Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

202 Kiểm toán nội bộ và sự phối hợp giữa kiểm toán viên nội bộ với kiểm toán viên bên ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.28 KB, 52 trang )

Đề án môn học Kiểm toán Khoa Kế toán
Lời mở đầu
* * *
Cùng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội, cơ chế thị trờng ra đời đã làm cho
các hoạt động tài chính và sở hữu ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Vì thế chức
năng kiểm tra của kế toán dần dần không đáp ứng đợc nhu cầu của ngời sử dụng
thông tin và kiểm toán ra đời là một tất yếu khách quan. Từ khi xuất hiện, ngành
kiểm toán liên tục phát triển cả về lý luận, thực tiễn và ngày càng có vai trò quan
trọng, khẳng định mình là một môn khoa học, một lĩnh vực nghiên cứu riêng. Cơ chế
thị trờng cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực vơn lên từ chính
bản thân mình. Điều này đòi hỏi các nhà quản trị phải có những quyết định và phơng
pháp quản lý đúng đắn để bảo đảm cho việc kinh doanh có hiệu quả. Đó cũng là lý
do xuất hiện loại hình kiểm toán nội bộ (KTNB). Với sự hiện diện của mình, KTNB
giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp có đầy đủ các thông tin chính xác về tình
hình hoạt động của doanh nghiệp mình, về các báo cáo tài chính đợc lập cũng nh
nhiều báo cáo khác để làm cơ sở cho việc quản trị doanh nghiệp.
KTNB tuy là một lĩnh vực mới mẻ nhng đó là một trong những công cụ hữu
hiệu và có vai trò hết sức to lớn trong việc đánh giá tính chính xác của các báo cáo
tài chính, kiểm toán tính tuân thủ, hoạt động trong doanh nghiệp, taọ niềm tin cho
những ngời sử dụng thông tin và là cơ sở để ra các quyết định của nhà quản trị.
Trớc đây có quan điểm cho rằng hoạt động kiểm toán nội bộ là sự mở rộng công
việc của kiểm toán viên bên ngoài. Thực tế, trong nhiều trờng hợp, chơng trình kiểm
toán nội bộ do kiểm toán viên bên ngoài đặt ra và trực tiếp sử dụng đẻ phục vụ nhu
cầu của kiểm toán bên ngoài. Hiện nay, tuy có một số mặt quan tâm chung, nhng
những u tiên của kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên ngoài lại rất khác nhau. Kiểm
toán viên bên ngoài có trách nhiệm chủ yếu với các bên, ngoài tổ chức khách hàng,
còn kiểm toán viên nội bộ thì chịu trách nhiệm chủ yếu với tổ chức. Kiểm toán viên
Đào Thị Nhung 1 Kiểm toán 46b
Đề án môn học Kiểm toán Khoa Kế toán
bên ngoài quan tâm đặc biệt đến sự đúng đắn của báo cáo tài chính, còn kiểm toán
viên nội bộ thì đặt mối quan tâm hàng đầu vào hiệu quả chung của các nghiệp vụ và


khả năng có lãi của công ty. Mặc dù hai nhóm kiểm toán khác nhau về nhiệm vụ chủ
yếu, nhng vẫn có những mối quan tâm chung làm cơ sở cho một sự kết hợp tác dụng
rộng rãi.
Với tinh thần đó, đề tài Kiểm toan nội bộ và sự phối hợp giữa kiểm toán viên
nội bộ với kiểm toán viên bên ngoài xin đợc đề cập đến những khía cạnh liên quan
đến công tác KTNB và sự phối hợp giữa kiểm toán viên nội bộ với kiểm toán viên
bên ngoài nh thê nào để đem lại hiệu quả.
Nội dung chuyên đề gồm:
Phần I: Những lí luận chung về KTNB và sự phối hợp với kiểm toán viên bên
ngoài.
Phần II: Thực trạng KTNB trong các DNNN và sự phối hợp với kiểm toán
viên bên ngoài ở Việt Nam hiện nay.
Phần III: Một số đề xuất cải thiện việc tổ chức hoạt động KTNB và sự phối
hợp giữa kiểm toán nội bộ với kiểm toán viên bên ngoài ở Việt Nam.
Mặc dù đã cố gắng tìm hiểu và nghiên cứu, song do hạn chế về kiến thức nên
chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận đợc sự góp y
của các thầy cô giáo để chuyên đề của em đợc hoàn thiện hơn nữa.
Để hoàn thiện chuyên đề, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của
TS. Nguyễn Phơng Hoa và các thầy cô trong khoa kế toán.
Đào Thị Nhung 2 Kiểm toán 46b
Đề án môn học Kiểm toán Khoa Kế toán
Chơng I
Lý luận chung về kiểm toán nội bộ và sự phối
hợp với kiểm toán viên bên ngoài
1.1. Khái quát chung về KTNB
1.1.1 Sự hình thành và phát triển của KTNB
Hoạt động của kiểm toán nói chung đã xuất hiện từ lâu trên thế giới cùng với sự
phát triển không ngừng về kinh tế và xã hội cũng nh nhiều mặt khác của mỗi quốc
gia . So với kiểm toán độc lập và kiểm toán Nhà nớc thì loại hình KTNB ra đời muộn
hơn, bắt đầu từ năm 1940 mới xuất hiện khái niệm KTNB. Nhng nó có sự phát triển

rất mạnh mẽ đặc biệt trong công việc quản trị doanh nghiệp. Các đơn vị kiểm toán cơ
sở phát hiện ra rằng hệ thống KTNB là phơng tiện quản lí có hiệu quả và là công cụ
đắc lực giúp các nhà quản lí giám sát đợc toàn bộ hoạt động của đơn vị mình. Không
những thế, trong các cơ quan nhà nớc việc hình thành các bộ phận KTNB để kiểm tra
thờng xuyên các hoạt động trong cơ quan đang tỏ ra có nhiều tác dụng thiết thực.
Với sự lớn mạnh và gia tăng quy mô các doanh nghiệp vài thập niên gần đây,
tầm quan trọng KTNB cũng lớn mạnh một cách tơng ứng, làm cho nó trở thành yếu
tố chính trong việc thiết lập hệ thông kiểm soát và kiểm tra nội bộ.ở một số nớc, cơ
quan lập pháp đã đa ra những văn bản pháp luật nhằm tạo ra hành lang pháp lí để tạo
điều kiện cho KTNB hoạt động và phát triển. Bộ phận KTNB đã phát triển mạnh ở
Mỹ cũng nh ở châu Âu từ những năm 60. Sự phát triển này đă đợc khuyến khích bởi
sự thành lập của trờng đào tạo kiểm toán nội bộ (IIA) năm 1941 tại New York, tổ
chức này đã xác định bản chất, mục tiêu và phạm vi hoạt động của bộ phận KTNB.
Tiếp đó là sự xuất hiện của Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ ở Pháp từ năm 1965 và
sau đó trở thành Viện nghiên cứu của kiểm toán viên và kiểm toán viên nội bộ của
Pháp (IFAC) vào năm 1973. Phổ biến ở các nớc, việc trao đổi kinh nghiệm và bồi d-
ỡng nghiệp vụ kiểm toán nội bộ đã đợc thực hiện ở các hiệp hội kế toán viên.
Đào Thị Nhung 3 Kiểm toán 46b
Đề án môn học Kiểm toán Khoa Kế toán
ở Việt Nam, theo quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với
doanh nghiệp Nhà nớc, ban hành kèm theo Nghị định 59/CP ngày 03 tháng 10 năm
1996 của Chính phủ (đợc sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định 27/CP-1999)
báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp nhà nớc phải đợc kiểm tra, xác nhận
của kiểm toán độc lập hoặc kiểm toán nội bộ. Nh vậy quy đinh này đã bớc đầu tạo
hành lang pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của kiểm toán nội bộ. Đến ngày 28
tháng 10 năm 1997 Bộ trởng Bộ tài chính ký Quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT ban
hành Quy chế kiểm toán nôi bộ - kiểm toan nội bộ chính thức xuất hiện.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nội dung hoạt động của kiểm toán
nội bộ
1.1.2.1. Khái niệm kiểm toán nội bộ

Hiểu một cách cơ bản, kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập đợc thiết lập
trong đơn vị tiến hành công việc kiểm tra đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu
quản trị nội bộ đơn vị.
Theo Liên đoàn kế toán quốc tê (IFAC), kiểm toán nội bộ là một hoạt động
đánh giá độc lập đợc thiết lập ra trong một doanh nghiệp nh là một loại dịch vụ cho
doanh nghiệp đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát thích hợp và hiệu quả
của hệ thống kế toán và kiểm toán nội bộ. Mục tiêu của kiểm toán nội bộ là giúp đỡ
các thành viên của tổ chức hoàn thành trách nhiệm của họ một cách hiệu quả, giúp
cho các nhà quản lý cấp cao trong đơn vị quán xuyến đợc các hoạt động đã và đang
diễn ra trong đơn vị, bao gồm: những qui tắc đặt ra có đợc tuân thủ không? Tài sản
có đợc sử dụng hợp lý không? Cán bộ công nhân viên làm việc có hiệu quả không?
Các qui định hiện hành có còn phù hợp khi điều kiện thay đổi?
Nh vậy, KTNB hình thành và phát triển xuất phát từ nhu cầu quản lí của bản
thân doanh nghiệp. KTNB là chức năng đánh giá một cách độc lập và khách quan cơ
cấu kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Phạm vi của kiểm toán nội bộ bao gồm tất cả
Đào Thị Nhung 4 Kiểm toán 46b
Đề án môn học Kiểm toán Khoa Kế toán
mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp ở tất cả các cấp quản lí khác nhau. KTNB xem
xét, đánh giá và báo cáo về thực trạng của hệ thống kiểm soát nội bộ, đa ra những
phân tích, kiến nghị, t vấn mang tính chuyên nghiệp để lãnh đạo doanh nghiệp có cơ
sở tin cậy trong việc quản lí có hiệu quả các hoạt động của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Chức năng của kiểm toán nội bộ
KTNB hình thành do nhu cầu quản lí cho nên chức năng của nó cũng trải qua
quá trình phát triển từ thấp đến cao cùng với khoa học quản lí kinh tế, trình độ và
kinh nghiệm quản lí của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Mặc dù theo kinh nghiệm
của các nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển, chức năng của KTNB hiện đại là đánh
giá độc lập hệ thống kiểm soát nội bộ, nhng chức năng truyền thống của KTNB là
xem xét, đánh giá độ tin cậy, thống nhất của các thông tin tài chính và hoạt động,
đánh giá việc sử dụng tiết kiệm, hữu ích, có hiệu quả vốn và tài sản doanh nghiệp.
Chính vì vậy, việc quy định chức năng, nhiệm vụ cho KTNB cần phải xem xét phù

hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng khu vực kinh tế, từng ngành và từng
đơn vị.
1.1.2.3. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ
Về cơ bản, nhiệm vụ của KTNB bao gồm các nhiệm vụ sau:
- Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ, tài liệu, số liệu kế toán,
việc chấp hành chế độ, thể lệ kế toán tài chính của nhà nớc.
- Kiểm tra và xác nhận mức độ trung thực, hợp lí của báo cáo quyết toán do
kế toán và các bộ phận khác trong DN lập ra.
- Kiểm tra xác nhận giá trị vốn góp của DN và các đối tác tham gia liên
doanh với DN. Kiểm tra xác nhận tính trung thực, hợp lí, đầy đủ của số
liệu kế toán và báo cáo quyết toán của đơn vị liên doanh.
Đào Thị Nhung 5 Kiểm toán 46b
Đề án môn học Kiểm toán Khoa Kế toán
- Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lí của hệ thống kiểm soát nội bộ trong
đó có hệ thống kế toán. Giám sát sự hoạt động và tham gia hoàn thiện
chúng.
- Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lí của quy chế kiểm soát nội bộ, đồng
thời có kiến nghị hoàn thiện các quy chế này.
Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ trên, KTNB có trách nhiệm hớng dẫn
nghiệp vụ cho cán bộ kế toán và các cán bộ nghiệp vụ khác có liên quan, đề xuất các
quyết định quản lí, xử lí về tài chính kế toán và các nội dung xử lí khác.
1.1.2.4. Quyền hạn của kiểm toán nội bộ
Do đặc trng của KTNB là kiểm tra, xác minh tính đúng đắn của các báo cáo tài
chính trong doanh nghiệp, tính tuân thủ và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nên
KTNB có những quyền hạn riêng để đảm bảo mục đích hoạt động. KTNB có quyền:
- Thứ nhất, KTNB độc lập với các bộ phận khác trong doanh nghiệp, độc
lập về chuyên môn nghiệp vụ trong phạm vi khuôn khổ luật pháp và các
chuẩn mực, phơng pháp nghiệp vụ chuyên môn.
- Thứ hai, yêu cầu các bộ phận và các cá nhân có liên quan cung cấp đầy
đủ, kịp thời các tài liệu về kế toán, tài chính và các tài liệu khác có liên

quan tới nội dung kiểm toán.
- Thứ ba, có quyền đối chiếu xác minh các thông tin kinh tế có liên quan
tới đối tợng đợc kiểm toán ở trong và ngoài doanh nghiệp.
- Thứ t, có quyền kiến nghị với đối tợng đợc kiểm toán có biện pháp sửa
chữa sai phạm và có quyền ghi ý kiến của mình vào báo cáo kiểm toán .
- Thứ năm, có quyền đề xuất với lãnh đạo doanh nghiệp những kiến nghị và
biện pháp về quản lý.
Đó là những quyền hạn cơ bản của KTNB. Bên cạnh đó, tuỳ thuộc vào từng
doanh nghiệp, từng điều kiện cụ thể mà KTNB có thể có thêm các quyền hạn khác.
Đào Thị Nhung 6 Kiểm toán 46b
Đề án môn học Kiểm toán Khoa Kế toán
1.1.2.5. Nội dung hoạt động của kiểm toán nội bộ
Các hoạt động mà kiểm toán nội bộ tiến hành bao gồm:
- Rà soát lại hệ thống kế toán và các qui chế kiểm soát nội bộ có liên
quan,giám sát sự hoạt động của các hệ thống cũng nh tham gia hoàn thiện
chúng.
- Kiểm tra các thông tin tác nghiệp, thông tin tài chính bao gồm việc rà
soát lại các phơng tiện đã sử dụng để xác định, tính toán, phân loại và baó
cáo những thông tin này, kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ, các số d và các
bớc công việc.
- Kiểm tra tính hiệu quả , sự tiết kiệm và hiệu suất của các hoạt động kể cả
các qui định không có tính chất tài chính của doanh nghiệp.
Nh vậy, lĩnh vực chủ yếu của KTNB là kiểm toán hoạt động của các bộ phận
trong doanh nghiệp. Ngoài ra, KTNB cũng tiến hành các nội dung kiểm toán tuân thủ
để xem xét việc chấp hành các chính sách, qui định của doanh nghiệp.
1.2. Sự phối hợp giữa kiểm toán nội bộ với kiểm toán viên bên ngoài
1.2.1. Sự cần thiết phải phối hợp
Trên thực tế, doanh nghiệp đợc cung cấp những dịch vụ kiểm toán chính từ hai
nguồn khác nhau kiểm toán viên nội bộ và kiểm toán viên bên ngoài điều này
đã tạo ra sự trong dợi là có những mối quan hệ qua lại làm cơ sở cho sự phối hợp mà

ngời ta mong muốn. Cho dù một loại hình dịch vụ kiểm toán là do kế toán viên độc
lập của Nhà nớc thực hiện còn loại hình kia do các nhân viên thuộc phòng kiểm toán
nội bộ của bản thân doanh nghiệp đảm nhận, nhng cả hai nỗ lực kiểm toán đều phải
xử lý hồ sơ và nhân sự của cùng một công ty. Do đó, khả năng trùng lặp không cần
thiết về cố gắng hoặc những yêu cầu quá mức đối với phòng nhân sự là không tránh
đợc. Đồng thời, cũng thờng có khả năng tiềm tàng là toàn bộ nỗ lực kiểm toán có thể,
trong chừng mực nào đó, đợc hợp nhất theo một cách thức để đáp ứng có hiệu quả
hơn những mục tiêu và mục đích lớn hơn của doanh nghiệp. Vì vậy, chúng ta cần biết
Đào Thị Nhung 7 Kiểm toán 46b
Đề án môn học Kiểm toán Khoa Kế toán
rõ hơn những mục đích ban đầu của từng nhóm kiểm toán và việc đạt đợc những mục
đích này có thể liên quan nh thế nào tới, một cách gián tiếp hoặc trực tiếp, những mối
quan tâm chung. Chúng ta cũng cần biết nhiều hơn về những mối quan tâm chung
này và làm thế nào để có thể thoả mãn đợc chúng một cách tốt nhất thông qua những
kiểu phối hợp đặc biệt.
1.2.2. Cơ sở của sự phối hợp hiệu quả
1.2.2.1. Những mối quan tâm ban đầu và thứ yếu
Sự phối hợp hiệu quả của kiểm toán viên (KTV) nội bộ và KTV bên ngoài khởi
đầu cùng với sự hiểu biết về những mối quan tâm ban đầu và thứ yếu của mỗi loại
kiểm toán viên. Sau đó sự hiểu biết này sẽ là cơ sở cho việc nhìn nhận những mối
quan tâm chung.
Những mối quan tâm ban đầu của kiểm toán viên nội bô.
Kiểm toán nội bộ là chứng năng đánh giá độc lập đợc thiết lập trong một đơn vị
nh là một loại hình dịch vụ nhằm xem xét và đánh giá các hoạt động của nó. Mục
đích của KTNB là nhằm giúp đỡ các thành viên của đơn vị trong việc hoàn thành các
trọng trách của mình một cách có hiệu quả bằng việc tổng kết và đánh giá hệ thống
kiểm soát nội bộ. Trong việc làm này, KTV nội bộ theo đuổi việc bảo vệ đơn vị ở
những khía cạnh nh tính trung thực và độ tin cậy của thông tin, việc tuân thủ chính
sách, kế hoạch, thủ tục và quy định cũng nh việc bảo vệ tài sản. Đồng thời, KTV nội
bộ cũng theo đuổi việc giúp đỡ đơn vị nhằm đạt đợc độ thoả dụng các nguồn lực một

cách hữu ích hơn. Những mối quan tâm này có liên quan đến toàn bộ hệ thống kiểm
soát nội bộ nhng chúng cũng bao gồm và dựa vào phần việc của kiểm soát nội bộ mà
gắn lion với việc ghi nhận các giao dịch và việc chuẩn bị các báo cáo tài chính.
Những mối quan tâm ban đầu của kiểm toán viên bên ngoài.
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong một môi trờng mà ở đó trong nhiều phơng
diện nó có gắn bó mật thiết với cổ đông, nhà đầu t, chủ nợ, cơ quan của Chính phủ,
Đào Thị Nhung 8 Kiểm toán 46b
Đề án môn học Kiểm toán Khoa Kế toán
các đơn vị khác và cá nhân khác. Trong mối tơng quan này, đơn vị phải cung cấp
thông tin và mô tả các khoản mục chính của báo cáo tài chính - đặc biệt là tình hình
tài chính đợc trình bày trong bảng cân đối kế toán và kết quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh đợc trình bày trong báo cáo thu nhập. Trách nhiệm của đơn vị là chuẩn bị
các báo cáo tài chính nhng chúng phải đợc ai đó ở ngoài đơn vị là ngời với tính độc
lập và kỹ năng nghề nghiệp đặc biệt có thể cung cấp một số các dịch vụ khác, nhng
nhiệm vụ ban đầu của anh ta có liên quan tới báo cáo tài chính là cung cấp ý kiến độc
lập cần thiết đã nêu trớc đây về sự công khai trung thực của những báo cáo này. Do
đó, mối quan tâm ban đầu của KTV bên ngoài phải thực sự là tính hợp lý và đúng
đắn mang tính nghề nghiệp của ý kiến độc lập này.
Tuy nhiên, các báo cáo tài chính của đơn vị dựa trực tiếp vào những thủ tục và
sổ sách quan trọng mà phản ánh kết quả hoạt động liên tục của đơn vị. Đây lại là hệ
thống kiểm soát kế toán nội bộ - một phần mối quan tâm rộng hơn của KTV nội bộ.
Nh vậy, mặc dù cả KTV nội bộ và KTV bên ngoài đều có những nhiệm vụ ban đầu
rất khác nhau nhng họ có mối quan tâm thứ yếu chung về tính đầy đủ của hệ thống
kiểm soát nội bộ của đơn vị. Đó là mối quan tâm chung cung cấp cơ sở hợp lý chủ
yếu cho nỗ lực phối hợp hiệu quả giữa hai loại kiểm toán này.
Những mối quan tâm chung thứ yếu khác.
Thực chất của mối quan tâm chính trong hệ thống kiểm soát kế toán nội bộ
không thể phủ nhận những mối quan tâm chung thứ yếu khác. Chẳng hạn, đứng về
lợi ích của toàn bộ công ty, KTV nội bộ quan tâm đến việc tổ chức tìm kiếm dịch vụ
kiểm toán bên ngoài sao cho cung cấp giá trị tốt với giá phí phải trả và tối thiểu hoá

việc can thiệp vào các hoạt động khác đang diễn ra trong đơn vị. KTV nội bộ có mối
quan tâm cơ bản gần giống với KTV bên ngoài khi họ là bất cứ ngời bán nào khác
cùng với năng lực đặc biệt trong trờng hợp có hiểu biết tốt hơn về phạm vi mà sản
phẩm bán đặc thù đợc cung cấp. Mặt khác, KTV bên ngoài cũng quan tâm đến lợi
ích của công ty, đặc biệt với nghĩa là một khách hàng giàu có thì đó là một nhân tố
quan trọng hơn đối với uy tín và doanh thu của hãng kiểm toán t nhân bên ngoài. ở
Đào Thị Nhung 9 Kiểm toán 46b
Đề án môn học Kiểm toán Khoa Kế toán
một chừng mực nào đó, KTV bên ngoài cũng biết rằng nhà quản lý của công ty đó sẽ
chờ đợi ở họ lời khuyên trong việc đánh giá tính hiệu quả của kiểm toán nội bộ, bao
gồm cả phạm vi và chất lợng cả các dịch vụ khác nhau của kiểm toán nội bộ. KTV
bên ngoài cũng biết rằng quản lý thờng sẽ mong đợi nếu không nói là đòi hỏi - rằng
KTV bên ngoài sẽ đa ra tất cả sự cân nhắc có thể đối với công việc của KTV nội bộ
trong khi thực hiện công việc kiểm toán của chính mình. Do đó, tất cả những mối
quan tâm thứ yếu này của hai nhóm kiểm toán có ảnh hởng đến việc tăng cờng thêm
mối quan tâm đã có trong những nỗ lực phối hợp hiệu quả.
1.2.2.2. Thái độ đúng đắn của mỗi nhóm kiểm toán
Mặc dù những mối quan tâm ban đầu và thứ yếu của KTV nội bộ và KTV bên
ngoài đã tạo ra cơ sở phong phú cho việc thiết lập một nỗ lực phối hợp hiệu quả nhng
mỗi nhóm kiểm toán vẫn cần có thái độ đúng đắn của mình. Những nhà kiểm toán
chuyên nghiệp cũng giống nh bất kỳ cá nhân nào khác. Do đó, họ có thể lệ thuộc vào
những vấn đề tơng tự nh lòng tự trọng, sự ghen tỵ, lợi ích cá nhân bị méo mó, sự
chậm chạp, thiếu tự tin và những yếu tố phản tác dụng khác. Những khả năng này th-
ờng không đợc xem xét một cách khách quan và vô tình trỏ thành cơ sở cho sự khẳng
định những lý do thực tế hơn đối với việc cản trở nỗ lực phối hợp hiệu quả. Những
vần đề này cũng thờng xuyên cản trỏ nỗ lực phối hợp hiệu quả thực sự.
1.2.2.3. Sự hiểu biết mang tính cộng tác ở bộ máy lãnh đạo
Nhân tố nền tảng chủ yếu khác cho sự phối hợp hiệu quả của hai nỗ lực kiểm
toán là sự hiểu biết những nhân tố có liên quan tồn tại ở bộ máy lãnh đạo. Trong đó,
ba cá nhân có ảnh hởng đặc biệt quan trọng là giám đốc tài chính, giám đốc điều

hành và chủ tịch uỷ ban kiểm toán của ban giám đốc.
Vai trò của giám đốc tài chính. Giám đốc tài chính (CFO) là ngời có quan hệ
trực tiếp nhất với hãng kiểm toán bên ngoài - nơi chịu trách nhiệm về những cam kết
kiểm toán đặc biệt bởi Giám đốc tài chính thờng phải đảm nhận trách nhiệm về các
Đào Thị Nhung 10 Kiểm toán 46b
Đề án môn học Kiểm toán Khoa Kế toán
hoạt động kiểm toán tài chính và kế toán mà cấu thành nên hệ thống kiểm soát kế
toán nội bộ và cũng bao gồm hàng loạt các hoạt động dẫn đến kết quả cuối cùng là
các báo cáo tài chính đang đợc KTV bên ngoài xem xét. Chính Giám đốc tài chính là
ngời làm việc đầu tiên với kiểm toán vien bên ngoài để đi tới sự thoả thuận về bản
chất và phạm vi xem xét của KTV bên ngoài.
Nh vậy, mức độ quan trọng của các dữ liệu kiểm toán nội bộ và những khả năng
tận dụng chúng thông qua sự phối hợp hiệu quả, mà Giám đốc tài chính nhấn mạnh,
đã trở thành một định tố chính của quan tâm mà KTV bên ngoài dành cho nỗ lực
phối hợp này. Đồng thời, Giám đốc tài chính có thể tác động, ở các mức độ khác
nhau, bằng niềm tin hay quyền lực của mình, đối với sự cộng tác đó.
Vai trò của giám đốc điều hành. Theo truyền thống, giám đốc điều hành (CEO)
giao cho giám đốc tài chính trách nhiệm về các hoạt động gắn liền với các hoạt động
kiểm soát tài chính và việc thoả thuận với KTV bên ngoài về hoạt động kiểm toán
theo thông lệ hàng năm. Tuy nhiên, việc ban hành Luật những hành vi hối lộ nớc
ngoài vào năm 1977 đã có xu hởng nhiều hơn đến giám đốc điều hành trong những
phần việc này. Đặc biệt kết quả của những quy định do Uỷ ban Chứng khoán và Giao
dịch đề xuất đã yêu cầu giám đốc điều hành ký một báo cáo quản lý trong đó bao
gồm việc trình bày về tính đầy đủ của hệ thống kiểm soát kế toán nội bộ. Tất cả
những quy định này có xu hớng ảnh hởng sâu rộng hơn đến giám đốc điều hành
trong việc giao dịch với KTV bên ngoài và do đó đóng góp quan trọng trong việc
thúc đẩy cách tiếp cận nghiêm túc hơn về tiến trình phối hợp.
Vai trò của Uỷ ban kiểm toán. Uỷ ban kiểm toán, dới sự lãnh đạo của chủ tịch
uỷ ban kiểm toán (CAC), ngày càng nhận trách nhiệm nhiều hơn về việc tuyển dụng
và thông qua các điều khoản hợp đồng của KTV bên ngoài. Sau đó, Uỷ ban kiểm

toán cũng có vai trò tích cực hơn trong việc phối hợp các nỗ lực của kiểm toán nội bộ
và kiểm toán bên ngoài. Điều này không có nghĩa rằng vai trò của các bên liên quan
khác là không cực kỳ quan trọng. Nhng sự tham gia của uỷ ban kiểm toán có uy tín
lớn - đặc biệt là chủ tịch uỷ ban kiểm toán - và mối quan tâm sâu rộng hơn về sự phối
Đào Thị Nhung 11 Kiểm toán 46b
Đề án môn học Kiểm toán Khoa Kế toán
hợp hiệu quả đã làm tăng thêm sức mạnh cho việc đạt đợc thoả thuận phối hợp một
cách tốt nhất có thể.
Tầm quan trọng của việc hiểu biết đúng đắn. Trong tất cả các hoạt động phối
hợp của các quan chức cấp cao của đơn vị đã đợc trình bày ở trên, việc hiểu biết đúng
đắn của tất cả các cá nhân ngày càng trở nên quan trọng. Đặc biệt cần thiết là sự hiểu
biết về những mối quan tâm ban đầu và thứ yếu của mỗi nhóm kiểm toán và sự cần
thiết phải hoà trộn các nỗ lực kiểm toán đã đợc phối hợp theo cách thức cho phép có
thể đạt đợc tất cả các mục tiêu chính. Một điều cũng đặc biệt quan trọng là các bên
liên quan nhận ra sự cần thiết về trình độ nghiệp vụ cao của mỗi nhóm kiểm toán và
sự cần thiết về quan hệ nghiệp vụ ở mức độ tơng tự giữa KTV nội bộ và KTV bên
ngoài. Điều này cũng bao gồm việc tiếp tục thừa nhận rằng chức năng của nhóm
kiểm toán nội bộ không phải chỉ là trợ giúp cho KTV bên ngoài đạt đợc các mục tiêu
kiểm toán của họ, đồng thời các nguồn lực của nhóm kiểm toán nội bộ phải đợc bảo
vệ để có thể cung cấp một cách hợp lý các dịch vụ cho ban quản lý nhằm đạt đợc
những mục tiêu nghiệp vụ.
1.2.2.4. Những nhân tố thúc đẩy sự phối hợp
Việc phối hợp có hiệu quả giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài bị tác động bởi
những nhân tố mang tính thúc đẩy. Tuy nhiên, các nhân tố thúc đẩy khác nhau thờng
có xu hớng chòng chéo lên nhau. Các nhân tố này biến đổi từ các nhân tố ở mức độ t-
ơng đối thấp đến những nhân tố có tầm quan trọng ở mức độ cao. Chẳng hạn, việc
cản trở những đại diện của hai nhóm kiểm toán này đạt đợc vị trí nghề nghiệp nhất
định một cách đồng thời và sau đó cản trở việc theo đuổi xem xét những sổ sách
giống nhau hoặc thẩm vấn ngời lao động của cùng một công ty. Mặt khác, những
nhân tố thúc đẩy có thể là sự hỗ trợ mang tính hợp tác ở mức độ cao hơn. Ví dụ, việc

trao đổi tài liệu và thông tin liên quan cùng với việc thảo luận và thảo luận chung về
việc triển khai công việc hơn nữa và việc khắc phục những nhợc điểm đã đợc chỉ ra.

Đào Thị Nhung 12 Kiểm toán 46b
Đề án môn học Kiểm toán Khoa Kế toán
1.2.2.5. Những cản trở sự phối hợp
Cũng giống nh những nhân tố thúc đẩy, những cản trở ảnh hởng tới nỗ lực phối
hợp có hiệu quả có thể biến đổi từ những nhân tố ở mức độ rất thấp đến những vật
cản rất lớn. Chúng có thể thay đổi từ những nhợc điểm của riêng KTV nội bộ hoặc
KTV bên ngoài đến những hoạt động ở mức độ cao hơn hoặc những áp lực cản trở sự
phối hợp có hiệu quả có thể phát triển ở mức độ công việc. Tóm lại, chúng tạo thành
những vật cản đối với sự phối hợp có hiệu quả. Những kiểu cản trở chính cần đợc liên
tục lu ý gồm:
- Tính đầy đủ của những chuẩn mực kiểm toán nội bộ.
- Những khuyết điểm có thể về mặt tổ chức của KTV bên ngoài.
- Trách nhiệm pháp lý tiềm tàng của KTV bên ngoài.
1.2.3. Những yếu tố của sự phối hợp hiệu quả
Sự phối hợp giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài có thể đợc thực hiện dới nhiều
hình thức khác nhau. Tuy nhiên, những hoạt động phối hợp này có thể nhóm thành
11 loại sau:
1. Trao đổi tài liệu kiểm toán.
2. Sự chia sẻ trực tiếp về thông tin.
3. Sử dụng phơng pháp luận phổ biến.
4. Hỗ trợ công việc hợp tác.
5. Hợp tác trong đào tạo cán bộ.
6. Triển khai trợ giúp những tài liệu kiểm toán.
7. Lập kế hoạch chung.
8. Phân loại công việc kiểm toán.
9. Tổng hợp các báo cáo kiểm toán.
10.Lập báo cáo chung lên các tổ chức cấp cao hơn.

11.Đánh giá chéo.
Đào Thị Nhung 13 Kiểm toán 46b
Đề án môn học Kiểm toán Khoa Kế toán
1.2.3.1. Trao đổi tài liệu kiểm toán
Kiểu phối hợp cơ bản xoay quanh việc trao đổi tài liệu kiểm toán. Hai tài liệu
chủ yếu là hồ sơ và báo cáo kiểm toán. Những tài liệu này có thể có do KTV nội bộ
và KTV bên ngoài cung cấp cho nhau.
Trao đổi hồ sơ kiểm toán. Đối với hồ sơ kiểm toán, tính sẵn sàng cung cấp
chúng của KTV nội bộ cho KTV bên ngoài là vấn đề ít gây tranh luận nhất và do đó
là phổ biến nhất trong thực tế. Tính logic ở đây là KTV bên ngoài phải kiểm tra
những hồ sơ kiểm toán này ở phạm vi có thể dựa vào công việc của KTV nội bộ. Hơn
nữa, nó thờng đợc nhìn nhận là điều đúng đắn có thể làm cho thông tin trở nên sẵn có
cho KTV bên ngoài mà mặt khác KTV bên ngoài sẽ phải có thêm thời gian để thu
thập với những cách khác nhau. Trong một số trờng hợp KTV nội bộ có thể do dự
trong việc công khai hồ sơ kiểm toán mà chất lợng về mặt chuyên môn của chúng
không đợc nh mong muốn, nhng điều này sẽ là một vấn đề cần có sự sửa chữa cơ bản
đối với những sự kiện của chính nó. Chắc chắn rằng, không một lý do thật sự thích
đáng nào có thể làm cơ sở cho việc KTV nội bộ từ chối cung cấp cho KTV bên ngoài
những hồ sơ kiểm toán này.
Trờng hợp ngợc lại, về mặt nguyên tắc, tính sẵn sàng của những hồ sơ kiểm
toán của KTV bên ngoài cho KTV nội bộ không tơng hợp với tính độc lập và những
trách nhiệm rộng hơn của họ đối với thế giới bên ngoài. Do đó, sự sẵn sàng của
những hồ sơ kiểm toán của KTV bên ngoài là vấn đề khó. Tuy nhiên, tính sẵn sàng
này đợc KTV bên ngoài nới rộng ra, ngoại trừ trờng hợp có thể về bản chất đặc biệt.
Trao đổi những báo cáo. Việc trao đổi những báo cáo giữa KTV nội bộ và
KTV bên ngoài cũng là hợp lý và là thực tế mang tính đặc thù chung. Những báo cáo
của KTV nội bộ đã có ảnh hởng đến những nguyên tắc tơng tự nh hồ sơ kiểm toán.
Do đó, những báo cáo của KTV nội bộ thờng đợc cung cấp một cách tự nguyện cho
KTV bên ngoài và chúng thiết lập nên một phơng tiện quan trọng để tiếp tục thông
báo một cách hợp lý cho KTV bên ngoài. Tuy nhiên trong một số trờng hợp, những

báo cáo đặc biệt của KTV nội bộ có thể đợc giữ kín hoặc không phải là mối quan
Đào Thị Nhung 14 Kiểm toán 46b
Đề án môn học Kiểm toán Khoa Kế toán
tâm của KTV bên ngoài.
Đối với KTV bên ngoài cần phải nhận thức rằng những kiểu báo cáo mô tả bổ
sung cho ý kiến mang tính nguyên tắc là ít phổ biến hơn và chúng thay đổi theo
những điều khoản tuyển dụng kiểm toan riêng. Những báo cáo đặc biệt của KTV bên
ngoài có thể cũng đợc giữ kín và không nên đa lý do vì sao chúng không đợc cung
cấp cho KTV nội bộ. Do đó trong việc cung cấp này, thông thờng nó là thực tế mang
tính chuẩn mực.
1.2.3.2. Chia sẻ trực tiếp thông tin
KTV nội bộ có thể đi sâu vào những vấn đề trong việc trình bày rộng hơn và chi
tiết hơn về những hoạt động điều hành mà sẽ là quan trọng đối với KTV bên ngoài.
Đồng thời, KTV bên ngoài phụ thuộc rất nhiều vào dòng thông tin hữu ích. Do đó, sự
chia sẻ trực tiếp thông tin giữa hai nhóm kiểm toán là rất cần thiết nhằm đáp ứng yêu
cầu, đòi hỏi của cả hai nhóm.
1.2.3.3. Sử dụng những thủ tục kiểm toán phổ biến
Trong nhiều trờng hợp, ngời ta tin rằng hai nhóm kiểm toán đều mong muốn
rắng nhóm kiểm toán nội bộ sẽ tuân theo những thủ tục kỹ thuật tơng tự với những
thủ tục đợc KTV bên ngoài áp dụng. Những ví dụ phổ biến nhất về điều này là những
thủ tục kiểm toán đợc áp dụng trong những phần riêng của toàn bộ nỗ lực kiểm toán
và sự sắp xếp những hồ sơ kiểm toán có liên quan. Sự hợp lý ở đây là tất cả những
thủ tục này đã làm cho KTV bên ngoài dễ dàng hơn trong việc xem xét và sử dụng
công việc của KTV nội bộ.
Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng những thủ tục phổ biến này chỉ là yếu tố tơng
đối không quan trọng và dựa nhiều hơn vào năng lực nghề nghiệp cơ bản. Trong bất
kỳ tình huống nào, các mục tiêu của KTV nội bộ là rộng hơn so với những mục tiêu
của KTV bên ngoài và ở điểm nào đó cấn có sự tiếp cận khác nhau đối với những
Đào Thị Nhung 15 Kiểm toán 46b

×