Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 97 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài:
Ngày nay,với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, đặc
biệt là ngành công nghệ thông tin, đã tác động đến nhiều mặt hoạt động của
đời sống, kinh tế-xã hội , làm thay đổi nhận thức và phương pháp sản xuất
kinh doanh của nhiều ngành kinh tế khác nhau, trong đó có lĩnh vực tài chính
ngân hàng, những khái niệm về ngân hàng điện tử, giao dịch trực tuyến,
thanh toán mua bán qua mạng, ngân hàng ảo, ngân hàng online đã và đang
thu hút sự quan tâm của các ngân hàng trong cả nước nói chung và trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Phát triển các dịch vụ của ngân hàng
điện tử là xu hướng tất yếu, mang tính khách quan của nền kinh tế trong thời
đại hội nhập kinh tế quốc tế. Lợi ích đem lại của ngân hàng điện tử là rất lớn
cho khách hàng ,cho ngân hàng và cho cả nền kinh tế, nhờ tính tiện ích,tiết
kiệm, nhanh chóng, chính xác của nó.
Với ý nghĩa đo, đề tài đặt vấn đề nghiên cứu “ Các giải pháp phát
triển ngân hàng điện tử trên địa bàn TP. HCM” nhằm góp phần đưa hoạt
động ngân hàng trên địa bàn phát triển nhanh hơn,an toàn và hiệu quả hơn
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
-Nghiên cứu về ngân hàng điện tử bao gồm hệ thống các sản phẩm
dịch vụ ngân hàng điện tử và hệ thống mạng lưới ,hệ thống công nghệ .
-Nghiên cứu sự cần thiết khách quan của việc phát triển ngân hàng
điện tử trên địa bàn TP.HCM và nghiên cứu những kinh nghiệm của một số
nước trên thế giới trong lĩnh vực này.
-Nghiên cứu tình hình phát triển của ngân hàng điện tử trên địa bàn
TPHCM: thực trạng, hiệu quả và những tồn tại hạn chế trong quá trình phát
triển ngân hàng điện tử trên địa bàn thành phố.
2
- Trên cơ sở những tồn tại, hạn chế, những yêu cầu đòi hỏi về phát
triển ngân hàng điện tử đề tài đưa ra những giải pháp để phát triển ngân hàng


điện tử trên địa bàn TPHCM.
3. Tình hình nghiên cứu của đề tài:
Trong thời gian qua, do sự phát triển nhanh của cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật. Đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, đã tác động và kéo
theo nhiều hoạt động kinh tế khác phát triển và ứng dụng công nghệ trong
hoạt động kinh doanh. Hoạt động ngân hàng cũng vậy, những ứng dụng công
nghệ hiện đại trong thanh toán, trong quản lý đã và đang tạo ra sự phát triển
nổi bật với nhiều dịch vụ như chuyển tiền điện tử, thanh toán thẻ; dịch vụ
internetbanking; mobilebanking…
Đã có những bài viết về các dịch vụ này nhưng chưa mang tính phổ
biến, hoăc chỉ mang tính gợi ý, giới thiệu trong phạm vi quá hẹp hoặc quá
rộng, chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về vấn đề này đối với sự phát triển
của ngân hàng điện tử trên địa bàn TP.HCM.
Chính vì vậy, đây sẽ là đề tài tương đối mới ,nên chỉ tập trung nghiên
cứu các nội dung như tình hình phát triển của ngân hàng điện tử trên địa bàn
thành phố, phân tích đánh giá thực trạng, tồn tại ,hạn chế, từ đó đưa ra giải
pháp và kiến nghị để phát triển ngân hàng điện tử trên địa bàn , phù hợp với
xu hướng phát triển chung của thế giới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Nghiên cứu các vấn đề về ngân hàng điện tử: các dịch vụ ngân hàng
điện tử; hoạt động quản lý ngân hàng điện tử và môi trường pháp lý, kinh tế
có liên quan.
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu là đưa ra các giải pháp, kiến nghị để
phát triển ngân hàng điện tử trên địa bàn TP.HCM, không nghiên cứu về mặt
kỹ thuật, phần cứng, phần mềm trong công nghệ thông tin,công nghệ bưu
chính viễn thông ….
3
- Các vấn đề liên quan khác được đưa ra trong đề tài nhằm đảm bảo
làm rõ đối tượng, mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp phân tích định lượng: sử dụng các số liệu phản
ánh tình hình phát triển ngân hàng điện tử trên địa bàn TP.HCM ,qua quá
trình khảo sát các NHTM trên địa bàn để phân tích, đánh giá tình hình hoạt
động, hiệu quả hoạt động của Ngân hàng điện tử hiện nay. Đồng thời dự báo
xu hướng phát triển trong tương lai.
- Phương pháp chuyên gia: Thông qua hội thảo, các cuộc họp
chuyên ngành, các ý kiến đóng góp của các chuyên gia ngân hàng; chuyên
gia công nghệ thông tin của ngành ngân hàng để tiếp thu, bổ sung và hoàn
chỉnh các giải pháp và những kiến nghị đảm bảo cho ngân hàng điện tử trên
địa bàn phát triển hiệu quả và không ngừng mở rộng trong thời gian tới.
6. Kết cấu và nội dung của đề tài:
Đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Sự phát triển của ngân hàng điện tử trong nền kinh tế thị
trường.
Chương 2: Thực trạng phát triển ngân hàng điện tử trên địa bàn
TP.HCM
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị phát triển ngân hàng điện tử
trên địa bàn TP.HCM.
4
CHƯƠNG 1
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN ĐẠI
Sự của khoa học công nghệ mà nhất là ngành công nghệ thông tin đã
thúc đẩy phát triển mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội.Công nghệ hiện đại
đã tạo ra bước phát triển đột phá cho nhiều ngành ,nhiều lĩnh vực trong nền
kinh tế .Trong đó, vai trò quan trọng của mạng Internet đối với nền kinh tế
thực sự không thể nào phủ nhận; Internet gần như tồn tại mọi lúc ,mọi nơi.
Mỗi ngày, số lượng người sử dụng Internet không ngừng tăng lên , đã
có rất nhiều ứng dụng của mạng toàn cầu được con người khám phá và đưa
vào hoạt động kinh doanh, sản xuất của họ.

Cuối năm 2001, trên thế giới đã có trên 650 triệu người sử dụng
Internet; năm 2005 trên 700 triệu người sử dụng Internet và hiện nay con số
đó là trên 800 triệu người sử dụng , trong đó Mỹ là quốc gia có số người dân
sử dụng Internet nhiều nhất, tiếp đó là Trung Quốc.
Riêng tại Việt Nam, theo thống kê đến hết năm 2007, số người dân sử
dụng Internet đã trên 18 triệu người, chiếm hơn 21% tổng dân số; và hiện
nay con số này cũng đang tăng lên hơn 27,3 triệu người chiếm 31,7% dân số
(theo Tổng Cục Thống kê, số liệu đến hết tháng 11/2010 ). Nếu như trước
đây Internet là dịch vụ xa xỉ, hầu như chỉ dành cho các tổ chức doanh
nghiệp, hoặc các cá nhân có thu nhập cao thì hiện nay nó đã trở thành dịch
vụ phổ thông, cần thiết cho mọi người,mọi nhà.
Chúng ta có thể thấy, từ mục đích ban đầu là trao đổi, cập nhật thông
tin, chia sẻ tài nguyên mạng, mạng internet ngày nay đã trở thành xương
sống cho nhiều hoạt động của con người như kinh doanh – thương mại điện
tử (e – commerce), quản lý hành chính – chính phủ điện tử (e - government),
học tập nghiên cứu điện tử (e – learning)… Và hiện nay là nền kinh tế điện
5
tử (Internet economy) với tất cả mọi hoạt động của nền kinh tế được xây
dựng trên một nền tảng mới – hệ thống toàn cầu.
Chính vì sự phát triển nhanh, vượt bậc của mạng toàn cầu đã kéo theo
những hoạt động kinh tế toàn cầu cũng đã và đang phát triển theo hướng ứng
dụng công nghệ thông tin để làm phong phú thêm hoạt động của mình.
Trong đó là sự xuất hiện E-banking trong hệ thống các ngân hàng trên thế
giới. Kênh ngân hàng điện tử trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói
riêng đã đạt được một số thành tựu nổi bật.
Đây cũng chính là nền tảng, là quá trình phát triển của ngân hàng điện
tử, với hàng loạt các sản phẩm dịch vụ ngân hàng được thực hiện dựa trên
nền tảng công nghệ hiện đại.
1.1. NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ VÀ VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG ĐIỆN
TỬ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN ĐẠI:

1.1.1. Ngân hàng điện tử và quá trình hình thành và phát triển:
Năm 1989, ngân hàng Wellfargo của Mỹ là ngân hàng đầu tiên đã
phát triển và cung ứng dịch vụ qua mạng. Đến nay, nhiều định chế tài chính
đã phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử ở các mức độ ứng dụng và tiện
tích mang khác nhau, rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên trong quá trình
ứng dụng này, để phản ánh rõ sự phát triển của ngân hàng điện tử, có thể
đánh giá tổng quan sự phát triển của ngân hàng điện tử qua 04 mô hình chính
sau:
1.1.1.1. Brochure – ware:
Là hình thái đơn giản nhất của ngân hàng điện tử. Hầu hết các ngân
hàng khi mới bắt đầu xây dựng ngân hàng điện tử đều thực hiện theo mô
hình này. Việc đầu tiên chính là xây dựng một Website chứa những thông tin
về ngân hàng, về sản phẩm lên trên mạng nhằm quảng cáo, giới thiệu, chỉ
dẫn, liên lạc… thực chất ở đây chỉ là một kênh quảng cáo mới ngoài những
kênh thông tin truyền thống như: báo chí; truyền hình… mọi giao dịch của
6
ngân hàng vẫn thực hiện qua hệ thống phân phối truyền thống, đó là các chi
nhánh ngân hàng;
1.1.1.2. E-commerce:
Trong thương mại điện tử, ngân hàng sử dụng internet như một kênh
phân phối mới cho những dịch vụ truyền thống như xem thông tin tài khoản;
nhận thông tin giao dịch chứng khoán… internet ở đây chỉ đóng vai trò như
một dịch vụ cộng thêm vào để tạo sự thuận lợi thêm cho khách hàng. Hầu
hết các ngân hàng quy mô hoạt động vừa và nhỏ đang ở hình thái này;
1.1.1.3. E-business:
Trong hình thái này, các xử lý cơ bản của ngân hàng cả ở phía khách
hàng và phía người quản lý ở ngân hàng đều được tích hợp với mạng
internet. Giai đoạn này được phân biệt bởi sự gia tăng về sản phẩm và chức
năng của ngân hàng với sự phân biệt sản phẩm theo nhu cầu và quan hệ của
khách hàng đối với ngân hàng. Hơn thế nữa, sự phối hợp, chia sẽ dữ liệu

giữa hội sở ngân hàng và các kênh phân phối như chi nhánh, trên mạng
internet, mạng không dây…giúp cho việc xử lý yêu cầu và phục vụ khách
hàng được nhanh chóng và chính xác hơn, internet và khoa học công nghệ đã
tăng sự liên kết, chia sẽ thông tin giữa ngân hàng, đối tác, khách hàng, cơ
quan quản lý… Một vài ngân hàng tiên tiến trên Thế giới đã xây dựng được
mô hình này và hướng tới xây dựng được một ngân hàng điện tử hoàn chỉnh.
1.1.1.4. E-bank (E-enterprise):
Chính là mô hình lý tưởng của một ngân hàng trực tuyến trong nền
kinh tế điện tử, một sự thay đổi hoàn toàn trong mô hình kinh doanh và
phong cách quản lý. Những ngân hàng này sẽ tận dụng sức mạnh thực sự của
mạng toàn cầu nhằm cung cấp toàn bộ các giải pháp tài chính cho khách
hàng với chất lượng tốt nhất. Từ những bước ban đầu là cung cấp các sản
phẩm và dịch vụ hiện hữu thông qua nhiều kênh riêng biệt, ngân hàng có thể
7
sử dụng các kênh liên lạc này nhằm cung cấp nhiều giải pháp khác nhau cho
từng đối tượng khách hàng chuyên biệt.
1.1.2. Khái niệm ngân hàng điện tử:
Như cách đặt vấn đề ở trên, yếu tố cơ sở - nền tảng của sự ra đời và
phát triển ngân hàng điện tử chính yếu tố công nghệ.Chính sự phát triển công
nghệ hiện đại, với việc phát triển mạnh của công nghệ điện tử, viễn thông -
sự ra đời và hoạt động hiệu quả của mạng internet đã thúc đẩy sự phát triển
thương mại điện tử; sự phát triển của các giao dịch trực tuyến, thông tin trực
tuyến; websit ngân hàng và thanh toán trực tuyến….Cũng chính sự phát triển
hệ quả này, có nhiều cách tiếp cận, cách hiểu khác nhau về ngân hàng điện
tử, tuỳ theo các tiêu chí, các căn cứ. Cụ thể:
+ Theo phương thức giao dịch: thì Ngân hàng điện tử được hiểu là
ngân hàng cung cấp các dịch vụ ngân hàng thông qua kênh phân phối điện tử
(qua hệ thống mạng điện tử);
+ Theo dịch vụ ngân hàng cung ứng: thì ngân hàng điện tử là ngân
hàng cung ứng các dịch vụ ngân hàng điện tử. Trong đó khách hàng có thể

truy nhập từ xa để nắm bắt thông tin; thực hiện các giao dịch với ngân hang
như :thanh toán, chuyển tiền… ;
+ Tiếp cận theo yếu tố kỹ thuật – yếu tố trực tiếp tạo ra sự phát triển
các dịch vụ ngân hàng hiện đại, thì ngân hàng điện tử được hiểu gồm hệ
thống phần mềm vi tính cho phép khách hàng tìm hiểu hay mua dịch vụ ngân
hàng thông qua việc nối mạng máy vi tính của mình với ngân hàng.
+ Theo khoản 6 và khoản 10 điều 4 Luật giao dịch điện tử được Quốc
hội Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005, giao dịch điện tử là giao dịch
được thực hiện bằng phương tiện điện tử. Trong đó, phương tiện điện tử là
phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính,
truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự.
8
Tuy nhiên khái niệm ngân hàng điện tử đơn giản nhất, dể hiểu nhất và
mang tính bao quát nhất, có thể hiểu “Ngân hàng điện tử là ngân hàng mà
tất cả các giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng dựa trên quá trình xử
lý và chuyển giao dữ liệu số hoá nhằm cung cấp sản phẩm ,dịch vụ ngân
hàng”.
Hiện nay, ngân hàng điện tử tồn tại dưới hai hình thức: hình thức ngân
hàng trực tuyến, chỉ tồn tại dựa trên môi trường mạng Internet, cung cấp dịch
vụ 100% thông qua môi trường mạng; và mô hình kết hợp giữa hệ thống
ngân hàng thương mại truyền thống và điện tử hoá các dịch vụ truyền thống,
tức là phân phối những sản phẩm dịch vụ cũ trên những kênh phân phối mới.
Ngân hàng điện tử tại Việt Nam chủ yếu phát triển theo mô hình này [7].
1.1.3. Sự cần thiết của Ngân hàng điện tử trong nền kinh tế thị trường
hiện đại:
Có thể nói sự phát triển của ngân hàng điện tử là tất yếu khách quan
trong nền kinh tế thị trường hiện đại, trực tiếp chịu tác động ảnh từ cuộc
cách mạng khoa học công nghệ - phát triển nhanh và mạnh như hiện nay.
Trong quá trình tác động vào nền kinh tế, nó làm cho nhu cầu về dịch vụ tài
chính ngân hàng ngày càng cao hơn .Để đáp ứng đòi hỏi này ,dịch vụ ngân

hàng cũng phải phát triển ngày càng cao cả về số lượng và chất lượng trên cơ
sở công nghệ hiện đại đó là ngân hàng điện tử.
Với ý nghĩa đó sự phát triển của ngân hàng điện từ trong nền kinh tế
thị trường là cần thiết và khách quan - phản ánh trên 04 phương diện sau:
1.1.3.1. Sự phát triển của khoa học công nghệ:
Sức ép từ yếu tố công nghệ, từ sự phát triển của mạng internet với các
tiện ích mang lại rất lớn. Mạng internet phát triển như là một nguồn lực,
“nguồn tài nguyên” thông tin vô tận, qua đó người sử dụng có thể nhận
thông tin tại mọi nơi, mọi lúc bất kể mọi giới hạn về không gian và thời gian.
Chính điều này sự ra đời các trang Website của các định chế tài chính như là
9
một phần tất yếu của quá trình này. Qua đó các ngân hàng thương mại có thể
quảng cáo, cung cấp các thông tin sản phẩm , dịch vụ của ngân hàng cho
khách hàng và nền kinh tế. Yếu tố này mang đặc điểm tất yếu từ quá trình
phát triển của công nghệ nói chung và công nghệ ngân hàng nói riêng;
1.1.3.2. Yếu tố Cạnh tranh :
Yếu tố này tác động trực tiếp và thúc đẩy các Ngân hàng thương mại
phải ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động kinh doanh. Đặc biệt
trong các lĩnh vực dịch vụ ngân hàng. Trong đó sự phát triển cao của các
Ngân hàng nước ngoài trong hoạt động thanh toán; hoạt động thẻ và các dịch
vụ ngân hàng điện tử đòi hỏi các Ngân hàng trong nước phải ứng dụng và
phát triển công nghệ hiện đại để tạo ra các sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện
tử tương xứng trong quá trình canh tranh;
1.1.3.3 Trình độ phát triển kinh tế:
Trình độ phát triển của nền kinh tế ngày càng cao, đồng nghĩa với nhu
cầu về dịch vụ tài chính ngân hàng cũng cao hơn, đòi hỏi Ngân hàng nào đáp
ứng được nhu cầu đó mới tồn tại và phát triển được. Trong điều kiện công
nghệ hiện đại, chỉ có ứng dụng và phát triển ngân hàng điện tử mới đáp ứng
được các yêu cầu đó. Ngày nay, với một yêu cầu chuyển tiền chỉ cần thực
hiện một lệnh là xong, với khoảng thời gian vài phút (nếu trong cùng hệ

thống). Đây là điều khác biệt rất lớn đối với các giao dịch trước đây: thực
hiện thủ công và bằng giấy. Với tiện ích và nhu cầu cao như vậy, các định
chế tài chính nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng không thể
không phát triển Ngân hàng điện tử, nó như là một tất yếu khách quan trong
nền kinh tế hiện đại;
1.1.3.4. Xu hướng hướng phát triển:
Xu hướng phát triển mạnh các dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế
hiện nay, đòi hỏi các Ngân hàng phải luôn liên tục cải tiến và phát triển các
sản phẩm và dịch vụ mà đặt biệt là ngân hàng bán lẻ. Trong khi đó các điều
10
kiện và khả năng để đáp ứng theo xu hướng này, chỉ có thể phát triển các
dịch vụ ngân hàng điện tử mới đáp ứng tốt nhất yêu cầu và tạo ra tiềm năng
thị trường to lớn , bởi khả năng tiếp cận của khách hàng đối với dịch vụ ngân
hàng điện tử là vô tận, nhất là đối với các dịch vụ ngân hàng giao dịch trực
tuyến;
1.1.4. Vai trò của Ngân hàng điện tử trong nền kinh tế hiện nay:
Ngân hàng điện tử - với quá trình phát triển gắn liền với sự phát triển
của khoa học công nghệ đã và đang giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với
nền kinh tế nói chung và đối với lĩnh vực kinh doanh trên thị trường tiền tệ
của hoạt động ngân hàng nói riêng. Vai trò này thể hiện thông qua các lợi ích
và những tác động thuận lợi đối với nền kinh tế, phản ánh cụ thể như sau:
1.1.4.1. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong toàn bộ nền kinh tế:
Hoạt động ngân hàng điện tử, với khả năng vượt trội trong lĩnh vực
thanh toán, chuyển tiền điện tử đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp bằng cách thúc đẩy nhanh tốc độ
chu chuyển vốn của doanh nghiệp , từ đó làm tăng hiệu quả sử dụng vốn
trong toàn bộ nền kinh tế.
Thông qua thanh toán, chuyển tiền điện tử, doanh nghiệp có thể nhận
được vốn ngay sau khi giao dịch, trao đổi hàng hoá. Điều này tạo cho doanh
nghiệp có nguồn vốn kịp thời để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh,

nâng cao vòng tuần hoàn và chu chuyển vốn - kết quả nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn, tăng doanh thu và tạo lợi nhuận ngày càng cao cho doanh nghiệp;
1.1.4.2. Tạo điều kiện khai thác và sử dụng hiệu quả mọi nguồn vốn trong
xã hội:
Thực hiện thanh toán qua ngân hàng, với công nghệ chuyển tiền điện
tử ngày nay, đã thu hút người dân, doanh nghiệp và các tổ chức mở tài
khoản, gửi tiền và thực hiện thanh toán giao dịch qua ngân hàng. Điều này
không chỉ mang lại những lợi ích từ việc thanh toán không dùng tiền mặt mà
11
còn cho phép khai thác và sử dụng mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã
hội để đưa vào lưu thông , phát triển kinh tế.
1.1.4.3. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng và ngân
hàng:
Đặc biệt trong việc thực thi chính sách tiền tệ , ngân hàng điện tử phát
triển thu hút mạnh nguồn vốn và hoạt động thanh toán qua ngân hàng (như
đã phân tích ở phần trên). Thông qua đó NHTW sẽ kiểm soát, nắm bắt được
các thông tin về tiền gửi, tiền vay tốt hơn: đầy đủ và chính xác hơn một cách
nhanh nhất (nhờ ứng dụng công nghệ điện tử, phần mềm xử lý và thu thập
thông tin). Điều này làm cơ sở quan trọng để NHTW điều tiết chính sách tiền
tệ, điều hoà lưu thông tiền tệ hiệu quả, phù hợp với nhu cầu vốn của nền
kinh tế. Đảm bảo thực thi chính sách tiền tệ đạt hiệu quả cao nhất, hạn chế
lạm phát và giảm thiểu chi phí quản lý, chi phí phát hành của NHTW trong
quá trình điều tiết tiền tệ trong lưu thông;
Quá trình này tạo điều kiện cho NHTW thu thập và xử lý thông tin
hiệu quả, phục vụ cho hoạt động giám sát từ xa, phát hiện sớm và ngăn ngừa
những sai phạm trong quá trình hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng
thương mại, tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng mở rộng và tăng trưởng
bền vững, an toàn và hiệu quả;
1.1.4.4. Minh bạch hoá tình hình tài chính doanh nghiệp. Đồng thời hạn
chế kinh tế ngầm phát triển (gian lận, trốn thuế; rửa tiền).

Nền kinh tế nước ta ,chủ yếu vẫn sử dụng phương thức thanh bằng
tiền mặt,tạo điều kiện cho kinh tế ngầm phát triển.Theo đánh giá của các
chuyên gia kinh tế doanh số giao dịch kinh tế ngầm tại Việt Nam khỏang
30% GDP làm thất thóat ngân sách ,làm lệch lạc ,giảm hiệu lực chính sách
kinh tế của chính phủ.
Sự phát triển của Ngân hàng điện tử, thu hút mạnh các doanh nghiệp,
cá nhân mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng, nhờ đó mọi khoản thu
12
nhập, chi phí của doanh nghiệp được minh bạch, tạo điều kiện giảm thiểu
đáng kể những phát sinh tiêu cực liên quan như: trốn thuế; gian lận thương
mại và rửa tiền, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển lành mạnh;
1.1.4.5. Truyền tải và cung cấp thông tin về kinh tế, tài chính tiền tệ và
hoạt động ngân hàng mọi lúc, mọi nơi cho khách hàng, doanh nghiệp.
Đây là một trong tiện ích vượt trội mà ngân hàng điện tử mang lại cho
nền kinh tế, thông qua đó khách hàng có thể truy cập các thông tin liên quan
theo nhu cầu qua mạng internet trên các Website của các Ngân hàng thương
mại. Qúa trình này góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế, thương mại
phát triển nhờ nắm bắt được thông tin kịp thời, nhanh chóng và chính xác;
1.2. CÁC DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ;
1.2.1. Các dịch vụ ngân hàng điện tử:
Như trong cách đặt vấn đề và phân tích quá trình phát triển của Ngân
hàng điện tử, có thể nói công nghệ hiện đại chính là cơ sở, là nền tảng của sự
phát triển ngân hàng điện tử. Mỗi sự tiến bộ của Ngân hàng điện tử, gắn liền
với sự phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử. Có thể nói dịch vụ ngân
hàng điện tử rất phong phú và phát triển năng động, luôn mang yếu tố mới
và khác biệt. Tuy nhiên phổ biến hiện nay có một số dịch vụ ngân hàng điện
tử cơ bản sau:
1.2.1.1. Internetbanking:
Internetbanking là dịch vụ ngân hàng cho phép khách hàng giao dịch

với ngân hàng thông qua mạng internet. Đây là kênh phân phối rộng các sản
phẩm dịch vụ của ngân hàng, khách hàng với mật mã do ngân hàng cấp ,có
thể truy cập trực tiếp vào website của ngân hàng để tra cứu thông tin về sản
phẩm dịch vụ, tài khoản, liệt kê giao dịch…, thực hiện lệnh như chuyển tiền,
thanh toán hóa đơn…không giới hạn không gian và thời gian.
13
+ Đặc điểm của hệ thống là sử dụng hệ thống mạng internet nên tốc độ
truy cập phụ thuộc vào chất lương đường truyền và thiếu an toàn do nạn tin
tặc, vì thế công nghệ sử dụng phải đảm bảo tốc độ xử lý cao và chống được
sự phá hoại của tin tặc.
1.2.1.2. Homebanking:
Homebanking là dịch vụ ngân hàng mà các giao dịch giữa ngân hàng
và khách hàng được tiến hành tại nhà (hoặc tại trụ sở doanh nghiệp) thông
qua hệ thống máy tính tại nhà kết nối với hệ thống máy tính của Ngân hàng
thông qua đường dây điện thoại hoặc đường truyền trực tiếp;
Khách hàng của dịch vụ này thường là các doanh nghiệp lớn, khách
hàng có thể thực hiện các giao dịch về chuyển tiền, mua bán ngoại tệ,thông
báo tỷ giá, lãi suất, báo nợ, báo có. Hệ thống truyền dữ liệu được xây dựng
chuyên biệt, kiểm soát chặt chẽ máy truy cập và người sử dụng (có thể quy
định cụ thế số điện thoại hoặc máy được phép truy cập,xác thực chữ ký số…
các giao dịch chuyển tiền được thực hiện theo quy trình nghiệp vụ có kiểm
soát chặt chẽ) nên độ an toàn cao.
Yêu cầu kỹ thuật quan trọng để phát triển và nâng cao chất lượng dịch
vụ này là phải có hệ thống tương tác riêng kết nối ngân hàng với khách hàng
(không sử dụng hệ thống mạng sẵn có như internet). Đối với khách hàng có
khối lượng giao dịch lớn phải thuê riêng đường truyền tốc độ cao.
Ngày nay do kỹ thuật bảo mật ngày càng được nâng cao và kỹ thuật
đường truyền internet băng thông rộng đã trở nên phổ biến nên phần lớn
khách hàng và ngân hàng đều chọn hình thức giao dịch internet banking.
1.2.1.3. Phonebanking :

Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại , là loại hình dịch vụ mà khách hàng
sử dụng điện thoại gọi đến một số máy cố định của Ngân hàng cung cấp dịch
vụ để thực hiện các giao dịch hoặc kiểm tra thông tin tài khoản ,thông tin sản
phẩm,tỷ giá ,lãi suất…theo lời nhắc trên điện thoại.
14
Dịch vụ này không yêu cầu kỹ thuật cao,nhưng giới hạn ở các nghiệp
vụ đơn giản do hạn chế các thao tác trên điện thoại cố định.
1.2.1.4. Mobilebanking:
Mobile banking – giao dịch ngân hàng qua điện thoại di động: là loại
hình dịch vụ ngân hàng giao dịch qua điện thoại di động. Mobile banking
cho phép khách hàng thông qua điện thoại di động của mình có thể truy cập
các thông tin về tài khoản cá nhân hoặc thực hiện các giao dịch thanh toán
hóa đơn như: tiền điện thoại, tiền nước, tiền điện, dịch vụ khác… và nhận
thông tin về tỷ giá hối đoái, giá cả thị trường, lãi suất …
Yêu cầu kỹ thuật quan trọng là kết nối với hệ thống nhắn tin của bưu
điện, nhìn chung ngân hàng không cần đầu tư nhiều về công nghệ;
1.2.1.5. Máy giao dịch tự động (ATM):
Là loại máy tự động có chức năng thực hiện nghiệp vụ rút tiền, gửi
tiền và chuyển tiền. Quy trình như sau:
+ Những máy giao dịch tự động này đã được nối mạng với trung tâm
dữ liệu của Ngân hàng. Khách hàng thực hiện giao dịch qua các máy giao
dịch tự động ATM thông qua một thẻ (Plastic card) và một mã số nhận dạng
cá nhân (PIN- Personal Identification Number) do ngân hàng cung cấp.
+ Thông qua thông tin lưu trữ trên dải từ tính của thẻ, máy tính có thể
tra cứu tài khoản của khách hàng, trên cơ sở đó cung cấp thông tin về số dư
cho chủ tài khoản hay thực hiện các giao dịch trong một hạn mức cho phép.
+ Dịch vụ này yêu cầu thời gian xử lý tức thời, do đó hệ thống truyền
thông kết nối giữa các máy ATM với trung tâm cơ sở dữ liệu của ngân hàng
phải có tốc độ cao.
1.2.1.6. Dịch vụ thẻ - thanh toán thẻ:

Thẻ thanh toán là một công cụ thanh toán hiện đại do ngân hàng phát
hành cho các đơn vị, cá nhân – để họ sử dụng trong thanh toán tiền mua
hàng hóa, dịch vụ thay cho tiền mặt thông qua một mạng lưới đại lý chấp
15
nhận thẻ hoặc rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý hay tại các máy rút tiền tự
động (ATM).
- Xét theo nhiều góc độ khác nhau ta có thể phân chia thẻ thành nhiều
loại khác nhau: thẻ tín dụng; thẻ ghi nợ, thẻ rút tiền mặt, thẻ nội địa, thẻ quốc
tế….
- Yêu cầu kỹ thuật chung của thanh toán thẻ là sự kết nối tốt giữa
trung tâm cơ sở dữ liệu ngân hàng với các thiết bị đọc thẻ tại điểm cung ứng
hang hoá ,dịch vụ;
Ngoài ra còn có hình thức Call Center là hình thức giao dịch trực tiếp
với điện thoại viên để yêu cầu cung cấp thông tin hoặc thực hiện dịch vụ.
1.2.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động của ngân hàng điện tử và sự
phát triển của ngân hàng điện tử:
Ngân hàng điện tử ra đời và phát triển như là sự cần thiết tất yếu
khách quan, dưới tác động trực tiếp của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
nói chung và công nghệ ngân hàng hiện đại nói riêng. Tuy nhiên trong quá
trình phát triển này, hoạt động của ngân hàng điện tử và sự phát triển của
ngân hàng điện tử chịu tác động ảnh hưởng của các yếu tố cơ bản, chủ yếu
thuộc về các nguồn lực. Cụ thể như sau:
1.2.2.1 Yếu tố công nghệ:
Đây là một trong yếu tố nền tảng của sự ra đời và phát triển ngân hàng
điện tử. Chỉ có công nghệ hiện đại mới cho ra đời các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng điện tử. Khẳng định này xuất phát từ chính quá trình hình thành, quá
trình ra đời các sản phẩm ngân hàng điện tử.
Tuy nhiên để thúc đẩy ngân hàng điện tử phát triển, tạo cho các sản
phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử tiện ích, đa năng và chất lượng cao. Đòi hỏi
yếu tố công nghệ phải đáp ứng được các điều kiện về kỹ thuật. Trong đó để

các dịch vụ ngân hàng điện tử (như đã trình bày ở phần trên) phát triển thì
16
phải đảm bảo có trung tâm dữ liệu mạnh, tốc độ xử lý cao, giao tiếp dữ liệu
tốt;
Mặt khác việc xây dựng kế hoạch, lựa chọn công nghệ phù hợp với
khả năng tài chính, điều kiện và mô hình phát triển của mỗi TCTD cũng có ý
nghĩa quyết định đến hiệu quả phát triển ngân hàng điện tử của mỗi TCTD;
1.2.2.2. Yếu tố vốn:
Đây là yếu tố tài chính quan trọng quyết định đến sự phát triển công
nghệ của mỗi TCTD. Điều này xuất phát từ chính nhu cầu vốn cho phát triển
và ứng dụng công nghệ hiện đại - yếu tố nền tảng cho phát triển ngân hàng
điện tử và các dịch vụ ngân hàng điện tử.
Nhu cầu vốn cho phát triển và ứng dụng công nghệ hiện đại là rất lớn.
Do vậy yếu tố vốn mang tính quyết định đến quá trình phát triển ngân hàng
điện tử.
Trên thực tế, thường các TCTD khai thác hiệu quả mọi nguồn lực để
tập trung đổi mới công nghệ. Song việc khai thác tối đa lợi thế về liên kết,
liên doanh với các định chế tài chính nước ngoài trong quá trình phát triển
công nghệ thường mang lại hiệu quả lớn hơn.
1.2.2.3. Yếu tố nguồn nhân lực:
Gắn liền với sự phát triển của công nghệ ngân hàng hiện đại, thường
yêu cầu đòi hỏi về trình độ và năng lực cán bộ, chất lượng nguồn nhân lực
phải được đầu tư phát triên tương ứng để tiếp cận, vận hành và phát triển
công nghệ mới, phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử. Đây là yếu tố mang
tính cạnh tranh rất lớn giữa các ngân hàng, vì yếu tố này luôn mang lại sự
khác biệt giữa các TCTD khi quy mô, năng lực tài chính và trình độ công
nghệ của các TCTD ngang nhau. Tác động này đối với quá trình phát triển
dịch vụ ngân hàng điện tử là rất lớn;
1.2.3. Các rủi ro của ngân hàng điện tử:
1.2.3.1. Rủi ro do tính bảo mật trong giao dịch bị đánh cắp:

17
Rủi ro với giao dịch Internet banking chủ yếu là do bị đánh cắp thông
tin cá nhân, mật khẩu và lừa đảo chuyển tiền tới một tài khoản nào đó có chủ
ý;
Đây là rủi ro cơ bản và lớn nhất trong hoạt động của Ngân hàng điện
tử. Rủi ro này xuất phát từ chính các hacker tin học, theo đó sử dụng công
nghệ, phần mềm vi tính để sao chép lại thông tin khách hàng như password
và sau đó thực hiện các giao dịch để rút tiền, chuyển tiền từ tài khoản của
khách hàng tới một tài khoản nào đó có chủ ý.
Thời gian gần đây nhiều ngân hàng đã đưa ra cảnh báo đối với các
khách hàng sử dụng dịch vụ internet banking sau khi nhiều khách hàng của
TCTD đã trở thành đối tượng bị lừa đảo. Bọn tội phạm đã gửi email dẫn một
đường link liên kết đến trang Web được làm giả giống như trang Web của
ngân hàng thật. Tại trang web giả này khách hàng sẽ được yêu cầu điền các
thông tin cá nhân về tài khoản của mình như mật khẩu, số chứng minh thư và
các thông tin này sẽ bị lợi dụng để rút tiền mặt hoặc chuyển tiền đến tài
khoản khác ngay sau đó. Đây là trường hợp của Ngân hàng Hong kong
Thượng hải:
Ngân hàng Hong Kong Thượng Hải (HSBC) đã xác nhận thông tin
của 15.000 chủ tài khoản khu vực Thụy Sĩ đã bị đánh cắp và rò rỉ ra bên
ngoài.
Theo AP dẫn nguồn tin từ HSBC ,một cựu nhân viên IT của ngân
hàng đã ăn cắp dữ liệu khách hàng vào khoảng thời gian cuối 2006 đầu
2007. Toàn bộ 15.000 tài khoản này đều được mở trước tháng 10/2006.
HSBC đã liên lạc với khách hàng để xin lỗi về việc rò rỉ thông tin cá
nhân. Ngân hàng này cũng khẳng định chỉ khách hàng mở tài khoản tại
HSBC Private Bank Thụy Sĩ bị ảnh hưởng bởi vụ việc này.
18
Theo Reuters cho biết, tổng số tài khoản bị rò rỉ thông tin thực ra là
24.000, trong đó 9.000 tài khoản đã ngừng hoạt động. Hiện HSBC có

khoảng 100.000 khách hàng tại Thụy Sĩ.
1.2.3.2. Rủi ro do lỗi kỹ thuật:
Rủi ro này, mang tính kỹ thuật do trục trặc hệ thống công nghệ, hoặc
do lỗi phần mềm trong việc xử lý giao dịch. Hệ quả rủi ro này thường mang
đến những sai sót và nhầm lẫn trong việc chi trả hoặc thanh toán cho khách
hàng. Việc khắc phục những rủi ro này và khắc phục hậu quả là trong tầm
kiểm soát của Ngân hàng, của tổ chức cung ứng dịch vụ. Tuy nhiên thường
mất nhiều thời gian, công sức và mang lại sự phiền hà cho khách hàng .
1.2.3.3. Rủi ro khác có liên quan:
Như rủi ro về nghẽn mạch đường truyền; lỗi giao dịch; mất điện…Đây
là các rủi ro khách quan, không gây ra hậu quả nghiêm trọng. Song luôn tác
động ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ; uy tín và thương hiệu của mỗi ngân
hàng;
1.3. TÌNH HÌNH PHÁT TRIÊN NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI:
Ở các nước phát triển, hầu hết đều áp dụng các hình thức thanh tóan
không dùng tiền mặt (TTKDTM) từ các dịch vụ công cho đến các họat động
kinh tế ,xã hội… mà công cụ thực hiện chủ yếu qua các dịch vụ ngân hàng
điện tử.Cho nên có thể nói sự phát triển của giao dịch TTKDTM gián tiếp
nói đến sự phát triển của ngân hàng điện tử.
Tại Châu Âu:
Một xu hướng rõ rệt trong những thập kỷ vừa qua là
giá trị tuyệt đối về giao dịch TTKDTM đã gia tăng nhanh
chóng. Tại Đức, doanh số TTKDTM đã tăng từ gấp 9,4 lần
GDP của năm 1988 đến gấp 63,6 lần GDP năm 1996. Tại
Nhật Bản, giao dịch TTKDTM đã tăng từ gấp 8 lần GDP năm
19
1988 đến gấp 99 lần GDP năm 1996.
1
Nếu tính tới tốc độ

tăng trưởng của GDP thì doanh số TTKDTM tăng rất lớn cả về
giá trị tuyệt đối cũng như tương đối.
TTKDTM đặc biệt cao so với GDP ở nhóm các quốc gia công
nghiệp tiên tiến có lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường lâu đời. Kinh tế
thị trường đã tạo ra những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự ứng dụng kỹ thuật
công nghệ cao trong hoạt động thanh toán và dịch vụ ngân hàng. Các nước
này chủ yếu bao gồm Hoa Kỳ, các quốc gia Tây Âu và Nhật Bản. Với trình
độ tự động hoá cao nhờ sử dụng công nghệ thông tin, máy tính, các nước này
đã tạo ra những bước đột phá về năng suất lao động, hiệu quả hoạt động, làm
thay đổi căn bản hoạt động thanh toán; thay đổi quy mô và kết cấu các
phương tiện thanh toán sử dụng. Những nguồn vốn rất lớn được đầu tư cho
cơ sở kỹ thuật, hạ tầng của các hệ thống thanh toán nội địa cũng như các hệ
thống thanh toán xuyên quốc gia, xuyên châu lục và toàn cầu. Đây có thể
xem như những quốc gia dẫn đầu về công nghệ thanh toán và chi phối sự
phát triển của công nghệ thanh toán toàn cầu.
Một ví dụ về quốc gia có hệ thống và dịch vụ TTKDTM
phát triển và hoàn thiện tại Châu Âu là Thụy Điển nhất là thị
trường thẻ ngân hàng. Thị trường thẻ tại Thụy Điển là một thị
trường có lịch sử phát triển lâu dài. Từ những năm 1950, các
NHTM Thụy Điển đã lần đầu tiên triển khai dịch vụ trả lương
qua tài khoản cho dân cư. Trong những năm 70 của thế kỷ
20, một số ngân hàng thương mại đã bắt đầu đưa máy ATM
vào thị trường và sau đó vào những năm 1980 thẻ ngân hàng
lần đầu tiên đã được phát hành tại Thụy Điển.
Hiện nay, tất cả các công dân trưởng thành Thụy Điển
đều có tài khoản tại ngân hàng. Hơn nữa, Thụy Điển là một
1
Theo thống kê năm 2005 của Ngân hàng Quyết toán Quốc tế (BIS).
20
trong những quốc gia đầu tiên triển khai việc cung cấp dịch

vụ thẻ kết nối trực tiếp với tài khoản ngân hàng. Hơn 50 năm
qua, tổng số lượng thẻ đã được phát hành tại Thụy Điển là
hơn 12 triệu thẻ (trong đó thẻ ghi nợ chiếm 80%, còn lại là
thẻ tín dụng và một số lượng nhỏ thẻ ATM). Với dân số đến
năm 2009 chỉ là 9,1 triệu dân nhưng số lượng giao dịch
thanh toán qua thẻ ngân hàng lên tới 968 triệu giao dịch đạt
366 tỷ SEK.
Số lượng người sử dụng vụ Internet banking tại Thụy
Điển rất cao, năm 2009 đạt tới con số 6,53 triệu (dân số khỏang 10
triệu người). Trong khi đó, séc đã hoàn toàn không còn được sử dụng tại
Thụy Điển.
Tại châu Á:
Bên cạnh nhóm nước tiên tiến kể trên thì nhóm các quốc gia công nghiệp
mới phát triển điển hình như Singapore, Hàn Quốc, Đài loan, Malaysia,
Trung Quốc , mặc dù có nền công nghiệp mới nổi lên từ thập niên 80 cho
tới nay, song sự phát triển của công nghệ thanh toán cũng hết sức ấn tượng.
Với lợi thế tận dụng những thành tựu, kinh nghiệm và những hỗ trợ kỹ thuật
của những nước công nghiệp đi trước trong lĩnh vực thanh toán, công nghệ
thanh toán ở những nước này đã tiến những bước tiến nhảy vọt, đi thẳng lên
những công nghệ tiên tiến nhất. Cho tới nay, những nước như Singapore,
Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan đã thay thế hòan tòan phương pháp thanh
toán thủ công, áp dụng những phương pháp thanh toán hiện đại, tăng dần
vốn đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật. TTKDTM được mở rộng, chất lượng, hiệu
quả thanh toán tăng rõ rệt.
Hàn Quốc đã định hướng thành lập và phát triển Công ty
chuyển mạch thẻ BC Card để hướng tới phát triển thẻ là
phương tiện thanh toán chủ yếu trong khu vực dân cư, đặc
21
biệt là thẻ tín dụng. Chính phủ Hàn Quốc với lợi thế về mặt
công nghệ sẵn có trong nước đã thành công trong quyết định

này, đã đẩy mạnh được tiêu dùng trong nước và kiểm soát
thuế hiệu quả. Năm 2008, Hàn Quốc có hơn 96 triệu thẻ với
hơn 15,4 đơn vị chấp nhận thanh toán thẻ trên toàn quốc, nhờ
đó mà tỷ lệ chi tiêu qua thẻ tín dụng trong tiêu dùng cá nhận
đã đạt hơn 50%.
Từ những năm đầu thế kỷ XXI, Chính phủ Trung Quốc đã
xác định phát triển thẻ ngân hàng sẽ là mũi nhọn cần tập
trung đối với các khoản chi tiêu công và khu vực dân cư,
trong đó Bộ Tài chính đã phối hợp với Ngân hàng Nhân dân
Trung Hoa ban hành “Biện pháp chi tiêu công bằng thẻ chi
dịch vụ công”. Năm 2002, Trung tâm Chuyển mạch thẻ
ChinaUnionPay (CUP) của Trung Quốc ra đời với sự hậu thuẫn
đặc biệt của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa đã đánh dấu
mốc quan trọng và sự thành công vượt bậc trong ngành công
nghiệp thẻ của Trung Quốc. Tất cả các NHTM của Trung Quốc
khi phát hành thẻ đều phải bắt buộc trở thành thành viên
của Cup, do đó mà ở Trung Quốc thẻ ngân hàng có thể được
sự dụng thuận tiện và dễ dàng tại bất cứ điểm chấp nhận
thanh toán và ATM nào. Tính đến năm 2008, tại Trung Quốc,
các ngân hàng đã phát hành được tổng cộng gần 1,9 tỷ thẻ,
số lượng POS và ATM được triển khai lần lượt là 1,84 triệu và
167.500 máy.
Tại Malaysia, Chính phủ chỉ đạo việc triển khai áp dụng
thanh toán trực tuyến qua Internet và thẻ với các khoản thu
ngân sách trên toàn quốc. Ngân hàng Trung ương Malaysia
đã phối hợp với các Bộ, Ngành cũng như các NHTM để triển
22
khai dịch vụ thu thế, phí và lệ phí của Nhà nước dưới hình
thức thanh toán điện tử này. Tính đến cuối năm 2008, đã có
89 cơ quan Nhà nước cung cấp tổng cộng 148 dịch vụ thanh

toán điện tử; khoảng 95% khối lượng thanh toán của Chính
phủ hiện nay được thực hiện thông qua kênh điện tử.
Quá trình phát triển ngân hàng điện tử đã mang lại hiệu quả lớn cho
các TCTD . Song bên cạnh đó cũng có không ít những tồn tại hạn chế, thậm
chí là hệ quả để lại là không nhỏ khi các TCTD có “bước đi” không đúng
hoặc áp dụng và ứng dụng công nghệ không phù hợp: vừa tốn kém chi phí
vừa mất cơ hội phát triển. Chính vì lẽ những kinh nghiệm thực tế từ các
nước phát triển thành công ngân hàng điện tử luôn là những bài học thực tiễn
quý báu. Để học tập và áp dụng thuận lợi hơn đối với các TCTD Việt Nam
nói chung và trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, đề tài đặt vấn đề
phân tích một số bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc – là nước thuộc khu
vực Châu Á, có nét tương đồng trong phát triển kinh tế với Việt Nam và Mỹ
– là có nền kinh tế phát triển mạnh nhất, với trình độ công nghệ ngân hàng
hiện đại cũng như có hoạt động ngân hàng điện tử, thanh toán không dùng
tiền mặt phát triển tiên phong – làm cơ sở để tham chiếu,học tập. Cụ thể như
sau:
Bài học về tính hiệu quả và phát triển ứng dụng công nghệ theo
hướng khôn ngoan ,đi tắt đón đầu ,tận dụng lợi thế có sẵn, để chiến
thắng trong cạnh tranh.
Sự phát triển ngân hàng điện tử nói chung và các dịch vụ ngân hàng
điện tử nói riêng tại Trung Quốc trong những năm qua rất ấn tượng và mạnh
mẽ.Năm 2000 Trung Quốc mới bắt đầu phát triển và tham gia vào hệ thống
ngân hàng trực tuyến, nhưng đã có chính sách đầu tư và chiến lược phát triển
đúng đắn nên họ đã có những thành tựu vượt bậc .Theo Trung tâm thông tin
mạng Trung Quốc số người dùng internet ở nước này đã tăng 28,9% trong
23
năm 2009 lên 384 triệu người (lớn hơn dân số nước Mỹ) doanh số mua sắm
trực tuyến là 3.600 tỷ nhân dân tệ tương đương 529,6 tỷ USD,6 tháng đầu
năm 2010 doanh số mua bán trực tuyến là 2.250 tỷ nhân dân tệ tương đương
331 tỷ USD. Để đạt được kết quả đó đã có sự đóng góp rất to lớn của hệ

thống ngân hàng Trung Quốc với các dịch vụ Ngân hàng điện tử .
Ngay sau khi gia nhập WTO,nhiều chuyên gia tài chính ngân hàng đã
cho rằng dịch vụ Ngân hàng điện tử sẽ là vũ khí của các ngân hàng nước
ngoài tấn công vào thị trường Trung Quốc do các ngân hàng nội địa gặp
nhiều bất lợi về dịch vụ công nghệ ngân hàng.Đứng trước tình hình đó ngành
ngân hàng Trung Quốc đã có chiến lược phát triển ngân hàng điện tử hợp lý
nhằm chiến thắng trong cạnh tranh.Trong đó điển hình là ngân hàng Thương
mại và Công nghiệp Trung Quốc (ICBC).
ICBC và một số ngân hàng nội địa khác bắt đầu triển khai ebanking từ
năm 2000.Nó luôn dành được mối quan tâm lớn từ phía lãnh đạo của ngân
hàng,họ coi đây là bộ phận quan trọng trong tiến trình hiện đại quá ngân
hàng.Trong tình hình mới mà nhất là sau khi gia nhập WTO,ngân hàng có
thể đứng vững và chiến thắng trong cạnh tranh hay không ,tất cả tùy thuộc
vào bộ phận Ebanking. Bộ phận Ebanking đã được đầu tư nhân lực và tài lực
thích đáng. Trong hai năm 2003 và 2004,ICBC đã nâng gấp số lựơng điểm
giao dịch của họ trên toàn Trung Quốc .Đồng thời họ cũng tung ra nhiều
chiến dịch quảng cáo về các lợi ích của các dịch vụ ngân hàng điện tử như
tiết kiệm thời gian và chi phí cho khách hàng. Song song đó các ngân hàng c
còn ra sức thuyết phục người dân sử dụng các sản phẩm Ebanking của mình
bằng chất lượng dịch vụ hoàn hảo với tâm lý an toàn hơn với ngân hàng nội
địa.
Đến nay ICBC đã đạt được kết quả rất đáng khích lệ với hơn 100 triệu
khách hàng là cá nhân ,các công ty,tập đoàn tại Trung quốc .Trong đó, hầu
24
hết khách hàng doanh nghiệp là các công ty Bảo Hiểm ,các tập đoàn tài
chính lớn của Trung Quốc .
Mô hình phát triển theo chiều rộng (mở rộng mạng lưới nhanh chóng
trong giai đoạn 2003-2004) và phát triển theo chiều sâu bằng cách đầu tư
đúng đắn vào đội ngũ nhân viên và không ngừng nâng cao chất lượng dịch
vụ đã tạo được niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng.Đây là mô hình

được các ngân hàng khác tại Trung Quốc học tập và thực hiện trong quá
trình phát triển dịch vụ ngân hàng hàng điện tử.
+ Hiện nay Trung Quốc đã đạt đến trình độ sản xuất các thiết bị điện
tử trong lĩnh vực ngân hàng điện tử: Máy ATM và hệ thống phần cứng ,
phần mềm rất được các nước, khu vực và Thế giới ưa chuộng;
Tình phát triển ngân hàng điện tử tại Mỹ:
+ Đầu tư phát triển ngân hàng điện tử: Tại Mỹ, hầu hết các ngân hàng
đều nhận thức rõ về vai trò, tầm quan trọng của ngân hàng điện tử, chỉ tính
riêng trong năm 2000 lượng tiền đầu tư nhằm xây dựng hệ thống ngân hàng
điện tử đã là 500 triệu USD, và đạt 2 tỷ USD vào năm 2005;
+ Các ngân hàng lớn tại Mỹ tham gia vào kinh doanh trực tuyến ngày
càng nhiều, theo báo cáo của FDIC, số ngân hàng có tài sản dưới 100 triệu
có cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến chỉ chiếm khoảng 5%. Trong khi
đó số ngân hàng có tài sản lớn hơn 10 tỷ USD có dịch vụ ngân hàng điện tử
chiếm tới 84%;
+ Ngày nay, tất cả các Ngân hàng của Mỹ đã cung cấp dịch vụ ngân
hàng trực tuyến. Điều này góp phần quan trọng vào quá trình thực hiện thanh
toán không dùng tiền mặt tại Mỹ. Hầu hết mọi mua bán, giao dịch hàng hoá
đều thực hiện quả thẻ ngân hàng;
25
Kết luận chương 1:
Có thể nói phát triển ngân hàng điện tử ngày nay là nhu cầu cần thiết
và mang tính tất yếu khách quan,nó gắn liền với xu thế phát triển chung của
thời đại.Việc làm rõ cơ sở lý luận ,các vấn đề cơ bản nhất của ngân hàng
điện tử và các dịch vụ ngân hàng điện tử làm nền tảng lý luận giải quyết các
vấn đề mà đề tài đặt ra .Đây cũng là mục tiêu đặt ra của chương 1.
Chương 1 của đề tài đã làm rõ các vấn đề của ngân hàng điện tử .
Trong đó phân tích đánh giá cao sự cần thiết khách quan phải phát triển ngân
hàng điện tử tại Việt Nam nói chung và trên địa bàn thành phố nói riêng, bởi
những tiện ích to lớn của nó.Bởi vì số các lượng dịch vụ ngân hàng điện tử

có thể được phát triển rất lớn nhờ vào khả năng ứng dụng công nghệ hiện
đại,nó không phụ thuộc vào không gian và thời gian đồng nghĩa ngân hàng
sẽ tiếp cận được nhiều khách hàng hơn và tiết kiệm được nhiều chi phí.Theo
đó mỗi sự tiến bộ của khoa học công nghệ, có thể sẽ phát sinh nhiều sản
phẩm hay tiện ích mới, đa năng hơn.
Trong chương 1, đề tài cũng đã phân tích, đánh giá về mặt lý thuyết
các điều kiện cơ bản (nguồn nhân lực; công nghệ; vốn) để các TCTD phát

×