Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

bài 4 tìm hiểu đường lối đấu tranh giành chính quyền của đảng ta trong những năm 1930 1939

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.07 KB, 19 trang )

Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
LỜI MỞ ĐẦU
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân. Quá trình đấu tranh đó đã
diễn ra qua 3 cao trào cách mạng, có ý nghĩa như 3 cuộc tổng diễn tập chuẩn bị cho
Cách mạng Tháng Tám giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân. Cao trào cách
mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh tuy bị đàn áp nặng nề nhưng
đã thể hiện rõ vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam;
xây dựng được đội quân chủ lực của cách mạng, thực hiện được liên minh công
nông, lực lượng đông đảo nhất của dân tộc. Cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân
chủ 1936-1939 do Đảng lãnh đạo ngay sau khi khôi phục được hệ thống tổ chức
của Đảng là một thắng lợi lớn của Đảng. Qua lãnh đạo cuộc đấu tranh hợp pháp và
nửa hợp pháp rộng lớn kết hợp với hoạt động bí mật, không hợp pháp, Đảng được
rèn luyện, trưởng thành, lực lượng quần chúng cách mạng mở rộng và được thử
thách. Cao trào giải phóng dân tộc dẫn tới Cách mạng Tháng Tám năm 1945 (1939-
1945). Đó là quá trình đấu tranh cách mạng vô cùng khó khăn, gian khổ với những
hy sinh to lớn của Đảng và dân tộc ta. Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng ta
đã trưởng thành và phát triển về mọi mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức; về năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu. Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, chống đế quốc
và phong kiến không ngừng được bổ sung và làm rõ hơn, đặt nhiệm vụ chống đế
quốc giải phóng dân tộc lên hàng đầu; vận dụng đúng đắn và có sự phát triển sáng
tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng ở thuộc địa.
Qua bài tiểu luận “ tìm hiểu đường lối đấu tranh giành chính quyền của
Đảng ta trong những năm 1930-1939” chúng tôi muốn giúp các bạn có thể tìm
hiểu sâu sắc hơn một giai đoạn hào hùng của dân tộc, những năm đầu cách mạng
Việt Nam đặt dưới sự chỉ huy tài tình sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam và
đặc biệt là chủ tịch Hồ Chí Minh.
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
NỘI DUNG


I. Hoàn cảnh lịch sử
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 1929 - 1933 làm cho nền kinh
tế xã hội của tất cả các nước tư bản chủ nghĩa đều bị đình trệ, nền dân chủ tư sản bị
thủ tiêu và thay thế vào đó là nền chuyên chính của bọn phát xít. Nước Pháp bước
vào khủng hoảng có muộn hơn nhưng lại kéo dài và cũng như nhiều đế quốc khác
muốn thoát khỏi tình trạng bi thảm của cuộc khủng hoảng, giới tư bản tài chính
Pháp tìm cách trút hậu quả nặng nề của nó lên đầu nhân dân lao động ở chính quốc
cũng như ở các nước thuộc địa.
Đông Dương lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế từ rất sớm và ngày
càng trầm trọng. Nông nghiệp bị phá hoại nặng nề do giá nông sản bị sụt nhanh
chóng: giá gạo từ 13,1 đ/tạ năm 1930 xuống còn 3,2 đ/tạ năm 1933; giá cao su từ
20 france/kg năm 1929 xuống còn 4 france/kg năm 1931. Hàng ngàn hécta đồng
ruộng bị bỏ hoang, hàng trăm đồn điền bị thu hẹp diện tích hoặc ngưng hoạt động.
Từ năm 1930 - 1933 diện tích đất hoang hóa từ 200.000 ha - 500.000 ha. Sản xuất
gạo giảm từ 1.797.000 tấn năm 1928 xuống còn 959.000 tấn năm 1931.
Sản xuất công nghiệp cũng bị đình đốn, nhất là ngành khai mỏ. Hàng loạt
nhà máy xí nghiệp đóng cửa, thương mại xuất nhập khẩu đều bị sút giảm, trị giá
xuất khẩu giảm từ 18.000.000 đồng Đông Dương (năm 1929) chỉ còn 10.000.000
đồng Đông Dương (năm 1934), hàng vạn công nhân và lao động bị sa thải hoặc
nghỉ việc. Để góp phần giải quyết khủng hoảng kinh tế ở chính quốc và giữ cho
Đông Dương trong quỹ đạo thực dân, thực dân Pháp cho ngưng lại cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ II theo quy mô lớn đang diễn ra, đồng thời chúng khẩn trương áp
dụng những biệp pháp cấp thiết ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Trước hết là việc Pháp cho thắt chặt hàng rào thuế quan, chỉ ưu tiên cho hàng
hóa Pháp vào Đông Dương, kiên quyết giành độc quyền thương mại ở thị trường
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
này. Hàng Pháp vào Đông Dương từ chỗ chỉ chịu mức thuế thấp nhất (2,5%) đến
việc miễn thuế hoàn toàn, trong khi hàng các nước vào thị trường này chịu thuế

ngày một cao, có thứ phải nộp thuế 100% giá trị hàng hóa.
Việc tăng thuế cũng là một biện pháp sớm được chú ý. Thuế thân ở Bắc Kỳ
và Trung Kỳ tăng 20%, thuế môn bài tăng từ 3 - 8 lần. Các biện pháp thu tài chính
khác ở Đông Dương như mở công trái, lạc quyên, vay dài hạn… cũng được áp
dụng, tất cả đã đem về cho ngân sách liên bang một nguồn thu lớn và tăng nhanh.
Chỉ tính năm 1930 có 17 khoản thu ngoài thuế đã đem về cho ngân sách
117.000.000 đồng. Chính phủ Pháp còn quy định lại giá trị đồng bạc Đông Dương,
tiến hành thu bạc cũ đổi bạc mới có lượng bạc kém hơn. Chỉ tính khoản thu chênh
lệch 7 gram/ đồng đã thu được 49.000.000 đồng.
Đối với chủ tư bản người Pháp ở thuộc địa, chính quyền thực hiện “trợ cấp
tài chính” để giúp họ khỏi bị phá sản. Một số nhà tư bản được hợp nhất lại cả vốn
liếng vào quy mô kinh doanh, tạo ra sức cạnh tranh lớn hơn để tồn tại và phát triển,
nhất là trong các ngành trồng lúa, cao su, cà phê. Trong quan hệ chủ - thợ, chính
phủ thực dân cho ban hành một số quy chế lao động mới như chế độ lao động đới
với phụ nữ, trẻ em, trách nhiệm vi phạm luật lệ lao động, hoà giải tranh chấp về lao
động…, nhìn chung là các “qui chế” này chỉ nhằm bảo vệ cho giới chủ tư bản, góp
phần xoa dịu bởi mâu thuẫn của giới lao động.
Về chính trị - xã hội, chính quyền thực dân ở Đông Dương thi hành chính
sách hai mặt. Một mặt là đẩy mạnh các biện pháp văn hóa giáo dục, tuyên truyền
lôi kéo người bản xứ, tranh thủ các tầng lớp thượng lưu, tô vẽ cho cái gọi là “văn
minh khai hóa”, đề cao tư tưởng chống cộng, coi chống cộng là một chủ thuyết
trong các hoạt động chính trị - xã hội.
Mặt khác chúng thi hành chính sách khủng bố trắng một cách tàn bạo ở cả
thành thị và thôn quê, nhất là từ sau khởi nghĩa Yên Bái tháng 2/1930. Bạo lực của
chính quyền thực dân đã gây ra nhiều tổn thất cho các lực lượng yêu nước, nhưng
địch vẫn không tạo được sự yên ổn về chính trị và trật tự xã hội, ngược lại nó chỉ
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
làm ngột ngạt thêm không khí ở thuộc địa, làm âm ỉ thêm trong lòng xã hội những

ngọn lửa đấu tranh quyết liệt mà thôi.
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội thuộc địa Việt Nam tiếp
tục phân hóa, mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp tiếp tục tăng lên. Giai cấp
nông dân và giai cấp vô sản là hai bộ phận đông đảo nhất trong xã hội, cũng là hai
đối tượng chủ yếu của chính sách bóc lột vơ vét của tư bản Pháp ở thuộc địa. Họ lại
có đời sống bị bần cùng hóa và hiện đang bị đe dọa trực tiếp bởi nạn chết đói, thất
nghiệp không có cách nào chống đỡ. Người Pháp lúc đó đã tận mắt nhìn thấy và
loan báo “người ta có thể cầm chắc là nông dân sống ở cái mức cùng cực của đói
kém và nghèo khổ”, còn công nhân thì những người chưa bị sa thải có đồng lương
“không bao giờ vượt quá từ 2 - 2,5 france/ ngày (tức là 20 - 25 xu/ ngày). Trong
các xưởng dệt ngày làm việc từ 7 giờ sáng đế 9 giờ tối, ở các đồn điền công nhân
phải làm việc từ 15 - 16 giờ một ngày…”. Do đó các tầng lớp lao động như nông
dân, thợ thủ công, vô sản, cùng những người làm nghề tự do ở cả thành thị và thôn
quê, đều mong muốn đấu tranh cải thiện đời sống và chống lại xã hội thuộc địa.
Song ngay cả trong giai cấp địa chủ, tư bản và tầng lớp thượng lưu bản xứ
cũng có những bộ phận gặp nhiều khốn khó vì bị phá sản, bị chèn ép, bị vỡ nợ bởi
thuế má ngày một cao và không đủ sức cạnh tranh với tư bản Pháp. Từ năm 1929 -
1933 ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn có 502 vụ án khánh tận và 160 vụ án
phát mãi tài sản. Đó cũng là lúc các thuộc địa nói chung, Đông Dương nói riêng, từ
trong cùng cực của đời sống kinh tế, phải giải phóng khỏi ách thống trị của ngoại
bang bằng chính sức mạnh của mình. Đông Dương trong cuộc khủng hoảng kinh tế
không còn bình yên như trước nửa, đã trở thành một Đông Dương sôi động trong
sự phân hóa của xã hội thuộc địa. Điều kiện vật chất xã hội ấy là cơ sở cho sự phát
triển các tư tưởng mới đang du nhập vào Việt Nam.
Tư tưởng tư sản tiếp tục ăn sâu vào nhiều bộ phận xã hội nhưng kể từ sau
thất bại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, những bộ phận tích cực đi theo đường lối
ấy bị thất bại và tan vỡ về tổ chức làm cho nhiều người mất phương hướng, một số
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM

đi theo đường lối cải lương thì được tán dương chủ thuyết Pháp - Việt đề huề, hoặc
lao sâu vào con đường tiêu cực chống phá cách mạng giải phóng dân tộc. Trong lúc
đó tư tưởng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin dần dần chiếm ưu thế. Sự xuất hiện
Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu năm 1930 khác hẳn sự ra đời của các tổ chức chính
trị đương thời, đã thu hút sự chú ý của đông đảo các giai tầng xã hội.
Sự tuyên truyền chống cộng đã phản tác dụng, vô hình chung lại đề cao
chủng nghĩa Cộng sản. Đó cũng là lúc hình ảnh nhà nước công - nông ở Liên Xô
đang có sức thuyết phục khá lớn, nhiều dân tộc bị áp bức đang mơ ước chế độ Xô -
Viết… Như thế một thời kỳ đấu tranh cách mạng đi theo xu hướng mới nhất định
sẽ bùng nổ.
II. Chủ trương đấu tranh giành chính quyền của Đảng ta giai đoạn 1930-
1939
1. Cao trào 1930 – 1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh
Ở Việt Nam từ năm 1930 trở đi, con đường Cách mạng vô sản đã dẫn dắt
nhân dân ta đấu tranh bằng những cao trào rộng lớn. Mở đầu cho những bước phát
triển mới là sự bùng nổ cao trào chống đế quốc phong kiến những năm 1930 -
1931, đỉnh cao là sự xuất hiện và tồn tại của các Xô - Viết ở các tỉnh Nghệ An, Hà
Tĩnh.
Không phải là do “Cộng sản kích động” như các quan chức thực dân lúc ấy
nhận định, cao trào cách mạng những năm 1930 - 1931 bùng nổ ngay sau thất bại
của khởi nghĩa Yên Bái, là hậu quả của những chính sách kinh tế - xã hội của thực
dân Pháp ở Đông Dương trong giai đoạn này. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đầu
năm 1930 đã kịp thời đưa ra đường lối phù hợp nhất với nguyện vọng đấu tranh của
xã hội lúc đó, vì vậy Đảng Cộng Sản đã trở thành người lãnh đạo phong trào dân
tộc.
Bắt đầu là những cuộc đấu tranh ôn hòa ủng hộ các chiến sĩ Yên Bái, chống
chính sách khủ bố trắng của Pháp, nổ ra từ tháng 2 - 4/1930. Phong trào được mở
màn bằng các cuộc bãi công ở đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, lan nhanh ra khắp thành
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Thị Hằng

Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
thị và thôn quê ở Bắc - Trung - Nam. Qua đó các Đảng bộ địa phương được thống
nhất về tổ chức, quần chúng công nông được tập hợp lại, tinh thần đấu tranh của
nhân dân tiếp tục được hâm nóng lên và gây dựng phong trào thành phong trào
mới.
Ngày 1/5/1930 nhân kỷ niệm Quốc Tế Lao động, Đảng Cộng Sản Việt Nam
đã chủ động giành lấy việc phát động phong trào trên phạm vi toàn quốc với 2 lực
lượng đông đảo nhất là vô sản và nông dân cờ đỏ búa liềm lần đầu tiên xuất hiện ở
các thành phố lớn và nhiều vùng thôn quê. Những cuộc mít - tinh, biểu tình, biểu
dương lực lượng kỷ niệm ngày 1/5 được tổ chức thật rầm rộ. Trong đó cuộc mít -
tinh ở Vinh - Bến Thủy đã bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Quần chúng rất căm
phẫn, được nhân dân các vùng xung quanh ủng hộ, họ tiếp tục đấu tranh chống
khủng bố.
Phong trào của công nông từ Vinh - Bến Thủy lan nhanh sang các huyện,
tổng của hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Với sự hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân
theo lời kêu gọi của Xứ ủy Trung Kỳ. Chỉ 3 tháng kể từ 1/5/1930 ở Nghệ An và Hà
Tĩnh có 97 cuộc đấu tranh. Đó là bước chuẩn bị trực tiếp đưa phong trào ở đây lên
đỉnh cao.
Từ cuối tháng 8/1930 những cuộc biểu tình với quy mô lớn ở các vùng nông
thôn 2 tình Nghệ An và Hà Tĩnh đã lôi kéo hàng chục ngàn người kết thành một
khối, mít - tinh biểu tình, biểu dương lực lượng. Cuộc đấu tranh nọ kế tiếp cuộc đấu
tranh kia nổ ra không dứt và chuyển sang bạo động. Ngày 30/8/1930, hơn 3 ngàn
nông dân huyện Nam Đàn biểu tình kéo đến huyện lỵ phá huyện đường. Ngày
1/9/1930, gần 20.000 nông dân huyện Thanh Chương đấu tranh với khí giận ngút
trời. Ngày 7/9/1930 hơn 3000 nông dân huyện Can Lộc kéo vào huyện đường đốt
sổ sách, giấy tờ, sổ sách của chính quyền tay sai, phá nhà lao. Ngày 12/9/1930, hơn
8.000 nông dân huyện Hưng Nguyên biểu tình và bị đàn áp dã man tại ga Yên
Xuân nhưng quần chúng vẫn không nao núng, họ càng tập họp đông hơn và xông
lên tấn công vào hệ thống chính quyền địch ở cơ sở. Quần chúng nông dân các
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH

SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
vùng nông thôn được công nhân các nhà máy, xí nghiệp ở Vinh, Bến Thủy ủng hộ,
đã biểu dương sức mạnh đoàn kết, lòng căm thù, ý chí quyết đấu đòi tự do cuộc
sống. Trong quá trình đó sự tàn bạo của kẻ thù càng làm cho nhân dân sôi sục.
Trước khí thế “xông lên chọc trời” của quần chúng cách mạng, chính quyền
thực dân phong kiến ở nhiều nơi của Nghệ An - Hà Tĩnh đã bị tan rã, hoặc tê liệt,
bỏ chạy. Trong tình hình đó các chi bộ Đảng và tổ chức Nông Hội Đỏ ở các thôn -
xã đứng ra quản lý, điều hành mọi hoạt động trong địa phương thay thế vào vị trí
các cơ sở chính quyền địch đã bỏ trống. Dựa theo những hiểu biết sơ lược về chính
quyền Xô Viết ở nước Nga qua các tài liệu và báo chí của Đảng, người ta gọi các tổ
chức vừa dựng lên là Xã Bộ Nông, Thôn Bộ Nông hoặc các Xô Viết.
Mặc dù còn sơ khai nhưng các Xô Viết Nghệ Tĩnh đã có thực chất là một
chính quyền cách mạng của công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua
Đảng tiên phong của nó. Việc đập tan bộ máy chính quyền cũ, xây dựng bộ máy
chính quyền mới, tổ chức một xã hội mới dân chủ tự do thật sự cho nhân dân lao
động, tích cực bảo vệ chính quyền vừa giành được…, đó là những nhiệm vụ lớn lao
mà các Xô Viết đã bước đấu thực hiện, nhất là các Đảng bộ ở đây chưa sẵn sàng,
các điều kiện chủ quan, khách quan, thuận lợi của cách mạng cả nước chưa có,
những việc làm tích cực đó còn là sự đột phá táo bạo.
Các Xô Viết ở Nghệ Tĩnh chỉ được tồn tại chưa đầy 8 tháng, kể từ tháng
9/1930, nhưng đã có nhiều cố gắng sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, quân sự, văn hóa - xã hội. Đó là những hoạt động bãi bỏ các thứ thuế vô lý, bất
công; chia lại đất công cho nông dân nghèo kể cả nam và nữ; quy định lại tô tức; tổ
chức sản xuất chung; trợ cấp gia đình thiếu túng; bài trừ phong tục tập quán lạc
hậu; lập Đội Tự Vệ Đỏ; xây dựng các đoàn thể quần chúng… Chính bọn tay sai của
thực Pháp cũng phải thừa nhận một thực tế trong các Xô Viết: “Họ chôn cất người
chết, cấp tiền bạc cho gia đình người chết hoặc bị nạn trong các cuộc biểu tình, cho
cả những người nghèo khổ nữa. Họ phát thuốc cho người ốm, xử các vụ kiện tụng.
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH

SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
Họ trừng trị những người nghiện thuốc phiện, nghiện rượu và cấm các hội hè cúng
tế trong làng…”
Xô Viết Nghệ Tĩnh đã thu hút sự chú ý quan tâm của nhiều lực lượng trong,
ngoài nước lúc đó. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng Sản Đông Dương, cả
nước dấy lên phong trào đấu tranh, ủng hộ Xô Viết, chống khủng bố trắng. Nguyễn
Ái Quốc và Quốc Tế Cộng Sản rất chú ý theo dõi và góp ý kiến cho những người
cộng sản Đông Dương để bảo vệ các Xô Viết ở Nghệ Tĩnh. Ở các nước Pháp,
Trung Quốc, Ấn Độ đã có nhiều hoạt động báo chí và xã hội ủng hộ Xô Viết Nghệ
Tĩnh.
Còn bọn thực dân phong kiến thì vô cùng hoảng sợ. Chúng cho rằng “Từ khi
nước Pháp đặt nền đô hộ trên đất nước này, chưa bao giờ có một nguy cơ nào đe
dọa sự an nguy nội bộ của mình lớn hơn, thực sự hơn” và nó “Rất trầm trọng… tầm
rộng lớn của nó đã làm chúng ta sửng sốt…”. Chính vì vậy từ Toàn quyền Đông
Dương Pasquier, Khâm sứ Trung Kỳ Le Fol đến các lực lượng tay sai trong chính
phủ Nam triều, đều trực tiếp đến Nghệ An - Hà Tĩnh để vạch kế hoạch bình định.
Sau đó là hàng loạt biện pháp tàn bạo và nham hiểm cùng với các biện pháp lừa bịp
của chúng đã được tung ra để đàn áp các Xô Viết.
Đồn bót được dựng lên dày đặc, binh lính các nơi được điều động về, bắn
giết bắt bớ giam cầm là những hoạt động đầu tiên của những công cụ bạo lực mà
chính quyền thực dân đối phó với phong trào quần chúng. Các chính sách “Lấy
quan nhà trị dân nhà”, “Buộc dân cày ra đầu thú” được đem ra áp dụng. Chúng
“Phát thẻ quy thuận”, tổ chức “Rước cờ vàng”, chúng lập “Xã đoàn”, dùng sách
báo tranh ảnh tuyên truyền vu cáo nói xấu công sản… Trong thực tế lúc ấy địch chỉ
cần dùng 1 biện pháp quân sự cũng thừa sức để đàn áp các Xô Viết ở Nghệ Tĩnh,
nhưng chúng đã không từ một biện pháp nào kể cả các biện pháp kinh tế xã hội và
lừa mị để đánh phá cách mạng. Đến giữa năm 1933 các Xô Viết Nghệ Tĩnh lần lượt
thất bại.
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH

SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
Tuy nhiên, đó không phải là sự thất bại của đường lối và phương pháp Cách
mạng vô sản. Xô Viết Nghệ Tĩnh và cả phong trào cách mạng 1930 - 1931 là minh
chứng hùng hồn nhất cho truyền thống yêu nước, lòng dũng cảm kiên cường, sức
sống mãnh liệt và sức sáng tạo phi thường của dân tộc Việt Nam. Nó khẳng định
trong thực tế: Đường lối cách mạng, uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng, của giai
cấp vô sản Việt Nam. Nó sáng tạo ra nhiều hình thức và phương pháp đấu tranh
mới cho cách mạng; đồng thời nó để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho
những người yêu nước và cách mạng đang đấu tranh cho nền tự do và độc lập của
tổ quốc.
Về vị trí của cao trào cách mạng này, Đảng ta đã đánh giá: “Trực tiếp mà
nói, không có những trận chiến đấu giai cấp rung trời chuyển đất những năm 1930 -
1931 trong đó công - nông đã vung ra nghị lực cách mạng phi thường của mình thì
không thể có cao trào những năm 1936 - 1939”. Cao trào đấu tranh cách mạng
1930 -1 931 đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, là “Bước thắng lợi đấu tiên có ý nghĩa
quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển về sau của cách mạng.”
2. Đấu tranh cho dân sinh dân chủ những năm 1932 – 1935
Những năm sau khi các Xô Viết Nghệ Tĩnh bị dìm trong biển máu, phong
trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta gặp nhiều khó khăn do bị tổn thất nhiều
cả về lực lượng, tổ chức, phương thức hoạt động cũng không còn thích hợp nữa.
Thực dân Pháp triệt để thi hành chính sách khủng bố trắng đối với tất cả những
người yêu nước. Hai năm 1930 - 1931 ở Bắc Kỳ có 21 phiên tòa Đại hình xử 1.094
vụ án chính trị. Những năm 1930 - 1933 Hội đồng Đề hình Bắc Kỳ và Toàn án
Nam Kỳ kết án 6.902 vụ án chính trị. Chính quyền thuộc địa Đông Dương từ 1930
- 1933 đã bắt giam 246.532 người chủ yếu là các cán bộ, đảng viên Cộng sản.
Những cơ sở Đảng và quần chúng tích cực. Các nhà tù Hỏa Lò, Khám Lớn, Kon
Tum, Côn Đảo, Lao Bảo, Sơn La… có rất đông các chính trị phạm là những người
yêu nước và cách mạng.
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH

SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
Mặt khác trong những năm 1931 - 1935 địch cũng buộc phải có những cải
cách dân chủ dù rất hạn chế, để củng cố nền thống trị của chúng ở Đông Dương.
Tháng 6/1931 Ủy ban điều tra Đông Dương được thành lập để xem xét lại toàn bộ
chính sách cai trị của Pháp ở thuộc địa này. Cuối năm 1931 Bộ trưởng Bộ Thuộc
địa Pháp là Paul Reinaud trực tiếp sang Đông Dương xem xét tình hình quyết định
chính sách. Từ năm 1932 hàng loạt các cải cách lừa bịp của chúng được triển khai
như: cải tổ giáo dục sơ học, cải tổ tư pháp bản xứ, đưa Bảo Đại về nước lập nội các
Nam Triều mới, củng cố các Viện Dân Biểu và Hội Đồng Quản Hạt, đưa Bùi
Quang Chiêu vào Thượng Hội Đồng Tthuộc Địa ở Pháp, nâng ngạch lương công
chức Pháp cho công chức bản xứ, cho tư bản bản xứ tham gia đấu thầu và hưởng
“quy chế lao động”, cấp học bổng cho người bản xứ, khuyến khích phát triển tôn
giáo, xuất bản các sách báo lãng mạng, sách thần tiên, sách bói toán… Bằng những
biện pháp đó thực dân Pháp đã tranh thủ lôi kéo được một số người trong tầng lớp
tiểu tư sản và tầng lớp thượng lưu; nhiều người hy vọng vào cái gọi là: “cải cách”
của chính quyền thực dân. Nhưng đại đa số là những người tranh thủ những điều
kiện thuận lợi để thực hiện nguyện vọng học tập vươn lên của mình hoặc tranh thủ
làm ăn kiếm sống và vẫn không quên thân phận một người dân mất nước.
Trong hoàn cảnh có những thay đổi như vậy, xã hội thuộc địa xuất hiện
những xu hướng mới trên các lĩnh vực văn hóa văn nghệ và tư tưởng. Trào lưu Thơ
Mới, văn học lãng mạng với Tự Lực Văn Đoàn,văn học hiện thực phê phán, đó là
những dòng văn học ra đời và tồn tại song song những năm 1932 - 1935. Đó là
những tiếng nói mới của các bộ phận dân cư trước hiện tình đất nước, là sự chán
ghét chế độ thuộc địa với những cách thức khác nhau của đội ngũ trí thức tiểu tư
sản. Cuộc đấu tranh giữa Triết học duy vật và Triết học duy tâm, thông qua cuộc
tranh luận tiêu biểu giữa Hải Triều và Phan Khôi những năm 1933 - 1934 lại là
những xung đột về thế giới quan và nhân sinh quan trong xã hội. Đầu năm 1935
trên báo chí công khai ở thuộc địa, quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh và quan điểm
nghệ thuật vị nghệ thuật đã luận chiến với nhau. Chính các cuộc đấu tranh giữa

GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
những xu hướng khác nhau trên những lĩnh vực văn hóa tư tưởng trên đây đã góp
phần đắc lực vào sự phân hóa xã hội về tư tưởng chính trị. Một bộ phận khá đông
những người tư sản, tiểu tư sản trí thức sau đó đã đứng về phái nhân dân lao động,
đấu tranh cho quyền lợi dân tộc Việt Nam. Đội ngũ những người yêu nước và cách
mạng dưới ngọn cờ cách mạng vô sản ngày một đông. Trong lúc đó, những bộ phận
cơ sở Đảng còn lại cũng kiên trì đấu tranh bảo vệ và xây dựng củng cố lực lượng,
gây dựng tổ chức, phát triển phong trào của mình. Các xứ ủy lâm thời sau nhiều nỗ
lực đã được gây dựng lại ở Bắc Kỳ (1932), ở Nam Kỳ (1933), ở Trung Kỳ (1934),
các cơ sở Đảng Cộng Sản Đông Dương cũng được xây dựng ở Campuchia và Lào
năm 1934.
Tháng 3/1935, được sự giúp đỡ của Quốc Tế Cộng Sản, những người cộng
sản Đông Dương đã tiến hành cuộc Đại hội Đảng ở Ma Cao, bầu ra Ban Chấp
Hành Trung Ương mới gồm 13 thành viên do đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí
thư. Nghị quyết chính trị của Đại hội Đại biểu lần thứ nhất ngày 27 - 31/3/1935 của
Đảng Cộng Sản Đông Dương vạch rõ “Thâu phục quảng đại quần chúng là một
nhiệm vụ trung tâm, căn bản, cần kíp của Đảng kịp thời”. Như vậy về cơ bản, Đảng
Cộng Sản Đông Dương đã được phục hồi về tổ chức.
Trước đó, từ năm 1932 cùng với nhu cầu dân chủ ngày càng tăng lên trong
xã hội, các hội quần chúng công khai ra đời như hội Tương Tế, hội Cấy, hội Gặt,
hội Thể Thao; các nghiệp đoàn cũng hình thành. Đấu tranh công khai, hợp pháp đòi
dân sinh, dân chủ trong các tầng lớp nhân dân từ đó cũng dần dần phát triển. Khi hệ
thống Đảng Cộng Sản Đông Dương được phục hồi thì phong trào đấu tranh cách
mạng của quần chúng công nông cũng được dấy lên mạnh mẽ dưới những hình
thức ôn hòa như mít - tinh, biểu tình, bãi công, bãi khóa, bãi thị. Đến năm 1935,
bằng sự phục hồi của Đảng Cộng Sản Đông Dương và các lực lượng yêu nước,
phong trào dân tộc lại sẵn sàng bước vào một thời kỳ đấu tranh mới.
Có thể nói những năm đầu tiên trên con đường Cách mạng vô sản, phong

trào dân tộc sau hơn nửa thế kỷ tồn tại, phát triển đã có những yếu tố căn bản được
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
kiểm nghiệm trong thực tế để khẳng định có thể đảm bảo đưa phong trào đến thắng
lợi cuối cùng.
3. Cuộc vận động dân chủ 1936-1939
Những năm 1930 - 1936 chủ nghĩa phát xít đã phát triển thành một trào lưu
chính trị và thắng thế ở nhiều nước trên thế giới. Đảng phát xít Ý ra đời năm 1920,
đến năm 1922 giành được chính quyền ở Roma. Đảng Quốc xã Đức ra đời năm
1919, đến năm 1933 trở thành Đảng cầm quyền. Ở Nhật, sau cuộc đảo chính bất
thành của phái “Sĩ Quan Trẻ”, chính quyền quân phiệt từ năm 1936 chuyển sang
phát xít hóa…
Chủ nghĩa phát xít, như Quốc Tế Cộng Sản đã khái quát: “Chính là sự tấn
công tàn bạo nhất của tư bản chống lại quần chúng lao động”, “Chính là chủ nghĩa
Xô Vanh đến cực điểm và là chiến tranh xâm lược”, “là nền chuyên chính khủng bố
công khai của những phần tử phản động nhất, Xô Vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa
nhất của tư bản tài chính”. Trên cơ sở nhận thực đó, Đại hội lần thứ VII của Quốc
Tế Cộng Sản họp tại Matxcơva tháng 7/1935, chủ trương thành lập Mặt Trận Nhân
Dân rộng rãi trên toàn thế giới để chống chủ nghĩa phát xít, chống nguy cơ chiến
tranh.
Trong xu thế chung của thế giới chống phát xít, tháng 1/1936, Mặt Trận Bình
Dân Pháp đã ra đời, mặt trận tập hợp nhiều tổ chức Đảng phái chống phát xít Pháp,
trong đó đông đảo nhất là Đảng Xã Hội, Đảng Cấp Tiến, Đảng Cộng Sản, Tổng
Liên đoàn Lao động, Tổng Liên đoàn Lao động Thống Nhất. Trong cuộc bầu cử
tháng 4/1936, bọn phát xít Pháp hoàn toàn thất bại, lực lượng Dân chủ hoàn toàn
thắng thế, chính phủ Mặt Trận Bình Dân được thành lập. Sau đó chính phủ này
buộc phải thi hành cương lĩnh dân chủ chống phát xít của Mặt Trận Bình Dân. Đối
với các thuộc địa, Mặt Trận Bình Dân chủ trương mở các cuộc điều tra tình hình và
thu thập dân nguyện, ban hành các quyền tự do dân chủ, tự do nghiệp đoàn, cải

thiện đời sống giới lao động, toàn xá chính trị phạm…
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
Mặt Ttrận Dân Chủ Đông Dương và sự phát triển của cao trào đấu tranh dân
chủ những năm trước chiến tranh: Từ năm 1937, theo chủ trương của Đảng Cộng
Sản Đông Dương tận dụng các khả năng công khai hợp pháp, Mặt Trận Dân Chủ
Đông Dương và các tổ chức đoàn thể quần chúng của mặt trận như Đoàn Thanh
Niên Dân Chủ, Hội Cứu Tế Bình Dân, Công Hội, Nông Hội ra đời. Ở các thành thị
và nông thôn lại rất phát triển hội quần chúng như Ái Hữu, Tương Tế, Thể Thao,
Âm Nhạc, Kịch, Du Lịch, Chèo, Hội Cấy, Hội Gặt…
Để tập hợp các lực lượng khác, Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương thông qua
các nhóm cộng sản công khai (nhóm Tin Tức, Ngày Nay ở Bắc Kỳ, Dân Chúng ở
Nam Kỳ, một bộ phận trong viện dân biểu ở Trung Kỳ) đã liên minh với các chi
nhánh Đảng Xã Hội Pháp, Đảng Lập Hiến, Viện Dân Biểu, lập tổ chức cơ sở của
mặt trận.
Với việc tổ chức tập hợp nhiều thành phần xã hội, Mặt Trận Dân Chủ Đông
Dương sẽ có vai trò mới trong cuộc đấu tranh, nhất là trong đấu tranh nghị trường.
Những cuộc bầu cử Viện Dân Biểu Trung Kỳ, Viện Dân Biểu Bắc Kỳ, Hội Đồng
thành phố Hà Nội, Đại Hội đồng kinh tế - tài chính Đông Dương trong 2 năm 1937
- 1938 đã lần đầu tiên gây sự chú ý lớn trong các tầng lớp dân chúng hữu quan, bởi
sự tham gia của Mặt Trận Dân Chủ.
Chương trình hành động và danh sách ứng cử của Mặt Trận Dân Chủ Đông
Dương đã gây lòng tin và giành thắng lợi cao trong các cuộc bầu cử thời gian này.
Cuộc bầu cử Hội đồng thành phố Hà Nội đã có 15 người của Mặt Trận Dân Chủ
Đông Dương trúng cửa, trong đó cựu chính trị phạm Khuất Duy Tiến là người được
nhiều phiếu nhất.
Những hoạt động đấu tranh công khai hợp pháp của quần chúng ngày một
sôi nổi với những hình thức phong phú như mít - tinh, biểu tình, biểu dương lực
lượng, bãi công… Ngày 1/5/1938 tại Hà Nội đã có cuộc biểu dương lực lượng lớn

nhất vớ 250.000 người trong khu vực nhà Đấu Xảo để kỷ niệm ngày Quốc Tế Lao
Động. Các thành phố cũng thường xuyên nổ ra bãi công, bãi thị, bãi khóa… Nửa
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
cuối năm 1936 có 361 cuộc đấu tranh công khai của quần chúng lao động, năm
1937 lại có gần 400 cuộc đấu tranh của công nhân và hơn 150 cuộc đấu tranh của
nông dân, năm 1938 có 135 cuộc bãi công của công nhân và 125 cuộc đấu tranh
của nông dân…
Như vậy, trong khuôn khổ xã hội thuộc địa, những hoạt động công khai hợp
pháp của Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương mà người lĩnh xướng là Đảng Cộng Sản
Đông Dương đã đem đến cho phong trào dân tộc một sinh khí mới để phát triển,
một sự chuyển biến mới trong cách thức và nội dung đấu tranh, một sự bổ sung mới
vào lực lượng tiến hành vào địa bàn diễn tiến. Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương do
Đảng Cộng Sản đề xướng và làm nòng cốt, đã có công lớn trong việc phát động cao
trào Dân Chủ ở Đông Dương.
Mặt khác, trong cao trào Dân Chủ những năm 1936 - 1939, đời sống tư
tưởng văn hóa của dân tộc cũng có nhiều thay đổi, phản ánh sự chuyển biến của đời
sống kinh tế - xã hội thuộc địa những năm trước chiến tranh.
Về tư tưởng, cuộc đấu tranh cho những quan điểm duy vật và tư tưởng yêu
nước - cách mạng, vẫn được duy trì đẩy mạnh theo đà phát triển của những năm
1933 - 1935. Đặc biệt trong cuộc đấu tranh của bọn T’rốt - kít vào chủ nghĩa
Trotxky, Nguyển Ái Quốc và Đảng Cộng Sản Đông Dương đã sớm vạch mặt
những kẻ giả danh cách mạng, bọn này thường hô hào quần chúng “đẩy mạnh cách
mạng” nhưng thực tế là để chống lại cách mạng.
Phong trào báo chí công khai rầm rộ ở cả Bắc lẫn Nam suốt mấy năm 1936 -
1939. Bắc Kỳ có Notre Voix, Le Travail, En Vant, Tin Tức, Thời Thế, Đời Nay,
Bạn Dân; Trung Kỳ có Nhành Lúa, Kinh Tế Tân Văn, Dân, Sông Hương Tục Bản;
Nam Kỳ có L’Avantgarde, Le People, Dân Chúng, Lao Động… Đó là những tờ
báo cách mạng, như bản cương lĩnh của “Notre - Voix” đã tuyên bố: “Là tiếng nói

của những người mong muốn hòa bình, muốn được tự do và hạnh phúc hơn, của
những người quyết tâm đấu tranh cho một cuộc sống tốt đẹp hơn, đấu tranh chống
lại các lực lượng bảo thủ và áp bức xã hội, và chống lại những kẻ gây chiến, chủ
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
nghĩa phát xít trong nước và trên quốc tế”. Chính từ mục tiên dân chủ hòa bình tự
do ấy, bằng cuộc đấu tranh của những người làm báo (qua các hội nghị báo chí ở
Trung Kỳ ngày 27/3/1937, ở Bắc Kỳ ngày 24/4/1937), ngày 30/8/1938 chính phủ
Pháp buộc phải ban hành Luật Tự do báo chí (mặc dù chỉ trong địa phận Nam Kỳ
mà thôi).
Văn hóa văn nghệ là lĩnh vực có nhiều nét phát triển mới, thể hiện rõ nhất
những đổi thay trong đời sống tinh thần của đời sống xã hội. Sách chính trị lần đầu
tiên được công khai xuất bản. Cuốn “Vấn Đề Dân Cày” của Qua Ninh và Vân Đình
(1937), “Chủ nghĩa Mác” của Hải Triều (1938) và các sách giới thiệu về Liên Xô,
Trung Quốc, về Mặt Trận Bình Dân Pháp… nhanh chóng đến với mọi người yêu
nước và cách mạng. Thơ Tố Hữu từ năm 1938 đã chinh phục quần chúng yêu nước
và đánh dấu sự xuất hiện nền thơ ca cách mạng trong cuộc đấu tranh dân chủ công
khai. Trong lúc đó dòng văn học Hiện thực phê phán cũng bước vào thời kỳ sinh
sôi nảy nở lấn lướt cả dòng văn học lãng mạng đang đi vào phân hóa. Các tác phẩm
Tắt Đèn, Việc Làng (Ngô Tất Tố), Bỉ Vỏ (Nguyên Hồng), Bước Đường Cùng
(Nguyễn Công Hoan), Số Đỏ (Vũ Trọng Phụng), Lầm Than (Lang Khai)… trở
thành món ăn tinh thần mới của nhiều tầng lớp xã hội. Sân khấu và Lý luận phê
bình văn học cũng kịp thời xuất hiện để không bỏ lỡ chuyến tàu dân chủ công khai.
Các vở diễn Kim Tiền (Vi Huyền Đắc), Đời Cô Lựu (Trần Hữu Trang) tập trung
phản ánh hiện thực, xã hội. Để chống văn hóa ngu dân, phong trào truyền bá chứ
quốc ngữ được phát động rộng rãi, nhất là trong các tầng lớp nhân dân lao động.
Mở đầu là việc thành lập Hội Truyền Bá Chữ Quốc Ngữ của cụ Nguyễn Văn Tố.
Sau đó là các nơi mở lớp chữ Quốc ngữ, chống thất học và giúp cho quần chúng
hiểu biết nhận thức thời cuộc.

Đến cuối năm 1938, khi cuộc chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh của chủ
nghĩa phát xít càng ráo riết, thì những thuận lợi cho các hoạt động đấu tranh dân
chủ hòa bình ngày một ít dần đi. Ở Đông Dương bọn phản động thuộc địa từ cuối
năm 1938 đầu năm 1939 bắt đầu ngăn cản và cấm đoàn những hoạt động dân chủ
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
công khai của quần chúng. Tháng 8/1939 sắc lệnh kiểm duyệt báo chí được thực
hiện. Tiếp theo là những hoạt động có liên quan đến Đảng Cộng Sản Đông Dương
đều bị theo dõi gắt gao. Về phần mình, Đảng Cộng Sản Đông Dương trong “Thông
báo tháng 3/1939” đã kêu gọi chống khủng bố. Từ đó Đảng kịp thời rút vào bí mật
trước khi địch ra tay khủng bố truy lùng bắt bớ. Cho đến khi Đại chiến thế giới lần
thứ hai bùng nổ (9/1939) phong trào đấu tranh dân chủ ở Việt Nam đã bị chấm dứt
hơn 3 năm phát triển.
Cao trào đấu tranh dân chủ công khai những năm1936 - 1939 là một cao trào
của quần chúng hiếm có ở xứ thuộc địa. Với cao trào này, lực lượng đấu tranh của
dân tộc được hình thành từ thời kỳ 1930 - 1931, gây dựng hồi phục lại những năm
1932 - 1935 nay được củng cố bổ sung thành một đạo quân hùng hậu hàng triệu
người ở cả nông thôn và thành thị với nhiều tầng lớp giai cấp khác nhau. Tận dụng
mọi khả năng điều kiện thế giới, và trình hình trong nước những năm trước chiến
tranh để đưa cả dân tộc và một cuộc vận động cách mạng, với nhiều hình thức hoạt
động phong phú, sôi nổi. Đó là thành công lớn, bài học quý báu từ thực tến đấu
tranh những năm 1936 - 1939 là hành trang của Đảng Cộng Sản Đông Dương và tất
cả những người yêu nước Việt Nam đem theo trong quá trình đấu tranh cho tự do
độc lập.
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
KẾT LUẬN
Qua thực tiễn lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, Đảng và nhân

dân ta đã đặt ra và giải quyết thành công nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cơ bản
trong đường lối chiến lược và sách lược, bảo đảm cho phong trào cách mạng phát
triển đúng hướng, phát huy được sức mạnh của cả dân tộc, đó là: Quan hệ giữa
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, giữa mục tiêu dân tộc và mục tiêu
dân chủ, giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp; quan hệ giữa các mục tiêu chiến
lược lâu dài và mục tiêu cụ thể trước mắt, giữa giành thắng lợi từng bước, khởi
nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn; quan hệ giữa chiến
lược và sách lược, phương pháp cách mạng, sử dụng đúng đắn các hình thức,
phương pháp đấu tranh phù hợp với từng điều kiện lịch sử cụ thể; quan hệ giữa
Đảng và nhân dân, giữa xây dựng Đảng và xây dựng phát triển lực lượng cách
mạng của quần chúng được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất; quan hệ
giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, giữa xây dựng lực lượng cách mạng,
phát huy sức mạnh bên trong, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, độc lập, tự chủ và
sáng tạo với tranh thủ những điều kiện và thời cơ thuận lợi do tình hình quốc tế
đem lại; quan hệ giữa chủ động chớp thời cơ và đẩy lùi nguy cơ, tổ chức và sử
dụng các lực lượng cách mạng Giai đoạn 1930 – 1939 là giai đoạn có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam, đây là bước tiền đề quan trọng cho cách
mạng tháng 8 giành độc lập dân tộc.
Sau khi tìm hiểu đường lối đấu tranh giành chính quyền của Đảng ta giai
đoạn này, chúng ta đã hiểu thêm về đường lối chủ trương của Đảng ta, hiểu rõ hơn
về bản chất của chủ nghĩa xã hội, trau dồi tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ hiện
nay,có tinh thần vươn lên học tập rèn luyện tốt để góp phần xây dựng nước nhà.
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
Ý KIẾN CỦA GVHD












DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
2. Cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945
3. Tạp chí cộng sản
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Thị Hằng
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
I. Hoàn cảnh lịch sử 2
II. Chủ trương đấu tranh giành chính quyền của Đảng ta
giai đoạn 1930-1939 5
1. Cao trào 1930 – 1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh 5
2. Đấu tranh cho dân sinh dân chủ những năm 1932 – 1935 9
3. Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 12
KẾT LUẬN 17
GVHD: Trần Thị Hương Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Thị Hằng

×