Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
HOÀNG PHƢƠNG DUNG
NHỮNG KHÚC HÁT LỄ HỘI NÀNG HAI CỦA
NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN – CAO BẰNG
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hằng Phương
THÁI NGUYÊN, 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
2
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới Tiến Sĩ Nguyễn
Hằng Phương - người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để em
hoàn thành luận văn này.
Em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến nhà nghiên cứu
văn hoá dân gian Triệu Thị Mai, anh Nông Hải Hùng - Trưởng
Phòng Văn hoá huyện Thạch An - Cao Bằng và các cán bộ Thư
viện tỉnh Cao Bằng… đã giúp đỡ em thực hiện công trình này.
- Hoàng Phƣơng Dung -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
3
môc lôc
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Lịch sử vấn đề 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 11
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 11
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 12
6. Đóng góp của luận văn 12
7. Bố cục luận văn 12
NỘI DUNG 13
Chƣơng 1: NHỮNG KHÚC HÁT LỄ HỘI NÀNG HAI TRONG ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN - CAO BẰNG…. 9
1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Tày ở Cao Bằng 13
1.1.1. Cộng đồng người Tày Cao Bằng 13
1.1.2. Cộng đồng người Tày ở Thạch An - Cao Bằng 14
1.2. Một số vấn đề chung về lễ hội Nàng Hai của ngƣời Tày ở Thạch An
- Cao Bằng 21
1.2.1. Lễ hội Nàng Hai trong đời sống tinh thần của người Tày ở
Thạch An - Cao Bằng 21
1.2.2. Khái quát về những khúc hát lễ hội Nàng Hai của người Tày ở
Thạch An - Cao Bằng 31
CHƢƠNG 2: 36
GIÁ TRỊ NỘI DUNG NHỮNG KHÚC HÁT LỄ HỘI NÀNG HAI Ở
THẠCH AN - CAO BẰNG 36
2.1. Bức tranh chân thực về cuộc sống lao động của đồng bào Tày xƣa
36
2.2. Khúc hát Lƣợn Hai thể hiện trí tƣởng tƣợng phong phú, tƣ duy
đậm sắc màu miền núi của nhân dân Tày Thạch An - Cao Bằng 45
2.3. Ý nghĩa nhân văn trong những khúc hát lễ hội Nàng Hai của ngƣời
Tày ở Thạch An - Cao Bằng 49
2.3.1. Khát vọng về một cuộc sống no đủ, yên bình, hạnh phúc 50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
4
2.3.2. Tình yêu thiên nhiên là nét nhân văn cao đẹp trong đời sống tâm
hồn của người Tày Thạch An - Cao Bằng 54
2.3.3. Khúc hát Lượn Hai tôn vinh sức mạnh và vẻ đẹp của người dân
Tày Thạch An - Cao Bằng 64
2.3.4. Hướng đến những khúc hát lễ hội Nàng Hai, con người như
được thanh lọc tâm hồn 78
CHƢƠNG 3: 82
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA NHỮNG KHÚC HÁT LỄ HỘI
NÀNG HAI CỦA NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN - CAO BẰNG 82
3.1. Ngôn ngữ lời thơ Lƣợn Hai 83
3.1.1. Nghệ thuật sử dụng biện pháp tu từ 84
3.1.2. Sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo ngôn ngữ dân gianTày 99
3.2. Diễn xƣớng những khúc hát lễ hội Nàng Hai của ngƣời Tày ở
Thạch An - Cao Bằng 105
3.2.1. Môi trường diễn xướng 105
3.2.2. Hình thức diễn xướng 110
3.2.3. Nhân vật diễn xướng 120
3.2.4. Cử chỉ, động tác khi diễn xướng 121
KẾT LUẬN 124
TƢ LIỆU THAM KHẢO 128
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về phương diện khoa học
Từ xưa, hội xuân đã trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa và tâm
linh của dân tộc Việt Nam. Trong cảnh đất trời được chúa xuân khoác lên
mình một chiếc áo mới: rực rỡ, tươi nguyên và tràn trề nhựa sống ấy, lòng
người lại chợt thấy xốn xang hơn trong những ngày trẩy hội.
Hòa chung dòng chảy của con sông văn hóa Việt Nam, hội Nàng Hai
(hay còn được gọi là hội Hai, hội Nàng Trăng, hội Hằng Nga, hội Hát mời
trăng) của người Tày ở huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng như dòng nước ngọt
ngào tưới mát tâm hồn của những người dân miền núi nơi đây. Chính vì vậy,
hội Nàng Hai đã trở thành một phong tục đẹp, một điểm hẹn văn hóa để con
người bày tỏ những ước mong của mình, để tâm hồn giao thoa cùng trời đất
cỏ cây, để tấm lòng gặp gỡ những tấm lòng trong mỗi dịp đầu năm. Thế mới
hiểu được hết câu hát:
“Người về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng”.
Và càng thấy việc tìm hiểu, nghiên cứu lễ hội này là việc làm thực sự ý nghĩa
và cần thiết.
Trong lễ hội Nàng Hai, mọi lời nói, suy nghĩ, tình cảm và mong ước
của con người được thể hiện rất độc đáo qua làn điệu dân ca đặc sắc của
người Thạch An: Lượn Hai (hay Lượn Nàng Hai). Những khúc hát ấy được
cất lên từ tâm hồn mộc mạc, giản dị với tình yêu tha thiết quê hương và con
người xứ sở của người Tày nơi đây. Khúc hát Lượn Hai có vai trò vô cùng
quan trọng trong lễ hội. Nếu không có những khúc hát ấy được hát lên trong
suốt quá trình diễn ra lễ hội thì không còn được gọi là hội Nàng Hai nữa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
6
Chính vì vậy mà nó đã trở thành linh hồn và ngọn lửa hồng nuôi dưỡng sức
sống trường tồn của hội.
Phải khẳng định rằng hội Nàng Hai ở Cao Bằng là một đề tài hấp dẫn đối
với nhiều nhà nghiên cứu. Đã có khá nhiều bài giới thiệu, bài báo, công trình
nghiên cứu với qui mô khác nhau về lễ hội Nàng Hai ở Cao Bằng trên nhiều
phương diện: nguồn gốc, quá trình diễn xướng, ý nghĩa xã hội, ý nghĩa tín
ngưỡng… Song nghiên cứu về lời hát Lượn Hai trong lễ hội đó ở Thạch An -
Cao Bằng vẫn là một đề tài mở cho nhiều người yêu thích loại hình văn học
dân gian này.
1.2. Về phương diện thực tiễn
Khúc hát Nàng Hai thể hiện nét độc đáo trong sinh hoạt văn hóa của
người Tày ở Thạch An - Cao Bằng. Vì thế để gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Tày ở Cao Bằng, chúng ta cần quan tâm khai thác khúc hát Lượn Hai một
cách khoa học, nhằm phát huy thế mạnh của nó trong đời sống hiện đại.
Nhắc đến khúc hát Nàng Hai người ta nhớ ngay đến câu Lượn Hai thiêng
liêng mà không kém phần trong trẻo, mượt mà và đằm thắm. Bao ước mong,
bao nỗi niềm sâu kín của nhân dân được gửi gắm qua tiếng hát làm say đắm
lòng người của những nghệ nhân dân gian. Do vậy mà việc nghiên cứu về
khúc hát này sẽ góp phần vào việc gìn giữ, bảo lưu, phát huy tinh hoa của loại
hình nghệ thuật này trong đời sống tinh thần của cư dân Tày Thạch An nói
riêng và của các dân tộc Việt Nam nói chung.
Là người con của Cao Bằng, cùng với niềm tự hào về mảnh đất giàu
truyền thống văn hoá dân gian và mong muốn được đi tìm “những hạt ngọc
sáng” còn ẩn giấu trong đời sống văn hoá mà cha ông mình để lại, nên chúng
tôi chọn “Những khúc hát lễ hội Nàng Hai của người Tày ở Thạch An - Cao
Bằng” làm đề tài nghiên của luận văn. Hy vọng, những nghiên cứu của đề tài ít
nhiều góp phần hiệu quả vào việc sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị loại hình
văn hoá nghệ thuật dân gian độc đáo này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
7
2. Lịch sử vấn đề
Văn hóa dân tộc Tày nói chung và văn hóa lễ hội Tày nói riêng là một
mảng vô cùng đa dạng và phong phú. Trong đó, nổi bật lên là lễ hội gắn liền
với nghi lễ nông nghiệp như hội Lồng Tồng (hay Xuống đồng) mà biến thái
của nó là lễ hội Nàng Hai (hay còn gọi là Nàng Trăng, Cầu Trăng, Hát mời
Trăng ). Trong mỗi lễ hội, các nghi thức và trò chơi dân gian mang ý nghĩa
riêng, song có lẽ một trong những nghi thức mang đậm giá trị nhân văn nhất
phải kể đến hát Lượn trong nghi lễ cầu mùa.
Mục đích của những lễ hội trên là cầu mùa vụ mới tốt tươi, con người có
sức khoẻ, vật nuôi đầy đàn, béo tốt Mong muốn rất thực tế và chính đáng đó
được cụ thể hoá trong lời hát Lượn.
Nghiên cứu về lễ hội liên quan đến việc sản xuất nông nghiệp của người
Tày cùng với những bài hát Lượn trong đó đã có khá nhiều công trình, bài
nghiên cứu:
Mùa xuân và phong tục Việt Nam (1976) của các nhà nghiên cứu: Trần
Quốc Vượng, Lê Văn Hảo, Dương Tất Từ [56] và Hội Lồng Tồng (Dân tộc
Tày ở Bắc Thái) [7, Tr. 112 - 114], của tác giả Dương Kim Bội in năm 1977
là những bài nghiên cứu đầu tiên về hội xuân của người Tày. Trong những bài
viết này, các tác giả đã khẳng định sự hấp dẫn của các trò chơi dân gian như:
tung còn, kéo co, hát Sli, hát Lượn: “Mùa hoa mận trắng xoá, tiếng róc rách
của suối nước, sự ồn ã của gió rừng Người xem hội không muốn dứt khỏi
những Lượn nàng, nhưng cũng không bỏ cơ hội để hoà vào sự nhộn nhịp, cái
náo nức của những trò chơi dân gian như kéo co, tung còn, đánh yến ” [7,
Tr. 112 - 114].
Cũng cùng chung tên Hội Lồng Tồng [39, Tr. 11] và [26, Tr. 361 - 362],
đến năm 1983 và năm 1989 tác giả Lục Văn Pảo và tác giả Thu Linh đã đưa
đến độc giả cái nhìn khái quát về lễ hội trên. Từ việc nghiên cứu về ý nghĩa tín
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
8
ngưỡng, giá trị văn hoá , các tác giả gợi cho người đọc ý thức trân trọng, gìn
giữ và bảo tồn loại hình sinh hoạt văn hoá này. Bàn tới hát Lượn, người viết dù
chưa nhắc đến những bài hát Lượn cầu mùa song cũng đã cho ta thấy mùa xuân
hát Lượn là nét đẹp nhân văn của ngày hội.
Năm 1990, bài viết Đôi nét về hội Lồng Tồng và việc khôi phục nó [6,
Tr. 62 - 64], in trên Tạp chí Dân tộc học số 10 của tác giả Phương Bằng một
lần nữa khẳng định sự hấp dẫn cũng như giá trị văn hoá của lễ hội trên. Tác
phẩm tuy không đi vào tìm hiểu sâu về lời ca cầu mùa song phân tích khá sâu
sắc về tầm quan trọng cũng như nguy cơ bị mai một dần một số hình thức
sinh hoạt dân gian như hát Then, hát Lượn trong những ngày hội đầu năm.
Tác giả Hoàng Choóng cũng viết về Hội Lồng Tồng ở Văn Lãng [8, Tr.
66 - 67], năm 1991. Sau đó hai năm, nhóm tác giả Phan Hữu Dật, Lê Ngọc
Thắng, Lê Sĩ Giáo và Lâm Bá Nam cho ra mắt độc giả công trình mang tên Lễ
hội cầu mùa của các dân tộc Việt Nam [34], (1993). Cũng cùng thời gian này,
bài viết: Đôi điều về hội xuống đồng cổ truyền của người Tày [44, Tr. 59 -
63], của Trần Hữu Sơn in trên Tạp chí nghiên cứu về văn hóa dân gian. Các
bài viết đều cho thấy mục đích của lễ hội là cầu thần linh, cầu thần phật ban
cho mùa màng tươi tốt, ấn no, hạnh phúc, con người được thư thái và trong
những đó bà con còn tổ chức ném còn giao duyên và hát Lượn hát Sli tìm bạn.
Năm 1994, Lễ hội hát mời trăng [5], của tác giả Nguyễn Duy Bắc và Lễ
hội Nàng Trăng một sinh hoạt văn hoá dân gian của dân tộc Tày [50], của tác
giả Nguyễn Đức Thụ đã nêu bật được giá trị văn hoá đặc sắc của lễ hội qua
nghi thức cầu trăng và lời hát cầu trăng. Tuy bước đầu chưa đi sâu vào tìm
hiểu về giá trị văn học dân gian của những bài hát Lượn cầu mùa song người
viết đã nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của thể loại dân ca nghi lễ Lượn Hai:
“Đến ngày hội Trăng, con người hát Lượn say sưa để mời trăng xuống trần,
ban điều may mắn ” [5].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
9
Dù chưa bàn nhiều về các trò diễn dân gian, đặc biệt là hát Lượn nói
chung và Lượn cầu mùa nói riêng mà nhưng Trần Hoàng với Ngày xuân đi
hội Lồng Tồng [16], năm 1995 và Nguyễn Hải Hà với Trẩy hội Lồng Tồng
[13], năm 1996, đều cùng đề cao vai trò của hát Lượn: Không gian, thời gian
mùa xuân được làm sống dậy, tươi trẻ và ấm áp hơn bằng câu hát Lượn của
người chơi hội.
Triều Ân cũng là một trong nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến lễ hội
cầu mùa của người Tày mà cụ thể là người Tày ở Cao Bằng. Trong cuốn Lễ
hội Hằng Nga in năm 1997, đóng góp rất lớn của ông là đã giới thiệu, sưu tầm
và biên dịch những khúc Lượn Hai của người Tày Cao Bằng. Trong phần đầu
cuốn sách, ông đã viết: “những khúc hát trong lễ hội và hát hội đã gieo vào
tâm hồn người đi dự hội một tình cảm trong sáng, lành mạnh, một niềm lạc
quan tin tưởng để sau đó bắt tay vào vụ sản xuất”[1, Tr. 14].
Ngay trong năm tiếp theo, trên Tạp chí Văn hoá dân gian cũng giới thiệu
Hội Lồng Tồng ở xã Yên Khánh Hạ, Lào Cai [29, Tr. 27 - 33], của Lê Hồng Lý.
Đến năm 2001 và năm 2002 bạn đọc lại tiếp tục được đón nhận bài viết Lễ hội
Lồng Tồng của người Tày [55, Tr. 14 - 16], do Lê Trung Vũ viết cùng với đề
tài nghiên cứu mang tên Lễ hội truyền thống của các dân tộc Việt Nam khu
vực phía Bắc [28], do Hoàng Lương viết. Các tác giả tập trung bàn tới yếu tố
tâm linh, tín ngưỡng của hội xuân cầu mùa. Bên cạnh đó hát Lượn không
quên được nhắc đến như một nét đẹp rất riêng trong ngày hội: “Người ta hát
Lượn để cầu mùa, cầu an, cầu phúc. Lượn còn để giúp cho người ta thấy yêu
đời và yêu người hơn”[55, Tr. 14 - 16].
Tác giả Nguyễn Thị Yên trong năm 2003 công bố công trình: Lễ hội
Nàng Hai của người Tày Cao Bằng. Có thể coi đây là công trình nghiên cứu
lớn đầu tiên về lễ hội này ở Cao Bằng. Cùng với việc sưu tầm, biên dịch những
bài Lượn Hai, công trình này đã đề cập đến nhiều vấn đề như nguồn gốc, đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
10
điểm, bản chất và ý nghĩa tín ngưỡng, cũng như giá trị xã hội và văn hóa, văn
học của lễ hội trên. Khi bàn tới ngôn ngữ thơ Lượn Hai, nhà nghiên cứu đã
khẳng định: ngôn ngữ thơ Lượn Hai trở thành “một kho từ vựng tiếng nói dân
tộc Tày từ cổ đến kim, từ nguyên thuỷ đến có sáng tạo ” [60, Tr. 130].
Tạp chí Dân tộc học số 4 năm 2005 cũng có in bài viết Đặc trưng lễ hội
truyền thống của các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Bắc [46, Tr. 3 - 8.], của
Nguyễn Ngọc Thanh. Bài viết chỉ ra đặc trưng trong lễ hội của nhân dân Tày,
Nùng đó là hội xuân và các trò diễn gắn với việc sản xuất nông nghiệp.
Gần đây nhất, nhà nghiên cứu Hoàng Văn Páo từ góc độ nghiên cứu văn
hoá - lịch sử đã giới thiệu công trình Lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày ở
Lạng Sơn, (2009). Khi tìm hiểu về hát Lượn gắn với các nghi thức cầu mùa,
tác giả đã nhận xét: “đó là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng mang đậm dấu ấn
của cư dân nông nghiệp, thể hiện qua tín ngưỡng cầu thực, tín ngưỡng cầu
mưa qua đó giá trị con người được nâng lên cao hơn, tính thân thiện, nhân
văn, nhân bản trong cộng đồng được phát huy mạnh mẽ ” [38, Tr. 161].
Qua việc tìm hiểu một số tài liệu trên, chúng ta có thể khẳng định có
rất nhiều công trình nghiên cứu với qui mô lớn, nhỏ, ở nhiều góc độ khác
nhau về hội cầu mùa của người Tày nói chung và hát Lượn trong lễ hội đó
nói riêng. Mỗi bài viết là một sự đóng góp quí giá trong việc khẳng định, đề
cao các giá trị (văn hoá, lịch sử, nghệ thuật, văn học ) của hình thức dân
gian đặc sắc này. Qua đó, chúng tôi cũng nhận thấy việc tìm hiểu về giá trị
văn học dân gian từ những bài hát Lượn cầu mùa trong ngày hội xuân của
người Tày nói chung và của người Tày ở huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng
nói riêng vẫn còn là một đề tài mở hấp dẫn. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy
những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước thực sự chứa
đựng nhiều tiền đề, bài học quí báu cho người đi sau triển khai, thực hiện đề
tài này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
11
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu những giá trị nội dung và thi pháp của khúc hát lễ hội Nàng
Hai của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng. Qua việc tìm hiểu đó, chúng ta
thấy được tài năng nghệ thuật của các nghệ nhân dân gian, từ đó biết trân
trọng, gìn giữ và phát huy những khúc hát lễ hội nói riêng và dân ca Tày nói
chung. Cũng từ đó chúng ta hiểu thêm được đời sống vật chất và tâm tư tình
cảm của nhân dân Tày ở Thạch An - Cao Bằng.
- Thông qua đề tài nghiên cứu này, chúng tôi muốn đóng góp một phần
nhỏ của mình vào việc gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc của người Tày nói
chung và của nhân dân Tày ở Thạch An - Cao Bằng nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tế liên quan đến đề tài.
- Khảo sát, thống kê, phân loại, phân tích, lý giải những vấn đề liên quan
đến khúc hát Lượn Hai chủ yếu từ góc độ văn học dân gian
- Trong điều kiện có thể, chúng tôi đi điền dã và sưu tầm thêm được một
số khúc hát Lượn Hai ở Cao Bằng chưa được xuất bản, công bố
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: đề tài chú trọng vào phần lời khúc hát Lượn Hai,
tuy nhiên có chú ý đặt yếu tố ngôn từ trong đặc trưng nguyên hợp của văn học dân
gian, nghĩa là yếu tố ngôn từ được đặt trong môi trường và nghệ thuật diễn xướng.
- Phạm vi tư liệu nghiên cứu:
+ Triều Ân (1997), Khúc hát Hằng Nga, Nhà xuất bản Văn hoá
Dân tộc, H.
+ Nguyễn Thị Yên (2003), Lễ hội Nàng Hai của người Tày Cao
Bằng, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, H.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
12
+ Văn bản tiếng Tày sưu tầm từ thầy Pửt Nông Văn Lẩy ở bản
Chu Lăng, xã Kim Đồng, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng.
+ Những bài Lượn Hai sưu tầm thêm được trong quá trình đi điền
dã của tác giả luận văn.
4.2. Đối tượng nghiên cứu chính là lời hát của những khúc hát trong lễ hội
Nàng Hai của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, điền dã
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần tìm hiểu cụ thể và sâu sắc hơn giá trị nội dung tư tưởng và
nghệ thuật của khúc hát lễ hội Nàng Hai ở Thạch An - Cao Bằng. Từ đó làm
rõ hơn giá trị văn hóa tốt đẹp của người Tày ở Cao Bằng
- Bồi dưỡng thêm sự hiểu biết, tình yêu dân ca Tày nói chung và khúc hát
lễ hội Nàng Hai nói riêng trong mỗi con người Việt Nam.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tư liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được thể hiện trong ba chương:
Chương I: Những khúc hát lễ hội Nàng Hai trong đời sống văn hoá của
người Tày ở Thạch An - Cao Bằng
Chương II: Giá trị nội dung những khúc hát lễ hội Nàng Hai của người
Tày ở Thạch An - Cao Bằng
Chương III: Một số đặc điểm thi pháp của những khúc hát lễ hội Nàng
Hai của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
13
NỘI DUNG
Chƣơng 1:
NHỮNG KHÚC HÁT LỄ HỘI NÀNG HAI TRONG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA CỦA NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN - CAO BẰNG
1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Tày ở Cao Bằng
1.1.1. Cộng đồng người Tày Cao Bằng
Cao Bằng là một tỉnh nằm ở biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Nơi đây là
địa bàn cư trú của nhiều dân tộc: Tày, Nùng, Dao, Mông. Lô Lô… nhưng số
lượng lớn nhất là người Tày, chiếm khoảng 43% dân số toàn tỉnh. Theo các
nhà nghiên cứu, người Tày ở Cao Bằng được hình thành từ ba nhánh:
Nhánh người Tày gốc còn gọi là thổ, có nghĩa là thổ dân, là chủ nhân
của địa phương từ lâu đời. Nhánh này là con cháu lâu đời của người Tày cổ.
Họ là những con người đã sáng tạo ra khúc hát trong lễ lội Nàng Hai độc đáo
và hấp dẫn.
Nhánh người Ngạn có nguồn gốc từ Quý Châu, Trung Quốc. Theo tài
liệu cũ còn ghi chép: trong các cuộc giao tranh giữa các tộc người, người
Ngạn đã dạt sang Cao Bằng sinh sống, sát nhập vào cư dân địa phương và trở
thành người Tày.
Nhánh người Kinh hóa Tày: là con cháu các viên quan và binh lính người
Kinh ở dưới xuôi lên cai quản bảo vệ biên giới, họ lấy vợ là người Tày, sinh
cơ lập nghiệp tại đây, lâu dần chuyển thành người Tày. Sách cũ còn ghi chép
lại, vào thế kỉ 16, 17, triều đình lưu vong họ Mạc bị quân Lê Trịnh đánh đuổi,
chạy lên trấn giữ vùng Cao Bằng trong non một thế kỷ. Sau khi họ Mạc diệt
vong, con cháu và quan quân dư đảng thay tên đổi họ, sống hòa vào nhân dân
địa phương, đồng hóa với người Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
14
1.1.2. Cộng đồng người Tày ở Thạch An - Cao Bằng
1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên, nơi cư trú của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng
Theo Địa chí Cao Bằng [41]: huyện Thạch An nằm ở phía Đông Nam
tỉnh Cao Bằng. Phía Nam giáp huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn. Phía Bắc
giáp huyện Hòa An, phía Tây giáp huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Cạn. Phía Đông
giáp huyện Long Châu, tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc. Huyện Thạch An hiện
nay được chia thành 16 đơn vị hành chính cấp xã: Kim Đồng, Thái Cường,
Vân Trình, Lê Lai, Thị Ngân, Thụy Hùng, Đức Long, Danh Sỹ, Thượng Pha,
Đức Xuân, Lê Lợi, Trọng Con, Đức Thông, Canh Tân, Minh Khai, Quang
Trọng và Thị trấn Đông Khê.
Với tổng diện tích tự nhiên hơn 68 ha, Thạch An là địa bàn cư trú của
nhiều dân tộc cùng sinh sống: Tày, Nùng, Mông, Dao, Kinh, Hoa và một số
dân tộc ít người như Ngài, Chăm, Sán Chỉ, Ê Đê. Trong số những dân tộc này
người Tày chiếm đa số. Với sự qui tụ của nhiều dân tộc trên một địa bàn cư
trú đã tạo nên một bức tranh đa sắc màu về đời sống văn hóa tinh thần của
những con người ở mảnh đất phía Đông Nam tỉnh Cao Bằng
Đặc điểm địa hình là đồi thoải hay lượn với những thung lũng nhỏ bên
cạnh dòng sông, dòng suối là điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp,
đặc biệt là trồng lúa nước. Khí hậu ở đây chia làm bốn mùa rõ rệt nên cư dân
canh tác và trồng trọt theo mùa. Giới động thực vật khá phong phú và đa
dạng. Cư dân Tày sống chủ yếu vào trồng trọt và cày cấy mùa màng và chăn
nuôi gia súc. Ngay từ xa xưa, họ đã biết tận dụng những ưu thế mà thiên
nhiên ban tặng để lao động phục vụ cuộc sống.
Mùa xuân thường không dài nhưng tiết trời ấm áp, tươi sáng, núi non
ngập tràn trong sắc hương xuân. Đặc biệt đến tháng 3 âm lịch, rừng núi Thạch
An xanh mướt một màu, cỏ hoa đang thì kết trái. Khung cảnh thật thi vị biết
mấy. Thiên nhiên Thạch An hùng vĩ, thơ mộng, hiền hòa là vậy nhưng có lúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
15
cũng thật dữ dội. Về mùa mưa, mưa nhiều đã gây nên tình trạng rửa trôi, xói
mòn và lũ lụt, gây mất mùa. Cùng với việc chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông
Bắc trong mùa đông, các hiện tượng thời tiết như băng giá, sương muối gây
ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống con người.
Địa hình huyện Thạch An như một cánh cung đang căng lên. Những đám
ruộng bậc thang uốn mình quanh sườn đồi. Những dòng suối, dòng sông như
dải lụa bạc dài vô tận ẩn rồi lại hiện dưới thung lũng như lúc làm duyên, lúc
giận hờn với đồi núi trập trùng. Khung cảnh sơn thủy hữu tình này dường như
đã khơi nguồn cảm hứng thơ ca cho con người nơi đây. Để khiến ai đã từng
đứng trên mảnh đất này trong lòng không thể không cất lên tiếng hát. Những
câu Lượn ấy cất cao, thấm đẫm hơi thở của ruộng, của nương, của núi của
rừng Thạch An.
Phải chăng, lễ hội Nàng Hai với những khúc hát ra đời trong lễ hội đó
nhằm đáp ứng những nhu cầu thưởng thức văn nghệ và gửi gắm những khát
vọng tinh thần của nhân dân miền núi nơi đây.
Tự nhiên không chỉ là môi trường sống của con người mà còn là đối
tượng để qua đó con người tác động, sản xuất ra của cải vật chất, phát triển xã
hội và hình thành nên đời sống văn hoá của mình. Như vậy, điều kiện tự nhiên
có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển và tồn tại của văn hóa, văn học nghệ thuật
dân tộc Tày ở Thạch An - Cao Bằng.
1.1.2.2. Đặc điểm xã hội - văn hóa của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng
Với địa hình miền núi với nhiều ưu ái nhưng cũng không ít bất thuận,
thiên nhiên tươi đẹp hùng vĩ mà cũng dữ dằn… những điều đó đã ảnh hưởng
không nhỏ đến điều kiện sống, sinh hoạt, văn hóa, tính cách của người Tày
Thạch An. Tuy vậy, trong quá trình phát triển của lịch sử, người Tày nơi đây
cũng đã lao động cần cù và đấu tranh không ngừng để sáng tạo cho riêng
mình một nền văn hoá giàu sức sống và đậm sắc thái bản địa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
16
Xã hội người Tày ở Cao Bằng trước Cách mạng tháng Tám đã chuyển
sang chế độ phong kiến địa chủ nhưng phân hóa giai cấp chưa sâu sắc như ở
miền xuôi nên quan hệ giữa các tầng lớp xã hội trong làng bản nói chung vẫn
là quan hệ đoàn kết, tương thân tương trợ giữa những người trong họ hàng,
làng xóm.
Người Tày ở Thạch An sống qui tụ và đoàn kết với nhau thành từng làng,
bản với khoảng 40 đến 60 gia đình trở lên. Trong quan hệ gia đình, người Tày vốn
có lòng kính già yêu trẻ. Trong quan hệ với các dân tộc anh em, đồng bào có tập
quán kết nghĩa anh em gọi là “lạo tồng”, thương yêu giúp đỡ nhau như người ruột
thịt. Họ sống gắn bó mật thiết với nhau, cùng chung sức sáng tạo nên một nền văn
hóa với những giá trị vật chất và tinh thần phong phú, bền vững.
Nhà ở của người Tày ở Thạch An thường là nhà sàn cao ráo, thoáng mát.
Trong những nếp nhà sàn đơn sơ đó có 3 - 4 thế hệ cùng chung sống đầm ấm
và chan hòa. Hầu hết các gia đình người Tày được xây dựng theo thể chế và
chế độ hôn nhân một vợ một chồng, mang tính phụ hệ. Trước Cách mạng
tháng Tám, người phụ nữ Tày không được đối xử bình đẳng với nam giới,
không được hưởng gia tài, không được đi học. Tuy nhiên, họ vẫn được chồng
con tôn trọng vì họ không chỉ có vai trò “giữ lửa” trong gia đình mà họ còn
chính là người gìn giữ, nuôi dưỡng và làm giàu có thêm những điệu hát dân
ca. Bà truyền dạy cho mẹ, mẹ truyền dạy cho con… Cứ như thế, ngọn lửa văn
hóa cứ hồng mãi trong mỗi nếp nhà sàn và rồi thấm đượm, tỏa rạng trong tâm
hồn của mỗi con người nơi đây. Không chỉ có vậy, phụ nữ Tày còn rất khéo
tay. Họ không chỉ biết trồng bông, dệt vải, tự may quần áo, chăm màn mà
còn giỏi trong việc chế biến nhiều thứ bánh trái ngon phục vụ trong ngày
thường và các dịp lễ tết.
Cũng giống như người Tày ở nhiều địa phương khác, trang phục của
người Tày Thạch An được làm từ vải bông dệt, nhuộm chàm nhưng cắt may
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
17
đơn giản, không thêu thùa hoa văn cầu kì như trang phục của một số dân tộc
khác. Phụ nữ Tày mặc áo dài năm thân, cài cúc cổ. Áo dài tới bụng chân, có
yếm lót theo kiểu của người Kinh. Ngoài áo dài ra, họ còn tạo ra áo ngắn xẻ
tà, hở ngực, cài khuy, mặc lót bên trong áo dài. Để thuận tiện, các bà, các chị,
các cô gái Tày thường mặc áo ngắn khi lao động. Váy hoặc quần của họ
thường dài tới mắt cá chân. Váy có thắt lưng to bản làm bằng vải dệt thủ
công, dài hơn 3m và rộng 30cm để quấn quanh eo, khiến người đẹp thêm
duyên dáng. Việc cài nút thắt lưng cũng cho thấy người phụ nữ ấy thuộc tầng
lớp nào trong xã hội. Nếu là con nhà quyền quí thì các nút thắt lưng buộc về
phía trước trông điệu đà hơn. Nếu là con nhà bình thường thì các nút thắt
được buộc khiêm tốn ra đằng sau. Trang phục của người Tày tuy không sặc sỡ
nhưng các chị, các cô đã biết cách làm đẹp hơn bằng những vòng cổ, vòng
tay, khuyên tai hay chuỗi xà tích bằng bạc. Người con gái nào càng có nhiều
đồ trang sức bằng bạc, càng chứng tỏ họ là con nhà giàu có và biết chăm chút
cho bản thân. Theo quan niệm của người Tày ở Cao Bằng, bạc là thứ không
chỉ khiến họ trông đẹp hơn mà hơn nữa còn có thể giúp họ xua tà, trừ cảm
mạo. Trai gái Tày khi yêu nhau hay trao cho nhau chiếc vòng bạc để làm vât
tin, hẹn thề ước nguyện.
Nam giới cũng mặc áo năm thân như nữ giới nhưng chỉ dài tới đầu gối
hay mặc áo cánh, xẻ ngực cài cúc, quần lá ống rộng dài tới mắt cá chân. Nếu
phụ nữ đi hài ná nhung đen hình mũi thuyền trông rất thanh thoát và duyên
dáng thì nam giới Tày đi giày vải thô được khâu khéo léo bằng tay trông khỏe
khoắn, vững vàng.
Nhìn chung, trang phục của người Tày rất giản dị và mang một màu sắc
rất đặc trưng: màu chàm. Sắc phục đã thể hiện phẩm chất của họ là giản dị,
mộc mạc, chan hòa cùng núi rừng. Sắc chàm ấy là hội tụ của màu núi đá xanh
thẫm, màu lá cây xanh ngắt đại ngàn, màu xanh trong của con sông quê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
18
hương hiền hòa và sắc tím thủy chung của tình nghĩa. Họ hòa trộn sắc áo của
mình với cỏ ây hoa lá, như thể trân trọng hơn những gì mà thiên nhiên trao
tặng cho cuộc sống hôm nay.
Ai có dịp ở nơi xa đến Thạch An sẽ cảm thấy gần gũi và ấm áp bởi tình
cảm hồn hậu, chân thành mến khách của người dân miền núi này. Với lối
sống thân thiện và hòa hảo, cùng quan niệm khách của một nhà là khách của
cả bản nên mỗi khi bản có người từ xa đến đều được mọi người trong bản
thăm hỏi trò chuyện thân mật. Họ vui mừng đón tiếp khách xa rất phóng
khoáng mà thành tâm:
Mời rượu cả chum
Mời quả cả cây
Hơn nữa, để cho không khí vui tươi, để cho câu chuyện tế nhị, duyên
dáng họ dùng những tiếng hát lời ca để ướm hỏi, chào mừng nhau:
- Khách vào bản như mùa xuân hoa nở
Em đây xin hát câu lượn chào mừng
- Nàng mới đến như đêm trăng tỏ
Như tối trời gặp lửa ấm nhà ai
Nét phong tục độc đáo này chính là môi trường lí tưởng ươm mầm,
nuôi dưỡng tiếng hát lời ca của nhân dân. Để rồi, những điệu hát dân ca cứ thế
được lớn lên, lại quay trở lại nuôi dưỡng tâm hồn những con người của xứ sở
áo chàm. Có một thời, tiếng hát Lượn đã ngập tràn làng bản, đồi núi, hòa vào
tâm hồn, huyết mạch của đồng bào:
Nửa đêm Nàng ới cháy lòng
Khiến em dừng đường kim may vá
Khiến anh vở giữa trang ngừng đọc
Theo nhà nghiên cứu Vi Hồng, Lượn là lập luận, là lặp lại, là luyến, là
ru… Lượn chính là khúc hát dân ca của người Tày. Lượn có nhiều tiểu loại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
19
nhưng người Tày ở Thạch An chủ yếu hát Lượn Hai và Lượn Slương. Trong
đó Lượn Hai là một loại dân ca nghi lễ khá đặc biệt, chỉ được hát trong lễ hội
Nàng Hai.Với tính chất đặc trưng của Lượn là vang xa, thiết tha, bày tỏ được
những điều muốn nói một cách độc đáo và dễ lay động lòng người, do vậy mà
nó đã trở thành một nhu cầu tinh thần không thể thiếu trong đời sống của họ.
Hát Lượn có mặt khắp bản xa lũng vắng của người Tày. Trai gái đến tuổi
trưởng thành mà không biết hát Lượn bị coi là ngố, là đụt như con gà trống
không biết gáy, như con chim công chẳng biết làm dáng bên suối. Người Tày
coi hát Lượn như một tiêu chuẩn để đánh giá một con người:
Con gái nhà giàu không biết lượn
Cũng bằng ngói vỡ để đầu nhà
Con gái nhà nghèo hay tiếng lượn
Còn hơn vàng mười để trong rương.
Tiếng hát như phép màu xóa tan khoảng cách địa vị giữa người với người:
Khi lượn không kể con quan
Khi hát không kể người sang hay hèn
Kẻ sang mà hát không nên
Chẳng bằng tiếng hát kẻ hèn mà sang.
Chính vì vậy mà có một thời, người ta nói với nhau có vần, có điệu, nói
mà thành ca, thành hát.
Người Tày giao tiếp chủ yếu bằng ngôn ngữ thuộc hệ Tày - Thái. Qua
thời gian sàng lọc, tiếng Tày rất gần với tiếng Việt về hệ thống âm thanh và
ngữ pháp. Tuy nhiên, chỉ những từ ngữ về thiên nhiên, về sự vật hiện tượng
trong sinh hoạt giao tiếp mới là của người Tày, số còn lại thường vay mượn
của tiếng Việt hoặc từ Hán Việt.
Về chữ viết: Người Tày không có chữ viết riêng nên lịch sử thành văn của
tộc người Tày rất ít. Có thể chia chữ viết của tộc người tày thành ba giai đoạn:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
20
- Giai đoạn cổ đại: Không có chữ viết, chủ yếu giao tiếp bằng phương
thức truyền miệng.
- Giai đoạn trung đại: Có chữ Nôm Tày. Đây là thứ chữ phỏng theo chữ
Hán của người Trung Quốc mà đặt ra. Nhìn từ góc độ văn tự, chữ Nôm Tày
có một số nét khác biệt so với chữ Nôm Việt. Theo học giả Nguyễn Xuân
Huyên: chữ Nôm Tày ảnh hưởng chữ Nôm Việt và có cấu tạo tương tự như
chữ Nôm Việt.
- Giai đoạn hiện đại: Người Tày vừa dùng chữ Nôm vừa dùng chữ
Latinh. Do vốn từ còn nghèo nàn nên việc sử dụng chữ viết cũng như ngôn
ngữ Tày trong các hoạt động hành chính, trong các ngành khoa học rất hạn
chế và gặp nhiều khó khăn. Năm 1954, một số lớp trí thức mới đã tự sáng lập
ra chữ Latinh Tày nhưng không được phổ biến. Đến năm 1960, nhà nước đã
giúp dân tộc Tày xây dựng hệ thống chữ viết mới theo lối chữ Quốc ngữ bằng
chữ cái Latinh.
Tiếng nói Tày sinh động về âm thanh, giàu có về từ ngữ và đặc biệt là rất
sinh động về màu sắc biểu cảm. Việc ra đời của chữ viết tiếng Tày trở thành
một phương tiện đắc dụng cho việc ghi chép lại tiếng nói Tày, thơ ca Tày
Tín ngưỡng và lễ hội có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần
cũng như đời sống tâm linh của nhân dân Tày Thạch An.
Người Tày hầu như ít khi có chùa thờ Phật mà chủ yếu là có đình thờ
thần. Trong xã hội của họ, có hẳn một lớp người chuyên làm nghề cúng bái
được gọi là “Vửt”, “Then”, “Tào” Tục lệ thờ tổ tiên đã có từ rất lâu trong
đời sống tâm linh của nhân dân Tày. Bên cạnh đó, người Tày cũng thờ một số
vị Thần, Phật như Phật bà Quan âm, Hoa Vương, Thánh Mẫu Tín ngưỡng
của người Tày bắt nguồn từ thuyết vạn vật hữu linh, chủ nghĩa đa thần trong
nguyên thủy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
21
Lễ hội trong năm cũng là một nét khá độc đáo trong văn hóa của nhân
dân Thạch An. Hằng năm, đồng bào các dân tộc Tày ở nơi đây tổ chức những
ngày hội lớn như lễ hội Tháng hai vào ngày 2/2 âm lịch, lễ hội Nàng Hai vào
khoảng trung tuần tháng 3 âm lịch. Những ngày hội là dịp để trai gái vui chơi,
ca hát cùng nhau; để bạn bè, bà con gặp gỡ, thăm hỏi nhau; để nhân dân lao
động nói lên những ước vọng của mình về lao động sản xuất và trong cuộc
sống. Chính vì vậy mà ngày hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống
cộng đồng, những ngày hội trở thành những ngày vui. Niềm háo hức mong
chờ và sự trân trọng ngày hội Nàng Hai không thể giấu đi được bởi họ mặc bộ
trang phục mới nhất còn thơm nức mùi chàm để đến dự hội. Họ đợi chờ ấp ủ
bao bao lâu, nay gặp nhau trong ngày hội, tấm lòng như được mở ra theo câu
hát Lượn. Và lời ca tiếng hát sâu lắng ấy của những người đến hội như càng
thắt chặt thêm tình cảm giữa người với người, để ai nghe một lần cứ muốn hội
kéo dài mãi không thôi.
1.2. Một số vấn đề chung về lễ hội Nàng Hai của ngƣời Tày ở Thạch An -
Cao Bằng
1.2.1. Lễ hội Nàng Hai trong đời sống tinh thần của người Tày ở Thạch An
- Cao Bằng
* Khái niệm lễ hội:
“Lễ hội (hay hội lễ) là một sinh hoạt văn hóa dân gian nguyên hợp mang
tính cộng đồng cao của nhân dân, diễn ra trong một chu kỳ không - thời gian
nhất định để làm những nghi thức về nhân vật được sùng bái, để tỏ ra những
ước vọng, để vui chơi trong tinh thần cộng mệnh và cộng cảm.” [37, Tr. 163].
Lễ hội Nàng Hai ở Thạch An - Cao Bằng là lễ hội cầu mùa, nhằm tôn
thờ vị thần cai quản mùa màng cho người trần gian (mà ở đây là Mẹ Trăng)
và gửi gắm những ước vọng trong dịp đầu xuân của con người. Trước sự biến
động của thời gian và không gian, lễ hội này biểu hiện phong phú qua nhiều
hình thức tổ chức khác nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
22
* Những hình thức lễ hội Nàng Hai chủ yếu ở Cao Bằng
Tùy thuộc vào thời gian, nội dung và cách thức của từng địa phương mà Lễ
hội Nàng Hai ở Cao Bằng được tổ chức theo nhiều hình thức. Theo nhà nghiên
cứu Nguyễn Thị Yên, ở Cao Bằng lễ hội này có ba hình thức cơ bản.
Lễ hội Nàng Hai hình thức 1: Thời gian tổ chức vào ba đêm 14, 15, 16
tháng 7, tháng 8 và tháng 9 âm lịch. Theo quan niệm dân gian thì đây là
những ngày đẹp nhất, trăng tròn nhất, sáng nhất và viên mãn nhất trong năm.
Hội tổ chức vào những ngày này thì việc trồng trọt, chăn nuôi, nhân duyên thế
sự của bà con sẽ luôn thuận lợi, trọn vẹn, đong đầy. Lễ hội này với phần lễ
diễn ra khá trang nghiêm nhưng không cầu kỳ song nó mang nhiều yếu tố
huyền bí, chủ yếu thiên về bói toán. Hình thức tổ chức lễ hội này xuất hiện ở
một số huyện miền Tây của tỉnh như: Bảo Lạc, Bảo Lâm, Nguyên Bình.
Lễ hội Nàng Hai hình thức 2: Thời gian tổ chức lễ hội thường vào tháng 2
âm lịch, gắn liền với hội xuống đồng và các nghi lễ tế thần nông. Sau lễ hội này,
bà con bắt tay vào vụ mùa mới. Hình thức này thấy xuất hiện ở các huyện Hạ
Lang và một số xã của huyện Thạch An như: Vân Trình, Trọng Con. Tuy vẫn
mang mục đích là cầu mùa nhưng hình thức lễ hội này mang nhiều yếu tố thuộc
về trình diễn, sân khấu hơn so với lễ hội Nàng Hai hình thức 1.
Lễ hội Nàng Hai hình thức 3: Thời gian tổ chức lễ hội này kéo dài từ tết
30 tháng giêng (tết Đắp nọi của người Tày ở Cao Bằng) đến trung tuần tháng
3 âm lịch. Trong khoảng thời gian này, nhiều nơi như Phục Hòa, Quảng
Uyên, và một số xã của huyện Thạch An (Kim Đồng, Đức Xuân, Lê Lai) tổ
chức hội Nàng Hai. So với hai hình thức trên, hình thức này phức tạp hơn, với
nhiều nghi thức trang nghiêm hơn, qui mô lớn hơn. Điều đáng chú ý hơn nữa
là lễ hội Nàng Hai hình thức này kết hợp hài hòa giữa phần lễ, phần hội với
nhiều trò diễn dân gian độc đáo. Có thể coi hình thức lễ hội này là sự tổng hòa
của hai hình thức lễ hội trên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
23
Trước năm 1975, lễ hội Nàng Hai được tổ chức ở nhiều địa phương
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng nhưng hiện nay chỉ có hai xã Tiên Thành và Kim
Đồng của hai huyện Phục Hòa và Thạch An là còn duy trì được việc tổ chức
hội theo hình thức này.
Việc phân chia lễ hội Nàng Hai ở Cao Bằng thành nhiều hình thức khác
nhau tuy chỉ mang tính chất tương đối song nhằm mục đích thấy rõ sự biểu
hiện phong phú, biến hóa đa dạng của lễ hội này ở mỗi địa phương. Đi đến
một vùng quê, lễ hội Nàng Hai lại mang một diện mạo riêng bởi hoàn cảnh,
điều kiện sống, tâm lí của con người nơi đó. Dấu ấn ấy còn được lưu lại trong
những khúc hát Lượn Hai. Thế mới thấy khả năng sáng tạo và nhu cầu thưởng
thức văn hoá dân gian của con người quả là độc đáo và vô tận.
* Nguồn gốc và mục đích lễ hội
Những ngày hội truyền thống của người Tày cũng như của người dân
Việt Nam nói chung đều liên quan đến nông nghiệp.
Người Tày xưa kia chủ yếu sản xuất bằng nông cụ thô sơ luôn phải
chống chọi với thiên tai, địch họa… cho nên ngoài việc nỗ lực hết mình, họ
còn có ước vọng là sẽ có một lực lượng siêu nhiên để phù trợ cho cuộc sống
của mình. Với mong ước chính đáng cùng niềm tin ngây thơ, họ đã coi mặt
trăng như biểu tượng của sự chở che, phù trợ cho cuộc sống con người nơi
trần gian. Do vậy mà mỗi dịp đầu năm, khi bà con chuẩn bị bắt tay vào một
mùa vụ sản xuất mới, họ lại thực hiện nghi lễ cầu khấn thần linh ban cho trần
gian “nhân khang vật thịnh”. Lễ hội Nàng Hai của người Tày được ra đời từ
khát vọng đó. Ngoài ý nghĩa là một lễ hội lớn, hội Nàng Hai còn thể hiện tín
ngưỡng của người Việt: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng cầu mưa.
Theo tín ngưỡng dân gian của dân tộc Tày, trên cung trăng có Mẹ
Trăng và mười hai nàng tiên là những vị thần bảo vệ mùa màng cho dân
chúng. Hội Nàng Hai tổ chức với ý nghĩa tượng trưng cho việc hành trình lên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
24
mường trời đón Mẹ Trăng và các nàng tiên xinh đẹp xuống vui hội, thăm thú
trần gian, phù hộ cho mưa thuận gió hòa. Trong những ngày này, bà con đến
dự hội để cầu mong có cuộc sống tươi đẹp, tình nghĩa gia đình, xóm làng đằm
thắm, để lao động hăng say hơn còn thanh niên nam nữ hát đối đáp giao
duyên, tìm người tri kỷ.
* Chuẩn bị lễ hội
Lễ hội Nàng Hai ở huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng không phải năm
nào cũng được tổ chức. Thường thường, cứ ba năm dân làng lại tổ chức hội
Hai một lần. Việc mở hội phải phụ thuộc vào tình hình sản xuất của năm
trước có được mùa hay không. Do vậy mà làng mở hội năm nào như một điều
lành, như một dịp mừng năm qua có nhiều điều thuận lợi, cuộc sống của bà
con sung túc, no đủ.
Vì lễ hội này có ý nghĩa rất lớn đối với nhân dân nên việc tổ chức lễ hội
được chuẩn bị rất chu đáo và công phu từ hai, ba năm trước.
Thường thường, buổi sáng mùng một Tết, trong lễ cúng Thổ công, một
thiếu nữ thanh tân trong bản được cử ra xin phép thần linh cho mở hội Nàng
Hai. Sau đó, một người già trong bản có kinh nghiệm sẽ chọn ngày tốt nhất để
mở hội và kết thúc lễ hội. Sau đó mọi người bắt đầu công việc chọn người
tham gia lễ hội.
Nơi nào đăng cai mở hội phải chọn một người có uy tín, có kinh
nghiệm tổ chức lễ hội. Tuỳ từng địa phương mà người ta chọn thầy Pửt (còn
được gọi là Bụt, Then - những người làm nghề cúng bái) hay Mẻ Cốc (còn gọi
là Mẹ Gốc, Mẹ Cả) để tiến hành nghi lễ trong những ngày hội chính.
Nhân vật chính của sân khấu trong ngày hội là hai Nàng Trăng do hai
cô gái trong trắng, xinh đẹp, có giọng hát hay, có tài ứng đối thông minh linh
hoạt đóng vai. Mẻ Cốc sẽ là người truyền dạy cho hai cô những bài Lượn gốc
- những bài Lượn chính, cơ bản để dựa vào đó mà có thể ứng tác. Không phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
25
ai cũng có thể đảm nhiệm được vai trò Mẻ Cốc bởi công việc này phải đòi hỏi
ở một người không chỉ có tài năng, tâm huyết với việc hát Lượn mà còn phải
có cuộc sống khá hoàn thiện, được dân bản kính trọng. Mẻ Cốc và hai Nàng
Trăng luôn được bảo vệ bởi hai Củ Tiến do hai thanh niên trẻ chưa vợ đóng.
Ngoài ra, những người chính tham gia lễ hội còn là các cô gái trong đội
múa, hát tập thể. Những người này được gọi là Mụ Nàng, Mụ Nọi. Họ sẽ
ngày đêm tập luyện múa hát để đến ngày hội chính họ hát thật hay, múa thật
dẻo. Điều đặc biệt chú ý là đội múa bao giờ cũng phải chọn số người chẵn:
10, 12, hay 14 và được chia làm hai tốp, một tốp đeo khăn vàng, tốp kia đeo
khăn đỏ.
Tất cả những người được chọn để đóng các vai trong lễ hội đều phải
đẹp người, đẹp nết, hát hay, múa giỏi.
Một thứ nữa không thể thiếu trong lễ hội đó là vật phẩm cúng tế. Bao
giờ cũng vậy, mâm cúng của người Tày được chuẩn bị rất chu đáo và cẩn
thận. Người Tày rất trân trọng tình nghĩa. Họ dâng tiến lên tổ tiên, thánh thần
những sản phẩm đậm chất dân tộc miền núi, được chế biến bởi bàn tay khéo
léo, tài hoa bằng cả tấm lòng rất đỗi chân thành của mình. Lễ vật cúng tế
trong lễ hội Nàng Hai bao giờ cũng phải có: một con gà trống thiến, một
miếng thịt lợn đều được luộc chín, một con lợn khoảng 80kg được mổ sạch sẽ
- những thức này tượng trưng cho vật hiến tế; một mâm xôi cẩm ngũ sắc được
nhuộm từ lá cây rừng thể hiện quan niệm ngũ hành tương thích giao hòa; hai
bát gạo và nhiều bỏng gạo để làm giống hạt quí gieo đầu năm; bánh bột dẻo
tượng trưng cho sản vật nông nghiệp; 3 mô hình thuyền lớn (trong đó có một
thuyền lớn được trang trí cầu kỳ hơn là thuyền chở Mẹ Trăng, hai thuyền nhỏ
hơn để chở lễ vật và con giống, hạt giống) và bè con là phương tiện và sức
mạnh vượt biển; hương nhang để giúp người trần gian giao linh được với
người nhà trời. Tùy từng nghi thức mà lễ vật được sử dụng cho phù hợp.