Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

thực trạng vấn đề nhập siêu của việt nam trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.49 KB, 84 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
Chữ viết tắt Chú giải
XK Xuất khẩu
NK Nhập khẩu
NS Nhập siêu
XNK Xuất nhập khẩu
CCTM Cán cân thương mại
CCTTQT Cán cân thanh toán quốc tế
KNXNK Kim ngạch xuất nhập khẩu
KNNK Kim ngạch nhập khẩu
KNXK Kim ngạch xuất khẩu
ĐBSCL Đồng bằng sông cửu long
KTQT Kinh tế quốc tế
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
Chữ viết tắt Giải nghĩa tiếng Anh Giải nghĩa tiếng Việt
ACFTA Khu vực mậu dịch ASEAN - Trung Quốc
ADB Asian Development Bank
Ngân hàng phát triển Châu Á Thái
Bình Dương
AFTA Asean Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
AKFTA
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Hàn Quốc
ASEAN
Association of Southeast
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
APEC
Asia - Pacific Economic


Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái
Bình Dương
EU European Union Liên minh Châu Âu
FDI
Foreign Direct of
Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GSP
Generalised System of
Preference
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc dân
IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ Quốc tế
ODA
Official Development
Assistance
Viện trợ chính thức
SNG
Sodruzhestvo
Nezavisimykh Gosudarstv
Cộng đồng các quốc gia độc lập
TBT
Technical Barriens to
Trade
Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong
thương mại
TNCs
Transparent National
Companic

Công ty đa quốc gia
USD The United Stages Dollar Đô la Mỹ
JVEPA Hiệp định đối tác kinh tế Việt - Nhật
WB The World bank Ngân hàng thế giới
WTO
The World Trade
Organizatiion
Tổ chức thương mại Thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế Việt Nam trong vài năm trở lại đây đang có những bước chuyển biến
tích cực như tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân luôn ở mức cao so với khu vực và
thế giới, giai đoạn 1991 - 2009 là 7.56% , chỉ đứng sau Trung Quốc và Ấn Độ; GDP
bình quân đầu người tăng cao, bình quân 13,6% trong cùng kỳ từ năm 1991 - 2009
và được đánh dấu bởi cột mốc năm 2008 khi nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nhóm
nước có thu nhập thấp sang nhóm nước có thu nhập trung bình.
Song song với những chuyển biến tích cực đó thì một thực trạng đáng báo
động trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam từ những thập niên 90 tới nay là tình
trạng thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai xuất phát chủ yếu từ thâm hụt cán cân
thương mại ngày càng gia tăng. Nếu như xuất khẩu tăng trưởng đều đặn mỗi năm
(đặc biệt, xuất siêu vào năm 1992) nhờ xuất những mặt hàng chủ lực như: nguyên
vật liệu thô (dầu mỏ, than đá…), nông sản (gạo, hạt điều, hạt tiêu…), thủy hải sản,
hàng gia công mỹ nghệ… thì khi đề cập vấn đề nhập khẩu ta sẽ thấy điều hoàn toàn
trái ngược. Xét khía cạnh kim ngạch và quy mô nhập khẩu thì tốc độ tăng trưởng
nhập khẩu bình quân giai đoạn 1991 - 2000 là 17,5%, giai đoạn 2001 - 2006 là 19%,
giai đoạn 2007 - 2009 là 11% . Nhìn chung tăng trưởng nhập khẩu của nước ta
không ổn định qua các thời kỳ, thậm chí còn vượt xuất khẩu rất nhiều mặc dù đã có
sự can thiệp của Chính Phủ trong việc điều tiết thị trường, gia tăng tỷ trọng các mặt
hàng công nghiệp, đề ra các chính sách kích thích tăng trưởng xuất khẩu, hạn chế

nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu Tuy vậy, các biện pháp đó vẫn chưa
thực sự hiệu quả trong việc kiềm chế hiện tượng nhập siêu quá nóng hiện nay.
Chỉ xét riêng thị trường trong nước, nhập siêu đã gây tác động không nhỏ đến
các doanh nghiệp trong nước khi chiếm lĩnh thị phần đầu vào và đầu ra khiến những
sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra khó cạnh tranh trên thị trường do giá bán
cao, gây thiệt hại nặng; bên cạnh đó, nhập siêu còn tạo ra sự phụ thuộc vào nước
ngoài, làm mất cân đối cán cân thanh toán, ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái …
Trước tình hình đó, đòi hỏi chúng ta cần phải sớm tìm ra những chính sách hợp lý
hơn để kiềm chế nhập siêu, tiến tới cân bằng cán cân thanh toán và thặng dư thương mại.
1
2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu này là nhằm đưa ra những đề suất tốt nhất cho Chính phủ
trong việc tiếp tục ra các chính sách mới kiềm chế nhập siêu, tăng cường xuất khẩu
để tiến tới cân bằng cán cân thương mại và xa hơn là thặng dư thương mại ở các
giai đoạn tiếp theo của nền kinh tế nước nhà.
3.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích đã đề ra, đề tài nghiên cứu cần hoàn thành được
những nhiệm vụ sau:
– Khát quát hóa cơ sở lý luận về nhập siêu.
– Đưa ra thực trạng nhập siêu trong nước và những kinh nghiệm hạn chế
nhập siêu của các quốc gia khác làm bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
– Dự báo tình hình nhập siêu của Việt Nam trong những năm tiếp theo.
– Đưa ra các giải pháp, công cụ để hạn chế nhập siêu.
4.
Phạm vi nghiên cứu
Đó là lĩnh vực nhập khẩu hàng hóa (không bao gồm lĩnh vực nhập khẩu dịch
vụ). Trong nhập khẩu hàng hóa, cũng chỉ đi sâu nghiên cứu, phân tích một số khía
cạnh chủ yếu ở giai đoạn 2001 - 2009, như: tốc độ tăng trưởng và qui mô nhập
khẩu, cơ cấu mặt hàng nhập khẩu, cơ cấu thị trường nhập khẩu, các thành phần kinh

tế tham gia vào lĩnh vực nhập khẩu, các điều kiện ảnh hưởng đến nhập khẩu và kinh
nghiệm của các quốc gia đã kiềm chế được tình trạng nhập siêu. Từ đó đề suất các
giải pháp kiềm chế nhập siêu cho Chính phủ trong giai đoạn sau 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: phương pháp hệ thống
hóa, thống kê, tổng hợp, so sánh dẫn giải, phân tích…
6.
Kết cấu của đề tài
Kết cấu đề tài gồm ba chương chính, bao gồm:
Chương I: Khái lược về nhập siêu, dự báo nhập siêu của Việt Nam trong thời
gian tới và kinh nghiệm của một số nước về giải quyết vấn đề
nhập siêu.
Chương II: Thực trạng vấn đề nhập siêu của Việt Nam trong thời gian qua.
Chương III: Các biện pháp kiềm chế nhập siêu của Việt Nam trong thời gian tới.
2
CHƯƠNG I
KHÁI LƯỢC VỀ NHẬP SIÊU, THỰC TRẠNG
VÀ NGUYÊN NHÂN NHẬP SIÊU CỦA VIỆT NAM
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
I. KHÁI NIỆM VỀ NHẬP SIÊU, NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NHẬP SIÊU VÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA NHẬP SIÊU ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
1. Khái niệm, đặc điểm và các quan niệm về nhập siêu.
1.1. Khái niệm nhập siêu.
Nhập siêu là khoản thiếu hụt của giá trị xuất khẩu hàng hoá so với giá trị nhập
khẩu hàng hoá của một nước trong một khoảng thời gian nhất định (thường tính
theo năm). Nói cách khác, nhập siêu là khoản thiếu hụt cán cân thanh toán thương
mại hàng hoá của một nền kinh tế trong quan hệ trao đổi hàng hoá với phần còn lại
của thế giới trong một khoảng thời gian xác định (thường là một năm). Tỷ lệ nhập
siêu là quan hệ so sánh giữa khoản giá trị nhập siêu với tổng giá trị xuất khẩu hàng
hoá của nước đó trong cùng thời gian, được tính bằng số phần trăm (%).

Cán cân thương mại (hay còn gọi là cán cân xuất nhập khẩu hàng hoá) là mối
tương quan giữa giá trị các khoản nhập khẩu hàng hoá được tính theo giá CIF, tức là
giá tri cả hàng hoá (cost), chi phí bảo hiểm (insurance) và chi phí vận chuyển
(freight) với giá trị các khoản xuất khẩu hàng hoá được tính theo giá FOB (free on
board), tức là chỉ tính theo giá mua được khách hàng nước ngoài chấp nhận, không
tính chi phí bảo hiểm và vận chuyển.
Nói cách khác, cán cân thương mại Việt Nam là mức chênh lệch giữa giá trị
xuất khẩu hàng hoá và giá trị nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với các nước
trong một thời kì nhất định. Trong cán cân thương mại hàng hoá, trị giá XK được
tính theo giá FOB, trị giá NK được tính theo giá CIF. Khi trị giá XK lớn hơn trị
giá NK thì cán cân thương mại mang dấu dương (+) hay còn gọi là xuất siêu; khi
trị giá NK lớn hơn trị giá XK thì cán cân thương mại mang dấu âm (-) hay còn gọi
là nhập siêu.
Cán cân thanh toán quốc tế theo định nghĩa của IMF - là một bản thống kê
cho một thời kì nhất định (thường là một năm) trình bày: a) các luồng trao đổi hàng
3
hoá, dịch vụ và thu nhập giữa nền kinh tế trong nước và thế giới bên ngoài; b)
những thay đổi về quyền sở hữu và những thay đổi khác về vàng, quyền vay vốn
đặc biệt trong nền kinh tế, những khoản có và khoản nợ của nước đó với các nước
khác trên thế giới; c) những khoản chuyển tiền không phải bồi hoàn và những
khoản thu nhập tương đương cần phải được cân bằng. Nói cách khác, cán cân thanh
toán quốc tế là bảng thống kê tất cả những giao dịch giữa những người cư trú cả
một nước (như Việt Nam) với những người cư trú của nước khác (những người
không cư trú ở Việt Nam) trong một thời kì nhất định, thường là một năm. Trong
đó, các giao dịch kinh tế được hiểu là sự trao đổi tự nguyện quyền sở hữu hàng hoá,
dịch vụ hoặc tài sản chính giữa những người cư trú và những người không cư trú
(đối với các giao dịch không đòi hỏi thanh toán như quà tặng và các di chuyển đơn
phương khác về tiền giữa những người cư trú và những người không cư trú cũng
được đưa vào CCTTQT). Người cư trú được hiểu là những thể nhân hoặc pháp nhân
cư trú đang ở quốc gia được xét lâu hơn một năm, không phụ thuộc vào quốc tịch

của họ (các nhà ngoại giao, các chuyên gia quân sự ở bên ngoài lãnh thổ của họ
cũng như các tổ chức quốc tế không phải là người cư trú của nơi họ làm việc). Theo
IMF, CCTTQT gồm hai tài khoản chính là cán cân thanh toán vãng lai (gọi tắt là tài
khoản vãng lai) và cán cân tài khoản vốn.
I.2. Đặc điểm của nhập siêu
-
Đặc điểm về qui mô, mức độ nhập siêu.
Qui mô nhập siêu của nền kinh tế được xác định bằng giá trị đo bằng ngoại tệ
chuyển đổi sau khi thực hiện phép trừ đại số của tổng giá trị XK hàng hoá với tổng
giá trị NK hàng hoá trong một giai đoạn nhất định (thường là một năm). Ví dụ, đối
với trường hợp Việt Nam, qui mô nhập siêu được tính bằng Đô la Mỹ. Mức độ nhập
siêu của nền kinh tế được xác định bằng quan hệ tỷ lệ phần trăm (%) giữa giá trị nhập
siêu tính bằng ngoại tệ (đôla Mỹ) với tổng giá trị (hay kim ngạch) XK hàng hoá tính
bằng ngoại tệ chuyển đổi (đôla Mỹ) trong cùng một giai đoạn (thường là một năm).
-
Đặc điểm về các dạng thái của nhập siêu.
Nếu theo mục đích, nhập siêu của các nền kinh tế thường ở 4 dạng thái chủ
yếu sau:
Nhập siêu để tăng trưởng (là dạng thái tích cực của nhập siêu): Đây là
4
trường hợp do đầu tư phát triển nhanh, đòi hỏi phải tăng nhanh nhập khẩu để đáp
ứng nhu cầu “đầu vào” của sản xuất nhưng năng lực sản xuất trong nước đang trong
quá trình hấp thụ đầu tư chưa kịp chuyển hoá thành năng lực XK của nền kinh tế
trong ngắn hạn, nên XK chưa tăng trưởng kịp tốc độ của NK, dẫn đến nhập siêu.
Tuy nhiên, nếu sản xuất trong nước hấp thụ tốt vốn đầu tư, đầu tư có chọn lợc và
hiệu quả, từ đó tăng năng lực sản xuất hàng XK thì nhập siêu cao có thể là tiền đề
của tăng trưởng XK trong dài hạn, tạo hiệu ứng tích cực đối với tăng trưởng kinh tế
ở giai đoạn tiếp theo.
Nhập siêu để tiêu dùng: Đây là trường hợp do sản xuất trong nước bị trì trệ,
lượng sản phẩm hàng hoá sản xuất trong nước không đủ cho tiêu dung trong nước

(Tổng cung < Tổng cầu) phải tăng NK để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường
trong nước, trong khi hàng XK có sức cạnh tranh yếu, tăng trưởng XK chậm hơn
tăng trưởng NK dẫn đến nhập siêu (có xu hướng ngày càng cao). Nguyên nhân của
tình trạng này có thể do mức bảo hộ quá cao và cơ cấu bảo hộ bất hợp lý; duy trì tỷ
giá và lãi suất thấp trong một thời gian dài; qui mô của khu vực kinh tế Nhà nước
vượt quá khả năng chi tiêu của Nhà nước; hoặc/và chính sách tiền tệ lỏng lẻo, chính
sách quản lý nhập khẩu không dựa trên các dự báo khoa học về cung - cầu, tạo
khuynh hướng nhập khẩu hàng tiêu dùng, đầu cơ. Dạng thái nhập siêu này có thể
được gọi là tiêu cực, nó để lại hậu quả lâu dài cho nền kinh tế.
Nhập siêu chu kỳ: Đây là dạng thái nhập siêu bị tác động bởi tính chu kỳ của
nền kinh tế. Khi nền kinh tế ở giai đoạn suy thoái, nhu cầu NK giảm mạnh trong khi
đó các nước muốn xuất khẩu nhiều hơn và do đó có thể có xuất siêu. Ngược lại, khi
nền kinh tế bước vào thời kỳ tăng trưởng thì đầu tư tăng, nhu cầu nhập khẩu tăng
theo nhưng năng lực xuất khẩu chưa tăng ngay theo kịp tốc độ tăng trưởng nhập
khẩu, nên thường phải nhập siêu.
Một số công trình nghiên cứu cho thấy, trong thời kỳ phát triển bùng nổ của
nền kinh tế thường xảy ra nhập siêu. Trong khi đó, trong thời kỳ khủng hoảng lại có
thể có xuất siêu, điều này cũng phần nào giúp phục hồi trở lại cho chu kỳ kinh tế.
Tuy nhiên, điều này chỉ có tính tương đối, bởi có những trường hợp, khi nền kinh tế
ở thời kỳ suy thoái, nhưng vẫn xảy ra nhập siêu trầm trọng. Nhưng nhìn chung, khi
5
nền kinh tế tăng trưởng trở lại, đầu tư tăng nhu cầu nhập khẩu cũng tăng theo, hiện
tượng nhập siêu xuất hiện là tín hiệu tích cực vì nó lại có tác dụng thúc đẩy tăng
trưởng, tăng năng lực sản xuất hàng XK, khi đó nhập siêu cao lại là tiền đề tăng
trưởng kinh tế trong giai đoạn phát triển tiếp theo của nền kinh tế.
Nhập siêu lợi thế so sánh: Đây là dạng thái nhập siêu xảy ra trong trường hợp
một nước nào đó có lợi thế so sánh phát triển XK một số ngành sản phẩm (hàng hoá
và dịch vụ) nên chỉ tập trung phát triển sản xuất và xuất khẩu các ngành đó; do đó
phải tăng nhập khẩu các ngành sản phẩm kém lợi thế hơn để đáp ứng nhu cầu trong
nước nên cán cân thương mại hàng hoá bị thâm hụt, nhưng nước này lại có thể đạt

thặng dư cán cân dịch vụ để bù đắp mà vẫn đạt mục tiêu hiệu quả chung của nền
kinh tế.
- Đặc điểm về cơ cấu nhập siêu:
+ Cơ cấu nhóm hàng, ngành hàng, mặt hàng được phân nhóm như sau:
Từ góc độ can thiệp của Nhà nước nhằm quản lý, điều tiết hoạt động nhập
khẩu, cơ cấu mặt hàng nhập khẩu gồm 3 nhóm lớn: 1) nhóm mặt hàng cần thiết
nhập khẩu; 2) nhóm mặt hàng cần kiểm soát nhập khẩu; 3) nhóm mặt hàng cần hạn
chế nhập khẩu.
Theo dây chuyền (chu trình) phát triển giữa nhập khẩu và xuất khẩu và cân đối
nhập - xuất theo từng ngành sản phẩm xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế; ví dụ:
ngành hàng sản phẩm hoá dầu, ngành sản phẩm thông tin, ngành sản phẩm cà phê
… và/hoặc theo các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn được xác
định tại quyết định số 55/2007/QĐ-TTG ngày 23/4/2007 của Thủ tướng Chính phủ.
Theo mục đích sử dụng hàng nhập khẩu, gồm: các mặt hàng đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của sản xuất (vật tư, máy móc thiết bị,…); và các mặt hàng tiêu dùng của dân cư.
Theo thông kê hàng hoá nhập khẩu: theo danh mục thống kê.
Theo tính chất của sản phẩm, gồm: sản phẩm hoàn chỉnh, bán thành phẩm.
Theo trình độ kỹ thuật và công nghệ của sản phẩm như: sản phẩm có hàm
lượng lao động cao, sản phẩm có hàm lượng vốn cao, sản phẩm có hàm lượng chất
xám cao.
+ Cơ cấu chủ thể nhập khẩu, gồm:
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư trong nước.
+ Cơ cấu thị trường nhập siêu, gồm:
Cơ cấu nhập siêu theo khu vực thị trường nhập khẩu (châu Á - Thái Bình
6
Dương): châu Phi, Tây Á, Nam Á, châu Âu, châu Mỹ.
Cơ cấu nhập siêu theo các thị trường nhập siêu chính là các thị trường có qui
mô nhập siêu lớn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị nhập siêu
I.3. Một số quan niệm về nhập siêu trong lịch sử các học thuyết kinh tế

- Trước thế kỷ XX, các nhà kinh tế và Chính phủ các nước chủ yếu chú trọng tới
sự cân bằng các khoản nhập khẩu và các khoản xuất khẩu hàng hoá của một nước.
- Từ nửa cuối thế kỷ XX đến nay, vấn đề xác lập cán cân thương mại, giải
quyết vấn đề nhập siêu của các nước gắn với việc xác lập CCTTQT, thực hiện các
chiến lược kinh tế như chiến lược thay thế NK, chiến lược hướng về XK, chiến lược
công nghiệp hoá và hiện đại hoá, chiến lược nâng cao chất lượng tăng trưởng và
phát triển kinh tế bền vững … Mặt khác, cách tiếp cận giải quyết vấn đề cán cân
thương mại, vấn đề nhập siêu của các nước thường gắn liền với việc điều chỉnh
quan hệ thương mại với các đối tác chiến lược cạnh tranh quốc tế và chiến lược thị
trường quốc tế, điều chỉnh quan hệ thương mại với các đối tác chiến lược, điều
chỉnh cơ cấu hàng hoá xuất và nhập khẩu, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, cơ cấu công
nghệ, điều chỉnh tỷ giá và lãi nhập khẩu, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, cơ cấu công
nghệ, điều chỉnh tỷ giá và lãi suất … Trong thời kỳ này, có hai trường phái kinh tế
ảnh hưởng mạnh đến các nước trong việc hình thành quan niệm về nhập siêu và giải
quyết vấn đề nhập siêu.
Trường phái kinh tế tân cổ điển cho rằng, đường lối công nghiệp hoá thay
thế nhập khẩu được hầu hết các nước đang phát triển thực hiện cho đến đầu những
năm 70 đã tạo ra những bất hợp lý và ảnh hưởng xấu đến cơ cấu thương mại nói
riêng, cán cân thanh toán vãng lại nói chung. Họ cho rằng, có 4 nguyên nhân chính
dẫn đến nhập siêu và thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai của các nước là: (1) Mức
bảo hộ quá cao kết hợp với cơ cấu bảo hộ bất hợp lý (chủ yếu bảo hộ hàng công
nghiệp tiêu dùng) đã làm cho giá cả trong nước cao hơn giá trên thị trường quốc tế
nên không khuyến khích các nhà sản xuất đẩy mạnh XK mà ngược lại, các nhà sản
xuất được khuyến khích việc nhập khẩu các nguyên liệu và máy móc để sản xuất
các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng, do đó nhu cầu về chi tiêu ngoại tệ có thể vượt
quá khả năng cung ứng. (2) Việc duy trì tỷ giá và lãi suất thấp trong một thời gian
dài đã không phản ánh đúng giá của tiền tế và tiền vốn nên một mặt làm thui chột
7
khả năng cạnh tranh và xuất khẩu; mặt khác, khuyến khích nhập khẩu và các nhà
doanh nghiệp xây nhà máy với qui mô lớn, sử dụng nhiều vốn trái với lợi thế so

sánh của các Nhà nước đang phát triển, cùng với hiện tượng sử dụng năng lực sản
xuất không hết công suất cũng trở nên phổ biến. (3) Qui mô của khu vực kinh tế
Nhà nước nhanh chóng mở rộng vượt ngoài khả năng chi tiêu của Nhà nước, một
phần không nhỏ chi tiêu của Nhà nước đã phải dựa vào phần vốn vay của nước
ngoài với lãi suất cao, các doanh nghiệp Nhà nước phải gánh chịu phần chủ yếu nợ
nước ngoài nhưng lại hoạt động kém hiệu quả làm cho khả năng trả nợ xấu thêm,
gây ảnh hưởng xấu tới thâm hụt cán cân thanh toán. (4) Chính sách tiền tệ lỏng lẻo
trở thành nguồn gốc tạo nên nguồn vốn bù đắp bội chi ngân sách của Chính phủ đã
góp phần mở rộng thêm sự thâm hụt cán cân thanh toán. Do đó, để cải thiện cán cân
thanh toán vãng lai, khắc phục tình trang nhập siêu và thiết lập lại cân bằng cán cân
thương mại của nền kinh tế, cần thực hiện 5 cách thức chủ yếu sau:
• Thắt chặt cung ứng tiền tệ, giảm chi tiêu của ngân sách Nhà nước.
• Phá giá đồng tiền nội để khuyến khích tận dụng năng lực sản xuất cho nhập
khẩu và thay thế nhập khẩu.
• Tự do hoá giá cả, đặc biệt là giá sản phẩm nông nghiệp; và nâng lãi suất để
khuyến khích tăng tiết kiệm, tăng đầu tư (theo quan niệm trường phái kinh tế này
thì tiết kiệm và đầu tư luôn cân bằng).
• Tự do hoá thương mại, thực sự khuyến khích XK, tư nhân hoá các doanh
nghiệp nhà nước.
Trường phái kinh tế cơ cấu cho rằng, hiện tượng nhập siêu và thâm hụt cán
cân thanh toán vãng lai của các nước đang phát triển là khó tránh khỏi do những
nguyên nhân khách quan từ nội tại của nền kinh tế các nước này và những yếu tố
bất lợi trên thị trường quốc tế. Có 4 lí do chủ yếu sau: (1) Nền kinh tế các nước
đang phát triển phụ thuộc nặng nề vào bên ngoài về máy móc, thiết bị, công nghệ
sản xuất và một phần quan trọng là các nguyên liệu cơ bản (kể cả dầu mỏ), cho nên
nhập khẩu ở qui mô lớn không chỉ là điều kiện tiên quyết để phát triển, mà còn để
duy trì sự sản xuất bình thường của các nước đang phát triển. (2) Trong điều kiện
khả năng XK còn ở mức hạn chế do tính giới hạn của xuất khẩu nông sản và các
nguyên liệu thô là những mặt hàng XK chủ yếu của nền kinh tế, độ nhạy cảm về
8

cung của những mặt hàng này là rất nhỏ bé… thì những biện pháp nhằm tăng cường
cho XK như phá giá đồng tiền, tăng đầu tư… sẽ không mang lại kết quả mong
muốn, hoặc cần một thời gian khá dài. (3) Điều kiện thương mại quốc tế và cạnh
tranh thương mại toàn cầu ảnh hưởng bất lợi đối với các nước đang phát triển (cánh
kéo giá cả nông sản và sản phẩm thô với hàng công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật
cao có xu hướng xoạc rộng; giá cả xuất khẩu hàng nông sản và nguyên lieu thô
giảm tương đối…) đã làm cho cầu về những mặt hàng XK của các nước đang phát
triển giảm xuống. Điều đó không chỉ làm giảm giá mà còn làm giảm tương đối khối
lượng sản phẩm XK từ các nước đang phát triển. Do thuế nhập khẩu chiếm một vị
trí quan trọng trong tổng thu về thuế của ngân sách Nhà nước các nước đang phát
triển nên giảm nhập khẩu để thu hẹp thâm hụt cán cân thương mại có thể sẽ làm
giảm thu ngân sách và cũng có thể làm giảm sản xuất trong nước, từ đó ảnh hưởng
xấu đến nguồn thu ngân sách Nhà nước. (4) Trong cơ cấu kinh tế của các nước đang
phát triển, hàm lượng nhập khẩu của các mặt hàng xuất khẩu thường khá lớn. Do
đó, giảm nhập khẩu cũng có thể làm giảm cả kim ngạch xuất khẩu của nước đó.
Như vậy, theo các nhà kinh tế cơ cấu thì khả năng tăng xuất khẩu ở các nước
đang phát triển không thể tăng lên một cách nhanh chóng, và phụ thuộc vào cả khả
năng nhập khẩu. Mặt khác, nếu giảm nhập khẩu để cải thiện cán cân thương mại lại
làm tăng thâm hụt ngân sách và giảm kim ngạch xuất khẩu; hậu quả của nó không
chỉ làm trầm trọng thêm thâm hụt cán cân thanh toán mà còn giảm cả nhịp độ tăng
trưởng kinh tế, tăng thêm thất nghiệp. Do đó, phương thức cơ bản để cải thiện cán
cân thanh toán, giảm nhập siêu là tăng đầu tư có hiệu quả, cơ bản cải thiện cán cân
thanh toán, giảm nhập siêu là tăng đầu tư có hiệu quả, là điều kiện cho sự phát triển
lâu dài của các nước đang phát triển. Đầu tư có hiệu quả để thay đổi căn bản lợi thế
so sánh là một trong những điều kiện tiên quyết để giải quyết vấn đề nhập siêu,
thâm hụt cán cân thanh toán trong dài hạn của các nước đang phát triển. Hiện nay,
trường phái kinh tế cơ cáu vẫn đang có ảnh hưởng rất lớn đối với các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế như IMF, W.B, ADB nên các nhà hoạch định chính sách kinh
tế của Việt Nam chú trọng đến quan điểm này.
2. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến nhập siêu và ảnh hưởng của nhập

9
siêu đối với nền kinh tế
2.1.
Các nhân tố ảnh hưởng và là nguyên nhân dẫn đến nhập siêu
2.1.1.
Nhóm nhân tố nội tại về qui mô và trình độ phát triển của nền kinh tế
ảnh hưởng đến nhập siêu
(1) Qui mô sản xuất trong nước còn nhỏ, phân tán; trình độ phát triển sản xuất
còn thấp, công nghệ lạc hậu, năng suất thấp, sản phẩm hàng hoá sản xuất trong nước
không đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường nội địa (Tổng cung nhỏ hơn Tổng cầu).
(2) Nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào bên ngoài về máy móc thiết bị, công nghệ
sản xuất và một phần quan trọng là các nguyên liệu cơ bản (như dầu mở, than, hoá chất
cơ bản, phân bón…) nên phải NK ở qui mô lớn để duy trì sản xuất bình thường.
(3) Sức cạnh tranh quốc tế của sản phẩm hàng hoá sản xuất trong nước còn
yếu nên không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu có sức cạnh tranh cao hơn trên
thị trường trong nước và hàng hoá XK cũng có sức cạnh tranh chủ yêu trên thị
trường trong nước và hàng hoá XK cũng có sức cạnh tranh yếu trên thị trường thế
giới nên qui mô XK nhỏ, tốc độ tăng trưởng kim ngạch XK chậm hơn so với tăng
trưởng kim ngạch NK dẫn đến nhập siêu.
(4) Cơ cấu sản xuất trong nước và cơ cấu hàng hoá xuất khẩu còn lạc hậu, giá trị
gia tăng thấp nên khả năng XK còn ở mức hạn chế do tính giới hạn (cả về khối lượng
và giá trị) của XK nông sản và các nguyên liệu thô là những mặt hàng XK chủ yếu
của nền kinh tế, độ nhạy cảm về cung của những mặt hàng này rất nhỏ bé, không
thích ứng kịp thời với những biến đổi mau lẹ của thị trường thế giới. Do tính giới hạn
đó của nền kinh tế nên qui mô XK nhỏ, không có khả năng tăng trưởng nhanh, không
thể cân đối được cán cân thương mại và xảy ra nhập siêu có tính dài hạn.
(5) Đầu tư là một trong những nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến cán cân
thương mại, ảnh hưởng đến nhập siêu. Khi đầu tư phát triển sản xuất tăng cao (cả
đầu tư trong nước và đầu tư của nước ngoài vào trong nước) làm tăng nhu cầu sử
dụng các yếu tố đầu vào của sản xuất nên nhập khẩu tăng nhanh trong khi năng lực

XK chưa tăng kịp so với NK, dẫn đến nhập siêu.
(6) Thu nhập quốc dân trong và ngoài nước: Thu nhập quốc dân tỷ lệ thuận
với thu nhập trong nước, do đó cán cân thương mại tỷ lệ nghịch với thu nhập trong
nước. Trong khi đó, thu nhập nước ngoài và cán cân thương mại tỷ lệ thuận với
nhau do thu nhập nước ngoài tăng sẽ khuyến khích XK. Thu nhập trong nước và giá
10
hàng hoá nhập khẩu là những nhân tố quyết định đối với cầu nhập khẩu của một nền
kinh tế.
(7) Lạm phát: Ảnh hưởng của lạm phát đối với cân cân thương mại thể hiện
qua cơ chế giá. Lạm phát tăng làm hàng hoá sản xuất trong nước đắt hơn so với
hàng nhập khẩu, từ đó khuyến khích nhập khẩu. Lạm phát tăng cũng quan hệ đến
giá cả đầu vào của hàng hoá sản xuất tạo nguồn hàng XK, làm giá thành hàng hoá
XK cao hơn trước, làm giảm lợi thế cạnh tranh về giá. Như thế, với sự ảnh hưởng
của lạm phát, nhập khẩu tăng, xuất khẩu giảm sẽ khiến cho cán cân thương mại xấu
đi, nhập siêu có thể tăng cao trong điều kiện lạm phát.
(8) Cán cân ngân sách của Chính phủ: Động thái cán cân ngân sách của
Chính phủ có ảnh hưởng nhất định đến cán cân thương mại. Theo quan niệm truyền
thống, thâm hụt ngân sách là một nguyên nhân chính gây nên thâm hụt cán cân
thương mại. Và do đó, trong trường hợp nền kinh tế đang nhập siêu thì sự thâm hụt
ngân sách sẽ tác động đồng biến, làm cho nhập siêu có thể trầm trọng hơn. Vì thế,
để giảm nhập siêu, cải thiện cán cân thương mại thì cần phải giảm thâm hụt ngân
sách với việc tăng thuế. Khi thực hiện chính sách như vậy sẽ làm giảm chi tiêu từ
XK ròng, từ đó giúp giảm nhập siêu, cải thiện cán cân thương mại. Tuy nhiên, có
quan điểm ngược lại cho rằng chỉ tăng thuế sẽ không giải quyết được vấn đề nhập
siêu, mà để cải thiện cán cân thương mại thì việc tăng thuế phải đi đôi với việc cắt
giảm chi tiêu của Chính phủ.
(9) Tiết kiệm và đầu tư: Khi bị thâm hụt cán cân thương mại hàng hoá và dịch
vụ, điều đó có nghĩa là quốc gia chi nhiều hơn so với thu nhập của mình. Ngược lại,
cán cân thương mại thặng dự quốc gia chị tiêu ít hơn so với thu nhập của mình.
Cán cân thương mại còn biểu thị cho tổng tiết kiệm ròng của quốc giá, chính là

chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư của quốc gia đó. Mối quan hệ giữa cán cân
thương mại, đầu tư và tiết kiệm được biểu thị bằng biểu thức:
e - m = (S - I) + (T - G)
Trong đó, S là mức tiết kiệm, I là mức đầu tư, T là thu nhập từ thuế và G là chi
tiêu của Chính phủ. Cán cân thương mại thâm hụt có nghĩa là tiết kiệm quốc gia ít
hơn đầu tư và ngược lại, nếu cán cân thương mại thặng dư, quốc gia tiết kiệm nhiều
hơn so với đầu tư.
(10) Tiết kiệm và tiêu thụ: Sự gia tăng tiết kiệm sẽ làm giảm bớt thâm hụt hoặc
11
sẽ thặng dư cán cân thương mại. Do đó muốn đạt được sự gia tăng vốn tiết kiệm
chúng ta cần có những thay đổi trong hệ thống thuế và những cải cách nhằm cải
thiện sự hoạt động hữu hiệu của hệ thống tài chính quốc gia. Sự thâm hụt cán cân
thương mại lâu dài sẽ ảnh hưởng xấu đến khả năng tiêu dùng của thế hệ tương lai.
Mặt khác, sự gia tăng tiêu dùng của dân cư hiện tại cũng ảnh hưởng đến nhập siêu
theo chiều hướng xấu.
(11) Năng suất lao động: Năng suất lao động cũng góp phần ảnh hưởng lên
cán cân thương mại vì sự gia tăng năng suất lao động sẽ làm cho giá thành sản
phẩm rẻ hơn có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế, từ đó gia tăng hàng hoá XK
đem lại thằng dư cho cán cân thương mại hoặc giảm bớt sự thâm hụt; trong khi
năng suất lao động thấp làm giá thành sản xuất cao khó cạnh tran với hàng hoá
nước ngoài, trong khi nhu cầu nhập khẩu gia tăng sẽ làm cán cân thương mại bị
thâm hụt thêm hoặc giảm bớt thặng du nếu có. Do đó việc xây dựng cơ sở hạ tầng
vất chất cũng như phát triển nguồn tài nguyên nhân lực vừa đề cập ở trên cũng là
yếu tố thiết yếu có tác động tốt đến cán cân thương mại.
2.1.2. Nhóm nhân tố có tính khác quan (bên ngoài) ảnh hưởng đến nhập siêu:
(1) Giá thế giới của hàng hoá xuất nhập khẩu
Giá cả luôn là một nhân tố quan trọng trong việc xác định mức cầu của thị
trường đối với một loại hàng hoá.
Khi giá hàng hoá sản xuất trong nước của một quốc gia thấp hơn giá thế giới
thì quốc giá đó có tính cạnh tranh tương đối về giá với các quốc gia khác, và do đó

sẽ khuyến khích hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, khi giá hàng hoá trong nước cao
hơn giá thế giới thì có thể làm cho hàng hoá nước ngoài tràn vào thị trường trong
nước, dẫn đến nhập siêu.
Như vậy có thể thấy, giá hàng hoá NK tăng làm xấu đi cán cân thương mại
thông qua hiệu ứng giá làm tăng NK và làm giảm tiết kiệm quốc dân.
(2) Hiệp ước thương mại song phương và đa phương:
Những hiệp ước thương mại ký kết giữa hai quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp
lên cán cân thương mại; tuy nhiên vấn đề cán cân thương mại của mỗi quốc gia sẽ
thặng dư hay thâm hụt hoàn toàn tuỳ thuộc vào cơ cấu kinh tế và khả năng sản xuất
của quốc gia đó dựa trên nguồn tài nguyên thìên nhiên và con người cũng như trình
độ phát triển khoa học kỹ thuật.
12
(3) Hợp đồng thương mại quốc tế:
Các doanh nghiệp trong nước có thể ký những hợp đồng thương mại quốc tế
với các doanh nghiệp nước ngoài trong việc mua bán hàng tiêu dùng cũng như
những phương tiện cần thiết trong sản xuất kinh doanh. Các hợp đồng này cũng có
ảnh hưởng trực tiếp lên cán cân thương mại tuỳ vào tính chất mua hoặc bán sản
phẩm với đối tác nước ngoài. Tuy nhiên, các hợp đồng này bị giới hạn bởi những
ràng buộc của chính sách thương mại luật lệ quốc gia.
2.1.3.
Nhóm nhân tố có tính chủ quan trong quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế
nhằm điều tiết cán cân thanh toán quốc tế, cán cân thương mại ảnh hưởng đến
nhập siêu
(1) Chính sách tỷ giá hối đoái:
Theo lý thuyết co giãn, phá giá tiền tệ có thể cải thiện cán cân thương mại nếu
điều kiện Marshll- Lerner được thoả mãn (tổng hệ số co dãn XK và hệ số co giãn
NK với tỷ giá phải lớn hơn 1). Tuy nhiên, trong ngắn hạn có thể xảy ra hiệu ứng giá
cả và hiệu ứng khối lượng lên XK hàng hoá.
Theo cách tiếp cận của trường phái tiền tệ, ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối
với cán cân thương mại chỉ là tạm thời.

Sự can thiệp của ngân hàng trung ương để làm giảm giá trị tiền đồng so với
tiền tệ các nước khác nhằm giảm bớt áp lực cho những doanh nghiệp xuất khẩu
cũng không làm giảm được sự thâm hụt cán cân thương mại vì nó có thể làm gia
tăng giá cả sinh hoạt. Ngay cả khi chính sách tiền tệ được áp dụng để ngăn ngừa sự
tăng giá này thì ảnh hưởng của nó cũng chỉ có được trong ngắn hạn.
(2) Chính sách đầu tư:
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là bộ phận quan trọng của tài
khoản vốn. Việc gia tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài có tác dụng bù đắp thâm
hụt cán cân tài khoản vãng lai. Nếu chính sách bảo hộ thiên lệch đối với XK sẽ làm
cán cân thương mại thâm hụt. Lúc này khi luồng FDI vào tăng lên sẽ làm thay đổi
tương quan giữa cung và cầu ngoại tệ; nếu Chính phủ không can thiệp sẽ dẫn đến
khuynh hướng đồng nội tệ tăng giá, gây hậu quả là hạn chế XK và khuyến khích
NK, và việc thâm hụt cán cân thương mại là khó tránh.
Chính sách đầu tư trong nước theo hướng XK hay thay thế NK đều ảnh hưởng
đến cán cân thương mại. Thêm vào đó hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và cơ cấu vốn
13
đầu tư cũng ảnh hưởng đáng kể đến cán cân thương mại. Chẳng hạn, việc xem nhẹ
đầu tư vào ngành công nghiệp phụ trợ làm tăng NK, nguyên nhiên, phụ liệu đã làm
giảm khả năng cạnh tranh hàng XK, hạn chế thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hiệu
quả kinh tế thấp của các dự án đầu tư sẽ làm suy yếu khả năng cạnh tranh XK và
thay thế NK do có mức chi phí cao hơn mức quốc tế. Điều này gây cản trở cho việc
cải thiện cán cân thương mại và trong trường hợp cụ thể có thể những dự án đầu tư
không hiệu quả sẽ trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, đặc biệt là trong dài hạn.
(3) Chính sách thương mại:
Chính sách thương mại thường ít ảnh hưởng lên sự thâm hụt cán cân thương
mại vì nó không tác dụng trực tiếp đến nguồn tiết kiệm và đầu tư trong nước. Tuy
vậy, cho dù rào cản thương mại được áp dụng một cách triệt để giới hạn mọi hàng
hoá NK để không còn sự thâm hụt cán cân thương mại, nhưng sự ngừng giảm NK
hay xuất khẩu sẽ làm tê liệt mọi hoạt động kinh tế và gây nên sự sụp đổ hoàn toàn
hệ thống kinh tế của một quốc gia.

Điều tiết cán cân thương mại có liên quan chặt chẽ tới khuyến khích xuất khẩu
và quản lý NK. Trong điều kiện thâm hụt cán cân thương mại, chính sách của các
nước thường là khuyến khích xuất khẩu và hạn chế NK. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy, hạn chế NK không phải là giải pháp hiệu quả điều chỉnh cán cân thương mại.
Nhập khẩu cạnh tranh là biện pháp hiệu quả nhất để điều tiết cán cân thương mại
trong dài hạn.
Về cơ bản, chính sách thương mại của các nước được chia làm hai loại chính:
chính sách bảo hoọ thương mại và chính sách tự do thương mại. Chính sách bảo hộ
thương mại là chính sách bảo hộ sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh của hàng
hoá nước ngoài bằng cách đánh thuế hàng nhập khẩu hoặc hạn chế số lượng hàng
hoá và dịch vụ được phép NK. Mục đích của thuế nhập khẩu và hạn ngạch nhập
khẩu là chuyển dịch chi tiêu trong nước từ hàng nhập khẩu vào.
Nhập siêu cao thường dẫn tới thâm hụt cán cân vãng lai, đe doạ tới cán cân
tổng thể hoặc tăng gánh nặng nợ nước ngoài, dễ bùng phát khủng hoảng cán cân
vãng lai. Khi nhập siêu của một nước trở nên trầm trọng, Chính phủ nước đó sẽ rơi
vào một thách thức khi phải tăng lượng dự trữ ngoại tệ hay tín dụng để giải quyết
vấn đề cân bằng cán cân thanh toán, đồng thời vẫn phải thực hiện chính sách thắt
14
chặt tiền tệ nhằm khôi phục lòng tin của nhà đầu tư. Việc thắt chặt tiền tệ để hạn
chế nhập siêu là biện pháp đúng đắn mà nhiều các quốc gia lựa chọn. Tuy nhiên, nó
lại có thể tạo ra áp lực với các ngành ngân hàng và doanh nghiệp vay vốn trong
cuộc cạnh tranh lãi suất căng thẳng. Về lâu dài, một số nước thường kiềm chế nhập
siêu bằng đẩy mạnh xuất khẩu và thực hiện chiến lược công nghiệp hoá mở rộng
sản xuất thay thế hàng nhập khẩu, đồng thời, cân bằng cán cân thanh toán qua việc
huy động các nguồn tiết kiệm dài hạn, phát triển mạnh thị trường chứng khoán và
trái phiếu.
Tuy nhiên, việc cán cân thương mại bị thâm hụt có thực sự là một điều xấu
hay không liên quan tới chu kỳ kinh tế của nền kinh tế. Trong thời kỳ khủng hoảng,
các nước muốn XK nhiều hơn, tạo thêm nhiều việc làm và tăng thêm nhu cầu.
Trong thời kỳ tăng trưởng, các nước muốn nhập khẩu nhiều hơn, tạo nên sự cạnh

tranh về giá cả, từ đó kiềm chế lạm phát và vẫn có thể cung cấp hàng hoá vượt trên
cả khả năng của nền kinh tế mà không cần phải tăng giá nhiều. Như vậy, trong suốt
thời kỳ khủng hoảng, nhập siêu không phải là điều tốt, nhưng lại có tác dụng tích
cực trong thời kỳ tăng trưởng.
Đối với một số nước cụ thể, đặc biệt là các quốc gia phát triển, nhập siêu tăng
cao và theo đó là thâm hụt cán cân vãng lai trong ngắn hạn là điều không đáng lo
ngại. Kinh nghiệm các nước cho thấy, nếu đầu tư trong nước hấp thụ vốn đầu tư tốt,
đầu tư một cách chọn lọc và có hiệu quả, từ đó tăng năng lực sản xuất hàng xuất
khẩu thì nhập siêu tăng cao có thể là tiền đề của tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn
tiếp theo. Nhìn từ góc độ này, nhập siêu là một dấu hiệu tích cực của nền kinh tế.
II. DỰ BÁO NHẬP SIÊU CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI VÀ KINH
NGHIỆM CỦA 1 SỐ NƯỚC VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ NHẬP SIÊU
1. Dự báo nhập của Việt Nam với một số đối tác thương mại song phương
1.1.
Việt Nam - Trung Quốc
Xét theo cơ cấu nhập khẩu hiện tại, ba nhóm mặt hàng mà Việt Nam đang
nhập khẩu nhiều nhất từ Trung Quốc là máy móc thiết bị, sắt thép; vải sợi và
nguyên phụ liệu dệt may da. Trong tương lai nhu cầu trong nước đối với ba nhóm
mặt hàng này vẫn sẽ tiếp tục tăng lên trong khi sản xuất trong nước chưa thể đáp
ứng được toàn bộ nhu cầu. Do đó, nhập khẩu từ những nhóm mặt hàng này từ
15
Trung Quốc sẽ còn tiếp tục tăng.
Việc các dự án lớn trong lĩnh vực lọc hoá dầu, sản xuất hoá chất, chất dẻo
nguyên liệu và sắt thép đang được triển khai thực hiện cho thấy có khả năng trong
tương lại tốc độ tăng nhập khẩu những mặt hàng này từ Trung Quốc sẽ chậm lại,
thậm chí đối với một số mặt hàng có thể sẽ giảm bớt do sản xuất trong nước đáp
ứng được một phần nhu cầu trong nước.
Động lực chính tăng xuất khẩu đối với thị trường Trung Quốc trong tương lai
nhiều khả năng sẽ là nhóm hàng sản phẩm điện tử và linh kiện khi các nhà máy sản
xuất linh kiện điện tử của các tập đoàn đa quốc gia đầu tư tại Việt Nam đi vào hoạt

động. Các mặt hàng nông sản cũng sẽ tiếp tục đóng góp một phần cho tăng trưởng xuất
khẩu sang Trung Quốc, mặc dù tăng trưởng xuất khẩu của những mặt hàng này có khả
năng sẽ không thể tạo được sự đột phá trong xuất khẩu của ta sang Trung Quốc.
1.2.
Việt Nam - Hàn Quốc:
Tính đến hết năm 2010, Hàn Quốc có tổng số 2.605 dự án còn hiệu lực, với
tổng vốn đầu tư đăng ký 23 tỷ USD, đứng đầu cả về số dự án và vốn đăng ký trong
tổng số 88 các quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam. Các dự án đầu tư của Hàn Quốc tiếp tục được triển khai, nhập khẩu máy móc
thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ từ Hàn Quốc cho các dự án đàu tư này có khả
năng sẽ còn tiếp tục tăng lên. Việt Nam cũng sẽ tiếp tục thực hiện lộ trình giảm thuế
nhập khẩu theo cam kết của mình trong Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Hàn
Quốc (AKFFTA). Do tác động của lộ trình giảm thuế, hàng hoá nhập khẩu từ Hàn
Quốc sẽ cạnh tranh hơn so với hàng nhập khẩu từ các nước khác. Vì thế, nhu cầu
nhập khẩu nhiều mặt hàng trong diện giảm thuế từ Hàn Quốc có thể sẽ tăng lên.
Trong khi đó, nhập khẩu xăng dầu từ Hàn Quốc có khả năng sẽ giảm bớt khi các dự
án lọc hoá dầu của Việt Nam tại Nhơn Hội, Phú Yên, Nghi Sơn lần lượt đi vào hoạt
động, đáp ứng một phần nhu cầu xăng dầu trong nước.
Do làm tốt công tác kiểm dịch, xuất khẩu thuỷ sản sang Hàn Quốc sẽ vẫn tiếp
tục có tốc độ tăng trưởng tốt, thuỷ sản vẫn tiếp tục là một mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam sang Hàn Quốc. Tuy nhiên, do giới hạn về sản lượng khai thác,
xuất khẩu thuỷ sản sang Hàn Quốc khó có khả năng tăng trưởng đột biến.
16
Nếu làm tốt công tác kiểm dịch giống như hàng thuỷ sản, xuất khẩu các mặt
hàng nông sản của Việt Nam sang Hàn Quốc sẽ có tốc độ tăng trưởng cao trong
ngắn hạn. Tuy nhiên, do giới hạn về diện tích canh tác và năng suất cùng với việc
Hàn Quốc chắc chắn sẽ duy trì nhiều biện pháp bảo hộ để bảo vệ người nông dân
trong nước, trong dài hạn xuất khẩu nông sản khó có thể trở thành một mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của ta sang thị trường này.
Do chi phí nhân công tăng cao, Hàn Quốc đang có xu hướng đầu tư chuyển

dịch ngành công nghiệp dệt may ra nước ngoài, chỉ giữ lại trong nước sản xuất các
sản phẩm dệt may cao cấp. Vì thế, trong tương lai xuất khẩu hàng dệt may sang Hàn
Quốc có khả năng sẽ tăng nhanh do thị trường Hàn Quốc có vẫn có nhu cầu đối với
các sản phẩm dệt may có chất lượng trung bình, giá cả vừa phải. Nhiều nhà máy dệt
Hàn Quốc đã chuyển sang Trung Quốc, Việt Nam và một số nước Châu Á khác sản
xuất xuất khẩu sang nước thứ ba hoặc xuất trở lại Hàn Quốc. Tiềm năng xuất khẩu
sang Hàn Quốc của nhiều mặt hàng thuộc nhóm hàng công nghiệp chế tạo như dây
điện, dây cáp điện, sản phẩm nhựa, sản phẩm điện tử và linh kiện còn lớn. Mức độ
tăng kim ngạch xuất khẩu của những mặt hàng trong nhóm này sẽ phụ thuộc nhiều
vào đầu tư của các công ty nước ngoài, đặc biệt là của các công ty Hàn Quốc, trong
các lĩnh vực này tại Việt Nam.
1.3.
Việt Nam - Đài Loan
Việt Nam đang nhập khẩu một khối lượng lớn xăng dầu từ Đài Loan. Nhập
khẩu xăng dầu đến cuối năm 2010 đạt 109,5 triệu USD, chiếm 1,6% trong tổng kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Đài Loan. Do đó, khi các nhà máy lọc dầu của
Việt Nam lần lượt đi vào hoạt động, nhiều khả năng nhập khẩu xăng dầu từ Đài
Loan sẽ giảm, dẫn đến tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ
Đài Loan sẽ chậm lại.
Mặc dù vậy, do Đài Loan vẫn là một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn
tại Việt Nam nên nhập khẩu các mặt hàng tư liệu sản xuất từ Đài Loan như máy
móc thiết bị phụ tùng, nguyên phụ liệu dệt may da, chất dẻo nguyên liệu, phôi thép,
sản phẩm điện tử… sẽ vẫn tiếp tục tăng.
1.4.
Việt Nam - Hồng Kong
Với vai trò là một thị trường chuyển tải, xuất khẩu sang Hồng Kông trong giai
17
đoạn tới sẽ khó có khả năng tăng mạnh vì nhiều mặt hàng của Việt Nam đã xuất
khẩu trực tiếp đi các thị trường khác. Trong khi đó, nhập khẩu sản phẩm điện tử,
máy móc thiết bị phụ tùng và nguyên phụ liệu dệt may da từ Hồng Kông sẽ tiếp tục

tăng mạnh để phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước, đặc biệt là của các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Do đó, nhập
siêu từ Hồng Kông sẽ còn tiếp tục tăng lên. Tuy nhiên, tốc độ tăng của nhập siêu có
thể không cao do dần dần các ngành công nghiệp của Việt Nam sẽ đáp ứng được
một phần cầu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước.
1.5.
Việt Nam - Singapore
Singapore đang là nguồn cung cấp xăng dầu lớn nhất của Việt Nam với hơn
một nửa lượng xăng dầu nhập khẩu của Việt Nam là từ Singapore. Sauk hi các nhà
máy lọc dầu của Việt Nam lần lượt đi vào hoạt động, chắc chắn kim ngạch nhập
khẩu từ Singapore sẽ giảm xuống do kim ngạch nhập khẩu xăng dầu giảm. Tuy
nhiên, do xuất khẩu dầu thô chiếm đến trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu sang
Singapore nên xuất khẩu sang Singapore cũng sẽ giảm mạnh vì dầu thô trước đây
xuất khẩu nay được cung cấp cho các nhà máy lọc dầu trong nước. Mặc dù vậy, do
kim ngạch xuất khẩu dầu thô sang Singapore nhỏ hơn nhiều so với kim ngạch nhập
khẩu xăng dầu từ Singapore nên nhiều khả năng mức độ nhập siêu vẫn sẽ được thu
hẹp lại.
Do đầu tư của Singapore vào Việt Nam tương đối lớn, nhu cầu nhập khẩu tư
liệu sản xuất từ Singapore phục vụ cho các dự án đầu tư này còn tiếp tục ở mức cao.
Mặt khác, Singapore vẫn là một trong những cửa ngõ cung cấp các loại nguyên vật
liệu mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu. Do đó, kinh tế Việt
Nam tiếp tục phát triển thì nhu cầu nhập khẩu hàng hoá từ Singapore sẽ vẫn tiếp tục
tăng vững.
1.6.
Việt Nam - Thái Lan
Cùng với xu hướng các tập đoàn đa quốc gia tiếp tục chuyển dịch sản xuất,
xây dựng các nhà máy tại Việt Nam, nhập khẩu nguyên vật liệu, linh kiện từ Thái
Lan để thực hiện các công đoạn chế tạo, gia công, lắp ráp tiếp theo tại Việt Nam
vẫn sẽ có xu hướng tăng lên. Đây sẽ là một thách thức đối với Việt Nam. Nếu ta
không phát triển thành công các ngành công nghiệp phụ trợ thì nhập khẩu từ Thái

18
Lan sẽ còn tiếp tục tăng hơn nữa.
Việc đưa vào vận hành những nhà máy lọc dầu sẽ làm giảm đáng kể kim
ngạch nhập khẩu xăng dầu của Việt Nam từ thế giới nói chung và từ Thái Lan nói
riêng. Mặt khác, xuất khẩu dầu thô của ta sang Thái Lan cũng sẽ giảm do nguồn dầu
thô xuất khẩu được chuyển sang cung cấp cho các nhà máy lọc dầu trong nước.
Hiện tại, nhiều dự án đầu tư lớn trong lĩnh vực sản xuất hoá chất, chất dẻo
nguyên liệu, sắt thép đang được triển khai thực hiện. Khi những dự án này hoàn
thành và đi vào hoạt động sẽ giải quyết được một phần nhu cầu nhập khẩu phục vụ
sản xuất trong nước. Do đó, tốc độ tăng nhập khẩu những mặt hàng này từ Thái Lan
sẽ không còn cao như trong giai đoạn vừa qua.
1.7.
Việt Nam - Indonesia
Trong số hai mặt hàng xuất khẩu lớn nhất từ Indonesia là gạo và dầu thô, xuất
khẩu gạo có khả năng duy trì về khối lượng và tăng về giá trị do giai đoạn tới sản
lượng lương thực của Indonesia vẫn chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu của người dân,
đồng thời tình trạng thiếu lương thực trên thế giới sẽ giữ giá gạo ở mức cao. Xuất
khẩu dầu thô có khả năng giảm vì dầu thô xuất khẩu được chuyển sang cung cấp
cho các nhà máy lọc dầu trong nước.
Cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Indonesia trong giai đoạn trước mắt
có thể sẽ không thay đổi nhiều. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn từ
Indonesi sẽ là sản phẩm điện tử và linh kiện, linh kiện ôtô, máy móc thiết bị phụ
tùng, sắt thép, chất dẻo nguyên liệu, cao su định chuẩn kỹ thuật và hạt điều nguyên
liệu. Là một nước xuất khẩu dầu mỏ lớn, lại có vị trí địa lý gần với Việt Nam, có thể
trong tương lai xa Việt Nam sẽ nhập khẩu dầu mỏ từ Indonesia.
1.8.
Việt Nam - Ấn Độ:
Dự đoán kim ngạch xuất khẩu Việt Nam - Ấn Độ chủ yếu là các mặt hàng hạt
tiêu, quế, sắt thép, sản phẩm điện tử và linh kiện, hàng thủ công mỹ nghệ, giày dép
… Kim ngạch XK hàng hóa của Việt Nam sang Ấn Độ có thể đạt khoảng 0,9 - 1,0

tỷ USD vào năm 2015.
Trong giai đoạn 2011-2-15, mức tăng nhập khẩu từ Ấn Độ dự kiến sẽ đạt nhịp
độ bình quân trên 20%/năm do sản xuất trong nước đạt những tiến bộ nhất định nhờ
vào hàng loạt các biện pháp cải tiến kỹ thuật, nâng câo năng suất và các dự án đầu
tư nước ngoài đi vào hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ, thép, hóa chất
19
… Riêng các mặt hàng tân dược, đây là mặt hàng thế mạnh của Ấn Độ mà không
chỉ Việt Nam chịu nhập siêu mà nhiều nước trên thế giới cũng phải nhập siêu từ Ấn
Độ do Ấn Độ có lợi thế cạnh tranh đối với lĩnh vực này. Dự báo nhập khẩu tân dược
từ Ấn Độ sẽ tiếp tục tăng với mức 10% giai đoạn 2011-2015. Một số mặt hàng có
nhiều khả năng Việt Nam sẽ phải nhập khẩu với khối lượng lớn nhưng khá ổn định
từ Ấn Độ như: nguyên liệu dệt may và da giày; hóa chất, nguyên liệu và các sản
phẩm hóa chất, sản phẩm từ sắt thép.
2.
Dự báo nhập siêu của Việt Nam theo một số ngành nghề.
-
Cán cân thương mại nhóm hàng nông lâm thủy sản XK và NK nguyên liệu
đầu vào
Do tính giới hạn về sản xuất nên xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam
giai đoạn tới tuy vẫn tăng chậm về số tuyệt đối nhưng sẽ giảm về số tương đối.
Trong khi đó nhu cầu NK vật tư cơ bản cho xản suất hàng nông lâm thủy sản thời
kỳ tới vẫn tăng cả số tuyệt đối và số tương đối. Vì thế, tỷ lệ NK các nguyên liệu đầu
vào sẽ vẫn chiếm khoảng 32-34% kim ngạch XK của nhóm hàng này.
Giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề nhập siêu của các nhóm hàng này là
phát triển sản xuất phân bón, thức ăn gia súc và nguyên liệu, thuốc bảo vệ thực vật
(có nguồn gốc hữu cơ) trong nước để thay thế hàng nhập khẩu.
-
Nhóm ngành sản phẩm XK dệt may, giày da và NK nguyên phụ liệu đầu vào
Mặc dù đây là nhóm ngành hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của VN trong giai đoạn tới (dự báo giai đoạn 2011-2015 chiếm gần

19%) nhưng khả năng sản xuất trong nước về các nguyên vật liệu đầu vào cho
nhóm ngành hàng xuất khẩu này của Việt Nam còn hạn chế nên nhu cầu nhập khẩu
nguyên phụ liệu đáp ứng sản xuất hàng xuất khẩu vẫn rất cao, chiếm khoảng 63%
kim ngạch XK nhóm hàng này.
-
Nhóm sản phẩm gỗ
Mặc dù đây là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, nhưng do 80% gỗ
nguyên liệu nước ta phải nhập khẩu và đồ gỗ cao cấp nhập khẩu có xu hướng tăng
trong những năm qua (do thu nhập của dân cư tăng lên) nên dự kiến trong 2 năm tới
thặng dư thương mại của mặt hàng đồ gỗ chỉ bằng khoảng 55% KNXK. Để nâng
cao tỷ lệ xuất khẩu nhóm sản phẩm đồ gỗ thì trước hết phải nâng cao được tỷ trọng
và chất lượng gỗ nguyên liệu trong nước, nâng cao cấp độ chế biến để tăng tỷ trọng
20
của nhóm sản phẩm đồ gỗ cao cấp để xuất khẩu sang EU, Nhật, Bắc Mỹ …
-
Nhóm sản phẩm điện tử, máy tính và linh kiện
Cũng sẽ tiếp tục nhập siêu trong những năm tới nhưng tỷ lệ nhập siêu so với
xuất khẩu sẽ có xu hướng giảm đáng kể.
-
Nhóm sản phẩm cơ khí
Sẽ có xu hướng nhập siêu giảm nhẹ hoặc khá ổn định để đáp ứng nhu cầu phát
triển sản xuất trong nước trong khi năng lực cạnh tranh nhóm sản phẩm này của
Việt Nam còn yếu, dự báo tỷ lệ nhập siêu so với nhóm hàng này sẽ tăng.
-
Nhóm sản phẩm chế tác
Vừa tiếp tục có xuất siêu trong khi nhóm sản phẩm phwong tiện vận tải tuy giá
trị nhập siêu vẫn cao nhưng tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu sẽ giảm dần.
Theo các số liệu dự báo về cán cân thương mại giai đoạn 2011-2015: nhóm
hàng thiết bị điện và chế tác có giá trị xuất khẩu khả quan (cả 2 nhóm này đều xuất
siêu). Đối với nhóm hàng máy tính, cơ khí, phương tiện vận tải, số liệu dự báo cho

thấy giai đoạn 2011-2015 các mặt hàng này có giá trị xuất khẩu và nhập khẩu đều
tăng, vẫn xảy ra tình trạng nhập siêu nhưng có tỷ lệ Nhập siêu/ Xuất khẩu giảm dần.
-
Dự báo cán cân thương mại ngành hàng nhựa
Sự phát triển của ngành dầu khí sẽ tăng khả năng đáp ứng nhu cầu nguyên liệu
nhựa. Giai đoạn 2011-2020, ngoài nhà máy lọc dầu Dung Quất - Quảng Ngãi, sẽ có
thêm một số nhà máy lọc dầu khác đi vào hoạt đông như công ty TNHH lọc dầu
Nghi Sơn - Thanh Hóa (khởi công tháng 5/2008, dự kiến đi vào hoạt động năm
2013), dự án tổ hợp hóa dầu Long Sơn Bà Rịa - Vũng Tàu (giai đoạn 1: năm 2011
vận hành; giai đoạn 2: 2013) dự án tổ hợp hóa dầu Naphtha Cracking Phú Yên (giai
đoạn 1: năm 2014 vận hành; giai đoạn 2: 2024 vận hành). Các khu tổ hợp hóa dầu,
lọc dầu này hoạt động, các dự án qui hoạch nguyên liệu nhựa đến năm 2010 chưa
thực hiện sẽ được thực hiện trong giai đoạn 2011-2015.
Phấn đấu thực hiện các dự án trên, đến giai đoạn này sản lượng nguyên liệu
nhựa trong nước đạt khoảng 2 triệu tấn/năm. Nếu sản lượng nhựa ngành này có thể
tăng 10%/năm thì tới năm 2015 sẽ đạt 5 triệu tấn/năm, đáp ứng 40% nhu cầu
nguyên liệu nhựa cả nước. Vì vậy, ngành nhựa vẫn cần phải nhập khẩu phần lớn
nguyên liệu. Tỷ trọng nhập siêu/xuất khẩu sẽ vẫn cao 60,5%. Nhưng giảm nhập siêu
bằng biện pháp giảm nhập nguyên liệu trong khi sản xuất nguyên liệu trong nước
chưa đáp ứng được thì sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu. Vì vậy
21
không thể giảm nhập siêu bằng cách này mà phải bằng cách tăng cường xuất khẩu.
-
Nhóm sản phẩm từ dầu mỏ
Do các nhà máy lọc dầu đã dần dần đi vào hoạt động, nên kim ngạch nhập
khẩu xăng dầu sẽ giảm dần. mức thâm hụt cán cân thương mại của ngành sản phẩm
dầu khí sẽ dần được cải thiện. Dự đoán 2011-2015 nhập siêu chỉ còn 6,0%.
3.
Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về giải quyết vấn đề nhập siêu,
điều chỉnh cán cân thanh toán và bài học đối với Việt Nam

3.1.
Một số khuynh hướng giải quyết vấn đề nhập siêu, tạo lập cán cân thương
mại hợp lý của một số nhóm nước
3.1.1.
Một số NIEs - Châu Á
Từ thập kỷ 60-70, các nước NIEs Châu Á đã chuyển nhanh từ chiến lược thay
thế nhập khẩu sang thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu trên cơ sở xây
dựng và thực hiện tốt chiến lược thu hút kỹ thuật tuần hoàn, phát triển nhập khẩu
theo hướng chủ đạo là hình thành dây chuyền phát triển giữa nhập khẩu với xuất
khẩu, không ngừng nâng cấp trình độ kỹ thuật của nền kinh tế, nâng cấp sức cạnh
tranh của hàng xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch và hiệu quả xuất khẩu tạo lập thế
mới cho cán cân thương mại để dần chuyển nhập siêu sang xuất siêu một cách vững
chắc từ sau thập kỷ 80 đến nay. Chiêu thức cơ bản của chiến lược thu hút kỹ thuật
tuần hoàn là nhập khẩu kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của nước ngoài, sử dụng lực
lượng lao động khoa học kỹ thuật ở trong nước để tiếp thu tiến lên đổi mới, sáng tạo
mở mang kỹ thuật, hình thành dây chuyền phát triển: Nhập vào - tiếp thu - sáng tạo
- phát triển - xuất khẩu kỹ thuật (luân chuyển xuất ra sản phẩm). Đồng thời, dùng kỹ
thuật nhập khẩu đã tiếp thu và sáng tạo phát triển để cải tiến hệ thống kỹ thuật sản
xuất công - nông nghiệp, nâng cao hiệu ích kinh tế và hàm lượng kỹ thuật của sản
phẩm xuất khẩu. Từ đó, làm cho sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế,
tăng kim ngạch và hiệu quả xuất khẩu, phần vốn do kỹ thuật xuất khẩu (đã luân
chuyển ra sản phẩm) thu được hàng năm lại có thể bắt đầu vòng tuần hoàn mới:
Nhập vào - tiếp thu - sáng tạo - phát triển - xuất khẩu kỹ thuật (luân chuyển xuất ra
sản phẩm) ở thời điểm kỹ thuật cao hơn (phát triển nhập khẩu - xuất khẩu theo
đường xoáy trôn ốc). Đây là chiêu thức chủ động giải quyết vấn đề nhập siêu tạo lập
thế cân bằng cán cân thương mại, chuyển sang xuất siêu một cách vững chắc và dài
22

×