Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

phát triển cho vay tiêu dùng tại ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh hà thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.29 KB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
***
PHẠM TIẾN THÀNH
PHÁT TRIỂN CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
CHI NHÁNH HÀ THÀNH
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
HÀ NỘI – 2014





P
H

M

T
I

N

T
H
À
N
H













L
U

N

V
Ă
N

T
H

C

S


K
I
N

H

T
















L

P

C
H
1
8
B

T

C
N
H

(
2
0
1
2



2
0
1
4
)
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
***
PHẠM TIẾN THÀNH
PHÁT TRIỂN CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
CHI NHÁNH HÀ THÀNH
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS TRẦN THỊ HÀ
HÀ NỘI - 2014

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác
Tác giả
Phạm Tiến Thành
i
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
B GI O D C V O T OỘ Á Ụ À ĐÀ Ạ 1
B GI O D C V O T OỘ Á Ụ À ĐÀ Ạ 2
ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ACB Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu
Agribank Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
BIDV Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
CBCNV Cán bộ công nhân viên
Chi nhánh Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành
CHLB Nga Cộng hoà Liên bang Nga
CVTD Cho vay tiêu dùng
MHB Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long
NHBL Ngân hàng bán lẻ
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHQ Nợ quá hạn
OCB Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Đông
Seabank Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Nam Á
TCTD Tổ chức tín dụng
Techcombank Ngân hàng Kỹ thương

TSĐB Tài sản đảm bảo
TTCK Thị trường chứng khoán
VCB Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Vietinbank Ngân hàng Công thương Việt Nam
iii
DANH MC BNG BIU
Danh mc s
S 1.1: Cỏc chc nng chớnh ca ngõn hng a nng hin i 9
B GI O D C V O T O 1
B GI O D C V O T O 2
2.2. Phân loại cho vay của ngân hàng thơng mại 11
2.3. Quy trình cho vay của ngân hàng thơng mại 12
2.1. Căn cứ thời hạn vay 16
2.2. Căn cứ phơng thức hoàn trả 16
2.3. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ 19
Sơ đồ 1: Sơ đồ CVTD gián tiếp 20
Sơ đồ 2: Sơ đồ CVTD trực tiếp 21
2.4. Căn cứ tài sản bảo đảm 22
2.5. Căn cứ vào mục đích của khoản vay 23
3. Vai trò của cho vay tiêu dùng 23
3.1. Đối với sự phát triển kinh tế xã hội 23
3.2. Đối với ngân hàng thơng mại 24
3.3. Đối với khách hàng 25
2.1. Chỉ tiêu doanh số 26
2.2. Chỉ tiêu doanh số và d nợ 54
1.1. Trở thành một trong những ngân hàng thơng mại hàng đầu Việt Nam và
một ngân hàng đa năng tiên tiến hiện đại ở khu vực ASEAN 79
1.2. Cổ phần hóa và niêm yết cổ phiếu trên TTCK Việt Nam và TTCK quốc tế
79
1.3. Lành mạnh hóa và nâng cao năng lực tài chính, nâng cao giá trị doanh

nghiệp 80
1.5. Tạo lập nền tảng khách hàng bền vững và đa dạng hóa 81
1.6. Nâng cao hiệu quả kinh doanh đối ngoại, chủ động cho quá trình hội nhập81
1.7. Đột phá trong ứng dụng cng nghệ ngân hàng 81
Biu 2.11: Cho vay mua ụ tụ Error: Reference source not found
iv
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong thời đại quốc tế hóa và toàn cầu hóa hiện nay các Ngân hàng
thương mại có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, nhất là
sau khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới WTO.
Công cuộc đổi mới đã tạo cơ hội cho sự phát triển rất nhiều hoạt động kinh tế,
nổi bật phải kể đến lĩnh vực tài chính ngân hàng, với sự bùng nổ các NHTM
cổ phần trong nước và các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian
qua. Các ngân hàng đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ chính các
ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính như: các công ty bảo hiểm, công ty
chứng khoán…. Do đó thành công của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào
năng lực trong việc xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực
hiện các dịch vụ đó một cách hiệu quả và bán chúng với một mức giá cạnh
tranh. Sức mạnh của cạnh tranh làm thay đổi dịch vụ mà ngân hàng cung ứng,
thay đổi vai trò của các NHTM trong hệ thống tài chính, từ đó dẫn đến thay
đổi cơ cấu của các NHTM. Như vậy, để tăng tính cạnh tranh của các NHTM
cần phải phát triển một cách toàn diện hoạt động của ngân hàng cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu. Bên cạnh việc phát triển những dịch vụ mới như tư vấn tài
chính, bảo hiểm, các ngân hàng còn phát triển dịch vụ cũ theo hướng mới, đặc
biệt là cho vay tiêu dùng.
Trước đây, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay với cá nhân và
hộ gia đình vì ngân hàng cho rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có
quy mô rất nhỏ nhưng rủi ro vỡ nợ tương đối cao, do đó làm cho chúng trở
nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ 20, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều

hơn vào tiền gửi của khách hàng để tiến hành cho vay thương mại. Sự cạnh
tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân
hàng phải hướng vào người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành.
1
Cùng với sự phát triển của thời gian, nhiều công ty chuyên môn hoá như
các công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán và các công ty tài chính đã tham
gia vào thị trường tài chính để cung cấp cho người tiêu dùng mà trước đây
lĩnh vực này do công ty tài chính và ngân hàng thực hiên. Từ đó, cho vay tiêu
dùng đã chính thức ra đời và đi vào hoạt động trong nghiệp vụ ngân hàng.
Một yếu tố khách quan khác làm cho hoạt động cho vay tiêu dùng
phát triển là xuất phát từ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
Thông qua các mối quan hệ này, ngân hàng thấy được nhu cầu từ phía các
nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng. Các nhà sản xuất cần có sự hỗ trợ để gia
tăng số lượng hàng hoá tiêu thụ, người tiêu dùng cần tìm người tài trợ cho
các nhu cầu của mình.
Như vậy, với xu hướng ngày càng phát triển của nền kinh tế thế giới,
nhu cầu đòi hỏi của người dân ngày càng cao, phục vụ cho đời sống xã hội, sự
hình thành và phát triển của cho vay tiêu dùng là một tất yếu khách quan, góp
phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng và làm tăng mối quan
hệ bền vững giữa ngân hàng và khách hàng.
Tuy nhiên, nhiều nội dung liên quan tới việc cho vay tiêu dùng và phát
triển các hoạt động này chưa được nghiên cứu nhiều và có hệ thống. Đây có
thể được coi là một trong những hạn chế đang gây khó khăn cho việc phát
triển cho vay tiêu dùng ở Việt Nam nói chung và ở Chi nhánh Ngân hàng Đầu
tư và phát triển Hà Thành nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm góp phần đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, tác giả đã lựa chọn đề tài
“Phát triển cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Chi
nhánh Hà Thành” để nghiên cứu và luận giải những vấn đề lý luận và thực
tiễn trong việc phát triển cho vay tiêu dùng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu

quả hoạt động tín dụng và sức cạnh tranh của các NHTM, đồng thời đưa ra
2
một số giải pháp để thực hiện phát triển sản phẩm cho vay này tại Chi nhánh
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành. Để đạt được mục tiêu đó, luận
văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ việc phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng là đòi hỏi tất yếu
trong quá trình hội nhập và phát triển của các NHTM. Hệ thống hóa và xác
định rõ những nội dung kiến thức cần được trang bị để có thể phát triển CVTD.
- Đánh giá thực trạng việc phát triển cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành trong thời gian qua. Những kết quả
đạt được cũng như những hạn chế và nguyên nhân.
- Trên cơ sở đó, đề ra những giải pháp thiết thực nhằm đẩy mạnh việc phát
triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Hà Thành trong những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn lấy hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Hà Thành làm đối tượng nghiên cứu trực
tiếp. Từ đó, đề xuất các giải pháp thực hiện việc phát triển cho vay tiêu dùng
trong giai đoạn tới.
Các nghiệp vụ cho vay tiêu dùng được trình bày trong luận văn là các
sản phẩm hiện có của các NHTM cũng như các sản phẩm mới được đề xuất
áp dụng trong tương lai.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu CVTD tại Chi nhánh NH
ĐT&PT Hà Thành trong giai đoạn 2009 đến 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp biện
chứng và lôgic trong khái quát tổng quan và phân tích luận giải vấn đề, đồng
thời cũng sử dụng phương pháp phân tích thống kê, phương pháp phân tích
hoạt động kinh tế, lí thuyết hệ thống… để phân tích lý luận và luận giải thực
tiễn liên quan.
3

Luận văn cũng sử dụng, vận dụng có chọn lọc kết quả nghiên cứu của
các công trình khoa học có chất lượng liên quan để củng cố và làm sâu sắc
thêm các luận điểm của đề tài.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được bố trí làm 03 chương sau:
Chương I: Khái quát về cho vay tiêu dùng và phát triển cho vay tiêu dùng
của Ngân hàng Thương mại
Chương II: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư &
Thát triển Hà Thành
Chương III: Định hướng và các giải pháp phát triển cho vay tiêu dùng tại chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Thành
4
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG
1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại.
1.1.1. Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm NHTM
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế của mỗi quốc gia. Đó là một định chế tài chính trung gian, sẽ huy
động vốn nhàn rỗi trong xã hội và dùng chính tiền đó cho các cá nhân và tổ
chức vay lại. Ngân hàng được chia làm hai loại: ngân hàng thương mại và
ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước (ngân hàng Trung ương) không
hoạt động vì mục đích lợi nhuận và cũng không kinh doanh tiền tệ. Mỗi một
quốc gia chỉ có một NHNN duy nhất, có thể gọi là ngân hàng mẹ có chức
năng phát hành tiền, quản lý, thực thi và giám sát các chính sách tiền tệ; và có
rất nhiều NHTM, có thể coi là các ngân hàng con có chức năng thực hiện lưu
chuyển tiền trong nền kinh tế. Trong trường hợp NHTM đứng trên bờ vực phá
sản, ngân hàng Trung ương sẽ là nguồn cấp vốn cuối cùng mà ngân hàng
thương mại tìm đến.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản

nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. NHTM là cầu nối
giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan
thiếu. Hoạt động của NHTM nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc
biệt đó là "vốn- tiền", trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn,
và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của NHTM. Hoạt động của
NHTM phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại
hình doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
5
Theo Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 01/10/1998 được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 2
thông qua ngày 12/12/1997 đã quy định:
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính
chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương
mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân
hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”.
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Theo Nghị định 59/2009/NĐ-CP định nghĩa về Ngân hàng thương mại:
“Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu
lợi nhuận theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các quy định khác
của pháp luật”.
Từ những cách định nghĩa khác nhau trên về Ngân hàng, có thể rút ra:
- Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính làm cầu nối giữa
những người tiết kiệm và đầu tư.
- Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực đặc biệt- đó là tiền tệ, tín dụng và thanh toán. Vì vậy có thể nói các ngân
hàng thương mại là những doanh nghiệp đặc biệt. Thể hiện ở số vốn điều lệ,

dịch vụ thực hiện và những ràng buộc về hạn mức kinh doanh.
- Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp cung cấp các
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và
dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ
một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
6
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế, dưới sự tác động của
môi trường cạnh tranh và hợp tác đó tạo nên sự xâm nhập lẫn nhau giữa các
ngân hàng thương mại với các định chế tài chính phi ngân hàng, với các
công ty mà hình thành nên những tập đoàn kinh tế lớn. Từ đó làm cho việc
rút ra một định nghĩa chính xác về ngân hàng thương mại không phải là điều
dễ dàng.
1.1.1.2. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Như vậy, theo Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 01/10/1998,
thì ba hoạt động chủ yếu của NHTM là huy động vốn, sử dụng vốn và làm dịch
vụ thanh toán.
a. Hoạt động huy động vốn
NHTM thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Trong nền
kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng một
cách triệt để hoặc đang nhàn rỗi, và có những chủ thể cần tiền để hoạt động
kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết nhau và cũng có thể
không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. NHTM với vai trò
trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay, trả lãi cho họ và đem
số tiền ấy cho người muốn vay. Ngân hàng tạo lập nguồn vốn của mình từ các
khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế dưới các hình thức tiền gửi không kỳ
hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi phát séc. Thực hiện được điều này NHTM
huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế; mặt khác với
số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế để sản xuất
kinh doanh. Theo thời gian, hoạt động huy động vốn của NHTM cũng phong
phú hơn như có thêm hình thức vay vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế trong

và ngoài nước bằng cách chủ động phát hành kỳ phiếu hay trái phiếu ngân
hàng. Ngoài ra, NHTM có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư;
chuyển giao mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua trái
7
phiếu công, hoặc vay vốn từ các NHTM khác, vay nước ngoài, vay Ngân
hàng Trung ương dưới hình thức tái chiết khấu.
b. Hoạt động sử dụng vốn
Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, ngân hàng sẽ sử dụng vốn đó để
cho vay, đầu tư và thực hiện hoạt động ngân quỹ. Hoạt động ngân quỹ của
ngân hàng là nhằm bảo đảm khả năng chi trả hoặc thanh toán thường xuyên
cho khách hàng. Thông qua việc đầu tư trở lại cho nền kinh tế, ngân hàng sẽ
hỗ trợ cho nhu cầu chi tiêu hàng hoá, dịch vụ, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật làm tăng năng suất lao động, nâng cao mức sống xã hội. Trong nghiệp
vụ sử dụng vốn, cho vay là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng và cũng là
nguồn mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng. Bên cạnh đó, đầu tư cũng
là hoạt động mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, theo đó, ngân hàng sẽ sử
dụng nguồn vốn của mình để đầu tư vào các chứng khoán mà ngân hàng lựa
chọn. Các hình thức cho vay và đầu tư hết sức đa dạng, tuỳ theo các tiêu thức
mà người ta phân chia chúng thành nhiều loại khác nhau.
c. Hoạt động thanh toán
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hoạt động thanh toán
qua ngân hàng ngày càng đóng vai trò quan trọng. Chức năng làm trung gian
thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán của NHTM có nghĩa là ngân
hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài
khoản. Khi các khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an
toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng tiện
lợi, nhất là đối với các khoản thanh toán có giá trị lớn, ở mọi địa phương mà
nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn và không an toàn (ví dụ như
chi phí lưu thông, vận chuyển, bảo quản…)
Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu

thông và độc quyền quản lý các công cụ đó (séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh
8
toán ), tiết kiệm cho xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ
luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ngoài ra việc thực
hiện chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp
vụ thanh toán đã tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay.
Hiện nay, hoạt động này đang ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong cơ cấu
thu nhập của ngân hàng. Ở các nước phát triển phần lớn thanh toán được thực
hiện qua séc và được thực hiện bằng việc bù trừ thông qua hệ thống ngân
hàng thương mại. Các hoạt động thanh toán dùng tiền mặt chỉ phục vụ cho
những nhu cầu mua sắm với giá trị nhỏ. Hình thức thanh toán qua ngân hàng
vừa là nhu cầu, vừa là thách thức cho các quốc gia đang phát triển đang trong
quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới.
d. Các hoạt động khác
Ngoài ba hoạt động cơ bản nêu trên, các NHTM hiện đại còn thực hiện
các chức năng sau:
Nguồn: Peter S. Rose (2001), Commercial Bank Management
Sơ đồ 1.1: Các chức năng chính của ngân hàng đa năng hiện đại
Trong các hoạt động cơ bản kể trên của NHTM thì hoạt động cho vay
đóng vai trò chủ chốt, thể hiện khả năng của các ngân hàng trong việc tìm
kiếm lợi nhuận.
9
1.1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm cho vay của ngân hàng thương mại
Cho vay là một phạm trù kinh tế tồn tại qua các hình thức xã hội khác
nhau. Theo quan niệm truyền thống, cho vay là một quan hệ kinh tế trong đó
có sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (hình thái tiền tệ hay hiện
vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định có thể
thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu, với những điều
kiện mà hai bên đã thoả thuận. Trong phạm vi đề tài, xin đề cập tới hoạt động

cho vay của NHTM. Theo định nghĩa trong Giáo trình Tín dụng Ngân Hàng
của Học viện Ngân hàng:
Hoạt động cho vay của NHTM là quan hệ vay trả bằng tiền tệ giữa một
bên là ngân hàng (bên cho vay) với một bên là doanh nghiệp, tổ chức, hay
các cá nhân trong xã hội (bên đi vay); theo đó, ngân hàng chuyển giao một
lượng tiền cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định như thoả
thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện gốc và lãi cho ngân
hàng khi đến hạn thanh toán.
Như vậy, hoạt động cho vay của ngân hàng đó là quan hệ vay mượn có
hoàn trả gốc và lãi sau một khoảng thời gian nhất định, là quan hệ chuyển
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, trong quan hệ này hai bên bình đẳng và
cùng có lợi. Cho vay nói chung là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi
vay, nhưng khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng thì thường
chỉ bao hàm nghĩa cho vay. Cho vay là hoạt động đem lại thu nhập chủ yếu
cho ngân hàng truyền thống. Lãi suất thu được từ cho vay sẽ dùng để bù đắp
chi phí tiền gửi, chi phí dữ trữ bắt buộc, chi phí kinh doanh, chi phí quản lý,
chi phí thuế và các khoản chi phí khác. Với vai trò quan trọng như vậy,
NHTM có rất nhiều hình thức cho vay khác nhau để đáp ứng nhu cầu của các
tổ chức kinh tế và các cá nhân nhằm thu được lợi nhuận mong muốn.
10
1.1.2.2. Phân loại cho vay của ngân hàng thương mại
Có nhiều cách phân loại cho vay khác nhau tuỳ theo các tiêu chí dựa
trên yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là
một số cách phân loại:
a. Căn cứ theo thời gian, gồm 3 loại
- Cho vay ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống
- Cho vay trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm
- Cho vay dài hạn: Trên 5 năm
Thời hạn cho vay thường được xác định cụ thể và ghi trong hợp đồng tín
dụng, là thời hạn trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản

tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tư của ngân
hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng thu về. Việc phân chia
theo thời gian có ý nghĩa quan trọng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an
toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng.
b. Căn cứ theo tài sản bảo đảm, có thể nêu ra 2 loại:
- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: là việc cho vay không có tài
sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba, mà việc
cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách
hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, ngân hàng
có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần
nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
- Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: là loại cho vay dựa trên cơ sở các
bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh bằng tài sản của
người thứ ba. Khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn
đòi hỏi phải có bảo đảm .
c. Căn cứ theo phương pháp hoàn trả, có 2 loại:
- Cho vay có thời hạn cụ thể: là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả
nợ cụ thể theo hợp đồng. Cho vay có thời hạn cụ thể bao gồm: cho vay chỉ có
11
một kỳ hạn trả nợ (phi trả góp), cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể (trả
góp), cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể.
- Cho vay không có thời hạn cụ thể: là loại cho vay mà ngân hàng có thể
yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước
một thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thoả thuận trong hợp đồng
d. Căn cứ theo mục đích sử dụng, có 2 loại:
- Cho vay phục vụ sản xuất: là khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu
sản xuất kinh doanh của khách hàng như: vay vốn lưu động, vay vốn mua sắm
tài sản cố định để phục vụ sản xuất hoặc kinh doanh.
- Cho vay tiêu dùng: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi
tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn

tài chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng
gia đình, xe cộ và nhu cầu khác Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu
giáo dục, y tế và du lịch cũng có thể được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng
Ngoài các hình thức chủ yếu trên còn có các hình thức cho vay khác
tuỳ vào điều kiện hoạt động kinh doanh của ngân hàng và đặc điểm của khách
hàng vay như theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp ), theo đối tượng tín
dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định)
1.1.2.3. Quy trình cho vay của ngân hàng thương mại
Quy trình cho vay là trình tự tổ chức thực hiện các nội dung cơ bản của
kỹ thuật nghiệp vụ cho vay của ngân hàng từ khi phát sinh đến khi thu hồi đầy
đủ một món vay. Việc áp dụng quy trình cho vay tốt sẽ giúp ngân hàng thực
hiện được một khoản vay có chất lượng và đạt hiệu quả như mong muốn.
Quy trình cho vay gồm các bước như sau :
- Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn;
- Điều tra, thu thập, tổng hợp các thông tin về khách hàng và phương án
vay vốn;
12
- Phân tích thẩm định khách hàng và phương án vay vốn;
- Quyết định cho vay;
- Kiểm tra và hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản bảo đảm (hồ
sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh);
- Phát tiền vay;
- Giám sát khách hàng sử dụng vốn vay;
- Thu hồi nợ và gia hạn nợ;
- Xử lý rủi ro xảy ra;
- Thanh lý hợp đồng tín dụng.
1.2. Cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng (CVTD) là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu
cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một

nguồn tài chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ
dùng gia đình, xe cộ và nhu cầu khác Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu
cầu giáo dục, y tế và du lịch cũng có thể được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng.
Trên thực tế, có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về CVTD, chung
quy lại theo tác giả có thể hiểu như sau: “Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp
tín dụng trong đó ngân hàng thoả thuận để khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia
đình sử dụng một khoản tiền nhất định với mục đích sử dụng là chi tiêu để
mua sắm hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng phục vụ cho đời sống; bên đi vay có
trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn thanh
toán”. Ở nhiều nước, khái niệm cho vay tiêu dùng không bao hàm khoản cho
vay để mua nhà cửa mà chỉ là những khoản cho vay để mua các động sản như
ô tô, các đồ điện dân dụng và cho các nhu cầu sinh hoạt khác (cưới xin, du
lịch ) .
Cho vay tiêu dùng cho phép người vay được tiêu dùng hàng hoá trước
khả năng mua, do đó tác động gián tiếp kích thích sản xuất phát triển. Trong
13
những giai đoạn mà nền kinh tế ở trạng thái giảm phát, phát triển CVTD là
đòn bẩy để kích cầu, tạo động lực cho các nhà sản xuất tăng đầu tư, phát triển
sản xuất, góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Song trong giai đoạn
lạm phát, CVTD cần được thu hẹp.
1.2.2. Đặc điểm cho vay tiêu dùng
Lãi suất CVTD thường được cố định, không linh hoạt như các khoản
cho vay kinh doanh khác, căn cứ trên lãi suất huy động đầu vào. Đây là yếu tố
tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng khi lãi suất huy động tăng, nhưng các khoản cho
vay tiêu dùng thường được định giá rất cao.
Đối với CVTD, quy mô của từng hợp đồng vay thường nhỏ, dẫn đến
chi phí tổ chức cho vay cao, vì vậy lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn
lãi suất của các loại cho vay trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp.
Quy mô của từng hợp đồng vay tiêu dùng thường nhỏ, dẫn đến chi phí
tổ chức cho vay cao, vì vậy lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn lãi suất

của các loại cho vay trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp. Lãi suất
CVTD cao còn do các khoản CVTD thường có rủi ro cao trong danh mục cho
vay của ngân hàng.
Lãi suất CVTD thường được cố định, không linh hoạt như các khoản
cho vay kinh doanh khác, căn cứ trên lãi suất huy động đầu vào. Đây là yếu tố
tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng khi lãi suất huy động tăng, nhưng các khoản cho
vay tiêu dùng thường được định giá rất cao. Lãi suất CVTD cao như vậy là do
các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí lớn và rủi ro cao trong danh mục cho
vay của ngân hàng. Mỗi hợp đồng vay vốn tiêu dùng thường có giá trị nhỏ hơn
nhiều so với giá trị các hợp đồng vay khác, vì vậy chi phí tổ chức cho vay cao.
Cho vay tiêu dùng thường phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế. Khi nền kinh tế
tăng trưởng mạnh, mọi người tin tưởng rằng trong tương lai mình sẽ có nhiều
tiền hơn nên nhu cầu tiêu dùng cũng sẽ lớn hơn do vậy việc cho vay phát triển.
Ngược lại, thời kỳ kinh tế suy thoái, người dân sẽ có xu hướng tiết kiệm hơn là
14
tiêu dùng nên họ sẽ hạn chế hơn nhu cầu tìm kiếm các khoản vay từ ngân hàng.
Do vậy CVTD kém phát triển hơn. Việc cho vay tiêu dùng hầu như ít co dãn
với lãi suất. Thông thường, người đi vay quan tâm tới số tiền phải thanh toán
hơn là lãi suất mà họ phải chịu. Ngoài ra, mức thu nhập và trình độ học vấn là
hai biến số có quan hệ rất mật thiết tới nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng.
Thông thường thu nhập hàng tháng và trình độ học vấn càng cao thì nhu cầu
vay để phục vụ tiêu dùng hiện tại của khách hàng càng cao.
Chất lượng các thông tin tài chính của khách hàng vay thường không
cao. Đối tượng khách hàng thường là cá nhân, sự hiểu biết về lĩnh vực cho
vay của ngân hàng thấp. Tư cách của khách hàng là yếu tố khó xác định song
lại rất quan trọng, quyết định sự hoàn trả của khoản vay.
Nguồn trả nợ chủ yếu của người đi vay có thể biến động lớn, phụ thuộc
vào quá trình làm việc, kỹ năng và kinh nghiệm đối với công việc và lĩnh vực
làm việc của những người này. Đây là những nguyên nhân chủ yếu có thể gây
rủi ro cho ngân hàng.

Sự khác nhau giữa CVTD và các hình thức cho vay khác có thể được
tóm tắt trong bảng dưới đây
Bảng 1.1: So sánh CVTD và cho vay khác
STT Các đặc điểm CVTD Cho vay khác
1 Lãi suất Cố định, cao hơn Linh hoạt, thấp hơn
2 Chi phí trên 1 triệu
đồng cho vay
Cao hơn Thấp hơn
3 Cho vay tiêu dùng Phụ thuộc vào chu kỳ
kinh tế, mức thu nhập
và trình độ học vấn
Phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác nữa
4 Đối tượng khách
hàng
Cá nhân, sự hiểu biết
về lĩnh vực cho vay
của ngân hàng thấp
Doanh nghiệp, cá nhân
có hiểu biết về lĩnh vực
cho vay của ngân hàng
5 Nguồn trả nợ Thường là thu nhập
hàng tháng
Kết quả sản xuất, kinh
doanh
1.2.3. Các hình thức cho vay tiêu dùng
15
Để có cái nhìn tổng quát về CVTD ở những giác độ khác nhau, CVTD
được phân loại dựa trên các tiêu thức tương tự trong phân loại cho vay nói
chung:

a. Căn cứ thời hạn vay
* CVTD ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống
Hình thức vay ngắn hạn dưới 12 tháng của cho vay tiêu dùng chủ yếu là
cho vay thấu chi và cho vay cán bộ công nhân viên, họ cần tiền để bù đắp nhu
cầu chi tiêu thiếu hụt tạm thời và sẽ hoàn trả trong thời gian ngắn.
* CVTD trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm
Cho vay này tính từ khi nhận tiền vay đến khi hoàn trả khoản vay cuối
cùng là trên 1 năm và dưới 5 năm. Thông thường các hình thức cho vay như:
cho vay mua ô tô, cho vay xây nhà, cho vay hỗ trợ du học và lao động xuất
khẩu đều là CDTD trung hạn.
* CVTD dài hạn: Trên 5 năm
Hình thức cho vay này thực tế rất ít và do thời gian dài nên rủi ro cho
ngân hàng cao. Chủ yếu là cho vay mua đất làm nhà hoặc cho vay xây dựng
nhà ở.
Thông thường, cho vay tiêu dùng có thời hạn vay là ngắn hạn hoặc
trung hạn. Các sản phẩm cho vay tiêu dùng dài hạn là rất ít, chỉ mới có một số
ngân hàng triển khai. Việc phân chia CVTD theo thời gian có liên quan mật
thiết với phương thức hoàn trả của khoản vay đó.
b. Căn cứ phương thức hoàn trả
Theo phương thức này, CVTD gồm CVTD trả góp và CVTD phi trả góp.
* CVTD trả góp
CVTD trả góp là khoản cho vay trong đó người đi vay phải trả cho
ngân hàng bao gồm cả gốc và lãi làm nhiều lần, theo từng kỳ hạn nhất định
trong thời hạn cho vay. Loại cho vay này thường áp dụng đối với những
16
khoản vay lớn và thời hạn vay dài như vay để mua nhà, mua ôtô
Đối với CVTD trả góp, các ngân hàng thường chú ý tới một số nội
dung cơ bản, có tính nguyên tắc sau:
• Loại tài sản được tài trợ
Thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn rất nhiều nếu tài sản hình

thành từ tiền vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tương lai.
Khi lựa chọn tài sản để tài trợ, ngân hàng thường chú ý đến điều này, nên
thường chỉ muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có thời hạn sử
dụng lâu bền hoặc/và có giá trị lớn. Ví dụ mua nhà, mua ôtô Vì rằng, với
những loại tài sản như vậy, người tiêu dùng sẽ hưởng được những tiện ích từ
chúng trong một thời gian dài.
• Số tiền phải trả trước
Thông thường, ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước
một phần giá trị tài sản cần mua sắm. Số tiền này được gọi là số tiền trả trước
(Down payment). Phần còn lại, ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cần
phải đủ lớn để một mặt, làm cho người đi vay nghĩ rằng họ chính là sở hữu
của tài sản, mặt khác có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Một khi
không cảm nhận được rằng mình là chủ sở hữu của tài sản hình thành từ tiền
vay thì người đi vay có thể sẽ có thái độ miễn cưỡng trong việc trả nợ. Ngoài
ra, khi khách hàng không trả nợ, trong nhiều trường hợp, ngân hàng đành phải
thụ đắc hoặc/và phát mãi tài sản để thu hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử
dụng đều bị giảm giá trị, tức là giá trị thị trường nhỏ hơn giá trị hạch toán của
tài sản. Do vậy, số tiền trả trước có một vai trò rất quan trọng, giúp ngân hàng
hạn chế rủi ro.
Số tiền trả trước nhiều hay ít phụ thuộc vào:
+ Loại tài sản: Đối với các tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền
trả trước nhiều và ngược lại, đối với các tài sản có mức độ giảm giá chậm thì
17
số tiền trả trước ít;
+ Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi đã sử dụng: Tài sản sau khi đã sử
dụng (Used asset) nếu vẫn có thể được tiếp tục mua, bán dễ dàng thì số tiền
trả trước có xu hướng thấp, ngược lại nếu tài sản đã qua sử dụng mà rất khó
tìm được thị trường tiêu thụ thì số tiền trả trước có xu hướng cao hơn;
+ Môi trường kinh tế;
+ Năng lực tài chính của người đi vay.

• Chi phí tài trợ
Chi phí tài trợ (Finance charge) là chi phí mà người đi vay phải trả cho
ngân hàng để được sử dụng vốn. Chi phí tài trợ chủ yếu bao gồm lãi vay và
các chi phí khác có liên quan. Chi phí tài trợ phải trang trải cho được chi phí
vốn tài trợ, chi phí hoạt động, rủi ro, đồng thời mang lại một phần lợi nhuận
thoả đáng cho ngân hàng.
• Điều khoản thanh toán:
Khi xác định các điều khoản liên quan đến việc thanh toán nợ của
khách hàng, ngân hàng thường chú ý tới một số vần đề sau:
+ Số tiền thanh toán mỗi định kỳ phải phù hợp với khả năng về thu
nhập, trong mối quan hệ hài hoà với các nhu cầu chi tiêu khác của khách
hàng;
+ Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng. Kỳ hạn
trả nợ thường theo tháng. Vì thông thường, nguồn trả nợ chính của người vay
tiêu dùng là lương, được nhận hàng tháng;
+ Thời hạn tài trợ không nên quá dài. Thời hạn tài trợ bị giới hạn bởi
thời gian hoạt động của tài sản tài trợ. Thời hạn tài trợ quá dài dễ làm giá trị
tài sản tài trợ bị giảm mạnh. Hơn nữa, khi thời hạn tài trợ quá dài thì thiện chí
trả nợ của người đi vay cũng như việc thu hồi nợ thường gặp nhiều rắc rối.
* CVTD phi trả góp (trả một lần)
18
CVTD phi trả góp là khoản cho vay trong đó khách hàng chỉ thanh
toán cho ngân hàng một lần khi đến hạn. Quy mô của những khoản vay này
tương đối nhỏ, thời gian vay thường là ngắn hạn. Phần lớn các khoản vay
loại này được dùng để chi trả tiền viện phí, mua sắm vật dụng gia đình, sửa
chữa nhà, ôtô
* CVTD tuần hoàn
CVTD tuần hoàn là các khoản CVTD trong đó ngân hàng cho phép
khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi
dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn tín dụng

được thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được
từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ
nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng nhất định.
Lãi phải trả một kỳ có thể tính dựa trên một trong ba cách sau :
+ Lãi được tính dựa trên số dư nợ đã được điều chỉnh: Theo phương
pháp này số dư nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của mỗi kỳ sau
khi khách hàng đã thanh toán nợ cho ngân hàng.
+ Lãi được tính dựa trên số dư nợ trước khi điều chỉnh: Theo phương
pháp này số dư nợ dùng để tính lãi là số dư nợ mỗi kỳ có trước khi khoản nợ
được thanh toán.
+ Lãi được tính trên cơ sở dư nợ bình quân
c. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ
Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ, CVTD có thể phân chia thành:
*. CVTD gián tiếp
CVTD gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các
khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ
cho người tiêu dùng.
Thông thường CVTD gián tiếp được thực hiện theo sơ đồ sau :
19
NGÂN HÀNG
NGƯỜI TIÊU DÙNG
CTY BÁN LẺ
(1)
(4)
(5)
(2)(6)
(3)

×