Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

nâng cao hiệu quả kinh doanh tại trung tâm quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.41 KB, 87 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ
SƠ ĐỒ
Doanh thu/tổng tài sản = 46
Tổng lao động trong kỳ 62
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ: 2.1: Tổng nợ & Tổng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
Error:
Reference source not found
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tìm và chọn những địa điểm thuận lợi, thiết kế đẹp, an ninh đảm bảo,
dịch vụ chuyên nghiệp để làm văn phòng hoặc trụ sở làm việc luôn là một
trong những công việc quan trọng bậc nhất của các doanh nghiệp cho dù công
ty của họ thuộc lĩnh vực nào hay quy mô ra sao.
Trong những năm vừa qua, một con số rất lớn các tập đoàn nước ngoài
đã quyết định gia nhập thị trường Việt Nam; cộng với thực tế là ngay tại Việt
Nam, rất nhiều doanh nghiệp trong nước đã được mở ra. Thêm vào đó, cũng
có không ít các công ty có nhu cầu mở rộng và cần tìm những diện tích lớn
hơn để đặt văn phòng. Chính nguồn cầu phong phú này đã thúc đẩy thị trường
văn phòng cho thuê phát triển không ngừng trong một vài năm trở lại đây.
Diện mạo thủ đô dường như đổi thay phần nào với sự xuất hiện của
nhiều cao ốc văn phòng đẹp và chuyên nghiệp. Ngay cả trên thị trường này,
sản phẩm cũng trở nên ngày một phong phú vì khách thuê có thể có vô cùng
nhiều lựa chọn từ các tòa nhà hạng A, B, C. Song có lẽ thời kì đỉnh cao hồi
năm 2007 khi giá thuê văn phòng hạng A đã có lúc chạm mức
60USD/m2/tháng đã qua. Thị trường năm 2008 – 2009 khá ảm đạm với thực
tế công suất thuê, giá thuê không còn cao như trước. Nhiều văn phòng nằm
trong tình trạng “chờ khách thuê”.
Cạnh tranh trong ngành này càng ngày càng trở nên quyết liệt, nhất là


trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay. Công ty Trung Tâm
Quốc Tế là trong những doanh nghiệp hoạt động 15 năm trong lĩnh vực này
cũng đang phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn điều này được thể hiện rất rõ
qua kết quả hoạt động kinh doanh còn thấp so với các công công ty trong
ngành trong giai đoạn từ 2005 - 2010. Để tồn tại và phát triển trong giai đoạn
1
sáp tới, Trung Tâm Quốc Tế buộc phải tìm mọi cánh đứng vững trong thị
trường và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Trong bối cảnh đó đề tài: “Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Trung Tâm
Quốc Tế” được lựa chọn nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích chính của đề tài này là trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa
học về hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luận văn hướng tới:
- Phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của Trung Tâm
Quốc Tế từ đó tìm ra những ưu, nhược điểm, nguyên nhân những hạn chế
trong hoạt động kinh doanh
- Từ đó luận văn sẽ đề xuất những biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động
kinh doanh của Trung Tâm Quốc Tế.
3. Đối tượng, phạm vi & thời gian nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này chính là hiệu quả hoạt động kinh
doanh tại Công ty Liên Doanh Quốc Tế.
3.2 Phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động kinh doanh tại Công ty Liên Doanh Quốc Tế tại 17 Ngô
Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
3.2 Thời gian nghiên cứu
Nhằm đảm bảo đề tài mang tính thực tế các số liệu được lấy trong 5 năm
gần nhất (2005 – 2010)
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng nguồn dữ liệu thu thập từ các tài liệu nội bộ: phòng kế

toán công ty Trung tâm Quốc tế, phòng marketing, phòng nhân sự, phòng
quản lý bất động sản, nguồn dữ liệu từ bên ngoài được thu thập từ: số liệu về
thị trường bất động sản qua mạng internet, các tạp chí bất động sản… Các
2
nguồn dữ liệu này được trích dẫn trực tiếp trong luận văn và được ghi chú chi
tiết trong phần tài liệu tham khảo.
Nguồn dữ liệu sơ cấp:
Luận văn tiến hành lấy ý kiến từ các cá nhân thông qua bảng câu hỏi điều
tra. Đối tượng là các khách hàng đang thuê văn phòng tại Trung tâm Quốc tế.
Những phương pháp phân tích được sử dụng xuyên suốt trong quá trình
nghiên cứu chủ yếu là:
Phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp so sánh trong phân tích là
đối chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lượng hoá có cùng một
nội dung, một tính chất tương tự để xác định xu hướng và mức độ biến động
của các chỉ tiêu đó. Nó cho phép chúng ta tổng hợp được những nét chung,
tách ra được những nét riêng của các hiện tượng kinh tế đưa ra so sánh, trên
cơ sở đó đánh giá được các mặt phát triển hay các mặt kém phát triển, hiệu
quả hay kém hiệu quả để tìm các giải pháp nhằm quản lý tối ưu trong mỗi
trường hợp cụ thể.
So sánh số tuyệt đối: là kết quả của phép trừ giữa trị số của kỳ phân tích
so với kỳ gốc, kết quả so sánh này biểu hiện khối lượng, quy mô của các hiện
tượng kinh tế.
So sánh số tương đối: là tỉ lệ phần trăm của chỉ tiêu kỳ phân tích với chỉ
tiêu cơ sở, thể hiện tỉ lệ của số chênh lệch tuyệt đối so với chi tiêu gốc, để nói
lên tốc độ tăng trưởng.
Phương pháp Đồ thị và Biểu đồ: là phương pháp sử dụng đồ thị và biểu
đồ để phân tích những mối quan hệ, những mức biến động cũng như sự ảnh
hưởng của các chi tiêu phân tích khác.
Phương pháp phân tích, tổng hợp…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Trên phương diện lý luận: luận văn đưa ra cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
3
Trên phương diện thực tiễn: Từ việc phân tích kết quả kinh doanh của
công ty Trung Tâm Quốc Tế, từ đó tìm ra được những điểm mạnh điểm yếu,
các yếu tố ảnh hưởng tới công ty Trung Tâm Quốc Tế nói riêng cũng nhưng
thị trường cho thuê văn phòng và bất động sản nói chung trong thời gian qua.
Qua đó, đưa ra được những đề xuất giúp công ty Trung Tâm Quốc Tế phát
huy được những ưu điểm, cải thiện nhưng nhược điểm để có được kết quả
kinh doanh cao hơn.
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HIỆU QUẢ KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp
1.1.1 Khái quát về doanh nghiệp
Hiện nay, có rất nhiều các quan điểm về doanh nghiệp như sau:
• Quan điểm nhà tổ chức: doanh nghiệp là một tổng thể các phương tiện,
máy móc thiết bị và con người được tổ chức lại nhằm đạt một mục đích.
• Quan điểm lợi nhuận: doanh nghiệp là một tổ chức sản xuất, thông qua
đó, trong khuôn khổ một tài sản nhất định, người ta kết hợp nhiều yếu tố sản
xuất khác nhau, nhằm tạo ra những sản phẩm và dịch vụ để bán trên thị
trường và thu khoản chênh lệch giữa giá thành và giá bán sản phẩm.
• Quan điểm chức năng: doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh
nhằm thực hiện một, một số, hoặc tất cả các công đoạn trong quá trình đầu tư từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi.
• Quan điểm lý thuyết hệ thống: doanh nghiệp là một bộ phận hợp thành
trong hệ thống kinh tế, mỗi đơn vị trong hệ thống đó phải chịu sự tác động
tương hỗ lẫn nhau, phải tuân thủ những điều kiện hoạt động mà nhà nước đặt
ra cho hệ thống kinh tế đó nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng của xã hội.

Về góc độ pháp lý, theo Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp ban hành
ngày 29 tháng 11 năm 2005 của Việt Nam, khái niệm về doanh nghiệp như
sau: "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện ổn định các hoạt động kinh doanh. " Trên thực tế doanh
nghiệp được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau: cửa hàng, nhà máy, xí
nghiệp, hãng,
5
Những đặc điểm họat động của doanh nghiệp nói chung
• Mang chức năng sản xuất kinh doanh.
• Tối đa hóa lợi nhuận là mục têu kinh tế cơ bản, bên cạnh các mục tiêu
xã hội.
• Phải chấp nhận sự cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Các loại hình doanh nghiệp
Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định bốn loại hình doanh nghiệp hoạt
động tại Việt Nam. Đó là: công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh
và doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân
Theo Điều 141 Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp tư nhân là
doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Từ quy định trên chúng ta thấy doanh nghiệp tư nhân gồm những đặc
điểm cơ bản sau:
Một là: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân đầu tư
vốn thành lập và làm chủ. Chủ sở hữu tài sản của doanh nghiệp là một cá
nhân. Bởi vậy mà chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định những
vấn đề liên quan tới quản lý doanh nghiệp, thuê người khác điều hành ( trong
trường hợp này phải khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh và vẫn phải
chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp), có quyền cho thuê toàn
bộ doanh nghiệp, bán doanh nghiệp, tạm ngừng hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Hai là: Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân bởi vì tài sản
của doanh nghiệp không tách bạch rõ ràng với tài sản của chủ doanh nghiệp. Tài
sản mà chủ doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư
nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp.
6
Ba là: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn về
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH )
Công ty TNHH hai thành viên trở lên
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp có
những đặc điểm chung sau đây;
- Hình thức sở hữu của công ty là thuộc hình thức sở hữu chung của các
thành viên công ty
- Thành viên của công ty có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên
mỗi công ty không ít hơn hai và không vượt quá năm mươi.
- Công ty không được quyền phát hành cổ phần.
- Công ty là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm hữu
hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp.
Công ty TNHH một thành viên
Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp có những đặc điểm
chung sau đây:
- Chủ sở hữu công ty phải là một tổ chức hoặc cá nhân và có thể là: Cơ
quan nhà nước, đơn vị vũ trang, các pháp nhân của các tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các loại
doanh nghiệp, các tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
- Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần
vốn điểu lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác theo quy định về chuyển đổi doanh
nghiệp.
- Công ty không được phát hành cổ phần.

- Công ty có tư cách pháp nhân và chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm
hữu hạn đối với kết quả kinh doanh của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ
của công ty.
7
Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là doanh nghiệp có những đặc điểm chung sau đây:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế tối đa.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động
vốn, theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
- Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách
nhiệm hữu hạn, cổ đông của công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp.
Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp có những đặc điểm chung sau đây;
- Phải có ít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài các thành viên hợp danh
còn có thành viên góp vốn.
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn và uy tín
nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các
nghĩa vụ của công ty ( Trách nhiệm vô hạn ).
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
- Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân.
- Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Như vậy, công ty họp danh có hai loại: Công ty hợp danh mà tất cả các
thành viên đều là thành viên hợp danh và công ty hợp danh có cả thành viên
hợp danh và thành viên góp vốn.
1.1.2 Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

Tất cả các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong
8
nền kinh tế thị trường dù là hình thức sở hữu nào thì đều có các mục tiêu hoạt
động sản xuất khác nhau. Ngay trong mỗi giai đoạn, các doanh nghiệp cũng
theo đuổi các mục tiêu khác nhau, nhưng nhìn chung mọi doanh nghiệp trong
cơ chế thị trường đều nhằm mục tiêu lâu dài, mục tiêu bao trùm đó là làm sao
tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được các mục tiêu đó thì các doanh nghiệp phải
xây dựng được cho mình một chiến lược kinh doanh đúng đắn, xây dựng các
kế hoạch thực hiện và đặt ra các mục tiêu chi tiết nhưng phải phù hợp với
thực tế, đồng thời phù hợp với tiềm năng của doanh nghiệp và lấy đó làm cơ
sở để huy động và sử dụng các nguồn lực sau đó tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Trong điều kiện nền sản xuất kinh doanh chưa phát triển, thông tin cho
quản lý chưa nhiều, chưa phức tạp thì hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ là
quá trình sản xuất các sản phẩm thiết yếu cho nhu cầu cuả xã hội sau đó là sự
lưu thông trao đổi kinh doanh các mặt hàng do các doanh nghiệp sản xuất ra.
Khi nền kinh tế càng phát triển, những đòi hỏi về quản lý nền kinh tế quốc
dân không ngừng tăng lên. Quá trình đó hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách
quan của sự phát triển. C. Mác đã ghi rõ: “Nếu một hình thái vận động là do
một hình thái khác vận động khác phát triển lên thì những phản ánh của nó,
tức là những ngành khoa học khác nhau cũng phải từ một ngành này phát
triển ra thành một ngành khác một cách tất yếu”.
(1)
Sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất đã làm tăng
thêm lực lượng sản xuất xã hội, nảy sinh nền sản xuất hàng hóa. Quá trình sản
xuất bao gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng.
1
Chuyên môn hoá đã
tạo sự cần thiết phải trao đổi sản phẩm giữa người sản xuất và người tiêu
dùng. Sự trao đổi này bắt đầu với tính chất ngẫu nhiên, hiện vật, dần dần phát

1
(1)

Ph. Ăngghen : phương pháp Biện chứng tự nhiên. NXB Sự thật. Hà Nội. 1963. Trang 401-402.
9
triển mở rộng cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, khi tiền tệ ra đời
làm cho quá trình trao đổi sản phẩm mang hình thái mới là lưu thông hàng
hoá với các hoạt động mua và bán và đây là những hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp.
Thông thường, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều có định hướng,
có kế hoạch. Trong điều kiến sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường,
để tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh phải có lãi. Để
đạt được kết quả cao nhất trong sản xuất và kinh doanh, các doanh nghiệp cần
xác định phương hướng mục tiêu trong đầu tư, có kế hoạch sử dụng các điều
kiện sẵn có về các nguồn nhân tài, vật lực. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần
nắm được các nhân tố ảnh hưởng, mức độ và xu hướng tác động của từng
nhân tố đến kết quả kinh doanh. Điều này chỉ thực hiện được trên cơ sở của
quá trình phân tích kinh doanh của doanh nghiệp.
Như chúng ta đã biết, mọi hoạt động của doanh nghiệp đều nằm trong
thế tác động liên hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có tiến hành phân tích các hoạt
động kinh doanh một cách toàn diện mới giúp cho các nhà doanh nghiệp đánh
giá một cách đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế trong trạng thái hoạt
động thực của chúng. Trên cơ sử đó nêu lên một cách tổng hợp về trình độ
hoàn thành mục tiêu – biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật - tài
chính của doanh nghiệp. Đồng thời, phân tích sâu sắc các nguyên nhân hoàn
thành hay không hoàn thành các chỉ tiêu đó trong sự tác động lẫn nhau giữa
chúng. Từ đó có thể đánh giá đầy đủ mặt mạnh, mặt yếu trong công tác quản
lý doanh nghiệp. Mặt khác, qua công tác phân tích kinh doanh, giúp cho các
nhà doanh nghiệp tìm ra các biện pháp sát thực để tăng cường các hoạt động
kinh tế, và quản lý doanh nghiệp, nhằm huy động mọi khả năng tiềm tàng về

tiền vốn và lao động, đất đai vào quá trình sản xuất kinh doanh, nâng cao kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phân tích quá trình sản xuất kinh doanh
10
còn là căn cứ quan trọng phục vụ cho dự đoán, dự báo xu thế phát triển sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh được hiểu như là quá trình tiến
hành các công đoạn từ việc khai thác sử dụng các nguồn lực sẵn có trong nền
kinh tế để sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ nhằm cung cấp cho
nhu cầu thị trường và thu được lợi nhuận.
Vị trí và vai trò của hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp
Vị trí
Hoạt động sản xuất kinh doanh có vị trí vô cùng quan trọng trong mỗi
doanh nghiệp. Để tồn tại thì trước hết mỗi doanh nghiệp phải định hướng cho
mình là sản xuất cái gì? sau đó tiến hành các hoạt động sản xuất để sản xuất
ra các sản phẩm đó phục vụ cho nhu cầu của thị trường.
Hoạt động sản xuất kinh doanh là yêu cầu cơ bản cho sự tồn tại của nền
kinh tế. Thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh các donh nghiệp sẽ trao đổi
các sản phẩm với nhau từ đó có thể tiến hành hợp tác cùng kinh doanh. Hoạt
động sản xuất kinh doanh là cơ sở thiết yếu không thể thiếu được và nhất lại
là trong nền kinh tế thị trường như hiện nay. Nếu mỗi doanh nghiệp biết kết
hợp các yếu tố đầu vào để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì sẽ
mang lại một hiệu quả rất lớn cho mình.
Vai trò
Hoạt động sản xuất kinh doanh là công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị
doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ quản trị kinh doanh của mình. Khi tiến hành
bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào, các doanh nghiệp đều phải
huy động sử dụng tối đa các nguồn lực sẵn có nhằm đạt được mục tiêu là tối
đa hoá lợi nhuận và hoạt động sản xuất kinh doanh là một trong những công
cụ, phương pháp để doanh nghiệp đạt được mục tiêu đó. Thông qua việc tính
toán các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh không những cho phép các nhà quản trị

11
đánh giá được tính hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp (có đạt hiệu quả không và đạt ở mức độ nào) mà còn cho phép các nhà
quản trị phân tích tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất
kinh doanh, để từ đó tìm ra các biện pháp điều chỉnh phù hợp với thực tế của
thị trường, phù hợp với khả năng của doanh nghiệp.
Nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh là góp phần nâng cao sức cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Mỗi doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh trên thị trường đều gặp rất nhiều đối thủ cạnh tranh khác nhau
trong cùng ngành cũng như ngoài ngành. Do vậy chỉ có nâng cao hoạt động
sản xuất kinh doanh mới có thể tiết kiệm được chi phí, nâng cao năng suất lao
động, nâng cao chất lượng sản phẩm mới có thể nâng cao được sức cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thị trường và tìm mọi biện pháp để nâng cao hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một tất yếu khách quan.
Thông qua việc sử dụng các nguồn lực, từng yếu tố sản xuất sẽ quan sát
được mối qua hệ giữa yếu tố sản xuất với kết quả hoạt động kinh doanh, sẽ
biết được những nguyên nhân nào sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc sử dụng có
hiệu quả các yếu tố, những nguyên nhân nào đang còn hạn chế, ảnh hưởng
đến khai thác năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp có thể
tìm được các giải pháp thích hợp để khai thác khả năng tiềm tàng trong năng
lực sản xuất của doanh nghiệp, làm lợi cho hoạt động kinh doanh.
1.2 Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm và phân loại hiệu quả kinh doanh
1.2.1.1 Khái niệm về hiệu quả hoạt động kinh doanh:
Trong điều kiện kinh tế hiện nay, nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi từ
cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Sự thay đổi này đã làm thay đổi mạnh
mẽ nền kinh tế. Để duy trì và phát triển doanh nghiệp của mình thì trước hết
đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải có hiệu quả.
Không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, không
12

chỉ là mối quan tâm của bất kỳ ai mà là mối quan tâm của tất cả mọi
người, mọi doanh nghiệp khi làm bất cứ điều gì. Đó cũng là vấn đề bao trùm
và xuyên suốt, thể hiện trong công tác quản lý, bởi suy cho cùng quản lý kinh
tế là để đảm bảo tạo ra kết quả và hiệu quả cao nhất trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Tất cả những cải tiến, những đổi mới về nội dung, phương pháp,
biện pháp áp dụng trong quản lý chỉ thực sự đem lại ý nghĩa khi chúng làm
tăng được hiệu quả kinh doanh, không những là thước đo về chất lượng, phản
ánh tổ chức, quản lý kinh doanh, mà còn là vấn đề sống còn của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp muốn tồn tại và vươn lên thì trước hết đòi hỏi kinh
doanh phải có hiệu quả. Hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao, doanh
nghiệp càng có điều kiện tái sản xuất mở rộng, đầu tư nâng cấp máy móc
thiết bị, đổi mới công nghệ tiên tiến hiện đại. Kinh doanh có hiệu quả là tiền
đề nâng cao phúc lợi cho người lao động, kích thích người lao động tăng năng
suất lao động và là điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Như vậy hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế, biểu
hiện sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, nó phản ánh trình độ khai thác và sử
dụng các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu
kinh doanh, với chi phí bỏ ra ít nhất mà đạt hiệu quả cao nhất.
Ý nghĩa
- Qua phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đánh giá trình độ
khai thác và tiết kiệm các nguồn lực đã có.
-Thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ, tạo cơ sở cho việc thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất.
- Sản xuất kinh doanh phát triển với tốc độ cao.
- Trên cơ sở đó doanh nghiệp phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm
trong quá trình sản xuất, đề ra các biện pháp nhằm khai thác mọi khả năng
tiềm tàng để phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, hạ giá thành,
13
tăng khả năng cạnh tranh, tăng tích luỹ, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho người lao động.

Bản chất hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Bản chất của hiệu quả kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh là
phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh
trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận.
Sự cần thiết nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
- Hiệu quả kinh doanh là công cụ quản trị kinh doanh
- Hiệu quả kinh doanh không những cho biết trình độ sản xuất mà còn
giúp tìm ra các biện pháp tăng kết quả và giảm chi phí kinh doanh, nhằm nâng
cao hiệu quả.
- Nâng cao hiệu quả kinh doanh tức là đã nâng cao khả năng sử dụng các
nguồn lực khan hiếm.
- Trong cơ chế kinh tế thị trường, việc nâng cao hiệu quả của hoạt động
sản xuất kinh doanh là điều kiện cần để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
1.2.1.2 Phân loại hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
1.2.1.2.1 Căn cứ theo phạm vi tính toán
Bao gồm:
- Hiệu quả kinh tế: là 1 phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực (nhân lực, tài liệu, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu đề ra.
- Hiệu quả xã hội: phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhằm đạt
được các mục tiêu xã hội nhất định, đó là giải quyết công ăn việc làm trong
phạm vi toàn xã hội hoặc từng khu vực kinh tế, giảm số người thất nghiệp,
nâng cao trình độ lành nghề, cải thiện đời sống văn hoá, tinh thần cho người
lao động, đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động, nâng cao mức sống
cho các tầng lớp nhân dân.
- Hiệu quả an ninh quốc phòng: Phản ánh trình độ sử dụng các nguồn
14
lực vào sản xuất kinh doanh với mục tiêu lợi nhuận nhưng phải đảm bảo an
ninh chính trị, trật tự xã hội trong và ngoài nước.
- Hiệu quả đầu tư: phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực ở hiện tại
để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đem lại cho nhà đầu tư

các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn nguồn lực đã bỏ ra
- Hiệu quả môi trường: phản ánh việc khai thác và sử dụng các nguồn lực
trong sản xuất kinh doanh với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận nhưng phải xem
xét mức tương quan giữa kết quả đạt được về kinh tế với việc đảm bảo về vệ
sinh, môi trường và điều kiện làm việc của người lao động và khu vực dân cư.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải phấn đấu đạt
đồng thời các loại hiệu quả trên, song trong thực tế khó có thể đạt đồng thời
các mục tiêu hiệu quả tổng hợp đó.
1.2.1.2.2 Căn cứ theo nội dung tính toán
Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phân thành:
- Hiệu quả dưới dạng thuận: hiệu quả sản xuất kinh doanh được đo
lường bằng chỉ tiêu tương đối, biểu hiện quan hệ so sánh giữa chi phí đầu vào
với kết quả đầu ra.
Chỉ tiêu này cho biết cứ mỗi đơn vị đầu vào có khả năng tạo được bao
nhiêu đơn vị đầu ra.
- Hiệu quả dưới dạng nghịch: Là chỉ tiêu biểu hiện quan hệ so sánh
nhưng chỉ tiêu này cho biết để có được một đơn vị đầu ra cần bao nhiêu đơn
vị chi phí đầu vào.
1.2.1.2.3 Căn cứ theo phạm vi tính
Bao gồm:
- Hiệu quả toàn phần: tính chung cho toàn bộ kết quả và toàn bộ chi
phí của từng yếu tố hoặc tính chung cho tổng nguồn lực.
- Hiệu quả đầu tư tăng thêm: chỉ tính cho phần đầu tư tăng thêm (mới)
15
và kết quả tăng thêm của thời kỳ tính toán.
1.2.2 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng
các yếu tố của quá trình kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt kết quả cao
nhất trong hoạt động kinh doanh với chi phí thấp nhất. Do vậy hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp không chỉ được xem xét một cách tổng hợp mà còn

được nghiên cứu trên cơ sở các yếu tố thành phần của nó.
1.2.2.1 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả cá biệt:
Hiệu quả cá biệt của hoạt động kinh doanh được đánh giá thông qua các
chỉ tiêu hiệu suất.
Hiệu suất sản xuất kinh doanh là khái niệm dùng để đo lường mức độ sử
dụng các yếu tố đầu vào.
Hiệu suất sử dụng tài sản:
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng tài sản =
Tổng tài sản bình quân
hoặc: Giá trị sản xuất
Hiệu suất sử dụng tài sản =
Tổng tài sản bình quân
Doanh thu thuần ở công thức trên bao gồm doanh thu thuần từ hoạt động
kinh doanh, thu nhập hoạt động tài chính và thu nhập hoạt động khác.
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản đầu tư tại doanh nghiệp sẽ tạo ra
bao nhiêu đồng doanh thu thuần hay giá trị sản xuất. Giá trị của chỉ tiêu này
càng cao thể hiện hiệu quả sử dụng tài sản càng lớn.
Nếu xem xét hiệu quả sử dụng tài sản chỉ trong lĩnh vực kinh doanh
thuần túy thì mối quan hệ giữa tài sản và doanh thu thuần được tính như sau:
Doanh thu thuần sản xuất kinh doanh
16
Số vòng quay của tài sản =
Tổng tài sản bình quân
Hiệu suất sử dụng TSCĐ (hay vốn cố định).
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, giá trị sản xuất hình thành chủ yếu từ
năng lực TSCĐ nên để thể hiện hiệu quả cá biệt về việc sử dụng TSCĐ, có
thể tính theo các chỉ tiêu sau :
Giá trị sản xuất
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =

Nguyên giá bình quân TSCĐ
hoặc: Doanh thu thuần sản xuất kinh doanh
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại
bao nhiêu đồng giá trị sản xuất hoặc doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng cao
thể hiện hiệu suất công tác đầu tư càng lớn và hiệu suất sử dụng TSCĐ càng
cao, chỉ tiêu này cao hay thấp còn phụ thuộc vào đơn vị đó là đơn vị sản xuất
hay thương mại.Trong trường hợp chọn tử số là giá trị sản xuất thì nó có thể
phản ánh được khả năng tạo ra giá trị bằng TSCĐ. Chỉ tiêu này cao quá thể
hiện việc đầu tư giảm nhưng xét về lâu dài cũng chưa chắc là tốt vì thể hiện
khả năng đầu tư TSCĐ của doanh nghiệp thấp.
Hiệu suất sử dụng tài sản lưu động:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn lưu động không
ngừng vận động. Nó là một bộ phận có tốc độ lưu chuyển vốn nhanh so với
TSCĐ. Vốn lưu động sẽ lần lượt mang các hình thái khác nhau trong quá trình
dự trữ, sản xuất, lưu thông phân phối.Vì vậy, để đánh giá tốc độ lưu chuyển vốn
lưu động thì ta cần xem xét số vòng quay bình quân của vốn lưu động.
Số vòng quay vốn lưu động =
Chỉ tiêu này cho thấy số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ phân tích
17
Doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân
hay một đồng vốn lưu động bỏ ra thì đảm nhiệm bao đồng doanh thu thuần.
Trị giá của chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ vốn lưu động quay càng nhanh. Đó
là kết quả của việc quản lý vốn lưu động hợp lý trong các khâu dự trữ, tiêu
thụ và thanh toán, tạo tiền đề cho tình hình tài chính lành mạnh.
Số ngày 1 vòng quay vốn lưu động = *360
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được 1
vòng. Hệ số này càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển vốn lưu động càng lớn và

chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn lưu động càng cao.
Hiệu suất sử dụng hàng tồn kho:
Giá vốn hàng bán
Số vòng quay hàng tồn kho = (vòng)
Số dư bình quân hàng tồn kho
Tốc độ quay vòng của hàng tồn kho nhanh thì thể hiên khả năng thanh
toán của doanh nghiệp càng lớn và công việc kinh doanh của doanh nghiệp
được đánh giá là có hiệu quả.
Thời gian của một vòng Số dư bình quân hàng tồn kho
quay hàng tồn kho = *360
Giá vốn hàng bán
Chỉ tiêu này phản ánh thời gian lưu kho bình quân trước khi nó được tiêu thụ.
Hiệu suất sử dụng nợ phải thu
Số vòng quay nợ thu
khách hàng (vòng)
=
Doanh thu thuần
Các khoản phải thu bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ chuyển hóa khoản phải thu thành tiền, chỉ
tiêu này càng cao chứng tỏ công tác thu hồi nợ của doanh nghiệp được đánh
18
Vốn lưu động bình quân
Doanh thu thuần
giá là tốt và lúc này doanh nghiệp có khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn
hạn bởi các khoản phải thu. Nhưng nếu chỉ tiêu này quá cao thì có ảnh hưởng
đến doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp trong kỳ, vì trong nền kinh tế thị
trường hiện nay thì cần phải có một chính sách tín dụng hợp lý mới hấp dẫn
được khách hàng và làm tăng doanh thu của doanh nghiệp. Trong điều kiện
không thu thập được số liệu về doanh thu bán chịu thuần ta có thể lấy doanh
thu bán hàng để thay thế.

Số dư bình quân các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân = *360 (ngày/vòng)
Chỉ tiêu này phản ánh số ngày bình quân 1 vòng quay của khoản phải
thu. Chỉ tiêu này đem so sánh với kỳ hạn tín dụng của doanh nghiệp áp dụng
cho khách hàng sẽ đánh giá được tình hình thu hồi công nợ và khả năng
chuyển hóa thành tiền của khoản phải thu.
1.2.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh tổng hợp :
Ngoài việc xem xét hiệu quả cá biệt của từng loại nguồn lực, ta cần phân
tích hiệu quả tổng hợp dựa vào các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của
doanh nghiệp. Đó chính là khả năng sử dụng một cách tổng hợp các nguồn
lực để tạo ra kết quả trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu :
Tỷ suất này phản ánh cứ 100 đồng doanh thu thuần thì có bao nhiêu dồng
lợi nhuận. Sự biến động của tỷ suất này phản ánh sự biến động của hiệu quả
hay ảnh hưởng của các chiến lược tiêu thụ, nâng cao chất lượng sản phẩm.Có
các chỉ tiêu phổ biến sau :

Tỷ suất lợi nhuận trên DTT = *100(%)

Doanh thu thuần ở công thức trên bao gồm doanh thu thuần sản xuất
kinh doanh, thu nhập tài chính và thu nhập khác. Tuy nhiên vì sức sinh lợi của
19
Doanh thu thuần
Lợi nhuận trước thuế
Doanh thu thuần
mỗi hoạt động không như nhau và hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt
động chủ yếu của doanh nghiệp nên cần thiết phải phải tính riêng chỉ tiêu
đánh gía khả năng sinh lời từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tỷ suất này được xác định trên cơ sở mối quan hệ giữa doanh thu, chi
phí và lợi nhuận chỉ trong lĩnh vực kinh doanh thuần.

Tỷ suất lợi nhuận trên doanh Lợi nhuận thuần SXKD
thu thuần SXKD = *100%
Doanh thu thuần SXKD
Chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lãi của 1 đồng doanh thu khi tiêu thụ sản
phẩm hàng hóa. Trị giá của chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả kinh
doanh càng lớn .
Trong một số trường hợp, do chính sách khấu hao khác biệt dẫn đến chỉ
tiêu lợi nhuận thuần bị tính toán sai lệch. Do vậy, để loại trừ sự khác biệt về
chính sách khấu hao, chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận có thể được tính lại như sau :
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh Lợi nhuận thuần - Chi phí khấu hao
thu thuần SXKD SXKD TSCĐ
khi loại trừ chính sách =
khấu hao Doanh thu thuần SXKD
Chi phí khấu hao TSCĐ ở công thức trên được tính bằng cách lấy hao
mòn lũy kế cuối năm – hao mòn lũy kế đầu năm trên Bảng cân đối kế
tóan( nếu trong năm không có thanh lý, nhượng bán) hoặc lấy giá trị hao mòn
tăng trong kỳ - giá trị hao mòn giảm trong kỳ trên báo cáo chi tiết về tình hình
tăng giảm TSCĐ.
Chỉ tiêu hiệu quả này cho phép đánh giá hiệu quả doanh thu, nó đo lường
hiệu quả đạt được từ 100 đồng doanh thu. Tổng ở tử số của chỉ tiêu này còn
20
thể hiện khả năng tái đầu tư của doanh nghiêp. Do vây, sự tiến triển của chỉ
tiêu này qua thời gian chỉ ra khả năng phát triển và khả năng mà doanh nghiệp
phải duy trì để tái đầu tư.
Tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA)
Lợi nhuận trước thuế(sau thuế)
ROA = *100%
Tổng tài sản bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 100 tài sản đầu tư tại doanh nghiệp sẽ tạo ra
bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế(sau thuế). Chỉ tiêu ROA càng cao phản

ánh khả năng sinh lời tài sản càng cao.
Ngoài ra, để làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu tỷ suất sinh lời tài
sản, chỉ tiêu ROA còn được chi tiết qua phương trình Dupont :
Lợi nhuận trước thuế(sau thuế) Doanh thu thuần
ROA = * *100%
Doanh thu thuần Tổng tài sản bình quân
= Tỷ suất lợi nhuận trước thuế * Hiệu suất sử dụng
(sau thuế) trên doanh thu thuần tài sản
Để làm rõ ảnh hưởng của từng nhân tố, ta có thể sử dụng phương pháp
loại trừ. Hạn chế của chỉ tiêu này là chịu ảnh hưởng chi phí lãi vay.
Hiệu quả tài chính thường được các nhà đầu tư quan tâm vì nó gắn liền
với lợi ích của họ trong hiện tại và tương lai. Một doanh nghiệp có hiệu quả
tài chính cao chính là điều kiện cho doanh nghiệp tăng trưởng. Để phát triển,
doanh nghiệp phải đầu tư và sự đầu tư luôn cần các vốn. Nhưng vấn đề này
đặt ra một câu hỏi : doanh nghiệp nên gia tăng vốn chủ sở hữu hay nên huy
động vốn vay? Do vây, hiệu quả tài chính là mục tiêu của các nhà quản trị
21
cũng như của người chủ và người có vốn đầu tư.
Khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE)
Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận của vốn chủ sở hữu và
được các nhà đầu tư rất quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh
nghiệp. So với người cho vay, thì việc bỏ vốn vào hoạt động kinh doanh của
chủ sở hữu mang tính mạo hiểm lớn nhưng lại có nhiều cơ hội đem lại lợi
nhuận cao hơn. Vì thế tăng khả năng sinh lãi của vốn chủ sở hữu là một trong
các mục tiêu trong hoạt động quản lý tài chính và các nhà phân tích thường
dùng chỉ tiêu ROE làm thước đo mức doanh lợi đầu tư của chủ sở hữu.
Khả năng sinh lời vốn chủ thể hiện qua mối quan hệ giữa lợi nhuận của
doanh nghiệp với vốn chủ sở hữu, vốn thực có của doanh nghiệp
ROE = *100(%).
Chỉ tiêu này thể hiện 100 đồng vốn đầu tư của chủ sở hữu sẽ tạo ra bao

nhiêu đồng lợi nhuận cuối cùng, lợi nhuận sau thuế. Trong trường hợp doanh
nghiệp huy động vốn từ nhiều nguồn, chỉ tiêu này càng cao thì doanh nghiệp
càng có có cơ hội tìm kiếm được vốn mới thông qua thị trường tài chính. Ngược
lại, tỷ suất này càng thấp dưới mức sinh lời cần thiết của thị trường thì khả năng
thu hút vốn chủ sở hữu , khả năng đầu tư của doanh nghiệp càng khó .
Để có thể thấy rõ được nguyên nhân tác động trực tiếp đến ROE cũng
như mức đọ ảnh hưởng của từng nhân tố đến khả năng sinh lời vốn chủ, ta sẽ
xem xét các nhân tố sau :
Dĩ nhiên ảnh hưởng trước tiên đến hiệu quả tài chính phải là hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận sau thuế
ROE =
22
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình

quân
Vốn chủ sở hữu bình quân
Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần Tổng tài sản b/q
= * * *
Doanh thu thuần Tổng tài sản b/q Vốn chủ sở hữu b/q
1
= ROA *
Vốn chủ sở hữu b/q
Tổng tài sản b/q
1
= ROA *
Qua đó ta có thể thấy sức sinh lời vốn chủ tùy thuộc vào sức sinh lời của
tài sản và cấu trúc vốn của doanh nghiệp, tức tùy thuộc vào việc sử dụng Nợ
như thế nào.

Mục tiêu cơ bản trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường là tối đa hóa lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu đó, các
doanh nghiệp phải thực hiện nhều biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí, tăng
doanh thu từ hoạt động kinh doanh, đồng thời chủ động lựa chọn cơ cấu tài
chính hợp lý sao cho vừa tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn và các rủi ro về cơ
cấu tài chính, vừa tối đa hóa lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Một trong những công
cụ mà các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp thường sử dụng để đạt được các
mục đích trên là đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp.
Đòn bẩy tài chính phản ánh một đồng vốn mà doanh nghiệp hiện đang sử
dụng có bao nhiêu đồng vốn được hình thành từ các khoản nợ.
Như vậy, cấu trúc tài chính ( ) đóng vai trò là đòn bẩy tài chính
đối với khả năng sinh lời vốn chủ. Doanh nghiệp nào vận dụng hợp lý,
23
Nợ
VCSH
1 - Tỷ suất Nợ

×