Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ LOAN
NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số : 60. 22. 34
Thái Nguyên – Năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ LOAN
NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số : 60. 22. 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS LƯU KHÁNH THƠ
Thái Nguyên, Năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
5. Đóng góp của luận văn 7
6. Phương pháp nghiên cứu 7
7. Cấu trúc của luận văn 8
PHẦN NỘI DUNG 9
Chương 1: NHỮNG CÁCH TÂN CỦA THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI SAU 1975
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU 9
1.1. Những tiền đề lý luận 9
1.1.1. Cách tân 9
1.1.2. Cách tân nghệ thuật trong văn học 9
1.2. Vấn đề cách tân trong thơ Việt Nam hiện đại 10
1.2.1. Sự ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử xã hội tới việc cách tân thơ ca 10
1.2.2. Nhu cầu cách tân thơ 15
1.2.3. Về cuộc cách tân của thơ Việt Nam hiện đại sau 1975 23
1.3. Hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều 30
1.3.1. Cuộc đời nhà thơ Nguyễn Quang Thiều 30
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác 31
1.3.3. Nguyễn Quang Thiều và khao khát đổi mới tư duy thơ 32
1.3.3.1. Quan niệm sáng tác của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều 32
1.3.3.2. Nguyễn Quang Thiều và những đổi mới trong cảm hứng sáng tác 36
Chương 2:CÁCH TÂN VỀ NỘI DUNG TRONG THƠ NGUYỄN QUANG
THIỀU 40
2.1. Nguyễn Quang Thiều với lớp phù sa “Châu thổ” trên dòng sông thơ Việt
Nam hiện đại 40
2.1.1. Những lời triết luận từ làng Chùa và chữ “đạo” trong thơ 40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.1.2. Phù sa “Châu thổ” trên dòng sông thơ Việt Nam hiện đại 42
2.2. Ý thức mới về cái tôi trữ tình trong thơ nguyễn Quang Thiều 44
2.2.1. Cái tôi và cái tôi trữ tình trong thơ 44
2.2.2. Cái tôi trữ tình với những miền tâm linh trong thơ Nguyễn Quang Thiều47
2.3. Nguyễn Quang Thiều – Người cất lên khúc nhạc của đồng quê trong bút
pháp mới mẻ của thơ ca hiện đại 56
2.4. Những cung bậc của cái tôi đa cảm trong thơ Nguyễn Quang Thiều 64
2.5. Trí tưởng tượng và những giấc mơ trong thơ Nguyễn Quang Thiều 73
Chương 3: CÁCH TÂN VỀ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ NGUYỄN
QUANG THIỀU 76
3.1. Biểu tượng 76
3.1.1. Khái niệm biểu tượng 76
3.1.2. Những biểu tượng đặc sắc trong thơ Nguyễn Quang Thiều 79
3.1.2.1. Cánh đồng và dòng sông – khúc nhạc đồng quê hiện đại trên hành trình
về nguồn 79
3.1.2.2. Bóng tối và ánh sáng – Sự giao tranh hướng thiện trong tâm hồn 82
3.1.2.3. Cái cây, con chó, giọng nói, trẻ thơ – Biểu tượng của sự linh thiêng và
trong sáng 85
3.2. Thể thơ 90
3.2.1. Thơ tự do 90
3.2.2. Thơ văn xuôi 95
3.3. Ngôn ngữ 100
3.3.1. Ngôn ngữ tự nhiên mang hơi thở của đời sống thường ngày 101
3.3.2. Ngôn ngữ mang tính siêu thực, lạ hóa 104
3.4. Tư duy đứt đoạn và lối cấu trúc tùy hứng 107
3.4.1. Yếu tố bất ngờ, ngẫu nhiên của tiềm thức, vô thức trong cách tổ chức bài thơ 108
3.4.2. Tính liên tục của dòng cảm xúc và mạch liên tưởng trong thơ bị phá vỡ 110
PHẦN KẾT LUẬN 113
TÀI LIỆU THAM KHẢO 115
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kể từ khi xuất bản tập thơ đầu tiên “Ngôi nhà tuổi 17” [1990] cho tới nay,
Nguyễn Quang Thiều không chỉ dành được sự chú ý của giới lý luận phê bình văn
học mà còn dành được sự quan tâm của những độc giả yêu thơ. Việc hiểu và khám
phá con đường đi vào thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Quang Thiều không phải là
điều đơn giản, thế nhưng những sáng tác của nhà thơ vẫn luôn giữ một vị trí đặc
biệt trong lòng độc giả. Điều đó càng chứng tỏ sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Quang
Thiều qua những nội dung mà nhà thơ phản ánh về cuộc sống, qua những hình ảnh
biểu tượng, ngôn ngữ thơ mà nhà thơ Nguyễn Quang Thiều luôn nỗ lực thể nghiệm
để tạo nên phong cách riêng. Nguyễn Quang Thiều là một trong những nhà thơ với
bản lĩnh và tài năng sáng tạo của mình đã và đang gieo những hạt giống “ngũ cốc”
mới trên cánh đồng thi ca văn học Việt Nam hiện đại. Hành trình sáng tạo văn
chương của Nguyễn Quang Thiều là hành trình đến với thế giới nghệ thuật mà nhà
thơ “tìm thấy những cơn mơ và sự tự do của mình” và đã có không ít tác phẩm ghi
dấu những bước thành công của nhà thơ trên cánh đồng thi ca Việt Nam hiện đại
sau năm 1975. Tuy nhiên, do yêu cầu cụ thể các công trình nghiên cứu về thơ
Nguyễn Quang Thiều mới chỉ dừng lại ở cấp độ những tiểu luận hay bài báo phản
ánh những vấn đề riêng lẻ. Việc nghiên cứu tìm hiểu “Những cách tân nghệ thuật
trong thơ Nguyễn Quang Thiều” là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa để góp phần
khắc họa rõ nét những nỗ lực và đóng góp của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đối với
thi ca Việt Nam hiện đại.
Trong chương trình tiếng Việt dành cho bậc tiểu học, bài thơ “Tiếng Vọng”
của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã được Bộ giáo dục tuyển chọn và đưa vào
chương trình [SGK Tiếng Việt lớp 5, Tập 1]. Tác phẩm không chỉ có ý nghĩa giáo
dục sâu sắc mà nó còn có những ý nghĩa mới mẻ về mặt cách tân nghệ thuật. Sáng
tác văn học sau 1975 nói chung và những tác phẩm thơ của Nguyễn Quang Thiều
nói riêng vẫn luôn là mảnh đất cần khám phá với những vỉa tầng ý nghĩa sâu xa.
Việc khai thác tác phẩm thơ giai đoạn này đòi hỏi ở người yêu thơ một niềm đam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
mê khám phá và sự nỗ lực hết mình bởi những vỉa tầng ý nghĩa nhân sinh được ẩn
dấu kín đáo đằng sau lớp ngôn từ nghệ thuật độc đáo.
Chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Những cách tân nghệ thuật trong
thơ Nguyễn Quang Thiều” với hy vọng góp phần xác định cơ sở khoa học để nhận
diện, đánh giá những nét đặc sắc trong thơ Nguyễn Quang Thiều cũng như những
đóng góp đáng trân trọng của nhà thơ đối với sự phát triển của nền văn học Việt
Nam hiện đại một cách đầy đủ và có hệ thống. Nghiên cứu đề tài này, người thực
hiện mong muốn được trau dồi thêm kiến thức về thơ hiện đại Việt Nam sau 1975.
Hy vọng đây sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho những bạn đọc yêu thơ Nguyễn
Quang Thiều, cho việc giảng dạy văn thơ Nguyễn Quang Thiều nói riêng và văn
học Việt Nam sau 1975 nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Cùng với sự xuất hiện của các tập thơ từ những năm đầu thập kỷ 90, phong
cách của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều cũng dần được định hình qua sự nỗ lực
nhằm tạo nên một thế giới nghệ thuật thơ độc đáo. Như nhà nghiên cứu văn học
Đông La (Nguyễn Huy Hùng) nhận xét: “Thơ Nguyễn Quang Thiều là một hiện
tượng đặc biệt. Với người đọc, kể cả đa phần giới sáng tác, nó rất khó hiểu.” [68],
bởi vậy cách tân nghệ thuật trong thơ Nguyễn Quang Thiều đã được ghi nhận qua
những trang viết vô cùng phong phú. Những cuộc tranh luận và những lời nhận định
về hiện tượng thơ đặc biệt Nguyễn Quang Thiều đã hình thành nhóm bài viết khá
khu biệt. Bên cạnh đánh giá phản ứng gay gắt là hàng loạt những bài viết cổ vũ sự
khám phá, tìm tòi của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều.
Sự xuất hiện của tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” năm 1992 đã gây một làn
sóng dư luận mạnh mẽ về “Tài và tâm của người viết phê bình” [67]. Trên thi đàn
đã có không ít lời phê phán coi đó là thứ thơ “ngoại nhập”. Kiên định trong lối phê
bình “xóc óc”, nhà thơ Trần Mạnh Hảo cho rằng: thơ Nguyễn Quang Thiều “Non
kém về mặt nghệ thuật” [43, Tr. 82], là thơ “lai căng”, “Tây giả cầy”, “Thơ dịch
xổi”, “Dịch tiếng Việt sang tiếng ta”… Ông thể hiện rõ thái độ không đồng tình
trong việc thừa nhận tinh thần nỗ lực tìm tòi, thể nghiệm đổi mới thi ca của nhà thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Nguyễn Quang Thiều và một số nhà thơ trẻ qua hàng loạt bài viết: “ Nhân đọc
Bóng chữ, bàn về chữ và nghĩa trong thơ” [Báo Văn nghệ quân đội tháng 7/1994],
“Hát lên bằng nọc độc trong mình” [Báo Quân đội nhân dân tháng 10/1994], “Có
nên nhân danh cách tân để kêu gọi thơ trẻ nổi loạn?” [Báo Quân đội nhân dân
cuối tuần 15/4/2001], “Từ “thơ vọt trào” đến hội chứng khen trào vọt: “Cứ tiếp
tục đanh đá, lắm lời, cứ xổ hết ra đi!” [44], “…: Có thật thơ không để hiểu?:…”
[45]…Cùng quan điểm trên, Đỗ Hoàng có đưa ra nhận xét về những tác phẩm thơ
hiện đại: “Thấy thơ cũng không phải thơ, văn cũng không phải văn, dịch cũng
không phải dịch, truyền thống cũng không phải truyền thống (…) Các kiểu viết ấy
với cái tên phân thể loại là “Vô lối”” [84] và nhà thơ Nguyễn Quang Thiều cũng bị
coi là đại biểu của lối viết này.
Qua những vần thơ mang đặc điểm thi pháp hiện đại mới mẻ của Nguyễn
Quang Thiều, nhà thơ Trần Đăng Khoa cho rằng: “Nguyễn Quang Thiều đã phá bỏ
lối đi quen, mở ra con đường mới chưa hề có” [40, Tr.171]. Đỗ Minh Tuấn coi
những nội dung mà nhà thơ Nguyễn Quang Thiều phản ánh đã “Phát lộ tâm thức
thời đại” [61]. Mặc dù ủng hộ tinh thần đổi mới nhưng Trần Đăng Khoa và Đỗ
Minh Tuấn chưa khơi lên được mạch nguồn mỹ cảm mới mẻ, chưa nhất quán trong
việc đánh giá đặc trưng thơ Nguyễn Quang Thiều.
Trên đây là những quan điểm khá phiến diện, đôi khi chứa đầy mâu thuẫn
khi đánh giá về thơ Nguyễn Quang Thiều. Những ý kiến đó xuất phát từ mạch
nguồn thẩm mỹ riêng, từ việc đánh giá đơn lẻ những khai kiến mà nhà thơ Nguyễn
Quang Thiều luôn nỗ lực tìm tòi, thể nghiệm.
Khi nhìn nhận hành trình thơ Nguyễn Quang Thiều, ta thấy nhà thơ không
chỉ mang tới cho người yêu thơ những nỗi niềm trăn trở về nhân tình mà hơn hết đó
là “hành trang” trong việc tiếp cận thế giới nghệ thuật thơ hiện đại qua những cách
tân thơ đầy sáng tạo. Việc nhìn nhận hệ thống và khách quan của nhiều nhà nghiên
cứu phê bình văn học dưới đây đã đánh giá đúng về đặc trưng thơ Nguyễn Quang
Thiều và khẳng định vị thế riêng của nhà thơ trong lòng độc giả. Những cách tân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
trong thơ Nguyễn Quang Thiều được coi là “thi khởi” cho hướng chảy mới trên
dòng sông thơ Việt.
Nỗ lực tìm tòi, thể nghiệm của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều được thể hiện
qua từng tập thơ. Hành trình sáng tạo ấy đã tạo nên phong cách riêng: “Nguyễn
Quang Thiều được dư luận chú ý không phải vì được giải mà chủ yếu vì chất giọng
riêng là lạ, khó lẫn với người khác” [52, Tr. 505]. Nhà nghiên cứu văn học Vũ Văn
Sĩ nhận định: “Sức gợi cảm và truyền cảm của thơ Nguyễn Quang Thiều ở chi tiết.
Chính ở những chi tiết miêu tả này nhà thơ đã bộc lộ sự thông minh, tài hoa và sắc
sảo” [52, Tr. 508], nó tạo nên những bước chuyển đổi trong cách thể hiện của thơ
Nguyễn Quang Thiều đó là “mở rộng sự miêu tả gián tiếp đối tượng”.
Đông La phát hiện ra nội lực mạnh mẽ trong tư duy thơ Nguyễn Quang
Thiều: “Nguyễn Quang Thiều là một thi sĩ viết nhiều, tầm bao quát rộng, thay đổi
được cách viết”. Với tài năng của mình, Nguyễn Quang Thiều đã xác lập được một
thế đứng trên thi đàn khi mở ra biên độ của trí tưởng tượng trong thế giới nghệ thuật
thơ độc đáo: “Hành trình thơ ca của anh chính là hành trình tăng dần tính ký hiệu
của sự biểu đạt nghệ thuật, sự trăn trở tìm kiếm ngôn ngữ riêng để thể hiện.” [68].
Trong bài viết “Nguyễn Quang Thiều: Nước, lửa, những cánh đồng và
dòng sông” nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn Đăng Điệp đã lắng nghe
tiếng vọng từ “triền chữ” trên dòng sông thơ Nguyễn Quang Thiều và cất lên
những nhận định khá sắc sảo về hướng đi đúng đắn của sự cách tân. Đồng hành
cùng với mạch nguồn mỹ cảm trong thơ Nguyễn Quang Thiều, ông đã khái quát
những nét đổi mới trong thơ Nguyễn Quang Thiều: “Thực ra, Nguyễn Quang Thiều
đổi mới thơ ca bằng cách làm rất “cổ điển”. Với anh, đổi mới thơ ca trước hết là
đổi mới về cảm xúc.” [48, Tr. 256]. Đổi mới trên nền tảng vững chắc của thơ ca
truyền thống, Nguyễn Quang Thiều đã mang tới cho bạn đọc “Vẻ đẹp của phù xa
“Châu Thổ” trĩu nặng chất đời” và “đã để lại dấu ấn của mình trong tiến trình đổi
mới thơ ca, góp phần đưa thơ Việt Nam tiến thêm một bước nữa trên con đường
hiện đại…” [48, Tr. 266].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Khi nhận xét về những nhà thơ có ảnh hưởng lớn trong nền thơ đương đại,
Trần Vũ Khang đã khẳng định: “Nguyễn Quang Thiều phải được xem như là cái
đỉnh bất ngờ nhô lên giữa những ngọn đồi (…). Đây là giọng thơ lần đầu có mặt tại
Việt Nam, và nó được tiếp nhận đầy sáng tạo. Nó tác động mạnh tới những cây bút
thế hệ mới phía Bắc đến nỗi có thể vạch một ranh giới giữa nhóm làm thơ theo
Thiều với nhóm làm thơ khác Thiều” [70].
Thành công bước đầu của Nguyễn Quang Thiều đã tạo ra tiếng vang mạnh
mẽ, sức ngân vang ấy lan tỏa bởi cảm xúc chân thành mà nhà thơ gửi gắm qua
những thể nghiệm ngôn từ đầy sáng tạo. Cùng thế hệ những nhà thơ trưởng thành
trong sáng tác sau năm 1975, nhà thơ Mai Văn Phấn nhận định: “Nguyễn Quang
Thiều đã hoàn thành sứ mệnh của thi sĩ tiên phong trong thời đại thi ca còn dày đặc
sương mù (…) Ông đã đem đến cho thơ Việt một cấu trúc thơ mới lạ, những hình
ảnh rời, xa nhau trong những kết dính mờ nhạt, tinh thần phản tỉnh mãnh liệt làm
đổ vỡ những trật tự cũ, tường minh từng góc sâu tăm tối trong ký ức mỗi người, tạo
những góc nhìn tỉnh táo, sắc lạnh vào đời sống hiện thực.” [72].
Nguyễn Quang Thiều – “Người đi qua cơn khát của sa mạc thơ” được
Nguyễn Việt Chiến nhận xét là: “nhà thơ đầu tiên bằng những nỗ lực vượt bậc và
tài năng xuất sắc của mình đã xác lập một giọng điệu mới trong thơ Việt”, “Thơ
của anh như một bản giao hưởng của rất nhiều khái niệm, cảm giác, ý tưởng và suy
ngẫm cùng tấu lên tràn đầy sức tưởng tượng lạ lẫm. Nguyễn Quang Thiều đã âm
thầm khắc họa bằng cảm xúc, bằng những liên tưởng thơ để tìm ra cách nói riêng
bằng ngôn ngữ hình ảnh đặc thù mà chỉ thơ mới có được.” [78].
Là một trong những nhà thơ trẻ mang trong mình hoài bão cách tân thơ Việt,
nhà thơ Nguyễn Quyến rất coi trọng nỗ lực sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
khi ông đã mở ra cái nhìn mới trong thể loại thơ và thể loại trường ca: “Nguyễn Quang
Thiều đã có một cuộc vượt biển thực sự trong tâm hồn mình khi ông xuất bản tập thơ
Sự mất ngủ của lửa. Không cần nhắc lại chúng ta cũng biết sự đóng góp vô cùng lớn
lao của tập thơ này đối với các trào lưu thơ ca hiện đại từ hình thức, ngôn ngữ đến ý
tưởng hiện diện trong đó. Nhưng tôi khẳng định rằng sự đóng góp lớn lao nhất của tập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
thơ Sự mất ngủ của lửa không chỉ đối với thơ ca hiện đại nói riêng mà nó còn có tác
động nhiều đến mỹ cảm của người Việt hiện đại” [69].
Trong bài viết “Về biểu tượng lửa trong thơ Nguyễn Quang Thiều” Đặng
Vũ Hoàng đã khái quát chung về những cách tân trong thơ Nguyễn Quang Thiều:
“Là người được đánh giá là gặt hái được nhiều thành công trong thế hệ thơ thứ ba,
Nguyễn Quang Thiều đầy nhiệt huyết trong việc tìm tòi và cách tân thơ ca. Về mặt
ngôn ngữ, không phải là những cách nhào nặn, sắp xếp kỳ khôi và rối rắm các con
chữ kiểu Lê Đạt, Dương Tường, sự cách tân ngôn ngữ thơ của Nguyễn Quang Thiều
là sử dụng thuần thục thể thơ văn xuôi để diễn đạt tân kỳ những câu thơ không vần
điệu. Về nội dung, đó là góc nhìn cận cảnh những mặt trái của xã hội trong thời kỳ
đô thị hóa, là sự khai thác những hình ảnh thơ, những biểu tượng độc đáo, mới lạ:
những người đàn bà góa, những con vật, lửa…” [92].
“Nghĩ về một số “Phản trường ca”” Diêu Lan Phương còn ghi nhận nỗ lực
sáng tạo của Nguyễn Quang Thiều khi ông và những nhà thơ khác đã mang tới cho
thể loại trường ca sự đổi mới quí báu: “Nguyễn Quang Thiều là một trong vài nhà
thơ đương đại xuất sắc nhất. Thơ anh thể hiện một nội lực dồi dào và đầy ám ảnh.
Trong rất nhiều những thể nghiệm cách tân thì những cách tân về thể loại trường
ca là vô cùng ấn tượng” [63, Tr. 63].
Nhìn chung những bài viết này mới chỉ khái quát những nét chính trong thơ
Nguyễn Quang Thiều hoặc mới tập trung vào một số khía cạnh nổi bật trong các tác
phẩm cụ thể mà chưa đi sâu vào việc phân tích những cách tân trong thơ Nguyễn
Quang Thiều một cách hệ thống trên các bình diện nội dung và nghệ thuật. Tuy vậy
những ý kiến nhận xét, đánh giá của những người nghiên cứu đi trước là những định
hướng và gợi mở vô cùng quý giá cho chúng tôi khi thực hiện đề tài “Những cách
tân nghệ thuật trong thơ Nguyễn Quang Thiều”.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu khát quát về sự vận động của thơ ca trong tiến trình phát triển để
thấy cách tân luôn là quy luật vận động và phát triển của nền thơ Việt Nam hiện đại.
Tìm hiểu quan niệm và tư tưởng sáng tác của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
thông qua những bài viết và những phát ngôn, những tiểu luận, nhận định, những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
bài báo… để hiểu bức thông điệp mà tác giả gửi gắm qua các tác phẩm – chiếc chìa
khóa đi vào thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Quang Thiều.
Từ việc phân tích nội dung, điệu hồn của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều được
thể hiện qua các tác phẩm, luận văn khái quát về những cách tân nghệ thuật trong
thơ Nguyễn Quang Thiều. Qua đó nhằm khẳng định những đóng góp của nhà thơ
Nguyễn Quang Thiều đối với nền thơ đương đại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Luận văn tìm hiểu về quan điểm sáng tác, những cảm xúc trữ tình
– nỗi niềm trăn trở về cuộc sống trong xã hội hiện đại của nhà thơ Nguyễn Quang
Thiều được thể hiện qua những điệu chữ, hồn thơ độc đáo. Đó chính là sự cách tân
đầy nhiệt thành của nhà thơ trong giai đoạn văn học sau 1975.
Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu những sáng tác thơ
của Nguyễn Quang Thiều, bắt đầu từ những năm 1990 cho tới nay để chỉ ra những
bước phát triển của tác giả. Luận văn tập trung nghiên cứu tập thơ “Châu thổ”. Đây
là tuyển tập thơ gồm 6 tập thơ chính của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, đó là:
“Ngôi nhà tuổi 17” [1990], “Sự mất ngủ của lửa” [1992], “Những người đàn bà
gánh nước sông” [1995], “Nhịp điệu châu thổ mới” [1997], “Bài ca những con
chim đêm” [1999], “Cây ánh sáng” [2009].
Ngoài ra luận văn còn tìm hiểu sáng tác ở các thể loại khác của Nguyễn
Quang Thiều để hiểu rõ hơn hành trình sáng tạo của tác giả.
5. Đóng góp của luận văn
Qua việc tìm hiểu toàn bộ sự nghiệp thơ Nguyễn Quang Thiều, luận văn chỉ
ra những cách tân đã tạo nên sự khác biệt độc đáo trong phong cách của nhà thơ.
Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho những độc giả quan tâm, yêu
thích thơ Nguyễn Quang Thiều nói riêng và cho việc giảng dạy thơ Việt Nam hiện
đại trong nhà trường nói chung.
6. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phân tích - tổng hợp: Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi chủ yếu vận
dụng kiến thức về thơ hiện đại để chỉ ra việc cách tân luôn là hướng vận động của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
thơ Việt Nam nói chung và thơ Nguyễn Quang Thiều nói riêng. Đồng thời khái quát
luận điểm về những cách tân trong thơ Nguyễn Quang Thiều.
- Đối chiếu - so sánh: Chúng tôi sử dụng phương pháp đối chiếu, so sánh với
những tác phẩm của những nhà thơ khác để tìm ra đặc trưng riêng trong thơ Nguyễn
Quang Thiều.
- Thống kê – phân loại: để thấy tần xuất các thi ảnh, các thể loại thơ mà nhà
thơ Nguyễn Quang Thiều đã biểu đạt. Qua đó, chúng tôi chỉ ra ý nghĩa nhân sinh
được gửi gắm qua những tín hiệu nghệ thuật đó.
- Thi pháp học: Nhìn nhận thế giới nghệ thuật thơ trên cơ sở những quan
điểm sáng tác của Nguyễn Quang Thiều để thấy được “Cuộc vượt biển thực sự
trong tâm hồn của nhà thơ” cũng chính là hành trình cách tân thơ ca đầy sáng tạo .
7. Cấu trúc của luận văn: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham
khảo, Nội dung của luận văn được cấu tạo thành ba chương:
Chương 1: Những cách tân của thơ Việt Nam hiện đại sau 1975 và hành
trình sáng tạo của Nguyễn Quang Thiều
Chương 2: Cách tân về nội dung trong thơ Nguyễn Quang Thiều
Chương 3: Cách tân về nghệ thuật trong thơ Nguyễn Quang Thiều
Phần kết luận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1:
NHỮNG CÁCH TÂN CỦA THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI SAU 1975
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU
1.1. Những tiền đề lý luận
1.1.1. Khái niệm “Cách tân”
Theo Từ điển tiếng Việt và Từ điển Hán Việt, khái niệm “Cách tân” có
nghĩa là “đổi mới”. Khi nói về sự đổi mới thì trong Từ điển tiếng Việt, các khái
niệm: “Cách mạng”, “cách tân”, “canh tân”, “duy tân” đều bao hàm ý nghĩa “đổi
mới” nhưng mỗi từ lại có nét nghĩa khu biệt.
- Cách mạng: Một cuộc biến đổi xã hội chính trị lớn và căn bản, thực hiện
bằng việc lật đổ một chế độ xã hội lỗi thời, lập nên một chế độ xã hội mới tiến bộ.
[3, Tr. 134]
- Cách tân: Đổi mới (Thường nói về văn hóa nghệ thuật). [3, Tr. 135]
- Canh tân: Đổi mới (Thường nói về chính trị và xã hội). [3, Tr. 143]
- Duy tân: Cải cách theo cái mới. [3, Tr. 342]
Khái niệm “Cách tân” thường được sử dụng trong những lĩnh vực nghiên
cứu về văn hóa nghệ thuật. Thuật ngữ này chỉ sự tiến bộ căn bản so với cái cũ, nó
luôn tiềm chứa sự vận động, thay đổi theo hướng tiến bộ của những nhân tố lịch sử,
văn hóa xã hội.
1.1.2. Cách tân nghệ thuật trong văn học
Quá trình văn học phản ánh sự hình thành, tồn tại, thay đổi, phát triển của
toàn bộ đời sống văn học qua các thời kỳ lịch sử. “Truyền thống” và “Cách tân” là
hai phương diện có mối quan hệ mật thiết của quá trình ấy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, với những nguyên tắc nhận thức hiện thực
cuộc sống, những tư tưởng và hình thức nghệ thuật mới mẻ thì “Cách tân” chính là
động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của văn học: “Để giải quyết những
nhiệm vụ nghệ thuật do thời đại đặt ra, người sáng tác hoặc là phải hoàn thiện đổi
mới kinh nghiệm của thế hệ đi trước hoặc là phải đấu tranh chống lại những gì đã
cũ kỹ lạc hậu, phải tìm kiếm những lối đi mới. Vì thế kế thừa truyền thống và cách
tân nghệ thuật là những phương diện không bao giờ tách rời của quá trình văn học.
Những cách tân chân chính sẽ trở lại thành những truyền thống mới bồi đắp thêm
cho kho tàng kinh nghiệm đã vượt qua sự thử thách của thời gian, của những thế hệ
đi trước.” [2, Tr. 366– 367].
Có thể thấy rằng: Trong mạch nguồn lịch sử thơ ca đã có không ít những
bước ngoặt đáng ghi nhận. Đỉnh cao của văn học Trung đại với Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Du cũng chính là những tiếng thơ mới mẻ, mang đầy tinh thần nhân đạo
cất tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho người phụ nữ trong xã hội phong
kiến và nó đã góp phần to lớn vào sự phát triển của văn học. Những năm đầu thế kỷ
XX, ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân trong dòng văn học cổ điển lại được khơi dậy
và phát triển mạnh mẽ, mở ra một cuộc cách tân nền văn học theo hướng hiện đại
chung của thế giới. Từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, thơ Việt Nam đã
đi được một hành trình trên con đường hiện đại hóa với những cách tân đầy sáng tạo
mang đến bước tiến mới cho văn học truyền thống.
1.2. Vấn đề cách tân trong thơ Việt Nam hiện đại
Trong sự đa dạng và phong phú của các thể loại văn học, thơ là một thể loại
văn học luôn có vị trí quan trọng: “Đã hàng ngàn năm lịch sử trôi qua, tiếng thơ
vẫn là tiếng nói tươi trẻ nhất của đời sống. Vẫn luôn thiết tha khơi động đến chiều
sâu của tình cảm gắn bó với những ước mơ hoài bão, mềm mại trong mỗi niềm tâm
sự an ủi, và hào hùng trong tiếng nói ngợi ca chiến đấu.” [8, Tr. 20]. Để có được
gương mặt mang “tính hiện đại” sánh ngang nền văn học trên thế giới ngày nay thì
thơ Việt Nam đã không ít lần có sự đổi thay tạo nên những cuộc cách tân nghệ thuật
trong văn học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
1.2.1. Sự ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử xã hội tới việc cách tân thơ ca
Tồn tại với vai trò là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, văn học nghệ thuật
luôn có mối quan hệ mật thiết với các hình thái ý thức xã hội khác. Những chấn
động, thay đổi lớn về kinh tế - xã hội đều tác động vào đời sống tinh thần và dần
dần tạo nên những cuộc chuyển đổi trên hành trình phát triển của văn học. Trong
lịch sử văn học Việt Nam đã có một vài lần thay đổi nhưng không tạo nên một cuộc
cách mạng mang tính biến đổi loại hình. Chỉ khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX mới thực sự đem lại một cuộc cách mạng chuyển
đổi quỹ đạo văn học phát triển theo mô hình văn học hiện đại.
Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX tới năm 1945 có rất
nhiều sự kiện làm thay đổi đời sống văn hóa dẫn tới sự đổi mới trong thơ ca. Sự
giao lưu, tiếp xúc với văn hóa phương Tây mang tính toàn cầu đã gây ra một “Cuộc
biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ” [5, Tr. 15]. Đây là
thời kỳ “mưa Âu gió Mĩ”, “Á Âu lẫn lộn”, thời kỳ này cũng là những năm đất nước
ta diễn ra những sự kiện quan trọng trong ý thức hệ tư tưởng. Phong trào Đông Du,
Đông Kinh nghĩa thục với “Văn minh tân học sách” mang ý thức hệ tư sản là
những văn kiện mới về văn hóa theo mẫu hình của văn hóa phương Tây đã làm thay
đổi đời sống văn hóa xã hội, để lại “những nét khởi đầu chấm phá trên con đường
thay đổi quỹ đạo văn học” [27, Tr. 154].
Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm nảy sinh trong xã
hội phong kiến Việt Nam nhiều tầng lớp, giai cấp mới. Công chúng văn học mới
mang những quan niệm thẩm mỹ mới với khát khao khẳng định cá tính, nhu cầu
giải phóng cái “tôi” cá nhân mạnh mẽ tạo bước đà cho công cuộc cách tân văn học
theo hướng phương Tây hiện đại. Trong cuộc đổi thay như vậy, xuất hiện nhiều mối
quan hệ khác trước. Cuộc sống tràn ra ngoài khuôn khổ của “Tam cương ngũ
thường” để hòa vào dòng chảy hiện đại trở thành một xã hội sôi động và đa dạng.
Con người phải đối mặt với vấn đề cơm áo gạo tiền trong điều kiện phức tạp của
một xã hội rộng lớn. Chính sự đổi thay ấy đặt ra những vấn đề được phản ánh trong
văn học cũng đa dạng hơn. Chức năng của văn học không chỉ mang tư tưởng “Văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
dĩ tải đạo”, cái đẹp không chỉ hướng về phía đạo đức lý tưởng mà giờ nó hướng về
phía thực tại. Văn học là bức tranh hiện thực chân thành và sống động. Cùng với
việc nhà nho tài tử Tản Đà “mang văn chương ra bán phố phường” thì viết văn
được coi là một nghề để sinh sống. Đời sống của những trí thức Tây học là sản
phẩm của thời đại, họ là lực lượng cơ bản góp phần tạo nên sự chuyển đổi nền văn
học để phù hợp với thời đại. Sự thay thế lực lượng sáng tác Tây học đối với thế hệ
Hán học đã tạo nên diện mạo mới cho văn học. Đi đôi với lực lượng sáng tác là sự
xuất hiện các nhà in theo kỹ thuật hiện đại và sự bùng nổ của báo chí tạo thành động
lực thúc đẩy sự phát triển của văn học hiện đại phù hợp với nhu cầu của đời sống
văn hóa hiện đại. Bên cạnh đó, việc khảo cứu, sưu tập chú giải văn chương cổ và
phiên dịch ra nước ngoài phát triển, các quan điểm thị hiếu văn học có điều kiện
giao thoa, đời sống văn học trở nên sôi động khẩn trương. Trong bối cảnh lịch sử -
văn hóa như vậy, nó đòi hỏi một nền văn học mới có nội dung, hình thức khác hẳn
nền văn học phong kiến để phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ của thời đại: “Văn học
phải là văn học của những con người cụ thể và của một xã hội động” [25, Tr. 17].
Bởi vậy, hiện đại hóa văn học là một yêu cầu tất yếu và khách quan của thời đại.
Quá trình hiện đại hóa nền văn học được khởi động từ những năm đầu thế kỷ
XX cho tới những năm 1930 sau khi trải qua một giai đoạn giao thời, văn học Việt
Nam đã từng bước đi vào quỹ đạo chung của thế giới. Tới năm 1945, quá trình hiện
đại hóa nền văn học coi như được hoàn thành. Sự chuyển biến, chuyển đổi trong
văn học được bắt đầu với hai thể loại: truyện và kịch; nhưng thể loại đạt được đỉnh
cao nhất vào những năm 30 của thế kỷ là thi ca với phong trào Thơ mới. Với đặc
trưng của thể loại văn học, thơ ca thực sự là nơi ký thác những tâm tư tình cảm của
con người một cách nhanh nhất, rõ nét nhất. Tính chất thế sự được bao chùm bởi
những tình cảm chân thành, thơ ca hướng tới cuộc sống lý tưởng. Bởi vậy, thơ lãng
mạn là nơi trở về của mọi tâm hồn thi sĩ. Ra đời, tồn tại và phát triển như một quy
luật tất yếu của lịch sử, phong trào Thơ mới là ngọn sóng văn hóa trào dâng của
biển cường lịch sử “duy tân” đầu thế kỷ XX mà dư ba của nó mãi còn vang vọng
trong lòng mỗi thế hệ người dân Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Thực tế lịch sử văn học đã cho thấy: Công cuộc hiện đại hóa nền văn học
Việt Nam không phải là sự đoạn tuyệt với truyền thống văn học dân tộc mà là sự
phát triển tính chất dân tộc lên một tầm cao mới – dân tộc hiện đại. Nó có ý nghĩa
đấu tranh cho việc bảo tồn nền văn hóa, giữ vững độc lập dân tộc trước sự thôn tính
của kẻ thù cướp nước. Trong những năm dài nô lệ tiếng Việt không những không bị
nghèo nàn, lai căng mà còn trở nên trong sáng, giàu có hơn.
Nối tiếp những trang sử vàng đấu tranh chống giặc ngoại xâm, 30 năm kháng
chiến trường kỳ chống thực dân và đế quốc là mốc son chói lọi ghi dấu hiện thực
sống động đầy đau thương nhưng cũng đầy anh dũng của dân tộc. Hiện thực của
cuộc kháng chiến như một làn gió ùa vào trong thơ văn mang tới sức sống mới cho
văn học.
Cách mạng tháng Tám và tuyên ngôn độc lập ngày 2 – 9 – 1945 khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chấm dứt ách thống trị nghìn năm của phong kiến
và một trăm năm của thực dân. Nó mở ra kỷ nguyên độc lập – tự do, đem lại những
ngày “Vui bất tuyệt” cho toàn dân tộc. Địa vị xã hội thay đổi hình thành quan hệ
sản xuất mới với những chuẩn mực đạo đức mới. Tư tưởng của con người cũng
được đổi thay với niềm vui khao khát của con người được hưởng tự do độc lập. Các
nhà văn cũng được tự do sáng tạo nghệ thuật, được cất lên tiếng nói của những con
người làm chủ đất nước. Thơ ca cũng trở thành ngày hội của non sông.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, ta đã giành được nhiều thắng lợi cùng
với các phong trào thi đua yêu nước và sắc lệnh cải cách ruộng đất. Với chiến thắng
Điện Biên Phủ [1954] hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết, đất nước ta
tạm thời chia ra làm hai miền. Nhân dân giờ đây phải cùng một lúc gánh vác hai
nhiệm vụ lớn: Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước
nhà ở miền Nam. Hiện thực của đời sống những năm 60 đã mang tới cho văn học
một bộ phận văn học chủ nghĩa xã hội dồi dào sức sống.
Thất bại thảm hại bởi “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, đế quốc Mỹ điên
cuồng mở “chiến tranh cục bộ” ồ ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam,
đồng thời leo thang bắn phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Nhân dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
miền Nam chính thức bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ ở cả hai miền. Cuộc
tổng tiến công mùa xuân năm 1975 đại thắng lại một lần nữa khẳng định tinh thần
chiến đấu kiên cường của quân và dân ta, mang tới nền độc lập trọn vẹn trên toàn
lãnh thổ Việt Nam.
Những bước thăng trầm của lịch sử cũng chính là nguyên nhân dẫn tới sự đổi
thay của văn học nghệ thuật: “Chiến tranh không thể xem là một hoàn cảnh bình
thường của một đất nước, nhất lại là cuộc chống chọi của một dân tộc nghèo nàn,
lạc hậu, vừa thoát khỏi ách nô lệ 80 năm, với những kẻ thù vào loại lớn nhất, hùng
mạnh và tàn bạo nhất thế giới là Pháp và Mỹ. Một cuộc chiến tranh như thế tất
nhiên đã tác động sâu sắc, mạnh mẽ tới toàn bộ sinh hoạt vật chất và tinh thần của
dân tộc, trong đó có văn học nghệ thuật.” [20, Tr. 18]. Hiện thực của cuộc kháng
chiến đã mang đến cho thơ ca cảm hứng sáng tạo lớn lao. Đời sống thể loại văn học
luôn có sự vận động tiến bước song hành cùng với bước tiến của lịch sử để phù hợp
với những biến đổi to lớn về đời sống tinh thần, tình cảm của nhân dân. Qua đề
cương về văn hóa Việt Nam 1943 và qua thư của Hồ Chủ Tịch gửi họa sĩ nhân
Triển lãm hội họa năm 1951: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận và anh chị
em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” thì văn học Việt Nam thật sự có sự đổi thay so với
văn học trước 1945 trong sự nghiệp cứu nước. Văn học Việt Nam 1945 – 1975 là
nền văn học cách mạng mang tính dân tộc hóa, đại chúng hóa trong thơ. Thơ ca
những năm kháng chiến chống Pháp 1946 – 1954 thực sự cởi bỏ mọi ràng buộc, mở
rộng khả năng biểu đạt, chủ đề đa dạng. Hình ảnh của cuộc kháng chiến được phản
ánh một cách toàn diện: đất nước đau thương, anh dũng nhưng kiêu hùng. Thơ trong
những năm hòa bình [1955 – 1964] tập trung phản ánh niềm vui của cuộc sống đổi
thay được từng ngày từng giờ trên miền Bắc và cuộc đấu tranh thống nhất đất nước
ở miền Nam. Những bài thơ ngợi ca khí thế ra trận là lòng tự hào về quê hương đất
nước trong lòng mỗi người Việt Nam nói chung và các nhà thơ nói riêng; nó trở
thành những khúc hát đẹp nhất của thơ chống Mỹ viết về một thế hệ: “Xẻ dọc
trường sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai.”. Từ những thay đổi về
nội dung phản ánh, hình thức thơ ca cũng được đổi thay. Ngôn ngữ thơ giản dị, gần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
gũi với đời sống hàng ngày. Vẫn tiếp tục sử dụng các hình thức của Thơ mới nhưng
thơ ca giai đoạn này có xu hướng tự do hóa trong thơ. Thơ tự do phát triển thành
công là dạng hợp thể và biến thể sau đó chuyển sang dạng phá thể. Bên cạnh sự
phát triển của thơ tự do thì trường ca cũng nở rộ mang các phạm trù thẩm mỹ mới
về cái đẹp, cái hùng, cái cao cả. Với chức năng biểu hiện linh hoạt, thơ tự do không
bị gò bó bởi những quy tắc, những luật lệ như những thể thơ dân tộc, càng về sau nó
càng có những tìm tòi, thể nghiệm mới trong cấu trúc khổ thơ, câu thơ.
Mặc dù những giai đoạn phát triển của văn học không trùng khít với sự phát
triển của lịch sử nhưng ta có thể thấy rằng: mọi bước phát triển của lịch sử đều có
ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống văn học và dẫn tới sự thay đổi của toàn bộ đời sống
văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Cuộc biến thiên thay đổi sơn hà không chủ
động đầu thế kỷ và 30 năm kháng chiến mang tới những ảnh hưởng to lớn trên tất
cả mọi mặt của đời sống nhân dân. Thơ ca ghi nhận và phản ánh rõ nét những sự
thay đổi quan trọng đó. Sinh thành, phát triển và tiến hóa trong môi trường của đời
sống văn hóa tinh thần, cách tân thơ là một nhu cầu tất yếu của hoàn cảnh lịch sử để
phù hợp với tâm tư tình cảm quần chúng nhân dân trong thời đại mới.
1.2.2. Nhu cầu cách tân thơ
Những bước tiến của văn học vừa phụ thuộc vào quá trình lịch sử xã hội vừa
tuân theo những quy luật phát triển riêng. Thơ ca là thể loại chịu ảnh hưởng rõ nét
những thay đổi trong đời sống tinh thần của con người, đó cũng là một trong những
thể loại tiên phong của mọi cuộc cách tân văn học. Từ những thay đổi trong mạch
nguồn cảm xúc, cái tôi trữ tình lại được trỗi dậy phá tung khuôn khổ của hệ thống
thơ cũ và mở ra những cách thể hiện khối tình mới trong thời đại mới. Khi tìm hiểu
truyền thống thơ ca dân tộc ta thấy: thơ ca dân tộc luôn có sự vận động không
ngừng và luôn ẩn chứa những yếu tố đổi mới đặt nền tảng cho quá trình “hiện đại
hóa” nền văn học.
Văn học cổ điển Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm văn học của
Nho gia cùng với chế độ khóa cử phong kiến khắt khe. Văn học của Nho giáo chính
thống là một thứ văn học “chí thiện”, phải hoàn toàn phù hợp với những tiêu chuẩn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
đạo đức. Tuy nhiên “Lịch sử phát triển của xã hội không đóng khung trong sự quy
định của Nho giáo. Do sự thiếu hụt và mâu thuẫn trong nội dung học thuyết, ngay
trong quá trình tồn tại và độc tôn của nó, Nho giáo đã từng bị phê phán từ nhiều
phía. Văn học muốn phát triển, phải tìm mọi cách phá vỡ các khuôn khổ cứng nhắc
của tính quy phạm Nho giáo.” [27, Tr. 133]. Cho nên “để nói những cảm xúc rất
riêng tư, những sự việc rất độc đáo, như nhiều trường hợp của bài thơ tức cảnh,
ngẫu hứng trong các thi tập vẫn tìm cái hay trong giữ vững khuôn sáo, tìm cái tân
kỳ trong sự gọt rũa khuôn sáo. Vì có thế mới là hay chữ, mới là văn chương” [26,
Tr. 48]. Có thể thấy rằng: Nhu cầu đổi mới văn chương đã được manh nha từ cuối
thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX với những nhà thơ luôn muốn bộc lộ cái “Tôi” cá
nhân của mình: “Nó là cái dục vọng tràn trề, cái oán hờn sôi nổi trong Cung oán
ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, là mối tình đắm say lãng mạn của Phạm Kim và
Trương Quỳnh Như trong Sơ kính tân trang của Phạm Thái, là cái cách đến với tình
yêu rất táo bạo của Thúy Kiều (Nguyễn Du), là cái chân thật đầy bản lĩnh và cái
ngang tàng phá phách của Hồ Xuân Hương, là cái tư tưởng hành lạc phóng túng
của Nguyễn Công Trứ, cái chí khí to lớn, nhân cách phi thường của Cao Bá
Quát…” [29, Tr. 16]. Thế nhưng do khuôn khổ của chế độ phong kiến nên cái
“Tôi” cá nhân ấy đành phải hòa vào cái ta chung. Phải tới đầu thế kỷ XX, cùng với
sự phát triển của đời sống văn hóa thì ý thức cái “Tôi” cá nhân mới có điều kiện để
phát triển. Xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ XVI – XVIII đã xuất hiện môi
trường văn hóa mới; nảy sinh những con người với đời sống văn hóa tinh thần mới,
nhu cầu bày tỏ những tình cảm riêng tư ngày càng mạnh mẽ. Sự xuất hiện và phát
triển của đội ngũ nhà nho tài tử đã tạo nên sự khởi sắc cho văn học cổ điển Việt
Nam, đưa văn học thoát dần khỏi sự ràng buộc của mỹ học phong kiến, hướng tới
cái đẹp tự nhiên. Trong cuốn sách “Ba đại thi hào dân tộc”, Xuân Diệu thực sự tỏ
rõ sự nhạy bén và tinh tế của mình khi chỉ ra những đặc trưng riêng của hồn thơ
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương – Ba đỉnh cao của văn học trung đại với
những đổi thay trong cảm hứng sáng tác đã mang tới sự thay đổi mới mẻ trong ngôn
từ nghệ thuật. Đó là những bước đi vạch thời đại trong lịch sử văn học trung đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Trong văn học trung đại, thơ trữ tình luôn là bộ phận quan trọng, “cái tôi”
trữ tình thường được thể hiện qua khái niệm “riêng” và “mình”. Nó biểu hiện quan
niệm của tác giả về nhân cách. Nguyễn Du vừa là sản phẩm của thời đại, vừa là
vượt thời đại và thuộc về mọi thời đại. Chủ nghĩa nhân đạo của ông như một ngọn
đuốc chiếu sáng trong lịch sử loài người. Hai chữ “con người” đã được nhà thơ tôn
vinh trên dòng đời thác lũ của xã hội phong kiến. “Thời đại Nguyễn Du là thời đại
thức tỉnh của chữ thân mà Truyện Kiều là biểu hiện sâu sắc nhất.” [16, Tr. 117].
“Truyện Kiều” mang ý nghĩa rất mới mẻ trong văn học trung đại. Với nhân vật
Thúy Kiều, “cái tôi” qua khái niệm “mình” và “riêng” mới trở nên sắc nhọn, mới
hiện lên đầy đủ với tư cách “cái tôi” cá thể hóa, làm nên tính hiện đại của thơ ca
truyền thống. Con người không chỉ biết hi sinh nhẫn nhục, cam chịu mà đã có ý
thức về phẩm giá, nhân cách của mình. Tư tưởng này như luồng gió mới thổi trong
thơ trung đại để thắp lên ngọn lửa lòng trong thơ Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát…
Thương mình còn là cơ sở để thương người! “Chính quan niệm về nhân cách đã
làm thành trụ cột cho thơ trung đại. Sự thay đổi của thơ bao giời cũng gắn liền với
sự thay đổi của quan niệm về nhân cách. Các yếu tố hình thức chịu sự quy định của
quan niệm về nhân cách, sẽ thay đổi tương ứng.” [15, Tr. 599]. Ở thời đại Nguyễn
Du và trước đó hàng nghìn năm, con người chưa bao giờ được xem như một cá thể
có nhân cách. Con người trong nho giáo được quan niệm như một công cụ của luân
lý và cương thường phong kiến, có nghĩa vụ “ép mình trở về với lễ” (khắc kỉ phục
lễ) tức là trở về với bổn phận, với trật tự đẳng cấp phong kiến, thủ tiêu mọi khát
vọng nhân bản nhất của con người. Nguyễn Du đã rọi những tia nắng của buổi bình
minh nhân đạo chủ nghĩa lên con người và phát hiện ra nét đẹp trong con người
phong kiến cương thường đó. Do sự chế ước của thời đại mình, nhân vật của ông
cũng hoạt động trong những phạm trù trung hiếu tiết nghĩa phong kiến, nhưng giấu
dưới cái vỏ ngoài hợp pháp đó là một sự đổi mới đáng trọng: “Trí tuệ của trái tim
cho nhà nghệ sĩ một năng lượng khổng lồ để vượt lên những tầm cao không ngờ,
vượt qua tầm nhìn của nhiều người đương thời.” [15, Tr. 256]. Qua “Truyện Kiều”
Nguyễn Du đã mang tới sự đổi mới về cả tư tưởng và nghệ thuật tạo nên kiệt tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
toàn bích bằng thơ lục bát có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc với ngôn
từ trau truốt và trong sáng.
Thực tế lịch sử đã chứng minh “Nội sinh như là động lực của hiện đại hóa
thơ ca Việt Nam”. Điều đó nói lên quy luật phát triển ngàn đời của thơ ca: Sự đổi
mới thơ luôn bắt đầu từ cảm xúc và sau đó dẫn tới sự đổi mới của hình thức thể loại
để phù hợp với nội dung mới; đồng thời nó khẳng định việc phát triển của thơ ca
không chỉ vì nhu cầu thể hiện tình cảm của con người mà nó còn do nhu cầu của
bản thân thể loại văn học. Bởi vậy, đổi mới thơ ca sẽ mở ra hướng chảy mới trên
dòng sông thơ Việt mang tới sự phát triển của văn học nghệ thuật.
Để đổi mới thơ ca thì vấn đề sáng tạo có vai trò thiết yếu: “Vấn đề sáng tạo
vừa là mục đích, vừa là bản chất của nghệ thuật. Riêng đối với thơ ca, yêu cầu sáng
tạo có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng.” [8, Tr. 336]. Sáng tạo nghệ thuật luôn vận
động không ngừng nghỉ là quy luật phát triển của văn học, nó thúc đẩy sự đổi mới
trong thơ ca, tránh sự lặp lại, xáo mòn. Sáng tạo thể hiện cái nhìn nhân sinh quan về
thế giới khách quan của nhà thơ, nó gắn liền với những cái mới được nảy sinh trong
đời sống xã hội: “Thực ra cái mới trong nghệ thuật trước hết do cái mới của cuộc
sống tạo nên. Như một dòng sông bồi đắp cho cuộc đời những bãi tân bồi, màu mỡ
phù sa, cuộc sống không ngừng phát triển và đổi mới. Như một cây đời xanh tươi có
gốc rễ cắm sâu trong lòng đất luôn đơm hoa kết quả theo quy luật sinh hóa tự
nhiên, cuộc sống không bao giờ khô héo. Cái mới trong cuộc sống là cơ sở cho hoạt
động sáng tạo của người nghệ sĩ.” [8, Tr. 340 – 341].
Sự gặp gỡ phương Tây như một cơn gió mạnh dường như đã làm thay đổi
đời sống sinh hoạt cũng như đời sống tinh thần của người dân Việt Nam: “Phương
Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta.(…) Tình chúng ta đã đổi mới, thơ
chúng ta cũng phải đổi mới vậy. Cái khát vọng cởi trói cho thi ca chỉ là khát vọng
nói rõ những điều kín nhiệm – u uất, cái khát vọng được thành thực. Một nỗi khát
vọng khẩn thiết đến đau đớn.” [5, Tr. 17]. Từ cái khát vọng được thành thực, khát
vọng được đổi mới ấy đã đưa tới một cuộc cách mạng trong thi ca: “Nó là kết quả
không thể không có của một cuộc biến thiên vĩ đại bắt đầu từ hồi nước ta sát nhập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
đế quốc Pháp và xa hơn nữa, từ hồi Nguyễn Trịnh phân tranh, lúc người Âu mới
đến.” [5, Tr. 17]. Cách tân thơ không chỉ là nhu cầu thiết yếu của bản thân thể loại
mà còn nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan của thời đại.
Cuộc cách tân với mạch nguồn tình cảm phong phú hướng tới những ngả
đường thơ mới mẻ buộc người nghệ sĩ phải lựa chọn: “hoặc cách tân dần dần nền
văn học truyền thống để đi tới văn học hiện đại, hoặc học tập văn học cận hiện đại
phương Tây theo hệ thống thể loại của nền văn học ấy để xây dựng nền văn học
mới” [25, Tr. 207]. Điều này không làm mất đi những giá trị của văn học cổ điển
mà nâng giá trị ấy lên tới tầm hiện đại. Đổi mới trên cơ sở của văn học truyền thống
là nền tảng vững chắc của mọi cuộc cách tân.
Ở khuynh hướng thứ nhất, lớp nhà nho duy tân Phan Bội Châu và Tản Đà đã
có những cách tân thể loại đáng kể đưa văn học truyền thống từng bước đi vào quỹ
đạo hiện đại hóa. Phan Bội Châu đã tạo ra đời sống sôi động trong văn học, góp sức
vào công cuộc hiện đại hóa văn học nước nhà khi ông cách tân thể loại để đáp ứng
nhu cầu cổ động, tuyên truyền phục vụ cách mạng bằng những tình cảm chân thành
đầy nhiệt huyết. Là nhà thơ tiêu biểu của văn học giai đoạn giao thời, là “viên gạch
nối” của hai nền văn học cũ và mới, Tản Đà đã ca lên những âm điệu mới đầy rẫy
hồn thơ và mang đến một “cơn gió lạ” trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại.
Những bước đi phá cách của Tản Đà về mặt nội dung và hình thức là bệ phóng cho
sự ra đời của phong trào Thơ mới: “Từ ưu thế của cộng đồng trong lâu dài của lịch
sử, ta thấy rõ Tản Đà đã thực hiện được một sự cách tân thật đáng kể, trong những
năm hai mươi của thế kỷ XX. (…) Như một đòi hỏi giải phóng và như một nhu cầu
phát triển, cái tôi ấy ở Tản Đà đã phản ứng lại mọi câu thúc, kiềm tỏa, bóp nghẹt
của hoàn cảnh bằng sự tung hoành trên những giới hạn thật phóng khoáng của
không ít đam mê, khát vọng” [55, Tr. 77]. Cách tân trên những thể thơ truyền thống
của dân tộc, Tản Đà đã đóng góp cho văn học Việt Nam một sức sống mạnh mẽ
trước sự ảnh hưởng của văn học nước ngoài.
Ở khuynh hướng thứ hai, những trí thức tân học đẩy mạnh tiến độ hiện đại
hóa văn học tạo nên một cuộc “cách mạng” ghi dấu “một thời đại trong thi ca”. Sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
ra đời của Thơ mới trong môi trường văn hóa phi truyền thống đầu thế kỷ XX là sản
phẩm tất yếu của một cuộc cách mạng tư duy nghệ thuật hiện đại hóa nền văn học:
“Thơ mới là một sản phẩm văn hóa của dân tộc, nó là kết quả sự vận động tự thân
của thơ ca truyền thống ở một giai đoạn lịch sử mà văn học văn hóa đất nước Việt
Nam đòi hỏi cấp bách phải “duy tân” đặng nhanh chóng đuổi kịp, hòa nhập với sự
phát triển của văn hóa toàn cầu đương đại – và yêu cầu hiện đại hóa văn hóa
(trong đó có văn học nghệ thuật) này đã có được sự đáp ứng của điều kiện thời đại,
đó là sự tiếp xúc đã đủ độ chín của đời sống tinh thần Việt Nam và văn học nghệ
thuật, văn hóa phương Tây (quan trọng là văn hóa Pháp)” [10, Tr. 173]. Thơ mới
là sự đột phá của tư tưởng mang khuynh hướng tư sản đánh bạt tư tưởng phong kiến
bởi cảm xúc mới lạ. Các thi sĩ đã bộc lộ hết mình với những cảm nhận từ hiện thực
khách quan tạo nên một khuynh hướng tự do, đặt nền móng cho chủ nghĩa cái
“Tôi” cá nhân. Cái nhìn thế giới của cái tôi cá nhân cá thể trong Thơ mới là kết quả
của cuộc cách mạng trong nền văn hóa đô thị. Nó khẳng định sự cách tân của thơ vì
cuộc đời là lẽ sống.
Thơ mới là cả một cuộc cách mạng trong thi ca bởi “Thơ mới có nhiều khả
năng diễn đạt hơn “thơ cũ” nhờ ở thể cách linh hoạt, cách hiệp vần phong phú,
nhạc điệu dồi dào, lối ngắt vần sinh động, ngôn ngữ gợi cảm, giàu hình tượng. Thơ
mới đã góp phần giải phóng bản ngã, mở rộng tâm hồn bên trong của con người.”
[10, Tr. 80]. Sức sống mới trong thi ca Việt Nam đã được Hoài Thanh ghi nhận:
“Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong
phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn
thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông,
trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn
Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên…và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu.”
[5, Tr. 29]. Phong trào Thơ đã có những cách tân quan trọng: “Nó chẳng những
đem lại những tác phẩm hay, những nhà thơ độc đáo (điều này thì hầu như thời kỳ
văn học nào cũng có), nhưng đặc biệt là đem lại một phạm trù thơ hiện đại, một thi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
pháp mới, một kiểu trữ tình mới, phân biệt và thay thế cho trữ tình cổ điển truyền
thống.” [10, Tr. 148].
Nối tiếp thành quả của vị chủ tướng Thế Lữ – Người mở đầu cho phong trào
Thơ mới là những đóng góp đáng kể của thế hệ trí thức Tây học trẻ tuổi. Bằng tài
năng độc đáo của mình, mỗi nhà thơ luôn tạo nên thế giới nghệ thuật thơ với những
cách tân đầy sáng tạo. Tiêu biểu là nhà thơ Xuân Diệu – Nhà thơ mới nhất trong các
nhà thơ mới. Những cách tân mới mẻ được tái tạo trên cơ sở của truyền thống đã
mang tới cho thơ của Xuân Diệu “một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn
non nước lặng lẽ này” [5, Tr. 106]. Đóng góp của Thơ mới là những tư tưởng thẩm
mỹ mới được xây dựng trên chất liệu quen thuộc của thơ ca bác học truyền thống và
thơ ca dân gian truyền thống: “Về mặt thi pháp trên thi đàn Thơ mới, thơ Nguyễn
Bính có thể coi là Một cách tân. (…) Ông là nhà thơ đầu tiên trên thi đàn thơ hiện
đại của thế kỷ này đã dùng hình thức của thơ ca dân gian (đặc biệt của ca dao, dân
ca) để chuyển tải nội dung thẩm mỹ của Thơ mới.” [32, Tr. 26].
Ý thức khẳng định cái tôi cá nhân, tự do thể hiện cảm xúc nội tâm khiến cho
các nhà thơ nỗ lực hết mình trong việc tìm tòi thể thơ, ngôn từ để diễn tả đúng
những rung động tinh tế của tâm hồn. Bởi vậy, Các nhà thơ đã mang tới cho thơ
một trường thi ngôn từ gợi cảm, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu. Thơ mới mở rộng
thể tài ở mọi góc độ, luôn có sự giao thoa giữa các thể loại văn học và hình thành
những nhóm nhà thơ mang khuynh hướng sáng tác riêng (nhóm nhà thơ thiên về
mảng đề tài thôn quê, nhóm nhà thơ thiên về mảng thơ điên, thơ tượng trưng, siêu
thực…). Sự đa dạng trong phong cách sáng tạo là sự phản ánh tính chất sôi động
của cuộc sống đô thị Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Tính chất phức tạp của thời đại được phản ánh vào trong thơ ca đã tạo nên
cuộc giao tranh đầy sắc màu. Sự bừng ngộ về cái tôi cá nhân trên phương diện triết
học và xã hội đã gây một trấn động lớn trong đời sống tinh thần người Việt thế nhưng
trong xu thế vững bền của đạo lý phong kiến cùng với những chính sách nô dịch của
chủ nghĩa thực dân thì cái tôi cá nhân ấy lại không duy trì được vị trí của mình: “tự
do cá nhân vẫn chỉ được gieo cấy ở thành thị, trong giới trí thức tiểu tư sản mà chưa