Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
HOÀNG HẢI YẾN
VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƢỜI TÀY
Ở HUYỆN BẮC SƠN TỈNH LẠNG SƠN
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa khọc:TS. HOÀNG NGỌC LA
Thái Nguyên, 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, DÂN TỘC VÀ
HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA DÂN CƢ 10
1.1. Đặc điểm tự nhiên 10
1.1.1. Vị trí địa lí 10
1.1.2. Điều kiện tự nhiên 10
1.2. Dân tộc, dân cƣ 14
1.3. Hoạt động kinh tế của dân cƣ 16
1.3.1. Kinh tế sản xuất 16
1.3.2. Kinh tế tự nhiên 25
1.3.3. Chợ phiên 27
CHƢƠNG 2: VĂN HÓA TINH THẦN 31
2.1. Tổ chức xã hội 31
2.1.1. Cộng đồng làng bản – dòng họ 31
2.1.2. gia đình và hôn nhân 39
2.2. Các tập quán liên quan đến chu kì đời ngƣời 52
2.2.1. Tập quán sinh đẻ, nuôi dạy con cái 52
2.2.2. Nghi lễ đám cưới 59
2.2.3. Nghi lễ đám ma 68
2.3. Tín ngƣỡng dân gian 76
2.3.1. Quan niệm về hồn và các loại ma 76
2.3.2. Các hình thức tín ngưỡng liên quan đến gia đình, cộng đồng 78
2.3.3. Các nghi lễ liên quan đến sản xuất nông nghiệp 83
2.3.4. Các tàn dư và biểu hiện của hình thái ma thuật 85
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.3.5. Phong tục, tín ngưỡng làm nhà mới của người Tày 87
2.4. Văn học dân gian 91
2.4.1. Tự sự dân gian 91
2.4.2. Trữ tình dân gian 91
2.4.3. Tục ngữ, câu đố Tày 98
2.5. Lễ hội và trò chơi dân gian 102
CHƢƠNG 3: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA VĂN HÓA TINH THẦN CỦA
NGƢỜI TÀY Ở HUYỆN BẮC SƠN, TỈNH LẠNG SƠN 107
3.1. Những yếu tố tác động đƣa đến sự biến đổi của văn hóa tinh thần
của ngƣời Tày ở Bắc Sơn 107
3.1.1. Yếu tố nội sinh 107
3.1.2. Yếu tố ngoại sinh 108
3.2. Những biến đổi của văn hóa tinh thần 117
3.2.1. Những biến đổi về tổ chức xã hội 117
3.2.2. Biến đổi của các tập tục lễ nghi liên quan đến chu kì đời người 123
3.2.3. Biến đổi trong tín ngưỡng dân gian của người Tày ở Bắc Sơn 127
KẾT LUẬN 132
TÀI LIỆU THAM KHẢO 136
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
. Văn hóa được hình thành cùng với sự hình thành và phát triển của các
dân tộc, là một yếu tố cấu thành một quốc gia, vì vậy văn hóa là nét đặc trưng
cơ bản nhất để phân biệt giữa các quốc gia dân tộc. Đồng thời cũng là một
trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển đối với mỗi quốc gia dân tộc
qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Văn hóa là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trình lịch sử của mình để phục vụ cho cuộc sống của họ. Như
vậy, nói đến văn hóa ta nhận thấy có thể chia làm hai mảng : văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần (hay còn gọi là văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể).
Việt Nam là một quốc gia có nền văn hóa lâu đời với nét đặc trưng nổi
bật đó là một nền văn hóa “đa dạng trong thống nhất”. Nền văn hóa ấy hình
thành trong quá trình dựng nước và giữ nước, thể hiện bản sắc chung của một
dân tộc thống nhất với 54 dân tộc anh em, nhưng đều có cùng một nguồn gốc
tổ tiên, đều mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, gắn bó keo sơn cùng nhau
chung tay góp sức xây dựng nước nhà.
Nền văn hóa thống nhất của Việt Nam lại được biểu hiện ra với những
sắc thái đa dạng ở các vùng miền, các dân tộc khác nhau đang sinh sống trên
đất nước Việt Nam. Những sắc thái riêng đó không tách rời bản sắc chung của
văn hóa Việt Nam mà còn góp phần làm phong phú thêm bản sắc chung của
văn hóa Việt Nam.
Dân tộc Tày thuộc nhóm dân tộc thiểu số, tuy nhiên đây là dân tộc có
số lượng đông đảo (đứng thứ hai sau dân tộc Kinh), là cư dân bản địa sinh
sống lâu đời trên đất nước Việt Nam. Dân tộc Tày phân bố chủ yếu ở các tỉnh
phía Bắc Việt Nam, đông nhất là ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Tuyên Quang, Thái Nguyên . . . Trong quá trình tồn tại và phát triển, gắn liền
với các thời kì lịch sử của đất nước người Tày đã sáng tạo ra những giá trị văn
hóa đặc sắc, mang đậm tính chất riêng biệt của mình, đồng thời cũng hòa
chung vào nền văn hóa chung của dân tộc, là một mảng văn hóa trong tổng
thể văn hóa Việt.
Người Tày ở Bắc Sơn chiếm 67,8 % trong tổng số 65.930 người. Gốc
bản địa, thuộc nhóm ngữ hệ Tày – Thái. Người Tày ở Bắc Sơn có mặt ở tất cả
19 xã và cả thị trấn, sinh sống trong một khoảng không gian rộng trong thung
lũng Bắc Sơn, hòa hợp với các dân tộc khác trong địa bàn của huyện. Do có
mặt sớm và là dân bản địa nên dân tộc Tày ở Bắc Sơn đã xây dựng cho mình
một nền văn hóa truyền trống phong phú và mang đậm bản sắc địa phương,
góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam.
Hiện nay đất nước đang tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước, đang có những chuyển biến mạnh mẽ trong tiến trình
hội nhập, nên vấn đề bảo tồn văn hóa truyền thống của dân tộc đang rất được
coi trọng. Đảng ta xác định “ xây dựng một nền văn hóa tiên tiến nhưng đậm
đà bản sắc dân tộc”. Năm 1991, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta xác định: Tôn trọng lợi ích,
truyền thống văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc, đồng
thời kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức, thẩm mĩ, các di sản văn
hóa, nghệ thuật của dân tộc. Chủ trương đó được tiếp tục khẳng định rõ hơn
trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa
VIII ( 1998 ) của Đảng “ Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng
dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để tạo những giá trị văn hóa mới
và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá
trị văn hóa truyền thống( bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm
cả văn hóa vật thể và phi vật thể ” [20;63].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Nắm bắt tinh thần chung về gìn giữ và bảo tồn văn hóa truyền thống
các dân tộc, nghị quyết Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn cũng chỉ rõ : “
Khai thác và tìm hiểu truyền thống của tỉnh, bảo tồn các di sản văn hóa dân
tộc, nâng cao dân trí cho nhân dân trong tỉnh là việc làm hết sức quan trọng và
cần thiết ”
Để góp phần nhỏ bé của mình vào quá trình tìm hiểu văn hóa các dân
tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung và của người Tày nói riêng, chúng tôi
quyết định chọn “ Văn hóa tinh thần của ngƣời Tày ở huyện Bắc Sơn tỉnh
Lạng Sơn” làm đề tài luận văn, trong đó tập trung vào các nội dung cơ bản là
văn hoá tinh thần của người Tày huyện Bắc Sơn và sự biến đổi của văn hóa
ngày nay, nhằm xây dựng lên bức tranh văn hóa huyện Bắc Sơn trong lịch sử
và hiện tại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Văn hoá nói chung và văn hoá các tộc người thiểu số nói riêng luôn là
đề tài được các nhà nghiên cứu lịch sử cũng như các nhà nghiên cứu văn hoá
xã hội quan tâm. Văn hoá đã được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau,
trong nhiều công trình, của nhiều tác giả khác nhau :
- Trước hết phải kể đến cuốn “Các bài hát đám cưới của người Thổ ở
Lạng Sơn - Cao Bằng” của Nguyễn Văn Huyên do Viễn Đông Bác Cổ xuất
bản năm 1942 [33]. Công trình nghiên cứu của tác giả đã đề cập tới các bài
hát và các lễ nghi trong đám cưới của người Tày ở Lạng Sơn.
- Cuốn “Dân ca đám cưới Tày - Nùng” của Nông Minh Châu, NXB
Việt Bắc xuất bản năm 1973 [7]. Tác phẩm đã tập hợp và giới thiệu một số
điệu dân ca của dân tộc Tày, Nùng.
- Cuốn “Sli, lượn dân ca trữ tình Tày, Nùng” của Vi Hồng, NXB Văn
hoá ấn hành năm 1979 [31]. Tác phẩm là sự tập hợp các điệu Sli, lượn tiêu
biểu của dân tộc Tày, Nùng ở các địa phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
- Cuốn “Văn hoá Tày - Nùng” của Lã Văn Lô, Hà Văn Thư, NXB Văn
hoá, xuất bản năm 1984 [42]. Cuốn sách đã giới thiệu khá đầy đủ về xã hội,
con người và văn hoá của hai dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam. Tuy nhiên
nhiều đặc trưng văn hoá mang tính địa phương, trong đó có Bắc Sơn chưa
được các tác giả quan tâm và đề cập một cách đầy đủ.
- Cuốn “Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam” do NXB Viện KHXH và
Viện dân tộc học xuất bản năm 1992 [12]. Đây là cuốn sách đề cập tương đối
đầy đủ về điều kiện tự nhiên, dân cư Tày, Nùng, lịch sử tộc người, kinh tế
truyền thống, đời sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, tổ chức xã hội
của các tộc người Tày, Nùng ở Việt Nam.
- Cuốn “Văn hoá truyền thống Tày - Nùng” của nhóm tác giả Hoàng
Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, Cung Văn Lược, Vương Toàn do
NXB văn hoá dân tộc xuất bản năm 1993 [56]. Là tác phẩm tìm hiểu tương
đối toàn diện trên lĩnh vực văn hoá của hai dân tộc Tày, Nùng : xã hội và văn
hoá của người Tày, Nùng; chữ Nôm của người Tày, Nùng
- Cuốn “Phong tục tập quán của người Tày ở Việt Bắc” của tác giả
Hoàng Quyết, Tấn Dũng, NXB Văn hoá dân tộc xuất bản năm 1994 [57] đã
tập trung nghiên cứu sâu về đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc Tày ở khu
Việt Bắc, với những phong tục tập quán, về tín ngưỡng, lễ hội từ xa xưa của
người Tày.
- Cuốn “Tục cưới xin của người Tày” của Triều Ân, Hoàng Quyết, do
NXB Văn hóa dân tộc xuất bản năm 1995 [3] giới thiệu các thủ tục, lễ nghi
của dân tộc Tày ở Việt Nam.
- Cuốn “Tìm hiểu bản sắc văn hoá Việt Nam” (cách nhìn hệ thống loại
hình) của Trần Ngọc Thêm do NXB Thành phố Hồ Chí Minh (1997) [60] đã
tiến hành phân loại các hình thái tín ngưỡng, những nét đặc trưng trong phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
tục được quy định bởi văn hoá truyền thống, phân tích sự giao lưu ảnh hưởng
giữa các nền văn hoá Đông - Tây được biểu hiện trong văn hoá Việt Nam.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 1999 “Tín ngưỡng dân gian
Tày lịch sử và hiện tại” của tác giả Hoàng Ngọc La và Hoàng Hoa Toàn [37]
trình bày khá chi tiết về tín ngưỡng dân gian Tày với các tục thờ cúng, các tàn
dư ma thuật cùng các lễ nghi trong đời sống đồng bào Tày.
- Các tác giả: Hoàng Ngọc La (chủ biên) – Hoàng Hoa Toàn – Vũ Anh
Tuấn đã biên soạn cuốn “Văn hóa dân gian Tày”, Sở Văn hóa thông tin Thái
Nguyên xuất bản năm 2002. Tác phẩm đã trình bày nguồn gốc tộc người, văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Tày trong lịch sử.
- Cuốn “Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Đăng Duy do NXB Văn hoá thông tin xuất bản năm 2001 [18] đã
trình bày khá đầy đủ về khái luận về tín ngưỡng tôn giáo, nguồn gốc, nội
dung của các hình thái tín ngưỡng dân gian đặc trưng ở một số vùng miền,
một số dân tộc ít người, trình bày nguồn gốc và những giáo lý cơ bản của các
lọai hình tôn giáo trong đời sống hiện nay.
- Cuốn “Lí luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của
Đặng Nghiêm Vạn do NXB Chính trị quốc gia xuất bản năm 2001 [68] đã nêu
lên những khái niệm chung về tôn giáo, xu thế chung của tôn giáo, đời sống
tôn giáo trong nhân dân.
- Cuốn “Lạng Sơn vùng văn hoá đặc sắc” của Phạm Vĩnh, NXB Văn
hoá thông tin xuất bản năm 2001 [72]. Tác phẩm đã tìm hiểu về các dân tộc ở
Tỉnh Lạng Sơn cùng với các nét đặc trưng về văn hoá vật chất và tinh thần
của các dân tộc, trong đó có dân tộc Tày ở Bắc Sơn.
- Từ năm 1990 đến năm 2000, Huyện uỷ Bắc Sơn lần lượt biên soạn và
cho xuất bản các cuốn:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
+ Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Bắc
Sơn ( 1930 - 1954) [40].
+ Lịch sử Đảng bộ huyện Bắc Sơn 1955 – 1985 [41]. Các cuốn sử này
ít nhiều đề cập tới bản sắc văn hóa của dân tộc Tày ở Bắc Sơn.
Trong những năm gần đây công tác sưu tầm, nghiên cứu, khôi phục văn
hóa Tày ở Lạng Sơn đã được đẩy mạnh, có một số công trình tiêu biểu:
- Cuốn “Tục lệ Lạng Sơn (trước năm 1920)”, do Viện nghiên cứu Hán
Nôm và Sở Văn hóa Thông tin Lạng Sơn biên soạn, Nxb VHDT xuất bản
năm 1998 [70] đã phản ánh đầy đủ những quy tắc, tập tục, diện mạo, bản sắc
văn hóa riêng của từng làng, xã. Các làng, bản người Tày là đối tượng nghiên
cứu chính của công trình.
- Cuốn “Địa chí Lạng Sơn” do UBND tỉnh biên soạn, Nxb Chính trị
Quốc gia xuất bản 1999 [66] là một công trình “bách khoa” về mảnh đất, lịch
sử và đời sống văn hóa các dân tộc trong tỉnh, giúp chúng ta có cái nhìn toàn
diện hơn về văn hóa Tày xứ Lạng.
- Cuốn “Lễ hội dân gian Lạng Sơn”, do Hoàng Văn Páo chủ biên, Sở
VH Lạng Sơn xuất bản năm 2002 [53] giới thiệu đầy đủ diễn trình của các lễ
hội và những vấn đề có liên quan đến lễ hội như truyền thuyết và di tích, trong
đó, lễ hội dân gian của người tày và người Nùng chiếm một phần chủ yếu.
- Cuốn “Nghi lễ then giải hạn (hắt khoăn) của người Tày” của Nguyễn
Thị Hoa, Hội VHNT Lạng Sơn xuất bản năm 2004 [30] giới thiệu về diễn
xướng then của người Tày ở Xứ Lạng.
- Cuốn “Đặc điểm dân ca đám cưới Tày – Nùng xứ Lạng” của Lộc Bích
Kiệm, Hội VHNT Lạng Sơn xuất bản năm 2004 [36] đi sâu tìm hiểu về một
loại hình dân ca đặc biệt của hai dân tộc này ở Lạng Sơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Các công trình trên mặc dù không đi sâu vào nghiên cứu văn hoá của
người Tày ở Bắc Sơn (Lạng Sơn), song cũng đã cung cấp một số nguồn tư
liệu liên quan đến đề tài.
Các tác phẩm nói trên chưa đi sâu nghiên cứu, chưa làm rõ được những
đặc trưng trong văn hóa tinh thần của người Tày ở Bắc Sơn. Mặc dù vậy, các tác
phẩm trên đã giúp cho tác giả luận văn một số tài liệu và những nét tổng quát về
văn hóa tinh thần của người Tày làm cơ sở nghiên cứu và thực hiện đề tài.
3, Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ đề tài
- Mục đích đề tài
Nghiên cứu văn hoá tinh thần của người Tày ở huyện Bắc Sơn, tỉnh
Lạng Sơn nhằm làm rõ văn hóa tinh thần của người Tày ở Bắc Sơn, góp phần
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc người Tày trong giai đoạn lịch sử
hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là văn hoá tinh thần của cư dân dân tộc Tày ở
huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn đề cập đến những đặc điểm sinh thái tự nhiên, dân tộc
và hoạt động kinh tế của cư dân Tày ở Bắc Sơn. Trọng tâm của luận văn
nghiên cứu văn hóa tinh thần của người Tày ở huyện Bắc Sơn trong xã hội cổ
truyền và trong hiện tại.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tư liệu
Luận văn của chúng tôi dựa trên cơ sở tham khảo các tài liệu sau:
+ Nguồn tài liệu thành văn
- Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
- Các tác phẩm mang tính lí luận chung và chuyên khảo về văn hoá như
“ Văn hoá một số vấn đề lí luận” của Trương Lưu, Cơ sở văn hoá Việt Nam
của Trần Ngọc Thêm, về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng cộng
sảng Việt Nam do Ban tư tưởng - văn hoá trung ương xuất bản, Nghị quyết
BCH Trung Ương Đảng lần thứ 5 ( Khoá VIII ), các công trình nghiên cứu đề
cập đến văn hoá Tày . . .
+ Nguồn tư liệu khảo sát, điền dã
Do có điều kiện thuận lợi là đang sinh sống và công tác tại địa bàn
Huyện nên dễ dàng tiếp xúc với các nhân chứng của lịch sử, quan sát và tham
gia các lễ hội, được chứng kiến các phong tục tập quán, lễ nghi của đồng bào
địa phương. Qua đó chúng tôi có được những tư liệu, những hiểu biết hết sức
quý báu. Đây là nguồn tài liệu rất quan trọng, đồng thời cũng là yếu tố quyết
định giúp chúng tôi hoàn thành tốt đề tài của mình
4.2 Phương pháp nghiên cứu
- Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài chúng tôi sử dụng
phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic, phương pháp điền dã
dân tộc học, ghi chép, tổng hợp phân tích các yếu tố đặc trưng văn hóa tộc
người Tày ở địa phương.
5. Đóng góp của đề tài.
- Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về văn hóa tinh thần của người
Tày ở huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Góp phần làm rõ nét những bản sắc văn
hóa Tày ở địa phương, đồng thời khẳng định và bổ sung thêm các nét tương
đồng với văn hóa dân tộc Tày ở các địa phương khác và với các dân tộc khác.
Thông qua việc tìm hiểu văn hóa tinh thần của dân tộc Tày, đề tài làm
nổi bật lên những đặc trưng văn hóa tinh thần của dân tộc Tày, giúp cho các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
cơ quan chức năng đánh giá một cách toàn diện hơn về công tác bảo tồn và
phát triển những giá trị văn hóa của người Tày ở Bắc Sơn.
- Đề tài cũng là tài liệu tham khảo cần thiết cho việc học tập và giảng
dạy lịch sử địa phương ở trường phổ thông, góp phần làm phong phú thêm tư
liệu về văn hóa tinh thần của người Tày.
6. Cấu trúc của đề tài
Luận văn gồm 142 trang, ngoài phần mở đầu (9 trang), phần kết luận (4
trang), tài liệu tham khảo (7 trang), còn lại là phần nội dung (122 trang) được
chia làm 3 chương :
Chƣơng 1: Khái quát đặc điểm tự nhiên, dân tộc và hoạt động kinh
tế của cƣ dân.
Chƣơng 2: Văn hóa tinh thần
Chƣơng 3: Những biến đổi của văn hóa tinh thần của ngƣời Tày ở
huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, DÂN TỘC VÀ HOẠT ĐỘNG
KINH TẾ CỦA DÂN CƢ
1.1. Đặc điểm tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lí
Bắc Sơn có lịch sử hình thành tương đối lâu đời. Lịch sử hình thành
nguyên là châu Văn Lan đời Lý, đời Minh là đất huyện Bội Lan, châu Thượng
Văn phủ Lạng Sơn, đời Lê là châu Văn Lan, thuộc trấn Lạng Sơn, đời
Nguyễn (Gia Long) vì kị huý tên chúa Nguyễn Phúc Lan đổi là châu Văn
Quán. Sau năm 1945 là huyện Bắc Sơn. Hiện nay Bắc sơn có 20 đơn vị hành
chính, bao gồm một thị trấn (Bắc Sơn), là trung tâm của huyện và 19 xã. Bắc
Sơn ở về phía Tây Nam của tỉnh Lạng Sơn. Phía Đông tiếp giáp với các
huyện Văn Quan, Chi Lăng, phía Tây tiếp giáp với huyện Võ Nhai tỉnh Thái
Nguyên, phía Nam tiếp giáp với huyện Hữu Lũng, phía Bắc nối liền với
huyện Bình Gia. Đây là một địa bàn rất cơ động là cửa ngõ giao lưu kinh tế
văn hóa xã hội giữa hai tỉnh Lạng Sơn và Thái Nguyên.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Đất đai: là huyện miền núi, ở độ cao 400m trung bình so với mặt biển,
với đặc điểm là nhiều núi đá vôi và nhiều rừng gỗ quý. Có nhiều ngọn núi cao
song cao nhất là ngọn Khau Kiêng: 1.107m. Xen kẽ giữa các dãy núi đá vôi là
các thung lũng khá bằng phẳng thuận lợi canh tác. Bắc Sơn có diện tích tự
nhiên toàn huyện là 67.577 ha (697,9km
2
). Trong đó đất lâm nghiệp có diện
tích 41.210 ha, còn lại là núi, suối, hồ và đất canh tác. Diện tích đất nông
nghiệp và khả năng nông nghiệp không nhiều chỉ có 14.260 ha, còn lại là bãi
chăn nuôi, do thiếu nước nghiêm trọng nên chưa thể canh tác được.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Đất đai huyện Bắc Sơn có 8 loại xen kẽ lẫn nhau, chủ yếu là đất đỏ
vàng trên đất sét (chiếm trên 42% diện tích tự nhiên), đất đỏ vàng trên đá
magma axit (chiếm trên 28%), đất vàng trên đá cát (chiếm 3,4%), đất phù sa
(chiếm 1,2%) và các loại đất tụ dốc, đất nâu đỏ trên đá vôi Đa phần đất đai
có độ dày canh tác trên 50cm nhưng độ dốc lớn, hiếm nước nên hướng phát
triển cây trồng cạn, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả và cây lấy gỗ phù
hợp hơn.
Là một huyện miền núi cao, phần lớn diện tích là rừng và đồi núi, nên
ruộng đất chủ yếu là ruộng bậc thang, phân tán hoặc là ở ven đồi, chân núi
hoặc ven suối, khá màu mỡ, thuận lợi cho trồng lúa, hoa màu và các loại cây
công nghiệp như hồi, trẩu, sở, thuốc lá, mía, dâu . . .cây ăn quả như mận, đào,
quýt, lê, cam . . . có một số cánh đồng lúa rộng ở các xã Long Đống, Quỳnh
Sơn, Bắc Sơn . . . được coi là vựa lúa của huyện.
Sinh vật : Tỉnh Lạng Sơn nói chung và huyện Bắc Sơn nằm trong vành
đai nhiệt đới thuộc khu hệ thực vật nam Trung Hoa – bắc Việt Nam, quanh
năm có ánh nắng mặt trời, lại nhiều mưa, độ ẩm cao nên rất thuận lợi cho các
loại thực vật phát triển. Trong rừng có nhiều loại gỗ quý: lim, nghiến, dẻ, chò
nước. . .; các loại cây cho dầu béo như trẩu, sở; cây cho bột như củ mài, đao,
cây làm thuốc; cây dùng để đan lát; làm hàng mỹ nghệ. Bên cạnh đó là nguồn
lâm thổ sản khá phong phú như : Mật ong, mộc nhĩ, nấm hương, măng các
loại, rau, củ, quả . . .cùng với một hệ động vật gồm các loại thú, chim . . .Điều
này đã tạo cho cư dân Tày có thể phát triển nghề khai thác rừng, đem lại một
lượng sản phẩm tương đối dồi dào phục vụ cho cuộc sống của nhân dân.
Khí hậu : Khí hậu Bắc Sơn cũng giống với các huyện vùng miền núi
phía Bắc, với bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông nhưng phân hóa thành hai mùa
rõ rệt, nhất là về phương diện nhiệt, đó là mùa nóng và mùa lạnh. Giữa hai
mùa có sự tương phản nhau về nhiệt độ, lượng mưa, gió và độ ẩm. Từ xa xưa,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
ông cha ta bằng kinh nghiệm thực tế của mình đã thấy khí hậu của tỉnh Lạng
Sơn và tỉnh Thái Nguyên, trong đó có huyện Bắc Sơn là : “ Bốn mùa thường
âm u, hàng năm giá rét chiếm quá nửa; mùa xuân mùa hạ, mưa thường nhiều,
sấm chớp thường nổi, mùa thu đông thường nắng, lại có gió bấc; mùa đông
giá rét, nước đông, sương xuống . . . Hang núi mây mù, thấp nhiệt nung nấu.
Khoảng tháng 3 tháng 9 nóng lạnh thay đổi, làm chướng càng nặng. Người
địa phương thường lấy sấm chớp, mưa và nước lũ để nghiệm công việc làm
ruộng (năm nào mưa vào ngày 3 tháng 3 thì năm ấy mất mùa ngô, đậu, mưa
váo ngày 6 tháng 6 thì mất lúa, nhân dân sinh nhiều bệnh tật, tháng 10 mưa lũ
thì năm sau không có gạo ăn)” [54; 355]. Ngày nay khí hậu tuy đã có sự biến
đổi ít nhiều nhưng về cơ bản vẫn có những đặc điểm trên. Trong mùa lạnh,
các đợt gió mùa đông bắc có năm đến sớm, có năm đến muộn; có đợt kéo dài,
có đợt ngắn, góp phần tạo ra tính thất thường của khí hậu, có ảnh hưởng xấu
đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Lượng mưa bình quân của huyện Bắc Sơn là 1500mm, mưa tập trung
chủ yếu ở các trận mưa có cường độ lớn vào mùa hạ từ tháng 4 đến tháng 9,
còn từ tháng 10 đến tháng 3 lượng mưa ít chỉ còn khoảng 358mm. Nhiệt độ
trung bình trong năm là 20
0
c đến 22
0
c, độ ẩm trung bình từ 80 – 85% thích
hợp với sự phát triển của các loài động thực vật nhiệt đới, ở những nơi núi cao
khí hậu mát mẻ như ở núi Khau Kiêng thuận lợi cho sự phát triển của thảm
thực vật á nhiệt đới và cây ôn đới.
Tuy nhiên, do nằm trong cánh cung núi Bắc Sơn, mở rộng về phía Bắc,
trực tiếp đón gió mùa từ phương bắc thổi vào và giữ lại một phần bởi các dãy
núi cao ở phía nam của huyện nên mùa đông ở Bắc Sơn thường đến sớm và
kéo dài, có phần khắc nghiệt hơn so với các vùng khác. Hàng năm, vào nhiều
thời điểm của mùa đông, nhiệt độ thường xuống thấp dưới 10
0
c, xuất hiện
sương muối, sương giá, làm chết nhiều gia súc và cây trồng nhiệt đới, mọi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
hoạt động canh tác, sản xuất hầu như bị ngưng trệ vì thiếu nước và lạnh nên
cây trồng không thể phát triển được.
Sông ngòi: Bắc Sơn không có con sông nào chảy qua, nhưng có 5 con
suối chính và một số hồ chứa nước bao gồm 13 hồ, với 7 hồ chính, lớn nhất là
hồ Vũ Lăng (dung tích 2.100.000m
3
) và hồ Tam Hoa (dung tích 1.800.000m
3
),
các hồ không những có vai trò điều tiết nước, mà còn tác dụng cải tạo khí hậu
địa phương, cung cấp thủy sản, giá trị đáng kể về giao thông và thủy lợi. Các
con suối và hồ chứa nước này là nguồn cung cấp nước phục vụ đời sống và sự
phát triển nông, lâm, công nghiệp ở địa phương.
Giao thông: Là huyện nằm trên tuyến quốc lộ 1B từ Lạng Sơn – Thái
Nguyên – Hà Nội, nên Huyện có thể thông thương với các huyện lị tỉnh Lạng
Sơn như Bình Gia, Văn Quan và huyện lị Võ Nhai của Thái Nguyên. Tuy
nhiên là huyện miền núi, phần lớn diện tích là đồi núi, địa hình phức tạp do đó
việc xây dựng và phát triển giao thông gặp nhiều khó khăn. Trước đây việc đi
lại trong huyện chủ yếu là các con đường nhỏ hẹp. Những năm gần đây được
sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, của các cấp chính quyền địa phương và
trung ương nên các tuyến đường liên tỉnh liên huyện đã được cải tạo và nâng
cấp, hầu như các xã đều có đường ô tô chở khách và chở hàng 3 – 4 tấn qua
lại thuận lợi.
Như vậy, các điều kiện về vị trí địa lí, tự nhiên thuận lợi với những đặc
điểm như có các dãy núi trung bình và thấp; khí hậu mang tính chất nhiệt đới
núi cao có mùa đông lạnh; giới sinh vật phong phú đa dạng. . . môi trường tự
nhiên đã tạo ra cho cư dân Tày nhiều khả năng kinh tế to lớn và toàn diện, từ
những khả năng phát triển nền nông nghiệp, lâm nghiệp đến tiểu, thủ công
nghiệp. Trước hết, nó cho phép phát triển một nền nông nghiệp đa canh có
năng suất ổn định.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
1.2. Dân tộc, dân cƣ
Bắc Sơn, vùng đất có giàu tiềm năng phát triển kinh tế, xã hội, với vị trí
địa lí và điều kiện tự nhiên thuận lợi nên từ thời nguyên thủy đã có con người
sinh sống. Tại Bắc Sơn các nhà khoa học đã phát hiện được những dấu tích
thuộc thời đại đồ đá tiêu biểu thuộc vào nền văn hóa Bắc Sơn, là nền văn hóa
khảo cổ có vị trí rất quan trọng trong thời đại đồ đá mới ở Việt Nam, với
chiếc rìu mài lưỡi - rìu mài Bắc Sơn. Như vậy, cách đây hàng ngàn năm con
người với nền văn minh lúa nước đã có mặt ở một số nơi thuộc huyện Bắc
Sơn ngày nay, họ là những chủ nhân đầu tiên của vùng đất này, đó chính là
người Tày cổ.
Theo niên giám thống kê của huyện thì tính đến năm 2009 dân số của
huyện Bắc Sơn đã lên tới 65.930 người, mật độ trung bình là khoảng 95
người/ km
2
, bao gồm nhiều thành phần dân tộc khác nhau như Tày, Nùng,
Dao, Mông, Kinh và dân tộc Hoa, dân tộc Sán Dìu.
Bảng thống kê một số dân tộc ở huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn
STT
Dân tộc
Số lƣợng ( ngƣời)
Tỉ lệ(%)
1
Tày
44.719
67,8
2
Dao
7775
11,8
3
Nùng
5666
8,6
4
Mông
318
0,5
5
Kinh
7380
11,2
6
Các dân tộc khác
72
0,1
7
Tổng
65.930
100
(Nguồn : Niên giám thống kê huyện Bắc Sơn năm 2009)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Như vậy, chiếm đại đa số trong tổng dân cư của Huyện là dân tộc Tày,
là cư dân cổ nhất, có mặt sớm nhất ở vùng đất này. Theo truyền thuyết Pú
Lương Quân hay còn gọi là Báo Luông Sao Cải kể lại rằng Sao Cải là thủy
tổ của người Tày, đã phát hiện ra và đem cây lúa về trồng cấy. Cốt lõi lịch
sử của truyền thuyết đã được minh chứng bằng việc tìm thấy chiếc rìu mài
thuộc thời đại đồ đá mới. Theo ý kiến của nhóm tác giả Hoàng Ngọc La,
Hoàng Hoa Toàn, Nguyễn Anh Tuấn, trong cuốn “Văn hóa dân gian Tày”,
có thể xã hội được phản ánh trong truyền thuyết này có thể tương ứng với xã
hội nguyên thủy của người Tày thời đại đá mới, trong đó bao gồm cả di tích
ở Bắc Sơn. Tại vùng núi Bắc Sơn, đã từng tồn tại nền văn hóa Bắc Sơn nổi
tiếng, thuộc sơ kì đồ đá mới, cách ngày nay khoảng 8.000 đến 10.000 năm,
với nền nông nghiệp lúa nước sơ khai và chủ nhân của nền văn hóa này
chính là người Tày cổ.
Người Tày vốn là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, họ thường canh
tác ở các cánh đồng ven sông, suối, các thung lũng, là những nơi thuận tiện về
nguồn nước. Tuy sống về nghề nông nhưng đồng bào khá thành thạo các
nghề thủ công nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho cuộc sống hàng ngày.
Địa bàn sinh sống của người Tày chủ yếu tại các cánh đồng lòng chảo,
các thung lũng lớn. Tập trung đông nhất là ở các xã như xã Long Đống với
3.640 người trong tổng số 3.941 người của xã, Đồng Ý có 2.666 trong tổng số
3.906, Vũ Lăng với 4.626 trong tổng số 4.975 người . . .
Nhìn chung trải qua quá trình sinh sống, di cư, lập bản nhiều dân tộc đã
đến định cư ở vùng đất Bắc Sơn. Thông qua các hoạt động kinh tế, văn hóa
các dân tộc đã có sự giao lưu về văn hóa, tạo nên một nền văn hóa đa dạng,
nhưng cũng mang nhiều đặc trưng riêng của từng dân tộc, trong đó nổi lên là
dân tộc Tày mà chúng tôi sẽ trình bày cụ thể ở phần sau của luận văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
1.3. Hoạt động kinh tế của dân cƣ
Hoạt động kinh tế của người Tày ở Bắc Sơn được chia làm 2 yếu tố
chính: kinh tế sản xuất (bao gồm: nông nghiệp, chăn nuôi, tiểu thủ công
nghiêp gia đình), kinh tế khai thác nguồn lợi tự nhiên (bao gồm: săn bắt,
hái lượm).
1.3.1. Kinh tế sản xuất
Trồng trọt:
Đã từ lâu đời kinh tế trồng trọt trở thành nguồn sống chủ yếu, hàng đầu
của cư dân Tày ở Bắc Sơn. Trong trồng trọt, cây lúa, cây ngô là lương thực
chính đảm bảo đời sống của người Tày ở Bắc Sơn. Nông nghiệp trồng trọt
bao gồm hai loại hình canh tác chính: lúa nước và nương rẫy, bên cạnh đó còn
có vườn và các lân trồng cây đặc sản.
- Lúa nước: là huyện miền núi nên phần lớn diện tích tự nhiên là đồi
núi, đất nông nghiệp chỉ chiếm một phần nhỏ (khoảng 1/4). Xen kẽ giữa các
cánh rừng là các thung lũng lòng chảo, lòng máng chạy dọc theo các con suối,
nhân dân đã khai phá, cải tạo thành các chân ruộng trồng lúa nước. Nhiều xã
có cánh đồng rộng lớn như Long Đống, Bắc Sơn, Quỳnh Sơn, Hữu Vĩnh . . .
trở thành vựa lúa của huyện. Ruộng có 3 loại là ruộng nước (nà nặm) và
ruộng cạn chờ mưa (nà lẹng), ruộng lầy, ruộng thụt (nà vùng, nà lún). Ruộng
nước là những đám ruộng thấp quanh năm có nước, có thể cấy hai vụ. Đồng
bào thường đắp phai, đào mương dẫn nước từ các con suối về các cánh đồng.
Ruộng nước có nhiều nhất ở Long Đống, Tân Tri. Bên cạnh các ruộng nước,
đồng bào dân tộc Tày còn khai phá các sườn đồi thấp thành ruộng bậc thang.
Ở các chân ruộng có điều kiện gần suối thì đồng bào làm cọn nước để đưa
nước lên ruộng, còn những thửa ruộng ở trên cao (chân núi, sườn núi, sườn
đồi) phải chờ nước mưa. Do vậy trên ruộng cạn, trước đây đa phần cư dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Tày chỉ trồng lúa một vụ hè thu, còn lại dùng ruộng đó trồng cây thuốc lá.
Loại ruộng thứ ba là ruộng lầy, ruộng thụt ở thung khe hoặc cuối cánh đồng
cũng chỉ cấy được mỗi năm một vụ lúa chiêm.
Lúa bao gồm có hai loại chính: lúa nếp và lúa tẻ. Tại những thửa ruộng
màu mỡ đông bào thường cấy lúa nếp, cùng cấp cho đồng bào một lượng gạo
nếp đủ để dùng quanh năm, nhất là vào các dịp tết. Lúa tẻ được trồng nhiều
hơn, là thực phẩm chính trong các bữa ăn hàng ngày của đồng bào Tày.
- Nương rẫy (rấy): Nhìn chung dân tộc Tày ở Bắc Sơn trồng lúa nước
là chủ yếu, ngoài ra đồng bào còn tận dụng đất soi bãi hoặc có nơi làm thêm
nương để trồng hoa màu và cây ăn quả. Nương rẫy hầu hết thuộc 2 loại:
nương bằng và nương dốc. Các nương này được khai phá bên cạnh các chân
núi, trên các sườn núi. Đất nương thường màu mỡ, nhất là nương mới khai
phá từ rừng già. Nương rẫy chủ yếu trồng ngô, khoai, sắn, các loại đậu đỗ,
bông, chàm nhưng chủ yếu và phổ biến nhất vẫn là trồng ngô và sắn. Phương
thức canh tác thường xen canh, gối vụ, đặc biệt các nương ngô thường được
xen canh các loại đậu, bí, vừng, hoặc trồng ngô được 1 – 2 năm, đất bị bạc
màu đồng bào chuyển sang trồng sắn.
- Vườn và một số cây đặc sản: Phần lớn các gia đình đều có vườn cạnh
nhà hoặc ven đường, ven suối gần bản. Vườn trồng các loại rau, cây gia vị
như gừng, tỏi, nghệ, kiệu . . . và một số loại cây ăn quả: chuối, đu đủ, cam,
chanh, hồng, lê, mận . . . quy mô của vườn từ vài chục đến vài trăm mét
vuông. Sản phẩm của vườn không chỉ cung cấp một phần thực phẩm, hoa quả
cho nhu cầu hàng ngày, mà còn cung cấp sản phẩm trao đổi ở chợ nhất là lê,
mận, quýt.
Bên cạnh những mảnh vườn đa canh kể trên thì từ lâu ở Bắc Sơn đã
xuất hiện những mảnh vườn chuyên canh chuyên trồng các loại quả như:
hồng, na, lê, mác mật, vườn mía . . . đặc biệt là vườn mận ở Bắc Sơn rất phổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
biến, có những bản của người Tày chuyên trồng mận đường như ở thôn An
Ninh II và thôn Minh Quang xã Long Đống hầu như nhà nào cũng có một
vườn mận, có những vườn mận rộng hàng hecta, là nguồn thu nhập chính
trong năm của gia đình. Sản lượng mận mỗi năm thu hoạch trên hàng nghìn
tấn, góp phần quan trọng cải thiện kinh tế nhiều gia đình trong huyện. Ngoài
ra còn phải kể đến lê, là loại quả nổi tiếng lâu đời của đồng bào Tày xứ Lạng.
Quả lê chín vào mùa thu, có màu da lươn, to bằng ấm pha trà, vị ngọt đậm và
có mùi thơm, được nhân dân các vùng xung quanh ưa chuộng. Tuy nhiên, do
năng suất thấp và hiệu quả kinh tế không cao bằng các loại cây ăn quả khác
nên đồng bào Tày ở Bắc Sơn hiện nay không còn trồng nhiều lê, diện tích
vườn lê giảm nhiều so với trước đây.
Trong các thung lũng hẹp, đồng bào tận dụng khai phá các thung lũng
đất tốt, nhiều nước ngầm để trồng quýt hình thành nên các “lân” quýt ở khắp
địa bàn của huyện. Giống quýt vàng Bắc Sơn được trồng từ lâu đời có quả
vàng, chất lượng ngon, quả to, ít hạt, hàm lượng đường và vitamin cao. Quýt
Bắc Sơn không chỉ là đặc sản nổi tiếng trong tỉnh mà còn được nhân dân các
tỉnh miền Bắc biết đến. Theo niên giám thống kê của huyện, tính đến năm
2007, diện tích trồng giống quýt này là 974,1 ha, trong đó có 542,9 ha đang
cho thu hoạch, sản lượng quả hàng năm khoảng 1.600 tấn, năng suất bình
quân gần 30 tạ/ha. Những năm được mùa sản lượng quýt lên tới 2 – 3 nghìn
tấn, đem lại cho nhiều gia đình hàng chục đến hàng trăm triệu đồng. Thu nhập
từ cây quýt có ý nghĩa rất lớn trong việc xoá đói, giảm nghèo cho nhiều hộ
nông dân.
Nói đến kinh tế hộ gia đình của đồng bào Tày ở Bắc Sơn, Lạng Sơn
không thể không kể đến vai trò của các loại cây công nghiệp, nổi tiếng nhất là
hồi, thuốc lá và quế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Hồi là loại cây lưu niên, quả cho tinh dầu, có giá trị kinh tế cao, được
trồng nhiều ở Cao Bằng, Lạng Sơn và miền Nam Trung Quốc, nhưng hồi ở
Lạng Sơn mới cho chất lượng tinh dầu tốt nhất. Hồi được trồng nhiều ở Bắc
Sơn, nhất là các xã Long Đống, Tân Tri, Vạn Thủy. Rừng hồi là tài sản của
cha ông để lại cho con cháu, gắn bó mật thiết đối với đời sống văn hóa của
người Tày ở Bắc Sơn.
Thuốc lá là cây công nghiệp ngắn ngày được trồng rất nhiều ở Bắc Sơn.
Thuốc lá Bắc Sơn thơm ngon nổi tiếng, thường được trồng ở những chân
ruộng cạn, các nương bằng nơi chân núi nơi thuận tiện nước tưới. Ở Bắc Sơn
mỗi năm có hai vụ thuốc lá : vụ Đông – Xuân cho thu hoạch vào tháng cuối
tháng 3 đầu tháng 4, vụ Thu – Đông cho thu hoạch vào cuối tháng 11 đầu
tháng 12 nhưng chủ yếu là trồng vụ Đông – Xuân. Trước đây, đồng bào chủ
yếu trồng thuốc lá sợi nâu để hút. Nhiều năm trở lại đây, thuốc lá sợi vàng
ngày càng được trồng nhiều vì loại này cho năng suất cao hơn hẳn thuốc lá
sợi nâu trước kia.
Cây quế vốn thích hợp với điều kiện khí hậu ở Bắc Sơn nên từ lâu cư
dân ở đây đã trồng loại cây này để làm thuốc, lấy tinh dầu, làm gia vị và lấy
gỗ. Cây quế được trồng ở vườn nhà và trong các thung lũng hoặc trên các
ngọn đồi thấp. Hiện nay, diện tích trồng quế ngày càng được mở rộng, đặc
biệt là ở các xã Tân Tri và xã Vạn Thủy. Cây quế ngày càng có vị trí quan
trọng trong đời sống của đồng bào ở Bắc Sơn.
Với nhiều loại cây trồng phong phú, từ rau xanh, cây gia vị, hoa quả
đến các loại cây công nghiệp, vườn đã chứng tỏ vai trò quan trọng trong đời
sống đồng bào dân tộc Tày ở Bắc Sơn, nhất là các vườn cây chuyên canh,
ngày càng góp phần quan trọng vào việc cải thiện kinh tế các gia đình. Cùng
với sự thuận lợi về giao thông và sự phát triển thương mại – du lịch của
huyện, sự quan tâm của huyện về việc duy trì và phát triển các vườn cây đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
sản đã làm cho đồng bào dân tộc Tày ở Bắc Sơn có thêm động lực để mở rộng
và phát triển, góp phần thúc đẩy kinh tế hàng hóa trong đời sống của đồng bào
dân tộc Tày nói riêng và của các dân tộc trong huyện nói chung.
Chăn nuôi:
Dân tộc Tày ở Bắc Sơn chăn nuôi nhiều loại gia súc: trâu, bò, lợn, gà,
ngựa, dê, lợn . . . và gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng; nuôi ong mật, thả cá ao,
trong đó đặc biệt là nuôi trâu, bò, lợn, gà, vịt.
Là cư dân trồng trọt, từ xa xưa việc nuôi trâu, bò để có sức kéo đã được
đồng bào chú ý. “Con trâu là đầu sức kéo” giúp đồng bào thâm canh ruộng
nước vùng thung lũng, cày nương. Đồng thời nuôi trâu, bò còn nhằm lấy phân
bón để canh tác. Trâu được nuôi nhiều ở Bắc Sơn vì trâu chịu được cái lạnh
khắc nghiệt ở vùng này, cày khỏe hơn, bán được giá hơn bò. Trâu, bò được
nuôi tương đối đơn giản: ban ngày thì xua trâu, bò đi ăn, tối lùa về chuồng.
Đồng bào dân tộc Tày thường làm chuồng dưới gầm sàn để tránh thú dữ bắt.
Những năm gần đây, chuồng đã được đưa ra cạnh nhà để tránh ô nhiễm. Mỗi
gia đình thường có dăm ba con, có nhà có từ hơn chục con đến vài chục con,
nhất là những gia đình ở trong các thung lũng. Trong điều kiện hiện nay, mặc
dù các loại máy cày, bừa cũng đã được đồng bào sử dụng nhưng nuôi trâu, bò
vẫn rất được chú trọng và trâu, bò ngày càng có giá trị, bán được từ vài triệu
đến vài chục triệu một con trâu tốt và khỏe. Tập quán nuôi trâu, bò trước đây
thường thả rông, đến mùa vụ mới được đưa về. Ngày nay chủ yếu là chăn dắt,
nhưng ở một số nơi vùng sâu và xa, sau mùa vụ trâu bò vẫn được lùa vào các
thung lũng thả rông.
So với trâu, bò thì ngựa ít được nuôi hơn, chỉ có ở các xã vùng sâu xa,
đi lại khó khăn. Ngựa chủ yếu là dùng để đi lại, thồ, cũng có thể dùng để cày,
nhưng chủ yếu là dùng để thồ và kéo xe.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Việc nuôi lợn phổ biến trong các gia đình Tày nhằm đáp ứng nhu cầu
lấy thịt, làm kinh tế hoặc phục vụ các lễ nghi. Lợn hầu như được nuôi ở mọi
gia đình, nhà ít có vài ba con nhà nuôi nhiều tới dăm mười con. Việc chăn
nuôi hầu như vẫn giữ nguyên kiểu cổ truyền. Đồng bào nuôi giống lợn đen địa
phương khá to, gọi là lợn lang đầy năm có thể đạt trọng lượng khoảng 1 tạ.
Họ quan niệm nuôi lợn mõm đen có vệt trắng hoặc mõm trắng có vệt đen (mu
pác mai) thì vừa hay ăn chóng lớn vừa đem may mắn đến cho gia đình. Thức
ăn cho lợn chủ yếu là chuối, rau lang, ngô sắn do đồng bào tự trồng. Lợn có
thể thả rông hoặc nuôi trong chuồng, trước đây đồng bào nuôi lợn theo cách
sinh đẻ tự nhiên, lợn nái tự tìm ổ đẻ trong rừng, sau khi đàn con tương đối lớn
(khoảng hơn một tháng) lợn mẹ mới dẫn đàn con về chuồng. Ngày nay, có
nhiều gia đình nuôi lợn với qui mô lớn, mang tính chất kinh doanh hàng hóa,
áp dụng phương thức chăn nuôi mới, trở thành nguồn thu nhập chính và quan
trọng nhất của gia đình.
Đồng bào dân tộc Tày ở Bắc Sơn đã có tập quán nuôi gà, vịt nhằm cải
thiện đời sống và phục vụ cho các ngày lễ, tết, đặc biệt người Tày hay nuôi gà
thiến để ăn tết âm lịch và đi xêu bố mẹ vợ. Thông thường đồng bào nuôi gà
thả đồi là chính, gần đến những ngày tết đồng bào mới nhốt lại vỗ béo. Mỗi
gia đình thường nuôi vài chục con gà, nhà nuôi nhiều thì lên đến hàng trăm
con. Vịt cũng được nuôi nhiều, nhất là ở những vùng gần suối, thung lũng, có
cánh đồng rộng lớn như xã Long Đống, Quỳnh Sơn có những đàn vịt lớn từ
vài trăm đến nghìn con. Trước đây, vào thời thuộc Pháp, ở khu vực Mỏ Nhài
còn có cả lò ấp vịt, chuyên cung cấp vịt con cho đồng bào trong vùng. Vịt
thường được nuôi và thả luôn trên các con suối và cánh đồng. Nhà nuôi vịt
thường làm lều ra ngoài cánh đồng để tiện cho việc chăn nuôi.
Các gia đình ở những vùng thấp thường có ao thả cá. Ao thường được
đào gần nhà, vừa để thả cá vừa có cầu để rửa, đa phần là ao nhỏ. Đồng bào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
thường thả một số loại cá như: trắm cỏ, mè, chép, trôi . . .nhưng chủ yếu là để
phục vụ nhu cầu của gia đình, nhằm cải thiện bữa ăn hàng ngày, không mang
tính sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, ở những xã vùng sâu, trong các thung lũng, một số gia đình
còn nuôi cả ong mật, người Tày gọi là “mèng thương”. Ong nuôi không
nhiều, chỉ khoảng 3 – 4 tổ, được nuôi nhiều vào mùa hoa hồi nở vì mật lấy từ
hoa hồi có mùi vị thơm, có vị ngọt dịu, màu hổ phách, dùng để bổ dưỡng sức
khỏe và để chữa bệnh. Tổ ong thường bố trí gần nhà hoặc ở các góc vườn.
Mật ong còn có thể làm thuốc chữa các bệnh đơn giản như bệnh ho, ngâm
rượu để bồi bổ sức khỏe hoặc làm quà biếu bà con họ hàng.
Nhìn chung việc chăn nuôi của đồng bào dân tộc Tày cũng được chú
trọng, phát triển phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, kinh tế chăn nuôi vẫn
còn trong khuôn khổ là kinh tế phụ của gia đình, hỗ trợ cho kinh tế chính là
trồng trọt.
Kinh tế tiểu thủ công nghiệp gia đình.
Thủ công nghiệp gia đình ở người Tày Bắc Sơn xuất hiện từ lâu đời,
tuy chỉ là kinh tế phụ, song các nghề tiểu thủ công nghiệp cũng tương đối
phong phú (đan lát, dệt vải, nghề làm mộc, và chế biến lâm thổ sản) và đã tác
động khá mạnh đến sự phân công lao động trong các gia đình. Các nghề như
đan lát, làm mộc, đục đá, ép tinh dầu hồi thuộc về nam giới, thường là những
người có tuổi tích lũy được nhiều kinh nghiệm. Bật bông, kéo sợi, dệt vải,
nhuộm chàm là công việc của phụ nữ. Sản phẩm làm ra để đáp ứng nền kinh
tế tự cấp, tự túc. Công cụ làm nghề thủ công rất đơn giản, thô sơ nhưng sản
phẩm làm ra lại đẹp, và tiện dụng.
Đan lát: hầu như các gia đình dân tộc Tày ở Bắc Sơn đều biết đan lát
để tạo ra các vật dụng dùng trong sinh hoạt của gia đình hàng ngày, từ những