Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

đề cương đương lối cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.88 KB, 97 trang )

ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐCSVN
CÂU 1:
1. Đối tượng nghiên cứu.
a.Khái niệm Đường lối cách mạng của ĐCSVN.
Đường lối Là chuẩn tắc cơ bản về phương hướng, nhiệm vụ, phương châm, lực lượng,
phương thức tổ chức thực tiễn về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá – xã hội,tư tưởng, tổ
chức do một nhà nước, một chính đảng,một tổ chức chính trị xã hội vạch ra, nhằm thực
hiện một mục tiêu nhất định trong một thời kỳ nhất định.
Đường lối cách mạng của ĐCSVN là hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách của
ĐCSVN về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của CMVN.
ĐCSVN được thành lập ngày 3-2-1930. Ngay từ khi ra đời, thấm nhuần chủ nghĩa
Mác-Leenin, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn và trực tiếp lãnh đạo cách mạng
nước ta giành đc thắng lợi to lớn. Sự lãnh đạo của đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng VN. Trong hoạt động lãnh đạo của đảng, vấn đề cơ bản trước hết là
đề ra đường lối cách mạng và hoạch định đường lối. Đây là công việc quan trọng hàng đầu
của một chính đảng.
Nhìn tổng thể, đường lối cách mạng của đảng bao gồm đường lối dối nội và đường lối
đối ngoại. Đường lối cách mạng của Đảng là toàn diện và phong phú.,có đường lối chính trị
chung xuyên suốt cả quá trình cách mạng, và cũng có đường lối cho từng thời kì lịch sử.
Đường lối đúng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng, quyết định vị trí,
uy tín của đảng đối với quốc gia dân tộc. Vì vậy để tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng
trước hết phải xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn.
b. Đối tượng nghiên cứu môn học. .(không nên chép trong giáo trình)
Môn học Đường lối cách mạng của ĐCSVN chủ yếu nghiên cứu đường lối do đảng đề
ra trong quá trình lãnh đạo cách mạng VN từ năm 1930 đến nay. do đó đối tượng chủ yếu
của môn học là hệ thống quan điểm chủ trương, chính sách của đảng trong tiến trình cách
mạng VN - từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN.
Môn đường lối cách mạng của ĐCSVN có mối quan hệ mật thiết với các môn Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và môn Tư tưởng HCM. Do đó nắm vững hai
môn học này sẽ trang bị những tri thức và phương pháp luận khoa học để nhận thức và thực
hiện đường lối chủ trương chính sách của đảng một cách sâu sắc và toàn diện hơn.


Mặt khác vì đường lối cách mạng không chỉ nói lên sự vận dụng sáng tạo các nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Leenin, tư tưởng HCM, mà còn thể hiện sự bổ sung, phát triển
chủ nghĩa Mác- leenin tư tưởng HCM trong điều kiện của đảng ta. Do đó việc nghiên cứu
đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam sẽ góp phần làm sáng tỏ vai trò nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành đọng của chủ nghĩa Mác- Lenin và tư tưởng HCM.
Sự ra đời của Đảng và hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về
phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam (từ CMDTDCND đến
CMXHCN).
2. Phương pháp nghiên cứu.(không nên chép trong giáo trình)
Phương pháp nghiên cứu môn học Đường lối cách mạng của ĐCSVN là con đường,
cách thức để nhận thức đúng đắn những nội dung cơ bản của đường lối và hiệu quả tác động
của nó trong thực tiễn cách mạng VN,
a. Cơ sở phương pháp luận.
Nghiên cứu môn Đường lối cách mạng của ĐCSVN phải dựa trên thế gới quan
phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mac-lenin, các quan điểm có ý nghĩa phương
pháp luận của chủ tịch HCM và các quan điểm của đảng.
Là chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận của Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng
b. Phương pháp nghiên cứu.
Giữa phương pháp nghiên cứu và nội dung nghiên cứu có mối quan hệ biện chứng.
Phương pháp phải trên cơ sở nội dung. Vì vậy phương pháp nghiên cứu môn Đường lối các
mạng của ĐCSVN, ngoài phương pháp luận chung đã nêu trên, đối với mỗi nội dung cụ thể
cần phải vận dụng một phương pháp nghiên cứu phù hợp. Trong đó, sử dụng phương pháp
lịch sử và phương pháp logic là hết sức quan trọng trong nghiên cứu đường lối cách mạng
của đảng. Ngoài ra còn phải sử dụng các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, so
sánh thích hợp với từng nội dung của môn học.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, ngoài
ra có sự kết hợp các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp và diễn
dịch, cụ thể hoá và trừu tượng hóa
CÂU 2:

1. Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
a. Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó
- Từ nửa sau thế kỷ XIX, CNTB Phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa)
- Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa đế quốc đã hoàn thành việc phân chia thị trường thế giới,
70% dân số thế giới hoặc chịu ảnh hưởng hoặc nằm dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực
dân. Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho:
+ Đời sống nhân dân các nước thuộc địa trở nên cùng cực.
+ Quan hệ xã hội của các nước thuộc địa bị thay đổi căn bản, các nước thuộc địa bị
cuốn vào con đường tư bản thực dân.
+ Mâu thuẫn giữa các nước xuất hiện và ngày càng phát triển mạnh mẽ (2 mâu thuẫn
chủ yếu: Đế quốc và Đế quốc, thuộc địa và Đế quốc), sự phản ứng của các nước thuộc địa
ngày càng gay gắt.
b. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin
CNMLN là hệ tư tưởng của ĐCS, có sức ảnh hưởng to lớn, lay chuyển, lôi cuốn quần
chúng nhân dân, những thành phần ưu tú, tích cực ở những nước thuộc địa vào phong trào
cộng sản
Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh cần
thiết phải có hệ thống lý luận của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
tư bản. Chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu đó.
+ Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh, giai
cấp công nhân phải lập ra Đảng Cộng sản để đáp ứng yêu cầu khách quan trong cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân chống áp bức bóc lột. Đảng luôn phải đứng trên lập trường của
giai cấp công nhân, mọi chiến lược, sách lược của Đảng đều luôn xuất phát từ lợi ích của
giai cấp công nhân, đồng thời đại biểu cho quyền lợi của toàn dân tộc.
+ Chủ nghĩa Mác-Lênin đã lay chuyển, lôi cuốn quần chúng nhân dân và cả những
phần tử ưu tú, tích cực ở những nước tự thuộc địa vào phong trào cộng sản.
+ Tư tưởng về Đảng Cộng sản của chủ nghĩa Mác-Lênin đã ảnh hưởng to lớn, trực
tiếp đến phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và sự hình thành các tổ chức cộng sản quốc
tế như: Quốc tế I (1864-1872), Quốc tế II (1880-1914), Quốc tế III (1919); đồng thời là một

trong những cơ sở quan trọng dẫn tới sự ra đời của các Đảng Cộng sản ở nhiều nước trên thế
giới.
Ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước đã dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó, chủ nghĩa Mác-Lênin
là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
c. Tác động của cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản
Sau cách mạng Tháng Mười Nga thành công (1917), Nhà nước Xô Viết ra đời đã mở
ra một thời đại mới “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
Ảnh hưởng:
- Đã nêu tấm gương sáng về sự giải phóng dân tộc bị áp bức, làm cho phong trào cách
mạng vô sản ở các nước TBCN Phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa Phương Đông có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
chung- chủ nghĩa đế quốc.
- Là bằng chứng chứng minh rằng chủ nghĩa Mác- Lênin đã trở thành hiện thực và
được truyền bá rộng rãi.
- Dẫn đến sự ta đời của các Đảng cộng sản: Đảng cộng sản Đức, Đảng cộng sản
Hungari (1918), Đảng cộng sản Mỹ (1919), Đảng cộng sản Anh, Pháp (1920), Đảng cộng
sản Trung Quốc, Mông Cổ (1921).
Sự ra đời của quốc tế cộng sản
- Tháng 3/1919, quốc tế cộng sản được thành lập đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế.
- Tại Đại hội II của Quốc tế cộng sản năm 1920, sơ thảo lần thứ nhất luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin được công bố. Luận cương nổi tiếng này đã chỉ ra
phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Đối với Việt Nam, quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc không những
đánh giá cao sự kiện ra đời Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cách mạng thế giới mà còn
nhấn mạnh vai trò của tổ chức này đối với cách mạng VN '' An Nam muốn cách mệnh thành
công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế.''
Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam, đến sự ra

đời của Đảng cộng sản VN.
Câu 3: Trình bày sự chuẩn bị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về chính trị, tư tưởng và tổ
chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Nói qua về hoàn cảnh trong nước. Tại sao HCM lại ra đi tìm đường cứu nước?
Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp. Khi Cách mạng tháng Mười Nga thành
công, Người tham gia những hoạt động chính trị sôi nổi ngay trên đất Pháp như : tham gia
hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp.
- Tháng 6 – 1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhóm người yêu nước Việt Nam tại
Pháp gửi “ Bản yêu sách 8 điểm” đến Hội nghị Vécxai, nhằm tố cáo chính sách của Pháp và
đòi Chính phủ Pháp thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt
Nam.
Mặc dù không được chấp nhận, nhưng “ Bản yêu sách” đã gây tiếng vang lớn đối với
nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa của Pháp. Tên tuổi Nguyễn Ái Quốc từ đó
được nhiều người biết đến.
- Tháng 7-1920: Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người vô cùng phấn khởi và tin tưởng, vì Luận
cương đã chỉ rõ cho Người thấy con đường để giải phóng dân tộc mình. Từ đó, Người hoàn
toàn tin theo Lênin, dứt khoát đi theo Quốc tế thứ III.
- Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua vào cuối tháng 12-1920,
Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ III, tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập
trường yêu nước chuyển sang lập trường Cộng sản.
- 1921: Người sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp để tuyên truyền, tập
hợp lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc
- 1922 : Ra báo “ Le Paria” ( Người cùng khổ ) vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã
man của chủ nghĩa đế quốc, góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên tự giải phóng.
- 1923 : Sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân, sau đó làm việc ở Quốc tế Cộng
sản.
- 1924: Dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V.

Ngoài ra, Người còn viết nhiều bài cho báo Nhân Đạo, Đời sống công nhân và viết cuốn
sách nổi tiếng “ Bản án chế độ thực dân Pháp” – đòn tấn công quyết liệt vào chủ nghĩa thực
dân Pháp
- Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc (chủ yếu trên mặt trận tư tưởng chính trị)
nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước ta. Thời gian này tuy chưa thành lập chính
đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam, nhưng những tư tưởng Người truyền bá sẽ làm nền
tảng tư tưởng của Đảng sau này. Đó là :
* Chủ nghĩa tư bản, đế quốc là kẻ thù chung của giai cấp vô sản các nước và nhân dân
các thuộc địa. Đó là mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng chính quốc và thuộc địa.
* Xác định giai cấp công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt của cách mạng.
* Giai cấp công nhân có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong là
Đảng Cộng sản.
- Tháng 6-1925 :Người thành lập “ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên” và cho xuất
bản tuần báo “ Thanh niên” làm cơ quan ngôn luận của Hội.
- Tháng 7-1925 : Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng Quốc tế, lập ra “Hội
các dân tộc bị áp bức ở Á Đông”, có quan hệ chặt chẽ với Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên.
- Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày để đào
tạo, bồi dưỡng cách mạng.
- Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện ở Quảng Châu sau đó
đã được xuất bản thành sách “Đường Kách Mệnh”.
- Từ năm 1928 : Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng được cơ sở của
mình ở khắp nơi. Hoạt động của Hội góp phần truyền bá tư tưởng Mác- Lênin, thúc đẩy
phong trào cách mạng Việt Nam theo xu thế cách mạng vô sản. Sự ra đời và hoạt động của
Hội Việt Nam cách mạng là bước chuẩn bị chu đáo về chính trị , tổ chức và đội ngũ cán bộ
cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
- Giữa năm 1927-1930 : Nguyễn Ái Quốc đã từ Xiêm (Thái Lan ) về Trung Quốc, với
danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản,
thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
- Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long

(Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí
thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của
các hội quần chúng.
=> Nói đến NAQ là nói đến con người của nhiều sáng lập, nhưng sáng lập ra ĐCSVN
là sáng lập có ý nghĩa quyết định đến những thắng lợi về sau của CM nước ta
Câu 4: Trình bày nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên tháng 2/1930 của Đảng?
Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2-1930) được Hội nghị
thống nhất thông qua là:
1- Khẳng định phươnghướng chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đó là: "chủ trương
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".(Sau này
gọi là cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa). Tính chất giai đoạn và lý
luận cách mạng không ngừng đã được thể hiện trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng: cách
mạng tư sản dân quyền là thời kỳ dự bị để tiên lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là con
đường cứu nước mới, khác với những chủ trương, những con đường cứu nước của những
nhà yêu nước đương thời đã đi vào bê tắc và thất bại. Như vậy, ngay từ đầu Đảng ta đã tiếp
thu và vận dụng sáng tạo lý luận MÁC-LÊNIN vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Đường
lối cơ bản của cách mạng Việt Nam được phản ánh trong Cương lĩnh đã thiện được tư tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghiã xã hội. Việc xác định đúng đắn phương hướng, con
đường của cách mạng Việt Nam ngay từ đầu có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó là ngọn cờ
tập hợp lực lượng cách mạng, là cơ sở để giải quyết đứng đắn các vấn đề cơ bản của cách
mạng việt Nam
2- Nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh chỉ rõ: ''Đánh đố
đế quốc chủ nghĩa và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập". Tức là
nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân) là chống đế quốc giành độc lập cho dân tộc và chống phong kiến để giành ruộng đất
cho dân cày. Trong đó nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ được đặt lên
hàng đầu.
Xuất phát từ đặc điếm của chế độ thuộc địa nửa phong kiến, đây là hai nhiệm vụ cơ
bản của cách mạng Việt Nam. Sự kết hợp hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến

đã khẳng định tính toàn diện, triệt để của đường lối cách mạng Việt Nam. Những nhiệm vụ
đó là biểu hiện sinh động của việc kết hợp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội và giải phóng con người trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc.
Về chính trị: Đánh đổ ĐQCN Pháp và bọn PK; làm cho nước Việt Nam được hoàn
toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông
Về KT: Tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của bọn TB ĐQCN Pháp để giao cho Chính
phủ công nông binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn ĐQCN làm của công chia
cho dân cày nghèo…
Về văn hoá-xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền; phổ thông giáo
dục theo hướng công nông hoá
3- Về lực lượng của cách mạng Việt Nam, phải đoàn kết công nhân, nông dân-đây là
lực lượng cơ bản trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời Cương lĩnh nêu rõ: "Đảng
phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. đế kéo họ
đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam
mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập''.
Đây là tư tưởng tập hợp lực lượng cách mạng trên cơ sở đánh giá thái độ các giai cấp phù
hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.
Để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, Cương lĩnh chỉ ra rằng, phải đoàn kết với
tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước. Đó là sự thể hiện quan điểm: cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người làm nên lịch sử. Đồng thời, Cương lĩnh cũng
đã chỉ ra lực lượng chính, động lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam là công nhân
và nông dân. Đây là sự thể hiện tính nguyên tắc trong chính sách đại đoàn kết dân tộc và sự
sắp xếp, tổ chức lực lượng cách mạng của Đảng ta. Việc tập hợp lực lượng rộng rãi cũng như
xác định được động lực chủ yếu, cơ bản của sự nghiệp cách mạng phản ánh sự mềm dẻo và
linh hoạt trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta.
4- Về phương pháp cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh đã khẳng định: phương pháp
cách mạng cơ bản của Việt Nam là dùng sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân để
đánh đổ đế quốc phong kiến, đó là bạo lực cách mạng. Phương pháp bạo lực cách mạng
được nêu lên với những biểu hiện cụ thể: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong

kiến, đánh đổ các đảng phản cách mạng như Đảng Lập hiến, đánh trúc bọn đại địa chủ và
phong kiến. Chính sự thất bại của khuynh hướng cải lương hoà bình ở Việt Nam những năm
đầu thế kỷ XX đã cho thấy cách mạng muốn giành thắng lợi, không có con đường nào khác
là phải sử dụng bạo lực cách mạng. Việc nêu lên phương pháp cách mạng bạo lực trong sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta đã thể hiện sự thấm nhuần và tiếp thu tư tưởng cách mạng
bạo lực của chủ nghĩa MÁC-LÊNIN.
5- Xác định vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, phải thu phục và lãnh đạo được dân chúng.
Để thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng, Cương lĩnh đã khẳng định vai trò quyết định
của Đảng: Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp. Để lám tròn sứ mệnh lịch sử là nhân
tố tiên phong quyết đinh thắng lơi của cách mạng Việt Nam, Đảng phải: "thu phục cho được
đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng". Khẳng
định bản chất giai cấp của Đảng, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và chiến lược đại
đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông là những vấn đế then chốt bảo đảm cho
Đảng ta trở thành nhân tố duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh cũng nêu lên
sự gắn bó, quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng. Đây là điều kiện tạo cho Đảng có
nguồn súc mạnh vĩ đại và trở thành lãnh tụ chính trị cho cả dân tộc. Sự lãnh đạo của.Đảng là
yếu tố quyết định nhất cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
6- Phát huy tinh thần tự lực tự cường, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các
dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Vấn đề đoàn kết quốc tế cũng là một nội dung quan trọng của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng. Đoàn kết quốc tế là một vấn đề có tính nguyên tắc của cách mạng Việt Nam:
"Trong khi tuyên truyền cái khấu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực
hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp".
Đồng thời, Cương lĩnh cũng đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới. Gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, đề cao vấn đoàn kết quốc tế
chính là sự thể hiện việc kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản,
lợi ích dân tộc và lợi ích toàn nhân loại tiến bộ đang đấu tranh để giải phóng khỏi ách áp
bức, bất công trên thế giới. Vấn đề đoàn kêt quốc tế cũng đồng thời là một động lực quan
trọng của cách mạng Việt Nam.

7- Xây dựng Đảng cách mạng vững mạnh, kêu gọi mọi người ủng hộ và gia nhập
Đảng, phải có tổ chức chặt chẽ.
Lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy
luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội
Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cương
lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta Vì vậy, Đảng đã
đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng
phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của
Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường".
CÂU 5: ý nghĩa ra đời của Đảng
1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử; là sản phẩm của sự
kết hợp Chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai
cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-
Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Thực tế cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự
lựa chọn của chính lịch sử.
Trước ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp, hàng loạt các phong trào đấu tranh nổ ra
của nhiều giai - tầng trong xã hội, với nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau nhưng lực
lượng của phong trào quá mỏng nên các phong trào sớm bị thất bại. Điều đó cho thấy giai
cấp địa chủ phong kiến không còn đủ vai trò và uy tín để kêu gọi và triệu tập lực lượng trong
quần chúng nhân dân.
Lần lượt các phong trào đấu tranh của giai cấp nông dân lớp dưới cũng đều thất bại
cho tới các phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với hoạt động của Việt Nam Quốc
dân đảng (1927 - 1930). Vai trò của Việt Nam quốc dân Đảng trong phong trào dân tộc ở
Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái.
Trong khi các giai cấp, tầng lớp đều lần lượt bước lên vũ đài chính trị nhưng đều
không được lịch sử chấp nhận thì với nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, Chủ nghĩa Mác- Lênin được truyền bá rộng rãi vào phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam và đang khẳng định được sức mạnh
của mình.

Dần dần, các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam thời kỳ này mang tính chất
chính trị rõ rệt và diễn ra trong phạm vi cả nước. Trong mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết
giữa các nhà máy, các ngành và các địa phương. Phong trào công nhân đã đạt đến trình độ
"tự giác", được đánh giá là thuần thục về chính trị. Bản thân phong trào công nhân có sức lôi
cuốn đối với phong trào yêu nước và có thể nói, nó quyết định phong trào dân tộc theo
khuynh hướng cách mạng vô sản.
Với sự nỗ lực của Nguyễn ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, chủ nghĩa
Mác- Lênin được thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước làm cho các
phong trào này có khuynh hướng phát triển từ tự phát sang tự giác. Chính xu hướng đó đã
làm cho nhu cầu tất yếu của lịch sử đòi hỏi phải thành lập Đảng cộng sản ở Việt Nam, làm
cho Hội Việt Nam cách mạng thanh niên sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình đã bị
phân liệt dẫn đến sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản và cuối cùng là sự tất yếu phải hợp nhất
để thành lập một đảng cộng sản duy nhất.
Điều đó khẳng định sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn của chính
lịch sử, là sản phẩm của sự kết hợp 3 yếu tố Chủ nghĩa Mác- Lênin, phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam.
2. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về
lãnh đạo cách mạng những năm đầu thế kỷ XX.
Trước ách áp bức của thực dân Pháp xâm lược, các phong trào đấu tranh của nhân dân
Việt Nam diễn ra mạnh mẽ theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, qua đó cũng
chứng kiến nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau lần lượt bước lên vũ đài chính trị với nhiều
đường lối, phương pháp tiến hành đấu tranh khác nhau nhưng cuối cùng đều rơi vào cùng
một kết cục là thất bại.
Với những biến cố lịch sử đã xuất hiện trên thế giới cho thấy phạm trù của cách mạng
thế giới đã chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản, tất cả các cuộc cách mạng trên thế giới,
kể cả cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi phải đi theo đường lối của cách
mạng vô sản và theo đó, giai cấp cách mạng nhất, giữ vai trò tiên phong, có sứ mệnh lịch sử
là giai cấp trung tâm của thời đại lúc này tất yếu phải là giai cấp vô sản. Vì vậy, khi Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn khẳng định rõ ràng
giai cấp lãnh đạo là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản: "Đảng là đội tiền phong

của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai
cấp mình lãnh đạo được dân chúng" Với những quan điểm này, Cương lĩnh đã đặt cách
mạng mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cuộc cách mạng vô sản.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định sự trưởng thành vượt bậc của
giai cấp công nhân Việt Nam, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân lại từng bước
khẳng định sự lớn mạnh của mình không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng; không chỉ về
qui mô ngày càng lớn mà cả về tính tự giác, tính chính trị của các phong trào ngày càng
được thể hiện rõ nét hơn
3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy cách mạng Việt Nam đã trở thành
một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới.
Với sự nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Chủ
nghĩa Mác- Lênin được truyền bá rộng rãi vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam, làm cho các phong trào này, đặc biệt là phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ,
từ tự phát sang tự giác và thành quả là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng đi theo cách mạng vô sản đã đặt cách
mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cách mạng thời đại, là cơ sở tiên quyết để cách mạng Việt
Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới.
Từ đây, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam tham gia một cách tự giác
vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới; từ đây sự phát triển của phong
trào cách mạng Việt Nam cũng góp phần củng cố sức mạnh của phong trào đấu tranh cách
mạng thế giới và sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới cũng củng cố sức mạnh
cho cách mạng Việt Nam.
Đây chính là một trong những nguyên nhân làm nên những thắng lợi to lớn của cách
mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Trong thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ta
giành chính quyền từ tay Nhật, chúng ta không thể phủ nhân vai trò của lực lượng dân chủ-
đứng đầu là Liên Xô và lực lượng đồng minh trong việc chống phát xít.
4. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất
quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình tiến hoá của dân tộc Việt
Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp

với xu thế phát triển của thời đại và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của dân tộc Việt Nam. Do
đó, giai cấp công nhân Việt Nam, thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt
Nam không chỉ tập hợp được giai cấp mình mà còn vận động, lôi kéo được đông đảo các
giai- tầng khác trong xã hội trên một "mẫu số chung" đó là tinh thần yêu nước. Không những
thế, việc giai cấp công nhân nắm bá quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam là điều kiện tiên
quyết để cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phân của cách mạng thế giới, cho phép cách
mạng Việt Nam không chỉ phát huy được sức mạnh toàn dân tộc mà còn kết hợp được sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thông qua đó tạo nên sức mạnh tổng hợp để cách mạng
Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn.
Trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Đảng cộng sản Việt
Nam với đường lối lãnh đạo cách mạng đúng đắn, sáng tạo cũng thể hiện rõ vai trò và năng
lực lãnh đạo cách mạng, là nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh để Việt Nam lần lượt đánh
bại các tên đế quốc hùng mạnh, sừng sỏ và hiếu chiến bậc nhất thế giới.
Sau khi đất nước giành được độc lập, thống nhất, Đảng tiếp tục phát huy tinh thần độc
lập tự chủ và sáng tạo, đặc biệt trong công cuộc đổi mới. Đảng đã đề ra và thực hiện thắng
lợi đường lối đổi mới trong khi công cuộc Cải cách, Cải tổ của các nước trong hệ thống
XHCN lại đi vào bế tắc, thậm chí là thất bại. Với bản chất cách mạng và khoa học, Đảng đã
không ngừng bổ sung và hoàn thiện đường lối cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể,
mạng lại "những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử" sau 20 năm đổi mới, không ngừng
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
5. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc-
Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta.
Sống trong bối cảnh nước mất, nhà tan, Nguyễn Ái Quốc quyết tâm ra đi tìm đường
cứu nước. Người đã gặp và tiếp thu Chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy ở đấy con đường giải
phóng cho dân tộc, đưa đất nước đi lên độc lập - tự do - hạnh phúc, đó là đường lối cỏch
mạng theo con đường cỏch mạng vụ sản.
Với quan điểm "cách mạng trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động
và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi
nơi".Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành một quá trình chuẩn bị về chính trị tư tưởng và tổ chức
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự nỗ lực của Người, Đảng Cộng sản Việt

Nam đã được ra đời vào ngày 3- 2- 1930 là sự vận dụng sáng tạo học thuyết của Chủ nghĩa
Mác- Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân ở một nước thuộc địa.
Những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam
không chỉ ở sự nố lực của Người trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam những năm
đầu thế kỷ XX, mà còn ở hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, trong đó nổi bật là những quan điểm tư tưởng của Người về Đảng
Cộng sản Việt Nam. Những quan điểm tư tưởng đó luôn có tác dụng định hướng, soi đường
chỉ lối cho Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững và phát huy được vai trò là một đảng cầm
quyền lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn thành xuất sắc hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, đưa dân tộc Việt Nam vững bước tiến lên vì mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH, xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Câu 6: So sánh nội dung Luận cương chính trị tháng 10/1930 với Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng tháng 2/1930? Nguyên nhân của sự khác nhau?
* So sánh:
Bên cạnh nét tương đồng thì có những mặt khác nhau
Luận cương chính trị không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam và để quốc Pháp  không đặt nvu chống đế quốc lên hàng đầu
Đánh giá không đúng vai trò tầng lớp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của tư sản
dân tộc, chưa thấy được khả năng phân hóa, lôi kéo một bộ phận đia chủ vừa và nhỏ trong
cách mạng giải phóng dân tộc  không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và g.c
rộng rãi trong cuộc đấu tranh chông để quốc xâm lược và tay sai.
So sánh
nội dung
Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng Cộng Sản
Việt Nam 2/1930
Luận cương chính trị
tháng 10/ 1930
Phương

hướng chiến
lược của cách
mạng …
Việt Nam
“Tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng
Đông Dương
Lúc đầu là: “cách mạng tư
sản dân quyền”, có tính chất thổ
địa và phản đế.=> là thời kì dự
sản.” bị để làm xã hội CM.
Sau thắng lợi sẽ tiếp tục “ phát
triển, bỏ qua thời kì tư bổn mà
tranh đấu thẳng lên con đường
xã hội chủ nghĩa”
Nhiêm
vụ của
Cách
mạng
Chính
trị
Đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp +bọn pk => nước
nhà hoàn toàn độc lập => lập
chính phủ công nông binh, tổ
chức quân đội công nông.
Đánh đổ phong kiến, thực
hành CM ruộng đất một cách
triệt để, đánh đổ đế quốc chủ

nghĩa Pháp  làm cho Đông
Dương hoàn toàn độc lập
Kinh tế Tịch thu toàn bộ sản
nghiệp lớn + ruộng đất, bỏ
sưu thuế, mở mang công
nông nghiệp, thi hành luật
ngày làm 8h.
Văn
hóa xã
hội
Tự do tổ chức, nam nữ
bình quyền,… phổ thông
giáo dục theo công nông hóa.
Lực
lượng
cách
mạng
Đại bộ phận dân cày->
thổ địa CM.
Liên lạc vs tiểu tư sản, trí
thức, trung nông, Thanh
niên, Tân Việt > phe g/c
vô sản
Chưa rõ: Phú nông, trung,
tiểu địa chủ, tư bản An Nam
 lợi dụng  trung lập
Phản CM( Đảng lập
G/c vô sản: động lực
chính vừa là g/c lãnh đạo. Đông
đảo nhất và động lực mạnh của

CM: dân cày.
Tư sản thương nghiệp  chống
lại
Tư sản công nghiệp 
quốc gia cải lương
Tiểu tư sản: Thủ công
hiến )  đánh đổ nghiệp  do dự
Thương gia  Không tán
thành.
Trí thức: quốc gia chủ
nghĩa và chỉ tham gia thời kì
đầu.
Lãnh
đạo
Giai cấp vô sản. Đảng
cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong, không nhường
một chút lợi ích gì.
Đảng Cộng Sản Đông
Dương.
Q/hệ vs
ptrao
CM thế
giới
Một bộ phận.
Thực hành liên lạc vs
dân tộc bị áp bức, g/c vô sản
thế giới( nhất là Pháp)
Một bộ phận  phải đoàn
kết, trước hết là g/c vô sản Pháp

Liên lạc vs ptrao CM các
nc thuộc địa và nửa thuộc địa 
Mở rộng, tăng cường lực lượng
Phương
pháp
Chuẩn bị cho quần chúng
về con đường “ võ trang bạo
động”
* Nguyên nhân của sự khác nhau:
Thứ nhất, Luận cương chưa tìm ra và nắm vững những đặc điểm của xã hội thuộc địa
nửa phong kiến Việt Nam.
Thứ hai, do nhận thức giáo điều, máy móc về vấn đề dân tộc và g.c trong cm ở thuộc
địa, lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của khuynh hướng “tả” của Quốc tế cộng sản và một số
Đảng cộng sản thời đó.  không chấp nhận những quan điểm mới, sáng tạo, độc lập tự chủ
của Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh đầu tiên.
CÂU 7: Giai đoạn cách mạng 1936-1939:
a. Hoàn cảnh lịch sử
Tình hình thế giới:
- Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm cho mâu thuẫn nội
tại của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao
- Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và thắng thế ở nhiều nơi: Chủ nghĩa phát xít là trào lưu
tư tưởng chính trị của thế lực tư bản độc quyền xuất hiện đầu tiên ở Italia, thiết lập chế độc
độc tài, khủng bố công khai, đàn áp các trào lưu dân chủ tiến bộ và CNCS, thực hiện chính
sách phân biệt chủng tộc và sô vanh cực đoan. Trong thì chúng thủ tiêu tất cả những quyền
tự do dân chủ, những quyền tối thiểu của con người. Ngoài thì thực hiện chính sách gây
chiến tranh xâm lược, kêu gào phục thù.
- Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcơva (7-1935) xác định:
+ Kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói
chung mà là chủ nghĩa phát xít.
+ Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới chưa phải

là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền mà là chống phát xít và chiến tranh,
đòi tự do, dân chủ, hoà bình và cải thiện đời sống
+ Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập Mặt trận thống nhất chống
đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.
Tình hình trong nước:
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống
của mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản động ở Đông
Dương ra sức vơ vét, bóc lột và khủng bố phong trào đấu tranh của nhân dân làm cho bầu
không khí chính trị trở nên ngột ngạt, yêu cầu có những cải cách dân chủ.
Các giai cấp và tầng lớp tuy có quyền lợi khác nhau, nhưng đều căm thù thực dân, có
nguyện vọng chung trước mắt là đấu tranh đòi quyền được sống, quyền tự do, dân chủ, cơm
áo hoà bình
b) Chủ trương và nhận thức mới của Đảng
- Tháng 7-1936, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ hai tại Thượng Hải.
Xuất phát từ tình hình thực tế Hội nghị đã xác định:
+ Mục tiêu chiến lược: không thay đổi so với Hội nghị lần thứ nhất- “cách mạng tư
sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền công nông bằng hình thức Xô viết”,
“để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
+ Kẻ thù trước mắt và nguy hại nhất là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của
chúng.
+ Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc,
chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Để thực
hiện được nhiệm vụ này, BCH TƯ quyết định lập Mặt trận nhân dân phản đế gồm các giai
cấp, đảng phái các đoàn thể chính trị và các tôn giáo khác nhau, các dân tộc xứ Đông Dương
để cũng đấu tranh đòi những quyền dân chủ đơn sơ.
+ Về đoàn kết quốc tế: Đoàn kết với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp, ủng
hộ Mặt trận Nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp để cùng chống kẻ
thù chung là phát xít và phản động thuộc địa ở Đông Dương
+ Về hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: Hội nghị chủ trương chuyển hình thức
tổ chức bí mật không hợp pháp sang hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công

khai, hợp pháp và nửa hợp pháp. Mục đích mở rộng quan hệ của Đảng với quần chúng.
- Tháng 10-1936, Trung ương Đảng được tổ chức lại do đồng chí Hà Huy Tập làm
Tổng Bí thư, trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới Ban Chấp hành Trung
ương cũng đặt ra vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ,
phản đế và điền địa trong cách mạng Đông Dương: cách mạng giải phóng dân tộc không
nhất thiết phải gắn kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. “Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia
đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế thì phải chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải
quyết trước”. Đó là nhận thức mới phù hợp với tinh thần Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của
Đảng, bước đầu khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.
- Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ giữa năm 1936 trở đi khẳng
định sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng đúng đắn của Đảng. Hội nghị lần thứ ba (3-1937),
lần thứ tư (9-1937), tiếp đó là Hội nghị lần thứ năm (3-1938) đã đi sâu về công tác tổ chức
của Đảng, quyết định chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập
hợp được đông đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa, chống phát xít,
đòi tự do, cơm áo, hòa bình.
- Tại Hội nghị tháng 7-1939 Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự
chỉ trích, nhằm rút kinh nghiệm về những sai lầm, thiếu sót của Đảng viên, hoạt động công
khai trong cuộc vận động tranh cử ở Hội đồng quản hạt Nam kỳ (4-1939). Tác phẩm đã phân
tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm cuộc vận động dân chủ
của Đảng, nhất là về đường lối xây dựng Mặt trận dân chủ Đông Dương. Tác phẩm không
chỉ có tác dụng lớn trong cuộc đấu tranh khắc phục những lệch lạc, sai lầm trong phong trào
vận động dân chủ, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, mà còn là một văn
kiện lý luận quan trọng về công tác xây dựng Đảng, vận động quần chúng.
Tóm lại, trong những năm 1936-1939, bám sát tình hình thực tiễn, Đảng đã phát động được
một cao trào cách mạng rộng lớn trên tất cả các mặt trận: chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng
với các hình thức đấu tranh phong phú và linh hoạt. Qua cuộc vận động dân chủ rộng lớn, uy
tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng và nâng cao trong quần chúng, chủ nghĩa Mác-
Lênin và đường lối của Đảng được tuyên truyền rộng rãi trong khắp mọi tầng lớp nhân dân,
tổ chức Đảng được củng cố và mở rộng.
c, Những phong trào đấu tranh tiêu biểu (Diễn biến của phong trào 1936 – 1939)

c1. Đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ, dân sinh
- Giữa năm 1936, được tin Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp cử một phái đoàn sang
điều tra tình hình Đông Dương, Đảng đã phát động một phong trào đấu tranh công khai:
nhằm thu thập dân nguyện của quần chúng để đưa lên Chính phủ Pháp, tiến tới Đại hội
Đông Dương. Các uỷ ban hành động được thành lập quần chúng sôi nổi tham gia mít-tinh,
hội họp diễn ra khắp cả nước.
- Năm 1937, nhân dịp đón phái viên Chính phủ Pháp và toàn quyền mới xứ Đông
Dương; Đảng đã tổ chức cho quần chúng nhân dân trong đó đông đảo và hăng hái nhất là
công nhân và nông dân đã tổ chức nhiều cuộc mit-tinh, biểu tình “Đón rước” để đưa dân
nguyện đòi tự do, dân chủ, cải thiện đời sống.
- Phong trào dân sinh, dân chủ trong những năm 1937-1939, với các cuộc mit-tinh, biểu tình
của nhân dân vẫn diễn ra sôi nổi, đặc biệt là cuộc đấu tranh ngày 1/5/1938 ở Hà Nội và nhiều
thành phố khác.
c2. Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí
- Nhiều tờ báo của Đảng, Mặt trận dân chủ công khai ủng hộ phong trào dòi tự do
dân chủ ra đời như: Tiền phong, Dân chúng, Bạn dân, Lao động, Tin tức
- Nhiều tác phẩm văn học hiện thực phê phán ra đời như: Bước đường cùng của Nguyễn
Công Hoan; Tắt đèn, Lều chõng của Ngô Tất Tố; Giông Tố, Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng;
Kịch có tác phẩm Đời Cô Lựu của Trần Hữu Trang
c3. Đấu tranh trên lĩnh vực nghị trường
- Đảng đưa người của Đảng tham gia tranh cử vào Hội đồng quản hạt Nam kỳ, Viện
dân biểu Bắc kỳ và Trung kỳ để mở rộng công tác tuyên truyền và đấu tranh cho quyền lợi
của dân tộc.
Kết quả: Phong trào đấu tranh đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ: Những
đảng viên Đảng cộng sản và tù chính trị được trả tự do, Ban hành một số quy định về giảm
giờ làm, tăng lương
Cuối năm 1938, Chính phủ Mặt trận nhân Pháp hạn chế dần các chính sách tự do dân
chủ => Thực dân Pháp ở Đông Dương đã trở lại chính sách ngăn cấm các hoạt động dân chủ
và đàn áp các phong trào đấu tranh.
Đảng đã nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật, thu hẹp phong trào đấu tranh công

khai và đến tháng 9/1939 thì chấm dứt hẳn để bảo toàn lực lượng, chuẩn bị cho một giai
đoạn đấu tranh mới.
d. Thành quả và bài học kinh nghiệm của phong trào 1936 -1939
Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 là phong trào quần chúng rộng lớn, có tổ chức dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Thành quả:
- Buộc pháp phải nhượng bộ một số yêu sách cụ thể về dân sinh, dân chủ.
- Quần chúng được giác ngộ về chính trị tham gia vào mặt trận thống nhất là lực lượng chính
trị hùng hậu.
- Đội ngũ cán bộ Đảng viên trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm
- Uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng.
Bài học kinh nghiệm
- Tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận dân tộc
thống nhất
- Tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai…
- Đồng thời Đảng thấy được những hạn chế của mình trong công tác mặt trận, vấn đề
dân tộc… Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 như một cuộc tập dượt thứ hai chuẩn bị cho
Cách mạng tháng Tám - 1945.
CÂU 8: Trình bày nội dung, ý nghĩa sự chuyển hương chỉ đạo chiến lược của
Đảng thời kì 1939-1941
Thế giới:
-Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:
- Phatxit Đức tấn công các nước châu Âu.
-6-1940: Đức tấn công Pháp, chính phủ Pháp Đầu hàng Đức.
-22-6-1941: Đức tấn công Liên Xô.
Trong nước:
-Đảng Cộng sản Đông Dương bị đặt ra ngoài vong pháp luật.
-23-9-1940: Pháp kí hiệp định đầu hàng Nhật.
+ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939)
+ Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (11-1940)

+ Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) - quan trọng nhất
Căn cứ vào tình hình thế giới và tình hình trong nước Ban Chấp hành Trung ương quyết định
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược thể hiện:
Một là, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
Tạm gác khẩu hiểu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiều “tịch
thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo” chia lại ruộng đất cho công
bằng, giảm tô, giảm tức.
Hai là, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương
Ở Việt Nam, Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh
(Việt Minh) thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết
bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.
Ba là, quyết định phải xúc tiến ngay công tác khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ
trọng tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Để khởi nghĩa vũ trang đi đến thắng lợi cần
phải phát triển lực lượng cách mạng, tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Hội nghị cũng chú trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của
Đảng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
* Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo BCH Trung ương Đảng đã giải quyết mục tiêu
số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện
mục tiêu ấy.

×