩu. Tuy
nhiên, các công ty kinh doanh dịch vụ xuất khẩu này có nhiều vốn, mối quan hệ và
cơ sở vật chất tốt nên có thể làm các dịch vụ bổ trợ cho hoạt động xuất khẩu của

công ty xuất khẩu. Công ty kinh doanh xuất khẩu có kinh nghiệm, chuyên sâu về thị
trường nước ngoài và có các chuyên gia chuyên làm dịch vụxuất khẩu. Các công ty
kinh doanh xuất khẩu có nguồn thu cố định từ các dịch vụxuất khẩu và tự bỏ chi phí
cho hoạt động của mình. Các công ty này có thể cung cấp các chuyên gia xuất khẩu
cho các công ty xuất khẩu.
Đại lý vận tải là các công ty thực hiện các dịch vụ thuê vận chuyển và
những hoạt động có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa như khai báo hải
quan, áp biểu thuế quan, thực hiện giao nhận chuyên chở và bảo hiểm. Các đại lý
vận tải này cũng thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và phát triển nhiều loại hình
dịch vụ giao nhận hàng hóa đến tận tay người nhận. Khi các công ty xuất khẩu
thông qua các đại lý vẫn tải hay các công ty xuất nhập khẩu liên quan tới hàng
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
13
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
hóa đó. Bản chất của các đại lý vận tải hoạt động như các công ty kinh doanh dịch
vụ giao nhận vận chuyển và dịch vụ xuất nhập khẩu, thậm chí cả dịch vụ bao gói
hàng hóa cho phù hợp với phương thức vận chuyển, mua bảo hiểm hàng hóa cho
hoạt động của họ.
1.2.2 Các hình thức xuất khẩu
1.2.2.1 Xuất khẩu ủy thác
Hoạt động xuất khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh
nghiệp trong nước có nhu cầu xuất khẩu một số loại hàng hoá nhưng không đủđiều
kiện để xuất khẩu (gọi là doanh nghiệp uỷ thác xuất khẩu) đã uỷ thác cho một
doanh nghiệp khác (gọi là doanh nghiệp xuất khẩu uỷ thác) có chức năng giao dịch
ngoại thương tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài để làm thủ tục xuất khẩu
hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một khoản thù lao gọi là phí
uỷ thác, hay còn gọi là hoa hồng uỷ thác.
Trong hoạt động XK uỷ thác, doanh nghiệp nhận uỷ thác không phải bỏvốn,
do không phải lo nguồn hàng mà chỉ phải đứng ra thay mặt bên uỷ thác tìm và giao
dịch với bạn hàng nước ngoài, ký hợp đồng và làm thủ tục XK hàng hoácũng như

thay mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất.
Cần phân biệt rõ hình thức xuất khẩu ủy thác và nghiệp vụ ủy thác xuất khẩu
qua quyền sở hữu đối với hàng hóa. Chủ sở hữu thực hiện nghiệp vụ ủy thác xuất
khẩu cho đối tác kinh doanh có hình thức xuất khẩu ủy thác.
1.2.2.2 Xuất khẩu tự doanh
Xuất khẩu tự doanh là hoạt động xuất khẩu độc lập và trực tiếp của một
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và
ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí đảm bảo kinh doanh xuất khẩu có lãi, đúng
phương hướng, chính sách, pháp luật của quốc gia cũng như quốc tê.
Trong xuất khẩu tự doanh, doanh nghiệp phải đứng mũi chịu sào trước tất cả
mọi việc. Doanh nghiệp phải xem xét một cách kỹ càng từ bước nghiên cứu
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
14
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
thịtrường, lo tìm kiếm nguồn hàng xuất khẩu đến việc ký kết hợp đồng và thực hiện
hợp đồng vì doanh nghiệp phải tự bỏ vốn của mình ra, chịu mọi chi phí và rủi ro có
thể xảy ra.
1.2.2.3 Xuất khẩu liên doanh
Đây là hoạt động xuất khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế tự nguyện
giữa các doanh nghiệp nhằm phối hợp khả năng để cùng nhau giao dịch và đề ra các
chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động XK, thúc đẩy hoạt động này phát
triển theo hướng có lợi nhất cho tất cả các bên, cùng chia lãi hoặc cùng chịu lỗ.
So với nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp bớt chịu rủi ro hơn bởi vì mỗi
doanh nghiệp liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định, quyền
hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng tăng theo vốn góp. Việc phân chia chi phí,
thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp; lãi lỗ tuỳ theo hai bên thoả thuận phân chia dựa
trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên phải gánh vác.
Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được tính
kim ngạch nhập khẩu nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ tính doanh số trên số
hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu thuế doanh thu trên số hàng đó.

Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp phải thực hiện 2 hợp đồng:
- Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài
- Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác
1.2.2.4 Xuất khẩu đổi hàng
Xuất khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu
của buôn bán đối lưu, nó là hình thức xuất khẩu gắn liền với nhập khẩu, thanh toán
theo hình thức này không phải dùng tiền mà bằng hàng hoá.
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
15
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
Để thực hiện được hình thức xuất khẩu này thì hàng hóa nhập và hàng hóa
xuất phải tương đương nhau về giá trị, bạn hàng bán và mua là một.
1.2.2.5 Tạm nhập, tái xuất
Là hoạt động nhập hàng vào trong nước nhưng không phải để tiêu thụ trong
nước mà để xuất sang một nước nào đó nhằm thu lợi nhuận, những hàng nhập này
không được qua chế biến ở nước tái xuất. Như vậy, nhập khẩu tái xuất luôn thu hút
3 nước tham gia: nước xuất khẩu , nước tái xuất và nước nhập khẩu.
Đặc điểm: Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập 2 hợp đồng:
- Một hợp đồng nhập khẩu
- Một hợp đồng xuất khẩu
Doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toán chi phí ghép mối bạn hàng xuất và
nhập sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt
động.Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch xuất và nhập,
doanh số tính trên giá trị hàng xuất do đó phải chịu thuế doanh thu.Hàng hoá không
nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể chuyển thẳng sang nước thứ 3,
nhưng trả tiền thì phải luôn do người tái xuất thu từ người nhập khẩu và trả cho
người xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu được lợi tức về tiền hàng do thu
được nhanh và trả chậm.
1.2.2.6 Gia công quốc tế
Gia công quốc tế là một phương thức giao dịch trong đó người đặt gia công

cung cấp nguyên liệu, định mức , tiêu chuẩn kỹ thuật, bên nhận gia công tổ chức
sản xuất sau đó giao lại sản phẩm và được nhận một khoản tiền công tương đương
với lượng lao động hao phí để làm ra sản phẩm đó, gọi là phí gia công. Gia công
quốc tế là hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với sản xuất.
Gia công quốc tế ngày nay là phương thức giao dịch khá phổ biến trong buôn
bán quốc tế của nhiều nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ lợi
dụng được giá rẻ về nguyên liệu phụ và nhân công của nước nhận gia công. Đối
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
16
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
với bên nhận gia công, phương thức này giúp họ giải quyết công ăn việc làm cho
nhân dân trong nước và có thể nhận được thiết bị hay công nghệ mới về nước
mình,giúp họ phần nào trong công cuộc xây dựng nền công nghiệp dân tộc.
Đặc điểm của phương thức này:
+ Quyền sở hữu hàng hoá không thay đổi từ bên đặt gia công sang bên nhận
gia công. (Quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định
đoạt. có nghĩa là có các quyền bán, cho, đổi chác)
+ Hoạt động gia công được hưởng những ưu đãi về thuế, thủ tục xuất nhập
khẩu. Tại Việt Nam, hoạt động này được quản lý theo quy chế riêng.
+ Tiền công tương đương với lượng lao động hao phí làm ra sản phẩm. Có
người cho rằng hợp đồng gia công là một dạng của hợp đồng lao động. Trên thực tế
khi ký các hợp đồng gia công phía Việt Nam thường muốn tách riêng tiền.
1.3 NHỮNG NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG DOANH
NGHIỆP
1.3.1 Nghiên cứu thị trường xuất khẩu
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông
hàng hoá ở đâu có sản xuất và lưu thông và ở đó có thị trường. Thị trường nước
ngoài gồm nhiều yếu tố phức tạp, khác biệt so với thị trường trong nước bởi vậy
nắm vững các yếu tố thị trường hiểu biết các quy luật vận động của thị trường nước
ngoài là rất cần thiết phải tiến hành hoạt động nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị

trường có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Nghiên cứu thị trường phải trả lời một số câu hỏi sau: xuất khẩu cái gì, ở thị trường
nào, thương nhân giao dịch là ai, giao dịch theo phương thức nào, chiến lược kinh
doanh cho từng giai đoạn để đạt được mục tiêu đề ra.
Nắm vững thị trường nước ngoài: Đối với các đơn vị kinh doanh xuất khẩu,
nghiên cứu thị trường có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Trong nghiên cứu cần nắm
vững một số nội dung:những điều kiện chính trị, thương mại chung, luật pháp và
chính sách buôn bán, những điều kiện về tiền tệ và tín dụng, điều kiện vận tải và
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
17
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
tình hình giá cước. Bên cạnh đó, đơn vị kinh doanh cũng cần phải nắm vững một số
nội dung liên quan đến mặt hàng kinh doanh trên thị trường đó như dung lượng thị
trường, tập quán và thị hiếu tiêu dùng của người dân, giá thành và dự biến động giá
cả, mức độ cạnh tranh của mặt hàng đó.
Nhận biết mặt hàng kinh doanh trước và lựa chọn mặt hàng kinh
doanh: Nhận biết mặt hàng kinh doanh trước tiên phải dựa vào nhu cầu của sản
xuất và tiêu dùng về quy cách chủng loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ và thị hiếu cũng
như tập quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó xem xét các
khía cạnh của hàng hoá trên thị trường thế giới. Về khía cạnh thương phẩm phải
hiểu rõ giá trị công dụng, các đặc tính, quy cách phẩm chất, mẫu mã… Vấn đề khá
quan trọng trong giai đoạn này là xác định sản lượng hàng hoá xuất khẩu và thời
điểm xuất khẩu để bán được giá cao nhằm đạt được lợi nhuận tối đa.Do chủ trương
phát triển nền kinh tế với nhiều thành phần tham gia nền kinh tế trên nhiều ngành
nghề và nhiều lĩnh vực khác nhau từ sản phẩm thô sản xuất bằng phương pháp thủ
công đến sản phẩm sản xuất bằng máy móc tinh vi hiện đại. Tuyến sản phẩm được
mở rộng với mặt hàng phong phú, đa dạng tạo điều kiện cho các đơn vị khinh doanh
xuất khẩu có được nguồn hàng ổn định với nhiều nhóm hàng kinh doanh khác nhau.
Tìm kiếm thương nhân giao dịch: Để có thể xuất khẩu được hàng hoá
trong quá trình nghiên cứu thị trường nước ngoài các đơn vị kinh doanh phải tìm

được bạn hàng. Lựa chọn thương nhân giao dịch cần dựa trên một số đặc điểm sau:
uy tín của bạn hàng trên thị trường, thời gian hoạt động kinh doanh, khả năng tài
chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, mạng lưới phân phối tiêu thụ sản phẩm…được như
vậy, đơn vị kinh doanh xuất khẩu mới xuất khẩu được hàng và tránh được rủi ro
trong kinh doanh quốc tế.
1.3.2 Lập phương án kinh doanh và tìm nguồn hàng xuất khẩu
Dựa vào những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị
trường nước ngoài đơn vị kinh doanh xuất khẩu lập phương án kinh doanh. Phương
án này là bản kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt được những mục tiêu xác
định trong kinh doanh. Xây dựng phương án kinh doanh gồm các bước sau:
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
18
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
Bước 1: Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, đơn vị kinh doanh
phải đưa ra được đánh giá tổng quan về thị trường nước ngoài và đánh giá chi tiết
đối với từng phân đoạn thị trường. đồng thời cũng phải đưa ra những nhận định cụ
thể về thương nhân nước ngoài mà đơn vị sẽ hợp tác kinh doanh.
Bước 2: Lựa chọn mặt hàng thời cơ, phương thức kinh doanh. Từ tuyến sản
phẩm công ty phải chọn ra mặt hàng xuất khẩu mà công ty có khả năng sản xuất, có
nguồn hàng ổn định đáp ứng được thời cơ xuất khẩu thích hợp: khi nào thì xuất
khẩu, khi nào thì dự trữ hàng chờ xuất khẩu… và tuỳ thuộc vào khả năng của công
ty mà công ty lựa chọn phương thức kinh doanh phù hợp.
Bước 3: Đề ra mục tiêu. Trên cơ sở đánh giá về thị trường nước ngoài khả
năng tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu thị trường đó mà đơn vị kinh doanh xuất khẩu đề
ra mục tiêu cho từng giai đoạn cụ thể khác nhau. Giai đoạn 1: Bán sản phẩm với giá
thấp nhằm cạnh tranh với sản phẩm cùng loại, tạo điều kiện cho người tiêu dùng có
cơ hội dùng thử, chiếm lĩnh thị phần. Giai đoạn 2: Nâng dần mức giá bán lên để thu
lợi nhuận. Mục tiêu này ngoài nguyên tố thực tế cần phù hợp với khả năng của công
ty là mục đích để công ty phấn đấu hình thành và có thể vượt mức.
Bước 4: Đề ra biện pháp thực hiện. Giải pháp thực hiện là công cụ giúp công

ty kinh doanh thực hiện các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất, nhanh nhất, có
lợi nhất cho công ty kinh doanh.
Bước 5: Đánh giá hiệu quả của việc kinh doanh. Giúp cho công ty đánh giá
hiệu quả kinh doanh sau thương vụ kinh doanh. đồng thời đánh giá được hiệu quả
những khâu công ty kinh doanh đã và làm tốt, nhữngkhâu còn yếu kém nhằm giúp
công ty hoàn thiện quy trình xuất khẩu.
1.3.3 Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu
Đàm phán
Chúng ta đã biết rằng đàm phán thực chất là việc trao đổi, học thuật vừa
mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật để sử dụng các kĩ năng, kĩ sảo trong
giao dịch để nhằm thuyết phục đi đến việc chấp nhận những nội dung mà đôi bên
đưa ra. Muốn đàm phán thành công thì khâu chuẩn bị đàm phán đóng góp một vai
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
19
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
trò quan trọng như: chuẩn bị nội dung và xác định mục tiêu, chuẩn bị dữ liệu thông
tin, chuẩn bị nhân sự đàm phán chuẩn bị chương trình đàm phán. Chuẩn bị chi tiết
đầy đủ các nội dung cần đàm phán là việc rất quan trọng để cho cuộc đàm phán đạt
hiệu quả cao hơn và giảm được rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng sau này.
Ngoài ra, việc chuẩn bị số liệu thông tin chẳng hạn như: thông tin về hàng hoá để
biết được tính thương phẩm học của hàng hoá, do các yêu cầu của thị trường về tính
thẩm mĩ, chất lượng, các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế.
Để đàm phán tốt cần phải chuẩn bị những thông tin về thị trường, kinh tế,
văn hoá, chính trị, pháp luật của các nước, hay như thông tin về đối tác như sự phát
triển, danh tiếng, cũng như khả năng tài chính của đối phương. Đòi hỏi các cán bộ
nghiệp vụ cần phải là những người nắm bắt thông tin về hàng hoá, thị trường, khách
hàng, chính trị, xã hội…chính xác và nhanh nhất sẽ giúp cho cuộc đàm phán kí kết
hợp đồng đạt hiệu quả tốt.
Hiện nay trong đàm phán thương mại thường sử dụng ba hình thức đàm phán
cơ bản là: đàm phán qua thư tín, đàm phán qua điện thoại, đàm phán bằng cách gặp

gỡ trực tiếp. Nhưng ở Việt Nam hiện nay hai hình thức là dàm phán qua thư tín và
đàm phán qua điện thoại là được sử dụng phổ biến nhất.
Ký kết hợp đồng xuất khẩu
Việc ký kết hợp đồng là hết sức quan trọng. Hợp đồng có được tiến hành hay
không là phụ thuộc vào các điều khoản mà hai bên đã cam kết trong hợp đồng. Khi
ký kết một hợp đồng kinh tế phải căn cứ vào các điều kiện sau đây:
- Các định hướng kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước.
- Nhu cầu thị trường, đơn đặt hàng, chào hàng của bạn hàng.
1.3.4 Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi đã ký kết hợp đồng xuất khẩu, công việc hết sức quan trọng mà
doanh nghiệp cần phải làm là tổ chức thực hiện hợp đồng mà mình đã kí kết. Đây là
một công việc rất phức tạp. Nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng
thời bảo đảm được quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị.
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
20
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
Căn cứ vào điều khoản đã ghi trong hợp đồng doanh nghiệp phải tiến hành
sắp xếp các công việc mà mình phải làm ghi thành bảng biểu theo dõi tiến độ thực
hiện hợp đồng, kịp thời nắm bắt diễn biến tình hình các văn bản đã gửi đi và nhận
những thông tin phản hồi từ phía đối tác. Quy trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu
có thể được tóm tắt qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Các bước thực hiện hợp đồng xuất khẩu
1.4 CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XUẤT KHẨU
1.4.1 Các yếu tố kinh tế
Sức mua, người mua là hai nhân tố quan trọng trong thị trường, sự thay đổi
các thông số như thu nhập, chi phí sinh hoạt, lãi suất và tiết kiệm của một quốc
gia có ảnh hưởng một cách trực tiếp đến thương trường, các nhà quản trị cần hiểu
rõ những khuynh hướng chính yếu diễn ra trong những vấn đề này. Một yếu tố cơ
bản để phản ánh kích thước thị trường tiềm ngăng đó là vấn đề dân số, cùng với
dân số việc nghiên cứu so sánh tốc độ của GNP tăng so với tốc độ dân số để dự

đoán khả năng mở rộng thị trường của quốc gia đó. Cùng với vấn đề dân số, các
nhà nghiên cứu thị trường cần phải chú ý tới mức phân bố theo lứa tuổi, mật độ
và sự phân bố của quốc gia đó cũng như nghiên cứu đặc tính thu nhập.
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
21
Chuẩn bị
hàng hóa
Mở và
kiểm tra
L/C
Kiểm tra
hàng hóa
Thuê
phương
tiện vận
tải
Xin giấy
phép xuất
khẩu
Mua bảo
hiểm hàng
hóa
Làm thủ
tục thông
quan
Giao hàng
cho phương
tiện vận tải
Làm thủ
tục thanh

toán
Khiếu nại,
giải quyết
khiếu nại
(nếu có)
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
Để định hình các yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ, công ty phải tiến hành
nghiên cứu cơ cấu công nghiệp của một nền kinh tế với những đặc điểm khác nhau.
Những quốc gia mà nền kinh tế chỉ đủ sinh tồn thì ít tạo ra thời cơ cho hoạt động
xuất khẩu của công ty, còn những quốc gia thường xuyên xuất khẩu nguyên liệu
thô, có nền kinh tế đang công nghiệp hóa hay nền kinh tếcông nghiệp sẽ tạo ra
những cơ hội và thời cơ cho hoạt động kinh doanh của các công ty kinh doanh quốc
tế.
Việt Nam là một đất nước đang phát triển, chưa đủ vốn để xây dựng những
cơ sở sản xuất hiện đại để xuất khẩu những mặt hàng có tầm cỡ thế giới. Hiện nay,
chúng ta mới chỉ liên doanh với một số công ty nước ngoài sản xuất những mặt
hàng như giầy dép, may mặc. Chính vì vậy, chúng ta phải lựa chọn những hướng
đầu tư để liên doanh hoặc xây dựng những nhà máy sản xuất, chế biến thật cần thiết
cho nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay để đẩy mạnh kinh tế phát triển.
1.4.2 Văn hóa – xã hội
Mỗi người lớn lên trong một xã hội đặc thù nào đó, môi trường đó hình
thành các niềm tin cơ bản, các giá trị và những tiêu chuẩn của họ, đó cũng là nơi
xác định các mối quan hệ của họ với người khác. Vì vậy, những đặc tính văn hóa
có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định tiếp thị.
Dân chúng trong bất cứ xã hội nào cũng đều lưu dữ những giá trị văn hóa
truyền thống cốt lõi, chúng mang tính bất dịch khá cao. Chẳng hạn như người Mỹ,
họ luôn tin tưởng vào sự làm việc, hôn nhân, công tác từ thiện và sự trung thực,
những niềm tin khuôn định ấy tạo ra cho cách xử thế cũng như những thái độhàng
ngày một cách đặc thù hơn, chúng diễn ra trong đời sống hàng ngày, được truyền từ
đời này qua đời khác và được kiện toàn thêm qua các định chế quan trọng của xã

hội, nhà thờ, chính quyền, trường học.
Cùng với những giá trị cốt lõi, xã hội nào cũng chứa đựng những tiểu vănhóa
và sự chuyển biến trong các giá trị văn hóa thứ cấp. Mỗi xã hội đều chứa đựng
những tiểu văn hóa, chúng được này sinh từ khung cảnh và kinh nghiệm sống chung
của từng nhóm người. Chẳng hạn như những người theo công giáo, phật giáo,
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
22
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
những ngôn ngữ khác nhau trong cùng một quốc gia sẽ dẫn tới những bản sắc văn
hóa của từng dân tộc và những phong tục tập quán khác nhau, tất cả đều tiêu biểu
cho những nét văn hóa riêng biệt. Mặc dù các giá trị văn hóa cốt lõi là khá bền vững
nhưng những biến đổi văn hóa vẫn xảy ra và khác nhau ở mỗi nước. Trong thực tế
các nhà quản trị rất khó có khả năng nhận thức chính xác mà chỉ có thể tiên đoán
những chuyển biến để lựa chọn những tiểu văn hóa làm thị trường trọng điểm của
mình.
Việt Nam có một nền văn hóa hết sức phong phú, với 54 dân tộc khác
nhau. Điều này sẽ tạo ra cho chúng ta những thị trường hàng hóa phong phú đặc
trưng cho từng vùng nhất định. Tuy nhiên, chính sự khác nhau về phong tục tập
quán nên hàng hóa sản xuất ra muốn tiêu thụ được lại phụ thuộc rất nhiều vào
điều này.
1.4.3 Chính trị, pháp luật
Các quyết định kinh doanh chịu sự tác động mạnh mẽ của những tiến triển
trong môi trường chính trị và pháp luật. Môi trường này được tạo ra từ các luật lệ,
cơ quan chính quyền và các nhóm áp lực đã gây ảnh hưởng và ràng buộc tới mọi
tổ chức và cá nhân trong xã hội. Các nhà quản lý tiếp thị cần phải xem xét những
xu hướng chính yếu để đưa ra những quyết định có hiệu quả. Khi môi trường xấu đi
thì những điều luật mới của Chính phủ có thểthúc đẩy, ngăn cản hoạt động xã hội
hoặc tạo ra môi trường cạnh tranh trong hoạt động xuất nhập khẩu. Những biện
pháp của chính phủ nhằm kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu như: sự đòi hỏi bắt
buộc về giấy phép kinh doanh nhập khẩu, hìnhthức cực đoan hơn có thể là cấm

nhập khẩu hoặc xuất khẩu một số sản phẩm, cấm buôn bán với một số quốc gia, các
hàng rào thuế quan, quota nhằm định rõ sốlượng hàng hóa nhập khẩu vào quốc gia
mình, thực chất là bảo hộ nền sản xuất trong nước. Hơn nữa, sự điều tiết về tỉ giá
hối đoái có thể hạn chế số lượng ngoại tệ mà nhà nhập khẩu phải trả cho hàng hóa
nhập khẩu và đối với hàng hóa bán ra nước ngoài của nhà xuất khẩu.
Các nhà kinh doanh phải hiểu biết thấu đáo các đạo luật quan trọng để bảo
vệ sự cạnh tranh, người tiêu thụ và những lợi ích rộng lớn của xã hội. Vì những điều
luật mới, với sự cưỡng chế có thể tạo thành áp lực hạn chế sự tự do của nhà kinh
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
23
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
doanh. Vì vậy, họ cần phải thông báo rõ ràng hàng hóa của mình với các bộ phận
pháp lí và đưa ra bàn bạc thống nhất trong công ty để tập hợp thành các quyết định
quản lý chung.
1.4.4 Cạnh tranh
Thị trường đầu tư nước ngoài hiếm khi là một không gian thuần khiết cho
hoạt động thương mại. Các nhà sản xuất và nhập khẩu nội địa thường góp phần
hình thành một hệ thống tổ chức mà doanh nghiệp khó thích nghi hơn. Tuy nhiên,
dù sớm hay muộn thị trường cũng bị chia sẻ bởi các công ty kinh doanh quốc tế.
Điều chủ yếu của một công ty xâm nhập thị trường nước ngoàilà tìm kiếm hoạt
động kinh doanh và duy trì một vị thế thích hợp trên thị trường. Từ nguồn gốc và
động lực đó các nhà hoạch định khi thu thập thông tin phải xác định được: ai có thể
là đối thủ cạnh tranh, cơ cấu cạnh tranh. Trên cơ sở nắm bắt và tìm hiểu các đối thủ
cạnh tranh, các nhà quản trị phải phân loại đối thủ cạnh tranh, phải nghiên cứu các
nhân tố tác động tới cạnh tranh. Doanh nghiệp có thể có một vịthế vững chắc hay
không trên thị trường nước ngoài tùy thuộc vào những ứng biến và khả năng tiên
đoán, xử lí thông tin của doanh nghiệp.
Do kinh nghiệm kinh doanh của các doanh nghiệp nước ta còn ít, trên thị
trường quốc tế hầu như chỉ có doanh nghiệp vừa và nhỏ nên sức cạnh tranh của
các hàng hóa sản xuất ra là thấp, khó có thể cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài.

Mặt khác, vấn đề thông tin cho các doanh nghiệp trong kinh doanh cũng chưađược
cung cấp đầy đủ và không kịp thời đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt
hàng chủ yếu. Khi chúng ta nắm bắt được những thông tin về thị trường thì có lẽ
thông tin đó đã không còn giá trị nữa. Như vậy, yếu tố cạnh tranh là vô cùng quan
trọng đối với người làm công tác xuất nhập khẩu hàng hóa. Điều đó không chỉ phụ
thuộc vào sự nhanh nhạy, vào sự hiểu biết của doanh nghiệp mà còn cần sự hỗ trợ
từ phía chính phủ. Nhà nước thông qua nghiên cứu thị trường nước ngoài và chiến
lược phát triển kinh tế của các viện, các cơ quan quản lý đểđịnh hướng các sản
phẩm và thị trường xuất nhập khẩu chủ lực phù họp với nguồn lực trong giai đoạn
phát triển và bối cảnh quốc tế, đồng thời xây dựng hệthống chính sách, biện pháp
phục vụ việc phát triển sản phẩm chủ lực và mở rộng thị trường nước ngoài. Đến
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
24
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.s Lê Tuấn Anh
lượt mình các nhà kinh doanh hiện đại hóa sự lựa chọn sản phẩm và thị trường. Sự
ganh đua, cạnh tranh, tìm tòi, sáng tạo để phát triển sản phẩm và thâm nhập thị
trường, đưa lại lợi nhuận cho công ty và nâng cao năng lực xuất khẩu cho đất nước.
Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia là ưu thế giữa các quốc gia về lao động,
vốn và sự thiên phú về tài nguyên, đất đai. Phải sử dụng lợi thế này để tạo ra những
sản phẩm có chi phí thấp. Một nước đông dân, ít vốn, lao động rẻ thì trước hết phải
định hướng sản xuất các sản phẩm sử dụng nhiều lao động. Vì vậy, khai thác tài
nguyên và phát triển những mặt hàng sử dụng nhiều lao động để xuất khẩu là sự lựa
chọn của hầu hết các nước Đông Á trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp
hóa. Tuy nhiên, lợi tế cạnh tranh của bất kỳ nước nào cũng có tính chất tương đối,
luôn luôn trong quá trình biến động và phát triển vì vậy cơ cấu xuất khẩu theo mặt
hàng cũng phải thay đổi. Tính quy luật của sự thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu
là chuyển dần từ sản phẩm sử dụng nhiều lao động rẻ, không cần tay nghề cao như
sản phẩm dệt may, da giày sang các sản phẩm xuất khẩu sử dụng nhiều lao động
có tay nghề cao như hóa chất, điện tử, sắt thép, ôtô Cuối cùng là chuyển sang các
sản phẩm cần nhiều vốn và công nghệ cao như cơ khí chính xác, tự động hóa, thiết

bị viễn thông, tin học, hàng điện từ nghe nhìn cao cấp…
1.4.5 Năng lực của doanh nghiệp
Trình độ tổng hợp và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kinh
nghiệm kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu tác động có tính chất quyết định
đến kết quả và hiệu quả xuất khẩu. Từ yếu tố nội lực này, doanh nghiệp có điềukiện
để nhận thức, vận dụng các quy luật và yếu tố khách quan, chủ động tổ chức kinh
doanh và xuất khẩu có hiệu quả.
Một trong những yếu tố quan trọng của doanh nghiệp xuất khẩu đó là nguồn
hàng (đầu vào của doanh nghiệp xuất khẩu) - mối quan tâm kế tiếp sau khi đã tìm
kiếm được thị trường tiêu thụ (đầu ra), bởi vì có thị trường mà không có hay thiếu
nguyên liệu để sản xuất và từ đó để có hàng hoá thì cũng không thể kinh doanh
được. Thậm chí nguồn đầu vào mà không ổn định về giá cả, số lượng, chất
lượng thì cũng ảnh hưởng lớn đến việc đảm bảo kinh doanh và lợi nhuận cho
doanh nghiệp xuất khẩu.
SV: Nguyễn Thành Công Kinh tế quốc tế 52A
25

×