Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
MÔNG THỊ BẠCH VÂN
KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN THƠ TÀY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Thái Nguyên - Năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
MÔNG THỊ BẠCH VÂN
KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN THƠ TÀY
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Đức Ngôn
Thái Nguyên - Năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng quản lý khoa học,
Khoa Ngữ văn, các thầy, các cô trong tổ Văn học Việt Nam, Trường Đại học
sư phạm Thái Nguyên đã giúp đỡ em hoàn thành khóa học.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS Trần Đức
Ngôn – người đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Cảm ơn các bạn, những người thân đã giúp đỡ và động viên tôi trong
suốt thời gian học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2011
Tác giả
Mông thị Bạch Vân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
A. PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 6
3.1. Mục đích 6
3.2. Nhiệm vụ 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
4.1. Đối tượng nghiên cứu 7
4.2. Phạm vi nghiên cứu 8
5. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu khảo sát 8
5.1. Phương pháp nghiên cứu 8
5.2. Tư liệu khảo sát 9
6. Đóng góp mới của luận văn 9
7. Cấu trúc luận văn. 9
B. PHẦN NỘI DUNG10
Chƣơng 1: PHÂN LOẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA KHÔNG GIAN, THỜI
GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN THƠ TÀY 10
1.1. Khái niệm về không gian và thời gian nghệ thuật 11
1.1.1. Khái niệm không gian nghệ thuật 11
1.1.2. Khái niệm thời gian nghệ thuật 12
1.2. Phân loại không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày 15
1.2.1. Phân loại không gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày 15
1.2.2. Phân loại thời gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày 17
1.3. Đặc điểm của không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày 18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.3.1. Đặc điểm của không gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày 18
1.3.2. Đặc điểm thời gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày 23
Chƣơng 2: SỰ THỂ HIỆN KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG
TRUYỆN THƠ TÀY 29
2.1. Các hình ảnh về không gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày 29
2.1.1. Không gian sinh hoạt 29
2.1.2. Không gian thiên nhiên 36
2.1.3. Không gian siêu hình 41
2.1.4. Nhận xét chung về các loại không gian nghệ thuật trong truyện thơ
Tày 46
2.2. Các thủ pháp biện pháp thể hiện không gian nghệ thuật 47
2.2.1. Sử dụng các hình ảnh ẩn dụ 48
2.2.2. Sử dụng cách lặp từ và dùng các từ láy 52
2.2.3 Sử dụng các điệp từ, điệp ngữ 54
2.2.4. Sử dụng những cặp từ đối lập 56
2.3. Các công thức thể hiện không gian nghệ thuật 59
2.3.1. Sáng tạo từ công thức dân ca Tày với các hình ảnh truyền thống 59
Chƣơng 3: SỰ THỂ HIỆN THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG
TRUYỆN THƠ TÀY 61
3.1. Các hình ảnh về thời gian nghệ thuật 62
3.1.1. Thời gian thực 62
3.1.2. Thời gian thiên nhiên 66
3.1.3. Thời gian siêu hình 75
3.1.4. Nhận xét chung về gian nghệ thuật 77
3.2. Các thủ pháp thể hiện thời gian nghệ thuật 79
3.2.1. Sử dụng các biểu tượng mang tính thời gian 79
3.2.2. Sử dụng các phạm trù đối lập về thời gian trong cùng câu thơ hoặc
giữa các câu thơ với nhau 81
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.2.3. Sử dụng các câu hỏi tu từ về thời gian. 82
3.2.4. Sử dụng điệp từ, điệp ngữ và sự liên tưởng về thời gian 83
3.2.5. Biện pháp ước lệ thời gian 86
3.3. Các công thức thể hiện thời gian nghệ thuật 90
3.3.1. Mẫu đề “ ngày đêm và đêm ngày” 90
3.3.2. Các mẫu đề thời gian “sớm chiều” (sáng chiều)”, “ sớm hôm”, “sớm
tối”, “trưa chiều” 91
3.3.3 Các mẫu đề “ngày trước”, “ngày xưa”, “bây giờ”, “hôm nay”, “ngày
nay”, “hôm sau”, “ngày mai” 92
C. PHẦN KẾT LUẬN 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với nền văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, truyện thơ là
một thể loại đặc sắc, được các nhà nghiên cứu đánh giá “Là thể loại phát triển
cuối cùng và cũng là đỉnh cao của dân ca Tày”. Vì sớm có chữ viết nên việc
ghi chép các tác phẩm truyện nôm Tày được các nho sĩ bản tộc và các thầy đồ
miền xuôi, gia công chau chuốt, tạo nên thể loại truyện thơ có giá trị cho tới
ngày nay. Bản thân tác giả luận văn là người con của dân tộc Tày nên việc tìm
hiểu về văn học dân tộc mình là điều cần thiết để góp phần giới thiệu, tôn
vinh bản sắc văn hóa tộc người.
Như đã biết, trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt
Nam. Truyện thơ khá phong phú về số lượng, trên thực tế, mặc dù đã có nhiều
công trình sưu tầm, dịch thuật, nghiên cứu thành công về thi pháp truyện thơ
Tày nhưng chưa có một công trình nghiên cứu về thi pháp không gian và thời
gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày.
Với những lý do trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài luận văn
“Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày”.
2. Lịch sử vấn đề
Dựa trên các tài liệu hiện có, chúng tôi đã tham khảo và tiếp cận những
nhận định, những ý kiến của các nhà sưu tầm, biên soạn, dịch thuật và nghiên
cứu trong quá trình thực hiện đề tài luận văn cao học của mình.
Về việc sưu tầm, biên soạn, xuất bản truyện thơ Tày, đến nay đã có 17 đơn
vị tác phẩm dịch và giới thiệu bằng chữ phổ thông, đó là các tác phẩm: Tam
Mậu Ngọ; Nam Kim-Thị Đan; Chim Sáo; Đính Quân; Quảng Tân – Ngọc
Lương; Vượt Biển (Khảm Hải); Lưu Đài – Hán Xuân (Nàng Hán); Kim Quế
(Nàng Kim); Trần Châu (Nàng Quyển); Nàng Ngọc Long; Nàng Ngọc Dong;
Nhân Lăng; Lương Quân - Bjóoc Lả; Chiêu Đức; Lý Thế Khanh; Nho
Hương; Tử Thư – Văn Thậy).
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Về việc nghiên cứu tác phẩm, đã có một số công trình tiêu biểu nghiên
cứu về truyện thơ Tày. Trước hết phải nói tới nhà thơ Tày Nông Quốc Chấn.
Trong bài viết “Mấy ý nghĩ về truyện thơ cổ Tày Nùng” (trong sách Truyện
thơ Tày Nùng, tập1, Nxb VH, HN 1964) dùng để giới thiệu chung cho hai tập
thơ truyện thơ Tày – Nùng (gồm 8 truyện), Nông Quốc Chấn đã đưa ra nhận
xét về cách kết cấu cốt truyện của truyện thơ: “Truyện nào cũng được sắp xếp
thành từng chương, từng tiết, từng đoạn”; “Cách kể không cầu kì, phức tạp
mà nôm na dễ hiểu”. Ngoài ra khi nhận xét về các truyện thơ Tày Nùng, ông
còn đưa ra những nhược điểm của thể loại truyện thơ “Đọc các truyện thơ Tày
Nùng, ta thấy có nhiều chất hiện thực, chất kịch, nhưng nhìn chung, hầu hết
các tác phẩm thường ít có những đoạn những câu mang chất suy nghĩ sâu sắc,
ít những hình ảnh độc đáo, ít chất trữ tình mà chỉ nặng về kể lể nhiều lời. Có
những truyện tưởng đã dùng quá nhiều từ Hán, Việt và rất ít sử dụng hình ảnh
ca dao, tục ngữ, dân tộc… ”[10]. Về vấn đề này cần được các nhà nghiên cứu
lý giải cặn kẽ hơn.
Tác giả Hà Thị Bình trong “Dịch và giới thiệu truyện thơ “Tử thư –
Văn Thậy vùng Ngân Sơn, Bắc Cạn trong hệ thống truyện thơ Tày” (luận văn
thạc sĩ Ngữ văn, Hà Nội 2002) đã kế thừa kết quả nghiên cứu về cấu trúc cốt
truyện của tác giả Lê Trường Phát, và bổ sung thêm một thành phần kết cấu:
“Theo quan niệm truyền thống về kết cấu, truyện thơ Nôm được xây dựng
theo mô hình ổn định của hệ thống cốt truyện với ba sự kiện cơ bản: Gặp gỡ -
Tai biến – Đoàn tụ”[9]. Mô hình này là sự tiếp nối mảng cổ tích thần kỳ. Tuy
nhiên, trong nhiều truyện cổ và truyện thơ, ngoài ba sự kiện cơ bản trên, còn
có một thành phần khá quan trọng đứng trước sự kiện “Gặp gỡ”: Giới thiệu
nhân vật. Như vậy, kết cấu truyện thơ có thể khái quát theo mô hình bốn
chặng: Giới thiệu-Gặp gỡ-Tai biến–Đoàn tụ. Trong quan niệm về sự khác biệt
thời gian giữa cõi trần và cõi tiên, tác giả nhận xét: “Người Tày cho rằng có
ba tầng thế giới, mỗi tầng có người đứng đầu, kẻ hậu thuẫn. Trật tự xã hội của
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ba tầng thế giới như vậy, là giống nhau. Nhưng giữa cõi trần và cõi tiên, thời
gian khác xa nhau. Một ngày ở cõi tiên có thể bằng cả năm hạ giới”[9:109].
Hà Thị Bích Hiền trong “Truyện thơ nôm Tày - Điểm nối giữa văn học dân
gian và văn học Tày” (luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Hà Nội 2000) đã khảo sát
truyện nôm Tày trên các phương diện chữ viết, phong tục tập quán, chủ đề,
cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ…Tác giả luận văn có nêu ý kiến về quan niệm
về vũ trụ của người Tày: “Với truyện thơ nôm Tày, ba thế giới (mường trời,
dương gian, diêm cung) gần giống nhau: có đủ bộ máy cai quản, có trật tự, có
quan, có dân, có binh tướng….”[18]. Đây là một nhận xét quan trọng để
người viết vận dụng vào việc nghiên cứu của mình về vấn đề không gian nghệ
thuật.
Năm 1992 tác giả Kiều Thu hoạch trong cuốn “Truyện Nôm - nguồn gốc
39và bản chất thể loại” đã tìm ra mối quan hệ giữa truyện nôm Việt với
truyện thơ nôm Tày. Biểu hiện sự tương đồng ở câu mở đầu, câu kết thúc
truyện, ở phong cách ngôn ngữ thơ “…Pha tạp không thuần nhất, không đồng
đều, khi thì Hán, khi thì Nôm, khi bình dân, khi thì trang trọng… ”. Tác giả
đưa ra ý kiến về thi pháp truyện Nôm nói chung: “Về thi pháp, truyện Nôm đã
hình thành một phong cách thể loại và một khuôn mẫu cấu trúc thể loại khá
ổn định. Đó là những kết cấu câu mở đầu và kết thúc truyện giống nhau. Đó là
mô hình kết cấu Gặp gỡ - Tai biến – Đoàn tụ và kết thúc có hậu giống
nhau…”[19].
Tác giả Đỗ Hồng Kỳ trong bài viết “Những biểu hiện của tôn giáo tín
ngưỡng trong truyện thơ nôm Tày Nùng” (Tạp chí Văn hóa dân gian, số
3, 1997) đưa ra nhận xét hoàn toàn có cơ sở về “Không gian nghệ thuật trong
truyện thơ nôm Tày Nùng, cũng có ba cõi như vũ trụ quan của người Tày
trong cuộc sống. Tuy nhiên trong truyện thơ nôm Tày, tên gọi của ba cõi đó
phong phú hơn. Chẳng hạn cõi trời được gọi bằng các tên như bồng lai,
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
mường trời, thượng giới…Đó là nơi ở của Ngọc Hoàng, Vương Mẫu, Bụt
Cả,…Cõi đất được gọi bằng các tên như trần gian, dương gian, thế gian, là
nơi sinh sống của loài người, cỏ cây, muôn loài. Cõi âm còn có tên gọi là
Long phủ, Diêm la, Địa phủ, là nơi cư ngụ của Diêm vương, hà bá, quỷ sứ,
thuồng luồng… Người trần gian muốn lên thượng giới đều phải qua chùa Lôi
Âm, muốn xuống âm giới phải qua chợ Hoài Dương. Có thể nói trong truyện
thơ nôm Tày, Nùng, chùa Lôi Âm, chợ Hoài Dương là trạm chuyển tiếp của
ba tầng vũ trụ…”[26: 72].
Vào năm 1972 tác giả Lục Văn Pảo đưa ra danh mục truyện nôm Tày, chủ
yếu từ nguồn gốc bản tộc là chính, thứ đến từ các truyện nôm Kinh, từ kho
truyện dân gian Trung Quốc. Tất cả được sưu tầm trong một thời gian dài với
con số (tác giả thống kê) lên tới 47 danh mục truyện. Đây là số lượng tác
phẩm khá phong phú về thể loại này, cho đến nay con số cuối cùng vẫn chưa
dừng lại ở đó mà vẫn đang được các nhà nghiên cứu, sưu tầm, dịch thuật bổ
sung. Lục Văn Pảo đã chỉ ra: “Về kết cấu truyện thơ, thường khá hoàn
chỉnh…Mở đầu truyện, thường xác định câu chuyện ở thời điểm nào…”
“Cách kể ở đây theo từng chương. Các chương thường không có câu đề mà
chỉ chuyển đoạn bằng những câu, như “Lại ca đoạn…” ”[32: 23]. Đây là một
nhận xét khá tinh tế thú vị về kết cấu truyện, tuy nhiên cần được giải thích
một cách cụ thể hơn nữa.
Đáng chú ý là công trình nghiên cứu “ Đặc điểm thi pháp truyện thơ các
dân tộc thiểu số ” (luận án tiến sĩ, ĐHSP Hà Nội, năm 1997) của Lê Trường
Phát. Trong công trình này, tác giả đã nghiên cứu truyện thơ của dân tộc thiểu
số trên các phương diện kết cấu cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và đặt truyện
thơ dân tộc thiểu số Việt Nam trong bối cảnh truyện thơ các nước Đông Nam
Á. Về mô hình, cấu trúc cốt truyện, tác giả nhận định “Mô hình kết cấu cốt
truyện kết thúc có hậu với ba chặng: [Gặp gỡ, Tai biến, Đoàn tụ] không phổ
biến, không tiêu biểu cho kiểu kết cấu cốt truyện của thể loại truyện thơ các
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
dân tộc thiểu số”; và mô hình “Kết thúc bi kịch” mới là phổ biến và tiêu biểu,
chiếm tỉ lệ lấn át kiểu “kết thúc có hậu”, có trường hợp chiếm 100% (dân tộc
Mường, Chăm) [34: 127]. Riêng ở nhóm truyện thơ Tày- Nùng tình hình
ngược lại: “Kết thúc có hậu chiếm tỉ lệ lấn át” [34: 128]. Tác giả lý giải, sở dĩ
có sự kết thúc khác nhau giữa nhóm truyện thơ Tày – Nùng so với truyện thơ
Mường, Chăm chính là do vai trò tham gia sáng tạo tác phẩm của các nho sĩ,
thầy đồ người Việt miền xuôi lên, họ mang theo ảnh hưởng của truyện nôm
Việt vào truyện thơ Tày – Nùng.
Gần đây nhất, tác giả luận văn Triệu Thị Phượng với luận văn thạc sĩ ngữ
văn “Sự tương đồng và khác biệt về nội dung giữa truyện thơ Tày và truyện
thơ Thái” đã so sánh truyện thơ Tày với truyện thơ Thái và chỉ ra sự tương
đồng và khác biệt về đề tài, chủ đề, tư tưởng - tình cảm - thái độ của nhân vật
giữa truyện thơ Tày và truyện thơ Thái. Công trình đã phần nào cho chúng ta
hiểu thêm về mối quan hệ văn hóa giữa hai dân tộc Tày và Thái.
Đặc biệt, một công trình có tầm khái quát cao, công trình đầu tiên ở Việt
Nam trình bày có hệ thống về thi pháp thể loại truyện thơ Tày, đó là công
trình “Truyện thơ Tày - nguồn gốc, quá trình phát triển và thi pháp thể loại ”
của PGS. TS Vũ Anh Tuấn. Tác giả đã nghiên cứu từ nguồn gốc thể loại, quá
trình phát triển, đến thi pháp thể loại truyện thơ Tày (kết cấu cốt truyện, thi
pháp nhân vật và lời văn nghệ thuật). Công trình đã đưa ra một cái nhìn tổng
quan về thể loại truyện thơ trong nền văn học dân gian nói chung, và trong
nền văn học Tày nói riêng. Mặt khác, tác giả tìm hiểu đặc điểm, cấu trúc cốt
truyện của truyện thơ qua việc sử dụng một số môtíp, của truyện kể dân gian
trong truyện thơ Tày. Công trình đã chỉ ra năm bước phân tích và tổng hợp để
tìm hiểu cấu trúc cốt truyện.[42]
Năm 2006, trong luận văn thạc sĩ ngữ văn “Tìm hiểu truyện thơ Tày –
Nhân Lăng về phương diện thi pháp kết cấu cốt truyện và nhân vật” Đỗ Thị
Hùng Thúy đã nêu một luận điểm đáng chú ý: “ Qua việc tìm hiểu thi pháp
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
kết cấu cốt truyện thơ Nhân Lăng chúng tôi nhận thấy: Truyện Thơ Nhân
Lăng là sự lựa chọn, lắp ghép các môtíp khác nhau từ những truyện cổ khác
nhau về người mồ côi của dân tộc Tày để tạo nên một kết cấu cốt truyện
mới…”[41].
Các công trình nghiên cứu, của các tác giả trên đây là cơ sở lí luận cho
việc nghiên cứu tiếp về thi pháp truyện thơ Tày. Hiện nay truyện thơ Tày đã
trở thành đối tượng quan tâm của các nhà nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên,
trong các công trình nghiên cứu nêu trên, chưa có công trình nào chuyên biệt
viết về không gian và thời gian nghệ thuật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích: Làm rõ các đặc điểm thi pháp truyện thơ nôm Tày về phương
diện không gian và thời gian nghệ thuật.
3.2. Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu phân loại không gian và thời gian nghệ thuật.
- Nghiên cứu đặc điểm của từng loại không gian và thời gian nghệ thuật.
- Nghiên cứu các phương tiện và công thức thể hiện không gian và thời -
gian nghệ thuật.
- Nghiên cứu vai trò và khả năng biểu cảm của không gian và thời gian
nghệ thuật trong tác phẩm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Truyện thơ nôm của dân tộc Tày
Trên cơ sở kế thừa sự nghiên cứu của người đi trước và bổ sung thêm một
truyện thơ vào bảng thống kê. Dưới đây chúng tôi giới thiệu số lượng các
truyện thơ nôm Tày (kèm theo số dòng thơ và nơi sưu tầm) đã được người
đọc biết đến. Cụ thể là những truyện sau:
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
BẢNG THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG TRUYỆN THƠ NÔM TÀY
STT
Tên truyện thơ
Tên gọi khác
Số dòng thơ
Nơi sưu tầm truyện
1
Tam Mậu Ngọ
1251
Thái Nguyên, Bắc Kạn
2
Nam Kim – Thị
Đan
575
Bảo Lạc, Cao Bằng
3
Chim Sáo
373
Bảo Lạc, Cao Bằng
4
Đính Quân
2075
Chợ Rã, Chợ Đồn( Bắc
Kạn )
5
Quảng Tân – Ngọc
Lương
1299
Bạch Thông, Chợ Rã
( Bắc Kạn ); Cao Lộc
( Lạng Sơn )
6
Vượt Biển
Khảm Hải
249 →
651 →
( bản Hoàng Hạc)
( bản Vi Hồng ) Cao
Bằng, Lạng Sơn
7
Lưu Đài – Hán
Xuân
Nàng Hán
3437
Chợ Rã( Bắc Kạn )
8
Kim Quế
Nàng Kim
1883
Chợ Đồn, Chợ Rã, Bạch
Thông( Bắc Kạn ) Định
Hóa ( Thái Nguyên )
9
Trần Châu
Nàng Quyển
2946
Chợ Rã, Cao Bằng
10
Nàng Ngọc Long
2237
Cao Bằng
11
Nàng Ngọc Dong
1055
Cao Bằng
12
Nhân Lăng
1739
Chợ Rã, Bắc Kạn
13
Bjóc Lả
755
Chợ Đồn - Bắc Kạn, Vị
Xuyên ( Hà Giang )
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Chiêu Đức
2655
Cao Bằng
15
Lý Thế Khanh
2209
Cao Bằng
16
Nho Hương
1754
Cao Bằng
17
Tử Thư – Văn
Thậy
Tử Thư; Tứ
Thư – Văn
Thụy; Sôi
Văn Thậy
( Bản gốc
Nôm đã bị
mất phần
đầu và phần
cuối, số câu
còn lại )
1451
Ngân Sơn, Bạch Thông,
Ba Bể ( Bắc Kạn ), Bảo
Lạc ( Cao Bằng )
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu về phương diện không gian và thời
gian nghệ thuật trong một số tác phẩm tiêu biểu: Lưu Đài – Hán Xuân (Nàng
Hán), Nam Kim-Thị Đan, Nhân Lăng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và tƣ liệu khảo sát.
5.1. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Phương pháp mô tả: Với phương pháp này chúng tôi sẽ đi sâu vào việc
mô tả các yếu tố nghệ thuật liên quan đến không gian và thời gian trong các
tác phẩm truyện thơ nôm Tày.
Phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp này để phân tích, đối chiếu
một cách cụ thể với một số truyện thơ của dân tộc khác nhằm tìm ra đặc điểm
riêng biệt cho thi pháp truyện thơ Tày về phương diện không gian và thời gian
nghệ thuật.
Phương pháp khảo sát văn bản: Đây là phương pháp được sử dụng để
phân tích các yếu tố ngôn từ biểu thị không gian và thời gian nghệ thuật trong
truyện thơ Tày.
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5.2. Tƣ liệu khảo sát
Ba truyện thơ nêu trên được in trong Truyện thơ nôm Tày (Hoàng
Quyết-Triều Ân, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1994); Ba áng thơ nôm Tày
và thể loại (Triều Ân, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học); Chữ
nôm Tày và truyện thơ (Triều Ân chủ biên, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên
cứu Quốc học).
Chủ yếu các truyện thơ nêu trên (Nhân Lăng; Nam Kim – Thị Đan;
Lưu Đài – Hán Xuân) nằm trong hệ thống truyện thơ của dân tộc Tày. Cả ba
tác phẩm trên đều là những tác phẩm mang giá trị nghệ thuật cao, đều bắt
nguồn từ ý thức tư tưởng, quan niệm đạo đức, khát vọng vươn tới cái chân,
thiện, mỹ của người Tày. Nó xuất phát từ nguồn gốc nhân sinh quan và vũ trụ
quan của tác giả dân gian.
6. Đóng góp mới của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn này có thể được coi là góp phần nghiên cứu đầu
tiên về không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện thơ nôm Tày.
Về măt thực tiễn: Tìm hiểu thi pháp truyện thơ nôm Tày giúp cho chúng
ta hiểu về văn học dân tộc Tày và bản sắc văn hóa dân tộc Tày một cách sâu
sắc, đầy đủ hơn, đồng thời cũng giúp cho việc giảng dạy phần văn học dân
gian có liên quan đến dân tộc Tày ở trường đại học và cao đẳng.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, nội dung chính của
luận văn được thể hiện trong ba chương:
Chương 1: Phân loại và đặc điểm của không gian và thời gian nghệ thuật
trong truyện thơ Tày.
Chương 2: Không gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày.
Chương 3: Thời gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày.
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chƣơng 1
PHÂN LOẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA KHÔNG GIAN, THỜI GIAN
NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN THƠ TÀY
Việc nghiên cứu thi pháp có ảnh hưởng rất lớn trong ngành nghiên cứu
văn học thế kỉ XX. Đặc biệt nghiên cứu thi pháp văn học dân gian, một phạm
vi của thi pháp học, có những nét đặc sắc, độc đáo riêng. Chúng ta cần “phải
xác lập các phạm trù thi pháp, dùng chúng làm điểm quy chiếu những phát
hiện riêng lẻ về từng yếu tố rời rạc của tác phẩm cần châu tuần vào những
điểm quy chiếu ấy, từ đó mới khái quát thành những điểm độc đáo của tác
phẩm” và phải “ đặt thi pháp của tác phẩm trong mối quan hệ với thi pháp thể
loại…” [41: 9].
Tìm hiểu không gian và thời gian truyện thơ Tày, thực chất chính là
nghiên cứu thi pháp thể loại truyện thơ. Điều đáng nói là với một đối tượng
khoa học, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, cho nên cũng có nhiều cách hiểu
khác nhau về vấn đề này. Cần tiếp cận nó ở góc độ phônclo học và đặt nó
không chỉ trong các văn bản tĩnh tại, mà trong môi trường vận động phônclo
thì mới thấy được hết những giá trị nghệ thuật. Việc nghiên cứu thi pháp về
không gian và thời gian nghệ thuật trong luận văn này được chúng tôi nhìn
nhận trên nhiều bình diện khác nhau, nhất là sự phân loại các đặc điểm của
không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày.
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.1. Khái niệm về không gian và thời gian nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm không gian nghệ thuật
Ngoài các yếu tố tạo nên hình thức nghệ thuật, trong văn bản tác phẩm cụ
thể, bao giờ cũng có yếu tố của không gian. Không gian chính là môi trường
sống, hay nói cách khác đó là môi trường hoạt động của nhân vật. Có không
gian, nhân vật mới bộc lộ rõ mọi hành động của mình, giữa không gian và
nhân vật bao giờ cũng tỉ lệ thuận với nhau, hành động của nhân vật càng
nhiều thì môi trường không gian càng lớn. Có bấy nhiêu không gian thì bộc lộ
bấy nhiêu phương diện của con người về sự hiểu biết thế giới.
Từ điển Thuật ngữ văn học khẳng định “không gian nghệ thuật là hình
thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó ”[15].
Trong cuốn “Dẫn luận thi pháp học” GS. Trần Đình Sử có nói tới không
gian nghệ thuật: “Không gian trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật ”.
Nói như vậy để thấy rằng không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế
giới nghệ thuật, không có hình tượng nghệ thuật nào có thể tồn tại ngoài
không gian. Mỗi không gian nghệ thuật đều có sự khác biệt, sở dĩ có điều này
là do sự phản ánh thế giới nghệ thuật mang tính chủ quan của tác giả. Nghiên
cứu hình tượng không gian nghệ thuật chính là việc tìm hiểu khám phá quan
niệm nghệ thuật về thế giới, về con người.
Không những thế, “Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của
người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định
về cuộc sống, do đó không thể quy nó về như là sự phản ánh giản đơn không
gian địa lý hay không gian vật lý, vật chất”[40: 87]. Điều đó có nghĩa là
không gian nghệ thuật thể hiện con người và cả những quan niệm trong cuộc
sống thường ngày, hoặc những gì đã diễn ra. Không thể xem xét không gian
nghệ thuật một cách phiến diện, tách rời với con người và cuộc sống. Trong
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
thực tế, khi tiếp xúc với các văn bản, thấy được những hình ảnh nói về không
gian như ngôi nhà, con đường, dòng sông ,các hình ảnh này chỉ trở thành
biểu tượng của không gian nghệ thuật khi chúng mang một quan niệm nghệ
thuật về thế giới của tác giả.
Cũng theo GS. Trần Đình Sử, “không gian nghệ thuật là mô hình thế giới
của tác giả, được biểu hiện bằng ngôn ngữ của các biểu tượng không gian ”,
và không gian nghệ thuật là một hiện tượng khép kín. Đối với tác giả thì việc
xây dựng một không gian nghệ thuật cho riêng mình là điều phải làm và nó
cũng quyết định sự thành công của tác phẩm. Mỗi tác giả đều hình dung
tưởng tượng một không gian riêng, phù hợp với việc hình thành ý tưởng của
mình trong tác phẩm. Vậy nó biểu hiện bằng ngôn ngữ, mang tính cá thể là
điều dễ hiểu. Không gian do tác giả sáng tạo ra và người đọc là người cảm
nhận chia sẻ.
Tóm lại không gian nghệ thuật là mô hình không gian của thế giới được
diễn tả bằng ngôn ngữ nghệ thuật để biểu hiện quan niệm về thế giới và quan
niệm về con người qua lăng kính chủ quan của tác giả.
1.1.2. Khái niệm thời gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật là hai phạm trù tồn tại
song song với nhau, gần như không thể tách rời. Nếu không gian nghệ thuật là
môi trường để nhân vật hoạt động thì thời gian nghệ thuật chi phối toàn bộ
quá trình diễn ra các sự kiện, hành động của nhân vật trong tác phẩm. Khi tác
giả dừng lại miêu tả cặn kẽ các sự việc, sự vật, dường như thời gian trôi chậm
lại hoặc thời gian như ngừng trôi và ngược lại khi tác giả miêu tả lướt qua các
sự kiện, thì thời gian trôi đi rất nhanh, và điều này khi tiếp xúc văn bản tác
phẩm, người đọc sẽ cảm thấy rất rõ. Thời gian nghệ thuật là một phạm trù
thuộc về thi pháp.
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Như đã nói ở trên, nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu về văn học, nó đã có
từ rất lâu và trải qua sự biến đổi để phù hợp với từng bước đi của lịch sử, và
hiện nay nó mang trong mình những nội dung mới, hàm chứa những quan
niệm mới. Thời gian nghệ thuật là một phạm trù nghệ thuật mang tính đặc
thù, có đặc tính riêng biệt và nó cũng không thể đồng nhất với thời gian thực
tại. Đối với mỗi tác phẩm truyện thơ Tày, cũng phải đòi hỏi “Trong quá trình
sáng tạo, người nghệ sĩ đã xử lí yếu tố này như một phương tiện nghệ thuật
cần thiết để tái hiện đời sống và cấu trúc tác phẩm”[14: 184].
Hiện nay về lĩnh vực thi pháp học, GS. Trần Đình Sử là người đi đầu
trong việc nghiên cứu và ứng dụng thành công vào các văn bản tác phẩm.
Giáo sư cho rằng thời gian nghệ thuật là một phạm trù của nghệ thuật, thời
gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật. Theo dẫn luận
thi pháp học, giáo sư đã chỉ ra rằng “ thời gian nghệ thuật là hình thức tồn tại
với tính liên tục và độ dài của nó, có hướng, với nhịp độ nhanh hay chậm với
chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tương lai ”[40: 61].
Triết học cổ xưa, có một số quan niệm khác về thời gian, xem nó là
phương thức tồn tại của thế giới vật chất. Mọi vật chất trên thế giới này đều
tồn tại với thời gian, tất nhiên không thể nằm ngoài thời gian được. Nhận biết
được điều này, con người đã biết cách tính bằng đơn vị thời gian theo quy ước
chung ngày, tháng, năm, giờ, phút, giây Khi thời gian đi vào tác phẩm và trở
thành hình tượng nghệ thuật, sẽ thể hiện những quan niệm khác nhau của mỗi
nhà văn về cuộc đời, về con người.
Thời gian nghệ thuật được tập hợp từ nhiều thời gian cá biệt, cùng vận
động trên cả ba chiều thời gian tồn tại như đã nói ở trên. Tất nhiên trong các
tác phẩm, nhà văn có thể đảo ngược các chiều thời gian, chứ không nhất thiết
phải theo trình tự, từ quá khứ, hiện tại, cho tới tương lai.
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Trong tác phẩm, thời gian nghệ thuật có thể kéo dài hay rút ngắn, tùy
thuộc vào cảm quan của tác giả khi chiếm lĩnh và thể hiện thời gian. Có thể từ
một điểm nhìn mà thời gian kéo dài hoặc dồn lại trong mười năm, hai mươi
năm, hay cả một cuộc đời hoặc chỉ trong một khoảng khắc. Có rất nhiều loại
thời gian khác nhau như: thời gian lịch sử, thời gian vật lý, thời gian sinh vật,
thời gian tâm lý, thời gian thiên nhiên, thời gian sinh hoạt
Với thời gian của thiên nhiên vũ trụ, trải qua từng giai đoạn lịch sử, đã có
sự thay đổi trong quan niệm của con người. Trước đây do luôn quan niệm thời
gian là tự nhiên, tuần hoàn, nên con người sống rất ung dung tự tại, lạc quan
yêu đời. Đến nay quan niệm đó đã thay đổi rất nhiều. Vì thời gian của thế giới
vô tận một đi không trở lại nên quan niệm của con người về cuộc sống cũng
thay đổi khác xa so với trước đây: thời gian trôi đi, con người phải sống vội
vã hơn, gấp gáp hơn nhưng làm sao cho có ý nghĩa hơn.
Đến với thời gian nghệ thuật, chúng ta có thể làm sống lại thời gian đã
trôi đi bằng cách để con người trở về quá khứ. Ngược lại, có thể hướng con
người đến cuộc sống tương lai Để làm được việc này, cần có sự sáng tạo của
nghệ sĩ để thời gian nghệ thuật trở nên đa dạng, có nhiều điểm nhìn, tạo nên
tính hấp dẫn cho tác phẩm.
Thời gian nghệ thuật mang tính chủ quan, nó thường gắn với thời gian
tâm lý. Nó có thể thay đổi trong khoảng thời gian vượt xa mức thực tế, cũng
có khi kéo dài hoặc rút ngắn khoảng cách thời gian cho phù hợp với mọi hoạt
động diễn ra của từng nhân vật. Người đọc là người cảm nhận sâu sắc nhất về
thời gian nghệ thuật. Nếu thời gian nghệ thuật là một biểu tượng cho quan
niệm về con người và cuộc đời thì cuộc sống lại muôn màu muôn vẻ, có ngàn
lý do, cũng có ngàn quan niệm, tạo nên sự phong phú, đa dạng về thời gian.
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Đối với thi pháp học thời gian nghệ thuật là một phạm trù cơ bản, biểu hiện
sự sáng tạo nghệ thuật.
Hiện nay vấn đề thời gian nghệ thuật, còn rất nhiều ý kiến chưa được
thống nhất, nó vẫn đang thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
khoa học. Suốt một thời gian dài, thời gian nghệ thuật tồn tại như thời gian
khách quan, chưa ai tìm tòi và hiểu về nó, cũng như nhận ra nó. Phải đến tận
thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu văn học mới xác lập được thời gian nghệ
thuật. Trong cuốn Dẫn luận thi pháp học, GS. Trần Đình Sử có nói tới “Thời
gian nghệ thuật là phạm trù đặc trưng của văn học, bởi văn học là nghệ thuật
thời gian”, “Thời gian là đối tượng, là chủ đề, là công cụ miêu tả - là sự ý thức
và cảm giác về sự vận động và đổi thay của thế giới trong các hình thức đa
dạng của thời gian xuyên suốt toàn bộ văn học”[40: 62].
1.2. Phân loại không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày
Phân loại không gian và thời gian nghệ thuật là tạo dựng không gian và thời
gian cụ thể trong tác phẩm. Qua đó, ta thấy được đặc điểm cấu trúc riêng của
mỗi nhóm. Điều này cho phép chúng ta khi tiếp xúc với tác phẩm truyện thơ
Tày, dễ dàng nhận diện ra nó và hiểu hơn về không gian và thời gian nghệ
thuật mà tác giả dân gian sử dụng để xây dựng nên tác phẩm.
1.2.1. Phân loại không gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày
Không gian nghệ thuật trong các tác phẩm văn học chính là những mô
hình thể hiện mối liên hệ giữa các sự kiện với nhau. Không gian nghệ thuật
trong tác phẩm văn học còn biểu hiện quan niệm nghệ thuật về thế giới của
tác giả. Không gian nghệ thuật được chia thành nhiều loại khác nhau. Ở luận
văn này chúng tôi chỉ xét trong phạm vi thể loại truyện thơ nôm Tày.
Trong tác phẩm, nhân vật bộc lộ mọi phương diện trong môi trường
không gian của mình, có bao nhiêu sự kiện sẽ có bấy nhiêu không gian, thậm
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
chí không gian ứng với từng hành động của nhân vật, môi trường không gian
càng rộng thì môi trường hoạt động của nhân vật càng nhiều và càng lớn.
Trên phương diện tìm hiểu không gian nghệ thuật, trong đề tài này, chúng tôi
đi sâu tìm hiểu ở ba tác phẩm cụ thể: Nam Kim – Thị Đan; Lưu Đài – Hán
Xuân (Nàng Hán); Nhân Lăng: là những truyện thơ nôm Tày tiêu biểu, mang
giá trị nghệ thuật đặc sắc.
Theo sự tổng hợp tư liệu trong các truyện thơ nói trên, chúng tôi phân
chia không gian nghệ thuật ra thành những nhóm sau:
+ Không gian sinh hoạt gắn với cuộc sống con người
+ Không gian vũ trụ, thiên nhiên
+ Không gian siêu hình (không gian thần bí)
Ở nhóm thứ nhất, không gian này chiếm tỉ lệ lớn trong các truyện thơ
nói chung của các dân tộc thiểu số, và nó xuất hiện ở tất cả truyện thơ Tày.
Các hình ảnh của không gian sinh hoạt rất gần gũi thân quen với cuộc sống
con người. Nó được coi như phần không thể thiếu được trong cuộc sống nơi
trần thế với các hình ảnh ước lệ: nhà cửa nói chung có thể gọi bằng các tên
(lầu các, các, nhà chương, lầu môn, nhà, nhà sàn…), cánh đồng, chợ, bản,
mường…Con người có thể tạo nên từng không gian sinh hoạt phù hợp với đời
sống gia đình mình. Từng không gian ấy sẽ có những chiều khác nhau tùy
theo điểm nhìn của chủ thể mà tạo nên các nhóm không gian khác nhau. Có
thể dẫn ra các tác phẩm: Tam Mậu Ngọ; Nam Kim – Thị Đan; Nhân Lăng;
Chim Sáo; Nàng Ngọc Dong; Đính Quân; Kim Quế; Lưu Đài – Hán Xuân;
Nho Hương; Lý Thế Khanh
Ở nhóm thứ hai, các hình ảnh của vũ trụ, thiên nhiên trở thành biểu
tượng của không gian nghệ thuật. Nhóm này cũng xuất hiện với tần xuất cao
trong toàn bộ các tác phẩm. Ở đây các tác giả dân gian đã phản ánh đời sống
hiện thực gắn liền với thế giới tự nhiên thông qua cảm nhận chủ quan của
mình. Họ đưa vào tác phẩm thế giới thực tại khách quan mà họ đang sống.
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phần lớn khi nói tới không gian này, chúng ta thấy đây là một kiểu không
gian yên tĩnh đối lập hoàn toàn với không gian sinh hoạt của con người trong
cuộc sống. Các hình ảnh thể hiện không gian vũ trụ, thiên nhiên là các hình
ảnh mang tầm vóc vĩ mô. Nhìn chung nó rất khoáng đạt, rộng lớn với các hình
ảnh: núi, rừng cây, đèo, sông, biển…Mô hình không gian nghệ thuật này chi
phối rất nhiều đến tâm trạng của nhân vật trong tác phẩm truyện thơ. Không
gian nghệ thuật thuộc nhóm này có trong các tác phẩm: Nam Kim – Thị Đan;
Lưu Đài – Hán Xuân; Quảng Tân – Ngọc Lương; Bióoc Lả; Nho Hương,
Nhân Lăng
Nhóm thứ ba là loại không gian siêu hình hay còn gọi là không gian
thần bí. Nhóm này không phải lúc nào cũng xuất hiện trong các tác phẩm
truyện thơ. Không gian siêu hình chỉ có ở tầng thế giới dưới Long cung
(Mường âm), và tầng thế giới ở thượng giới (Mường trời), đây là những tầng
thế giới mà con người không thể biết được mà chỉ tưởng tượng ra, vì thế
những yếu tố không gian mà con người không thể nhìn thấy, cũng không thể
nắm bắt, đều trở thành không gian siêu hình. Mặc dù tên gọi của nó có khác
nhau nhưng dù bất kỳ tên gọi nào, đều biểu hiện quan niệm nghệ thuật về thế
giới của con người. Không gian siêu hình xuất hiện trong các tác phẩm truyện
thơ: Nhân Lăng; Lưu Đài – Hán Xuân; Nàng Ngọc Dong
Trên đây chỉ là cách phân loại một cách chung nhất. Trước một đối
tượng khoa học, tùy thuộc sự tiếp cận của người nghiên cứu mà có sự phân
loại theo nhiều cách khác nhau và với cách này, chúng tôi đã cố gắng phân
loại theo góc độ thi pháp thể loại.
1.2.2. Phân loại thời gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày
Thời gian nghệ thuật có quan hệ chặt chẽ với không gian nghệ thuật,
hai yếu tố này không thể tách rời nhau. Thời gian nghệ thuật cũng có thể được
chia thành những nhóm sau:
+ Thời gian thực (gắn với đời sống của con người).
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
+ Thời gian thiên nhiên
+ Thời gian siêu thời gian (thời gian siêu hình)
Nhóm thứ nhất, thời gian thực gắn chủ yếu với đời sống sinh hoạt của
con người (được tính bằng ngày, tháng, năm cụ thể). Có thể kể đến các tác
phẩm Nam Kim – Thị Đan; Nhân Lăng; Kim Quế có loại thời gian này.
Nhóm thứ hai, thời gian thiên nhiên được đo đếm bằng cuộc vận hành
của các mùa, xuân, hạ, thu, đông, sáng, trưa, chiều tối, đêm khuya, trăng tròn,
trăng khuyết, tiếng ve kêu vào mùa hè, mặt trời gác núi vào lúc chiều tà
Nhóm thứ ba, thời gian siêu thời gian cũng thấy xuất hiện ở một số tác
phẩm. Cũng như không gian nghệ thuật, không phải ở tác phẩm nào cũng xuất
hiện loại thời gian này. Thời gian siêu thời gian chỉ xuất hiện ở môi trường
không gian mường trên (thượng giới) và nơi Long cung thủy phủ (Mường
âm). Vì có không gian siêu hình nên đồng thời cũng tồn tại thời gian siêu
hình, đó là điều không thể phủ nhận. Thời gian siêu hình cũng giống như
không gian siêu hình, con người không thể đo đếm như thời gian vật lý được
và chính điều này tạo nên đặc tính riêng của nó Thời gian siêu hình có trong
các tác phẩm: Tử thư – Văn Thậy; Nàng Hán (Lưu Đài – Hán Xuân); Nhân
Lăng
1.3. Đặc điểm của không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện thơ
Tày
1.3.1. Đặc điểm của không gian nghệ thuật trong truyện thơ Tày
*Nhóm đầu tiên: Không gian sinh hoạt.
Nhóm không gian này luôn gắn với cuộc sống con người, chắc chắn đây
là mô hình không gian nơi trần thế. Không gian nghệ thuật này, chúng ta bắt
gặp thường xuyên trong cuộc sống thực tại của con người trong tác phẩm,
không thể có ở nơi nào khác để tồn tại cuộc sống của con người. Mọi sự vật
vốn đều tồn tại trong môi trường không gian dù rộng hay hẹp, phóng khoáng
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
hay tù túng, xa hay gần, cao hay thấp. Bản thân con người cũng vốn là một
tiểu không gian. Nên hình tượng không gian nghệ thuật có khác biệt với
không gian vật chất bên ngoài ở màu sắc chủ quan của nó. Trong khi đó,
không gian vật chất bên ngoài tác phẩm lại tồn tại khách quan không phụ
thuộc vào ý thức con người. Chính điều đó tạo nên cái hay cái đẹp của hình
tượng nghệ thuật không gian.
Như trên đã nói, đặc điểm dễ nhận thấy nhất ở nhóm không gian này là
luôn gắn liền với đời sống của con người, tuy nhiên không gian này có thể mở
rộng đến tận cùng hay có thể thu hẹp, có thể có chiều cao, chiều xa tùy theo
cái nhìn nghệ thuật của tác giả dân gian khi lựa chọn các hình ảnh để biểu đạt.
Ví dụ biểu hiện rõ nhất cho kiểu không gian này là không gian căn nhà và
không gian chợ.
- Cất chân bước tới nhà em ở
- Không chung nhà thì nay đành vậy
- Chỉ có mỗi con đường về chợ
(Nam Kim – Thị Đan)
Nhóm không gian sinh hoạt gắn với cuộc sống con người hiện lên trong
tác phẩm truyện thơ Tày với các hình ảnh đã trở thành biểu tượng nghệ thuật
như: lầu hồng, lầu các, nhà sàn, giường, ngoài sân, ngoài hiên, chợ, mường,
bản Đây là một không gian có thực, không ảo tưởng, thân thuộc gắn với
cuộc sống trần thế, với nhóm này không gian nghệ thuật chính là mô hình thế
giới của tác giả. Trong nhiều tác phẩm truyện thơ chúng ta cũng bắt gặp các
hình ảnh của không gian này.
- Dặn mẹ chốn giường trong thưa gửi
- Mẹ chờ con ở trong nhà gác
- Con sẽ đem về các đưa người
- Từ lầu hồng quan lạy tạ ông
- Đi vào đến ngoài hiên trưởng giả