Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

247 Đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo chính tại Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.13 KB, 75 trang )

Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kiểm toán là lĩnh vực đang dần được khẳng định và chiếm vị trí quan
trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù mới ra đời và phát triển trong hơn 15
năm nhưng số lượng các công ty kiểm toán đã ngày càng gia tăng, chứng tỏ nhu
cầu đối với lĩnh vực này ngày càng cao.
Kiểm toán Báo cáo tài chính luôn là dịch vụ truyền thống và chiếm tỷ
trọng lớn trong doanh thu của các công ty kiểm toán hiện nay. Trước xu thế hội
nhập như ngày nay các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam luôn phải đặt ra
yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ của mình để có thể đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng và cạnh tranh với các công ty kiểm toán nước
ngoài.
Trong đó, đánh giá rủi ro kiểm toán là một bước rất quan trọng để giúp
cho các công ty kiểm toán xây dựng một kế hoạch kiểm toán hợp lý góp phần
nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả của cuộc kiểm toán. Việc rủi ro kiểm
toán có được đánh giá chính xác hay không có ảnh hưởng quan trọng đến các
quyết định của kiểm toán viên và những công việc mà kiểm toán viên phải thực
hiện. Chính vì vậy, nhóm chúng em chọn đề tài “Đánh giá rủi ro kiểm toán
trong kiểm toán báo cáo chính tại Việt Nam hiện nay” để thấy được cơ sở lý
luận về phương pháp đánh giá rủi ro và thực trạng đánh giá rủi ro ở một số công
ty kiểm toán tại Việt Nam hiện nay.
2. Nội dung của đề tài
Ngoài phần lời mở đầu và phần kết luận, đề tài nghiên cứu gồm 3 phần:
Chương 1: Lý luận cơ bản về kiểm toán báo cáo tài chính và rủi ro kiểm toán.
Chương 2: Thực trạng đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC
tại Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong
kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài


Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy
vật biện chứng và sử dụng các phương pháp kỹ thuật khác như, phương pháp tư
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
duy lôgic, phương pháp diễn giải, quy nạp, phương pháp so sánh và phân tích
để tổng hợp về lý luận và thực tiễn đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong
kiểm toán BCTC. Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng phương pháp sơ đồ, bảng biểu
để làm rõ và bổ sung thêm cho lý luận cũng như thực tiễn đánh giá trọng yếu và
rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC.
4. Hướng đóng góp của đề tài nghiên cứu
Đề tài đã hệ thống hóa lý luận về trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong
kiểm toán nói chung và đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm toán trong BCTC nói
riêng. Bên cạnh đó, đề tài đã mô tả được thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro
kiểm toán tại một số công ty Kiểm toán tại Việt Nam. Từ đó, đề tài đã đưa ra
được nhận xét cho những vấn đề còn tồn tại và phương hướng nhằm hoàn thiện
quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán tại Công ty Kiểm toán Việt Nam.
Do còn có những hạn chế về mặt kiến thức nên Đề tài nghiên cứu của
nhóm chúng em không tránh khỏi những sai sót. Chúng em rất mong thầy cô
giáo đóng góp ý kiến để Đề tài của chúng em được hoàn thiện hơn. Chúng em
xin chân thành cảm ơn giảng viên Nguyễn Thị Mỹ đã tận tình hướng dẫn chúng
em làm Đề tài nghiên cứu khoa học này.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI
CHÍNH VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN
1.1. Lý luận chung về kiểm toán báo cáo tài chính
1.1.1. Khái niệm:
Kiểm toán báo cáo tài chính là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về
bảng khai tài chính của các đơn vị do các kiểm toán viên có năng lực và trình độ
chuyên môn tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.

1.1.2. Đặc trưng của kiểm toán báo cáo tài chính
Ngoài những đặc trưng chung của kiểm toán thì kiểm toán tài chính cũng
có những đặc trưng riêng ngay trong cái chung và từ cái chung về chức năng,
đối tượng, phương pháp đến tổ chức kiểm toán:
Về chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến: việc thu thập thông tin trong
kiểm toán báo cáo tài chính có vai trò quan trọng, có ảnh hưởng rộng khắp đến
lợi ích rất nhiều người sử dụng kết quả kiểm toán. Vì vậy, mọi giai đoạn trong
kiểm toán tài chính đều hướng đến bằng chứng kiểm toán để đưa ra kết luận
kiểm toán.
Về quan hệ chủ thể và khách thể trong kiểm toán tài chính mang tính
ngoại kiểm, do đó hiểu biết của chủ thể và khách thể kiểm toán là rất quan trọng
và thực hiện ở giai đoạn đầu của kiểm toán.
Về trình tự kiểm toán, bảng khai tài chính mang tính chất tổng hợp, tính
công khai, tính thời điểm, và do quan hệ nội kiểm – ngoại kiểm, nên trình tự cụ
thể trong mỗi bước kiểm toán đều được triển khai phù hợp với đặc điểm của
từng đối tượng.
Về phương pháp kiểm toán, do đặc điểm của đối tượng và của quan hệ
chủ thể - khách thể kiểm toán nói trên, kiểm toán tài chính thường sử dụng các
phương pháp kiểm toán cơ bản để hình thành các trắc nghiệm kiểm toán cơ bản
nhằm tìm hiểu và đánh giá tình hình hoạt động cũng như hiệu quả của hệ thống
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
kiểm soát nội bộ. Trên cơ sở các phương pháp kiểm toán hình thành bằng chứng
kiểm toán.
Về đối tượng kiểm toán, kiểm toán tài chính có đối tượng trực tiếp là
bảng khai tài chính.
Bảng 1.1: Những đặc điểm cơ bản của kiểm toán tài chính
so với kiểm toán hoạt động
Loại hình
kiểm toán

Đặc trưng
Kiểm toán tài chính Kiểm toán hoạt động
Mục đích( trong triển
khai chức năng)
Thu thập bằng chứng cho
những kết luận kiểm toán
phục vụ khai hóa tài chính
Góp phần bảo vệ tài sản, bảo
đảm tin cậy của thông tin,
tuân thủ pháp lý,hiệu quả hoạt
động, hiệu quả quản lý
Cơ sở pháp lý
Chuẩn mực chung Các tiêu chuẩn định mức, quy
định cụ thể
Đối tượng trực tiếp
Bảng khai tài chính Tài sản và các hoạt động cụ
thể
Chủ thể
Kiểm toán độc lập, kiểm toán
nhà nước,( kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ và kiểm
toán nhà nước, kiểm toán độc
lập
Khách thể
Doanh nghiệp, cơ quan hoặc
tổ chức có bảng khai cần xác
minh, cá nhân có tài khoản,
bảng khai cần xác minh
Bộ phận hoặc loại hoạt động
trong khách thể kiểm toán

Phương pháp cụ thể
Theo hướng tổng hợp hoặc chi
tiết các phương pháp kiểm
toán cơ bản
Sử dụng hoặc chi tiết phương
pháp kiểm toán cơ bản
Trình tự trong quan hệ
với kế toán
Ngược với trình tự kế toán Theo trình tự kế toán
Trình tự theo các bước
cơ bản
Gắn với kiểm soát nội bộ và
tính tổng quát, tính thời điểm
của bảng khai tài chính
Tùy theo đối tượng kiểm toán
cụ thể; tài sản nghiệp vụ và
hiệu quả quản lý.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
1.2. Lý luận chung về rủi ro kiểm toán
1.2.1. Khái niệm
Theo chuẩn mực kiểm toán số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”
rủi ro kiểm toán (Audit Risk - AR) là rủi ro do kiểm toán viên và công ty kiểm
toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm
toán còn có những sai sót trọng yếu.
Vì vậy, khi lập kế hoạch kiểm toán cho một hợp đồng kinh tế, kiểm toán
viên phải dự kiến các trường hợp rủi ro và những trình tự, những thủ pháp kiểm
toán nhằm phát hiện ra những sai lầm nghiêm trọng trong BCTC mà nguồn gốc
của nó là các gian lận và sai sót. Kiểm toán viên phải lập kế hoạch kiểm toán và
thực thi kế hoạch kiểm toán với thái độ thận trọng để rủi ro kiểm toán nếu xảy

ra thì cũng ở mức độ chấp nhận được. Mức độ rủi ro kiểm toán cao hay thấp
quyết định khối lượng công việc kiểm toán cần tiến hành. Vì vậy, cần phải tiến
hành phân loại rủi ro, xem xét mối quan hệ tác động giữa các loại rủi ro đến
khối lượng công việc kiểm toán cần phải tiến hành, cũng như các trình tự và thủ
pháp kiểm toán thích hợp để thực hiện kế hoạch kiểm toán.
1.2.2. Các loại rủi ro kiểm toán
a) Rủi ro tiềm tàng( Inherent Risk – IR)
Theo chuẩn mực kiểm toán số 400 “ đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”
thì rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng
khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ
hoặc tính gộp, mặc dù có hay không hệ thống kiểm soát nội bộ.
Mức độ rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm tình hình kinh doanh của
khách thể kiểm toán, loại hình kinh doanh và cả năng lực nhân viên của khách
thể kiểm toán. Kiểm toán viên không tạo ra cũng không kiểm soát, họ chỉ có thể
đánh giá chúng. Việc phân tích rủi ro tiềm tàng có một ý nghĩa quan trọng trong
khi lập kế hoạch kiểm toán. Mức độ rủi ro tiềm tàng là cơ sở lựa chọn các thủ
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
pháp kiểm toán, xác định khối lượng công việc, thời gian, biên chế và chi phí
cần thiết cho một cuộc kiểm toán. Sự phân tích, đánh giá rủi ro tiềm tàng được
thực hiện hàng năm như là một bộ phận của quá trình lập kế hoạch kiểm toán.
Khi đánh giá rủi ro tiềm tàng kiểm toán viên cần phải xem xét, đánh giá một số
yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng như:
- Bản chất công việc kinh doanh của khách hàng:
Rủi ro tiềm tàng đối với một số tài khoản nhất định bị ảnh hưởng bởi bản
chất công việc kinh doanh của khách hàng. Ví dụ, có khả năng rủi ro lớn hơn về
hàng tồn kho lạc hậu ở một số xí nghiệp xuất hàng điện tử so với xí nghiệp
luyện kim. Rủi ro tiềm tàng có khả năng khác nhau nhiều nhất giữa các doanh
nghiệp đối với các tài khoản như tồn kho, các khoản phải thu và tài sản cố định.
- Tính liêm chính của Ban quản trị:

Khi ban quản trị bị khống chế bởi một hoặc một số ít cá nhân thiếu liêm
chính, khả năng báo cáo tài chính bị báo cáo sai nghiêm trọng tăng lên rất cao.
Thường thì ban quản trị có một mức độ liêm chính hợp lý nhưng không thể
được xem là hoàn toàn trung thực trong mọi cách xử sự.
- Động cơ của khách hàng:
Trong nhiều trường hợp, Ban quản trị tin rằng sẽ có lợi nếu báo cáo sai.
Ví dụ, nếu Ban quản trị nhận được tiền thưởng theo tỷ lệ lợi nhuận thì có thể có
xu hướng báo cáo dư lợi nhuận thu Ban quản trị muốn công ty nộp các khoản
thuế ít đi. Nếu Ban quản trị thiếu trung thực thì họ có thể vì một số động cơ mà
lập báo cáo tài chính sai.
- Kết quả của các cuộc kiểm toán lần trước:
Những sai số được tìm thấy trong lần kiểm toán của năm trước có khả
năng xuất hiện trở lại trong lần kiểm toán của năm nay cao. Điều này là do rất
nhiều loại sai số có bản chất hệ thống, việc thay đổi những sai lầm thường có sự
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
chậm chễ nhất định. Do đó, KTV sẽ phải lưu ý đến kết quả của cuộc kiểm toán
trong năm trước.
- Hợp đồng ban đầu với hợp đồng gia hạn
Các KTV sẽ thu thập được kinh nghiệm và kiến thức về khả năng sai sót
sau khi kiểm toán một khách hàng trong vài năm. Việc thiếu kết quả kiểm toán
của những năm trước sẽ gây cho hầu hết kiểm toán viên phải sử dụng mức rủi ro
tiềm tàng cao hơn đối với lần kiểm toán đầu so với kiểm toán sau mà không tìm
thấy sai sót nghiêm trọng. Hầu hết KTV xây dựng một mức rủi ro tiềm tàng cao
trong năm đầu tiên kiểm toán và giảm dần trong những năm sau khi họ đã có
kinh nghiệm.
- Các bên có liên quan
Trên thực tế không phải công ty nào cũng hạch toán các nghiệp vụ một
cách độc lập mà giữa các nghiệp vụ kinh tế còn liên quan đến nhiều bên như:
công ty mẹ-con, những đơn vị mới sát nhập. Vì vậy, việc những bên liên quan

có vấn đề ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng là điều mà KTV phải chú trọng.
- Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên
Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên với khách hàng có khả năng
sai sót nhiều hơn các nghiệp vụ hàng ngày vì khách hàng thiếu kinh nghiệm khi
vào sổ chúng.
- Số lượng tiền của các số dư tài khoản:
KTV thường cho rằng các số dư tài khoản có số dư bằng tiền lớn thì có
khả năng sai sót nhiều hơn những tài khoản có số dư bằng tiền nhỏ. Do đó, rủi
ro tiềm tàng thường cao hơn và cần nhiều bằng chứng kiểm toán để kiểm tra
hơn.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
- Cấu tạo của tổng thể:
Các khoản mục cá biệt tạo thành một tổng thể cũng thường ảnh hưởng
đến quá trình ước tính của kiểm toán viên về sai sót trọng yếu. Ví dụ, hầu hết
kiểm toán viên sẽ sử dụng mức rủi ro cố hữu cao hơn đối với các khoản phải thu
khi hầu hết các tài khoản đã quá hạn đáng kể so với các khoản phải thu đúng
hạn.
Trên cơ sở xem xét những yếu tố có ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng, kiểm
KTV đánh giá loại rủi ro này trên hai phương diện:
+ Trên phương diện báo cáo tài chính:
Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban giám đốc cũng như sự
thay đổi thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán;
Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, của các nhân
viên kế toán chủ yếu, của KTV nội bộ và sự thay đổi (nếu có) của họ;
Những áp lực bất thường đối với Ban giám đốc, đối với kế toán trưởng,
nhất là những hoàn cảnh thúc đẩy Ban giám đốc, kế toán trưởng phải trình bày
báo cáo tài chính không trung thực;
Đặc điểm kinh doanh của đơn vị, như: quy trình công nghệ, cơ cấu vốn,
các đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ;

Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị, như các biến
động về kinh tế, về cạnh tranh, sự thay đổi về thị trường mua, thị trường bán và
sự thay đổi của hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị.
+ Trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ:
BCTC có thể chứa đựng những sai sót như: BCTC có những điều chỉnh
liên quan đến niên độ trước; BCTC có nhiều ước tính kế toán, hoặc trong năm
tài chính có sự thay đổi chính sách kế toán;
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
Việc xác định số dư và số phát sinh của các tài khoản và nghiệp vụ kinh
tế như: Số dư các tài khoản dự phòng, nghiệp vụ kinh tế đối với chi phí phát
sinh sau ghi nhận ban đầu tài sản cố định tính vào chi phí hay tính tăng nguyên
giá tài sản cố định;
Mức độ dễ bị mất mát, biển thủ tài sản như: phát sinh nhiều nghiệp vụ
thu, chi tiền mặt, tạm ứng tiền với số lượng lớn, thời gian thanh toán dài…;
Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng đòi hỏi phải
có ý kiến của chuyên gia;
Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường và phức tạp, đặc biệt là gần thời
điểm kết thúc niên độ;
Các nghiệp vụ kinh tế, tài chính bất thường khác.
+ Trên phương pháp đánh giá: ở phần lớn các công ty kiểm toán chuyên
nghiệp, các KTV tiến hành phân tích và đánh giá rủi ro theo trình tự “từ đỉnh
đến đáy”, nghĩa là tiến hành công việc từ trên xuống, xem xét và đánh giá rủi ro
của đơn vị tổng thể, sau đó là từng đơn vị kinh doanh, công ty con, đến từng bộ
phận, từng khoản mục trong báo cáo tài chính.
b) Rủi ro kiểm soát (Control risk CR)
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 “đánh giá rủi ro và kiểm
soát nội bộ” thì rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng
nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính
gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc

không phát hiện hết và sửa chữa kịp thời. Rủi ro kiểm soát tồn tại là do hạn chế
cố hữu của hệ thống kiểm soát nội bộ. Mặc dù hệ thống kiểm soát nội bộ được
lập ra do yêu cầu của nhà quản lý nhằm khắc phục những yếu kém trong công ty
nhưng trong quá trình hoạt động nó cũng không tránh khỏi bộc lộ những hạn
chế như:
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
Yêu cầu thông thường là chi phí là chi phí cho hệ thống kiểm soát nội bộ
không vượt quá những lợi ích mà nó mang lại;
Phần lớn các thủ tục kiểm soát nội bộ thường được thiết lập cho các
nghiệp vụ thường xuyên, lặp đi, lặp lại hơn là các nghiệp vụ thường xuyên;
Sai sót bởi con người thiếu chú ý, đãng trí khi thực hiện nhiệm vụ hoặc
do không hiểu rõ yêu cầu công việc;
Khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ không phát hiện được sự thông đồng
trong Ban quản lý hoặc nhân viên với những người khác trong hay ngoài công
ty;
Khả năng người chịu trách nhiệm thực hiện thủ tục kiểm soát của mình
lạm dụng quyền lực;
Do thay đổi cơ chế và yêu cầu của quản lý làm cho các thủ tục kiểm soát
bị lạc hậu hoặc bị vi phạm.
Đánh giá rủi ro kiểm soát thực chất là quá trình đánh giá tính hiệu quả
của hệ thống kiểm soát nội bộ đối với việc phát hiện và ngăn chặn các gian lện
và sai sót quan trọng trong báo cáo tài chính. Sau khi tìm hiểu hệ thống kiểm
soát nội bộ, KTV cần đánh giá sơ bộ rủi ro kiểm soát đối với các cơ sở dẫn liệu
trong báo cáo tài chính. KTV thường đánh giá rủi ro kiểm soát cao đối với một
hay tất cả các cơ sở dẫn liệu khi kiểm toán viên tin rằng:
- Các thủ tục và các biện pháp kiểm soát của đơn vị đối với một hay tất cả
các cơ sở dẫn liệu đó là không có tác dụng;
- Khi kiểm toán viên không có đầy đủ cơ sở đánh giá tác dụng của các thủ
tục và các biện pháp kiểm soát của đơn vị;

KTV có thể đánh giá rủi ro kiểm soát là thấp khi:
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
- Xác định được các thủ tục và các biện pháp kiểm soát của đơn vị liên
quan đến các cơ sở dẫn liệu là có tác dụng, có khả năng phát hiện và ngăn
chặn các gian lận sai sót;
- Có điều kiện và có kế hoạch tiến hành các thử nghiệm để khẳng định sự
đánh giá của mình về hệ thống kiểm soát.
Sơ đồ 1.1: Quy trình đánh giá rủi ro kiểm soát




Không
thể
giảm
Quá trình đánh giá rủi ro kiểm soát
Mức được chứng minh
bằng sự hiểu biết đã có
Mức thấp hơn khả
năng dĩ có thể
chứng minh được
Mức tối
đa
Mở rộng sự hiểu biết
nếu thấy cần thiết
Lập kế hoạch và thực hiện thử
nghiệm các thủ tục kiểm soát
Xác định liệu mức đánh giá về rủi ro kiểm
soát có được giảm hơn từ kết quả của

các thử nghiệmkiểm soát hay không
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
c) Rủi ro phát hiện ( Detection Risk – DR)
Theo chuẩn mực kiểm toán số 400 “đánh giá rủi ro và hệ thống kiểm soát
nội bộ” thì rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp
vụ, từng khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá
trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát hiện được.
Ngược lại với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, KTV phải có trách
nhiệm thực hiện các thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm toán nhằm quản lý và
kiểm soát rủi ro phát hiện. Rủi ro phát hiện phụ thuộc vào:
Mức độ thích hợp của các bước kiểm toán;
Tính hợp lí của việc thực hiện quy trình kiểm toán cho mỗi phần hành;
Mối quan hệ giữa bằng chứng kiểm toán với nhận thức hoặc nhận định và
đưa ra kết luận về phần hành đó cũng như về BCTC;
Khả năng phát hiện ra sai sót do có sự thông đồng nhất trí bên trong
doanh nghiệp để thực hiện không đúng các chế độ chính sách do Ban giám đốc
đề ra.
Nói cách khác, mức độ rủi ro phát hiện có quan hệ mật thiết với những
phương pháp kiểm toán và các bằng chứng mà KTV thu thập được. Nguyên
nhân chính xảy ra tình trạng này là do các phương pháp kiểm toán mà KTV áp
dụng là không phù hợp, hoặc áp dụng sai phương pháp kiểm toán đã chọn, hoặc
khi đã có kết quả thực tế của cuộc kiểm toán thì KTV lại đưa ra các đánh giá và
nhận xét sai lầm. Các nguyên nhân xảy ra rủi ro phát hiện có thể khái quát như
sau:
Rủi ro kiểm soát giảm xuống,
rủi ro phát hiện tăng lên và phải
lập kế hoạch các trắc nghiệm kiểm
toán để thỏa mãn mức rủi ro phát
hiện tăng lên này

Rủi ro kiểm soát tăng hơn so với mức
đánh giá ban đầu hoặc ở mức tối đa.
Rủi ro phát hiện giảm xuống và phải
lập kế hoạch các trắc nghiệm toán để thỏa
mãn mức rủi ro phát hiện thấp hơn này.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
Thứ nhất: Kiểm toán viên áp dụng các bước kiểm toán không phù hợp.
Điều này thường xảy ra với các KTV mới vào nghề, thiếu kinh nghiệm hoặc quá
trình lập kế hoạch kiểm toán không được thực hiện một cách đúng đắn khiến
cho việc thực hiện các quy trình kiểm toán đối với mỗi phần hành trở nên không
hợp lí.
Thứ hai: Kiểm toán viên đã tìm được bằng chứng, nhưng không tìm
được nguyên nhân gây sai sót dẫn đến kết luận sai về bản chất của khoản mục
hoặc nghiệp vụ đó cũng như BCTC.
Thứ ba: Các BCTC bản thân cũng chứa đựng các sai sót, nhưng sự sai sót
đó là do bên trong doanh nghiệp đã có sự thông đồng để làm sai các chính sách
và chế độ của Ban quản trị đề ra nên KTV rất khó phát hiện ra gian lận và sai
sót.
Việc xác định rủi ro phát hiện được thực hiện thông qua mô hình rủi ro
kiểm toán:
AR = IR×CR×DR
Với mô hình này, KTV có thể sử dụng để điều chỉnh rủi ro phát hiện dựa
trên các loại rủi ro khác đã được đánh giá nhằm đạt được rủi ro kiểm toán ở
mức thấp như mong muốn. Khi rủi ro kiểm toán được xác định ở mức mong
muốn thì rủi ro phát hiện tỷ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Ví
dụ, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức cao thì rủi ro
phát hiện được đánh giá ở mức thấp để rủi ro kiểm toán mong muốn ở mức chấp
nhận được. Hay khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức
thấp thì rủi ro phát hiện có thể được đánh giá ở mức cao hơn nhưng vẫn đảm

bảo rủi ro kiểm toán mong muốn ở mức chấp nhận được.
Mức độ rủi ro phát hiện có quan hệ trực tiếp đến phạm vi kiểm toán và
các phương pháp kiểm toán đã thực thi trong quá trình kiểm toán. Phạm vi kiểm
toán càng được mở rộng, các phương pháp kiểm toán càng thích hợp và chặt
chẽ, công việc kiểm toán càng được tuân thủ các chuẩn mực và các nguyên tắc
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
kiểm toán, thì rủi ro phát hiện càng thấp và ngược lại.Tuy nhiên, một số rủi ro
phát hiện vẫn thường xảy ra, cho dù có kiểm tra 100% số dư tài khoản hoặc loại
nghiệp vụ, vì KTV có thể đã lựa chọn và áp dụng các phương pháp kiểm toán
không thích hợp, áp dụng sai các phương pháp hoặc giải thích sai các kết quả
kiểm toán. Ngoài ra, mức độ rủi ro phát hiện còn liên quan trực tiếp đến thử
nghiệm cơ bản của KTV. KTV phải dựa vào mức độ đánh giá rủi ro tiềm tàng
và rủi ro kiểm soát để xác định nội dung, lịch trình và phạm vi thử nghiệm cơ
bản để giảm rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có thể
chấp nhận được. Để giảm rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán, KTV cần xem
xét:
Nội dung thử nghiệm kiểm soát, ví dụ thủ tục thu thập tài liệu, hoặc xác
định thu thập thông tin thu thập từ bên ngoài độc lập với đơn vị có giá trị cao
hơn là thu thập tài liệu trong nội bộ đơn vị; hoặc kết hợp kết quả kiểm tra chi
tiết các nghiệp vụ và số dư với thủ tục phân tích;
Lịch trình của thử nghiệm cơ bản, ví dụ thủ tục kiểm tra số dư hàng tồn
kho cuối năm được thực hiện vào cuối niên độ kế toán có giá trị cao hơn là thực
hiện thủ tục kiểm tra vào thời điểm khác mà phải điều chỉnh.
Phạm vi thử nghiệm cơ bản, ví dụ xác định cỡ mẫu rộng hơn là hẹp.
Tuy nhiên, khó có thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro phát hiện ngay cả khi kiểm
tra chi tiêt toàn bộ các nghiệp vụ và số dư.
Sơ đồ 1.2: Quy trình đánh giá rủi ro phát hiện
Xác định mức rủi ro
kiểm toán mong muốn

Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán


Tính toán rủi ro phát hiện

Thiết kế thử nghiệm kiểm soát
1.2.3. Đánh giá rủi ro kiểm toán
Mục đích của đánh giá rủi ro kiểm toán là xác định mức rủi ro phát hiện
để xác định mức rủi ro phát hiện làm cơ sở cho việc lập kế hoạch các thử
nghiệm kiểm toán sẽ áp dụng. Rủi ro kiểm toán được xác định ngay sau khi lập
kế hoạch kiểm toán. Rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định một cách chủ
quan dựa trên kinh nghiệm của kiểm toán viên và phụ thuộc vào hai yếu tố cơ
bản:
- Một là, mức độ mà theo đó người sử dụng bên ngoài tin tưởng vào
BCTC: theo đó, những BCTC mà được nhiều người đặt niềm tin thì những sai
lệch trọng yếu trên BCTC dễ gây tác hại trên phạm vi rộng. Do vậy, trong
trường hợp này KTV cần xác định một mức rủi ro kiểm toán thấp, từ đó tăng số
lượng bằng chứng kiểm toán thu thập và tăng độ chính xác trong các kết luận
đưa ra của mình.
- Hai là, khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi báo
cao kiểm toán công bố: Nếu khách hàng gặp khó khăn về tài chính sau khi báo
cáo kiểm toán được công bố thì khả năng KTV sẽ liên quan tới các vụ kiện của
Đánh giá rủi ro
tiềm tàng
Đánh giá rủi ro
kiểm soát
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
các bên do sử dụng báo cáo kiểm toán là rất lớn. Do vậy, KTV cần đánh giá

mức độ rủi ro kiểm toán ở mức thấp hơn để tăng cường các bằng chứng kiểm
toán cần thu thập. Từ đó, làm tăng tính chính xác của báo cáo kiểm toán, tránh
những vụ kiện phát sinh sau khi cuộc kiểm toán kết thúc.
1.3. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro – mô hình rủi ro kiểm toán
Qua việc tìm hiểu các loại rủi ro, chúng ta thấy rằng, rủi ro tiềm tàng và
rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát khác với rủi ro phát hiện ở chỗ, các loại rủi
ro này tồn tại độc lập và khách quan đối với thông tin tài chính. Kiểm toán viên
không tạo ra và cũng không thể kiểm soát chúng được, kiểm toán viên chỉ có
thể thu thập bằng chứng và đánh giá các loại rủi ro này. Mối quan hệ của các
loại rủi ro này được thể hiện thông qua công thức:
AR = IR × CR × DR
Với mô hình trên, kiểm toán viên có thể xác định rủi ro phát hiện dựa trên
các loại rủi ro đã được đánh giá nhằm đạt được rủi ro kiểm toán ở mức mong
muốn. Từ đây ta cũng có:
Công thức trên có một ý nghĩa quan trọng đối với KTV trong việc xác
định rủi ro kiểm toán để lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán sao cho hợp lý và
đủ để bảo đảm duy trì rủi ro phát hiện ở mức cho phép. Tuy nhiên, trong việc sử
dụng mô hình trên, KTV cần chú ý một số điểm:
KTV không thể giả định rủi ro kiểm toán bằng 0 để không phải thu thập
bằng chứng kiểm toán
KTV không thể đặt niềm tin tuyệt đối vào hệ thống kiểm soát nội bộ
(CR=0) để không cần thiết đến các bước thu thập bằng chứng kiểm toán.
KTV không thể coi là thận trọng thích đáng nếu như rủi ro của việc phát
hiện các sai phạm trọng yếu trong đối tượng kiểm toán ở mức quá cao.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
KTV có thể lựa chọn dựa hoàn toàn vào các bằng chứng kiểm toán được
thu thập từ các thử nghiệm cơ bản, kể cả khi KTV cho rằng rủi ro tiềm tàng và
rủi ro kiểm soát ở mức cực đại.
Rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện luôn luôn đi đôi với tính trọng yếu.

Khi trọng yếu tăng thì rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện giảm và ngược lại.
Bảng 1.1: Mối quan hệ về các loại rủi ro và bằng chứng kiểm toán
Trường
hợp
Rủi ro
tiềm tàng
Rủi ro
Kiểm soát
Rủi ro
phát hiện
Rủi ro
kiểm toán
Số lượng
bằng chứng
cần thu thập
1 Thấp Thấp Cao Cao Thấp
2 Thấp Thấp Trung bình Thấp Trung bình
3 Cao Cao Thấp Thấp Cao
4 Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình
5 Thấp Trung bình Trung bình cao Trung bình
1.4. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro
1.4.1. Khái niệm trọng yếu
Mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính là xác minh và bày tỏ ý kiến về
tính trung thực của các báo cáo tài chính. Hay nói cách khác là đi xác minh xem
báo cáo tài chính có những sai sót nào, những kiểm toán viên không phải tìm tất
cả các sai phạm mà chỉ có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với những sai phạm
mang tính trọng yếu. Theo chuẩn mực kiểm toán số 320 “ tính trọng yếu trong
kiểm toán” thì trọng yếu là một thuật ngữ để chỉ tầm quan trọng của một thông
tin( một số liệu trong báo cáo tài chính). Thông tin được coi là trọng yếu có
Trường Đại học Kinh tế quốc dân

Khoa Kế toán
nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính chính xác của thông tin đó thì sẽ
ảnh hưởng đến các quyết định của báo cáo tài chính. Mức trọng yếu tùy thuộc
vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của sai sót được đánh giá
trong hoàn cảnh cụ thể. Mức trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ
không phải là nội dung của thông tin cần phải có.
1.4.2. Đánh giá tính trọng yếu
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà kiểm toán
viên tin rằng ở mức đó các BCTC có thể sai phạm nhưng chưa ảnh hưởng đến
các quyết định của người sử dụng hay đó là toàn bộ sai sót có thể chấp nhận
được đối với toàn bộ BCTC. Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu mang
tính trọng yếu giúp kiểm toán viên lập kế hoạch thu thập bằng chứng kiểm toán
thích hợp. Cụ thể, nếu KTV ước lượng mức trọng yếu càng thấp thì độ chính
xác của các số liệu trên BCTC càng cao và số lượng bằng chứng cần thu thập
càng nhiều và ngược lại.
Việc ước lượng về mức trọng yếu mang tính xét đoán của KTV. Do đó,
ước lượng ban đầu về mức trọng yếu không mang tính cố định, mà có thể thay
đổi trong suốt quá trình kiểm toán nếu KTV thấy mức ước lượng ban đầu là
không chính xác hoặc có những thay đổi làm cho mức ước lượng thay đổi. Khi
xây dựng ban đầu về tính trọng yếu, KTV có thể sử dụng những phương pháp
ước lượng sau để xác định mức trọng yếu:
- Ước lượng theo quy mô:
+ Quy mô tuyệt đối: sử dụng một con số tuyệt đối để xác định mức trọng
yếu.
+ Quy mô tương đối: là mối quan hệ tương quan giữa đối tượng cần đánh
giá với một con số gốc. Số gốc ở đây có thể là tổng tài sản, tổng doanh thu, thu
nhập thuần trước thuế…
- Ước lượng theo bản chất: thì các khoản mục sau thường xem là trọng
yếu:

+ Các khoản mục có gian lận hoặc chứa đựng gian lận.
+ Các khoản mục có sai sót nhưng lặp đi lặp lại.
+ Các khoản mục ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
Bảng 1.2: Bảng quy định về mức trọng yếu
Vị trí của khoản
mục
Không trọng yếu Có thể trọng yếu Chắc chắn trọng
yếu
Báo cáo kết quả
kinh doanh
Dưới 5% lãi trước
thuế
Từ 5% -10% lãi
trước thuế
Trên 10% giá trị
trước thuế
Bảng cân đối kế
toán
Dưới 10% giá trị
tài sản
Từ 10% - 15%
giá trị tài sản
Trên 15% giá trị
tài sản
Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục:
Sau khi KTV đã có được mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho
toàn bộ BCTC, KTV cần phân bổ mức ước lượng này cho các khoản mục trên
BCTC. Mục đích của việc phân bổ này là giúp KTV xác định số lượng bằng

chứng kiểm toán cần thu thập đối với từng khoản mục ở mức chi phí thấp nhất
có thể mà vẫn đảm bảo tổng hợp mức sai sót trên BCTC không vượt quá mức
ước lượng ban đầu về tính trọng yếu. Cơ sở tiến hành phân bổ là bản chất các
khoản mục, đánh giá về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, kinh nghiệm kiểm
toán của KTV và chi phí kiểm toán đối với từng khoản mục
1.4.3. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Trong một cuộc kiểm toán, mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối
quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau: mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng
thấp và ngược lại. Mối quan hệ này có ý nghĩa quan trọng khi kiểm toán viên
xác định nội dung, lịch trình và thủ tục kiểm toán. Ví dụ, sau khi lập xong
chương trình kiểm toán chi tiết, KTV phát hiện rằng mức trọng yếu phải thấp
hơn, do đó rủi ro kiểm toán sẽ phải tăng lên. Do đó, KTV phải tăng cường phạm
vi kiểm toán và lựa chọn các phương pháp kiểm toán hữu hiệu hơn để có thể
giảm rủi ro phát hiện xuống mức có thể chấp nhận được.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
1.5. Tầm quan trọng trong việc xác định rủi ro kiểm toán trong kiểm
toán tài chính
- Ảnh hưởng đến các thủ tục kiểm toán
+ Rủi ro kiếm soát
Trên cơ sở đánh giá rủi ro kiểm soát, KTV thực hiện các phép thử sẽ
được áp dụng. Nếu rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức cao (CR cao) thì KTV
không thể tin tưởng vào HTKSNB mà khi đó KTV sẽ tiến hành các thử nghiệm
cơ bản trên số dư và nghiệp vụ. Và kiểm toán viên phải cường các thử nghiệm
cơ bản để phát hiện những hành vi gian lận và sai sót. Trong trường hợp này,
kiểm toán viên không cần thực hiện các thử nghiệm kiểm soát (thử nghiệm tuân
thủ). Do mục đích của thử nghiệm kiểm soát là thu thập bằng chứng về sự hữu
hiệu và hệ thống kiểm soát và nhằm giảm bớt các thử nghiệm cơ bản trên số dư
và nghiệp vụ. Trong trường hợp này thì HTKSNB đã không hoạt động hữu hiệu
nên sẽ làm tăng các thử nghiệm cơ bản. Ngược lại, nếu rủi ro kiểm soát thấp

hơn (IR thấp) thì KTV sẽ thực hiện các thủ tục kiểm soát để đánh giá xem
HTKSN hoạt động hiệu quả ở mức nào và KTV có thể tin bao nhiêu phần trăm
vào hệ thống kiểm soát nội bộ. Từ đó thử nghiệm cơ bản trên số dư tài khoản và
nghiệp vụ sẽ được giảm bớt.
+ Rủi ro tiềm tàng
Tùy theo mục đích của từng cuộc kiểm toán thì KTV sẽ tập trung vào
từng khoản mục khác nhau, từ đó rủi ro tiềm tàng sẽ được đánh giá khác nhau.
Ví dụ như, mục tiêu của cuộc kiểm toán là xác định số thuế phải nộp thì rủi ro
tiềm tàng trên số dư tài khoản chi phí và doanh thu sẽ được đánh giá cao hơn
với mục tiêu của cuộc kiểm toán theo yêu cầu của ngân hàng với cùng loại tài
khoản. Khi đó, với mục tiêu là xác định số thuế phải nộp thì KTV sẽ phải tăng
cường thu thập các khoản mục ảnh hưởng đến chi phí và doanh thu, vì những
khoản mục này nguy cơ chứa đựng những sai sót là lớn hơn những khoản mục
khác. Còn với mục tiêu cuộc kiểm toán theo yêu cầu của ngân hàng thì những
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
khoản mục tài sản và các khoản phải thu khách hàng sẽ được chú trọng. Vì
những khoản mục này liên quan trực tiếp đến khả năng thanh toán của khách
hàng và rủi ro tiềm tàng với các khoản mục này sẽ cao và do đó KTV sẽ phải
thu thập nhiều hơn để đánh giá một cách chính xác.
Với cùng mục tiêu kiểm toán thì đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh
các loại hình khác nhau thì rủi ro tiềm tàng trên từng khoản mục cũng được
đánh giá khác nhau. Thí dụ, cùng kiểm tra hàng tồn kho thì với doanh nghiệp
bán rau quả và doanh nghiệp bán hàng quần áo thì rủi ro tiềm tàng đánh giá trên
hàng tồn kho cũng khác nhau. Với nhau doanh nghiệp kinh doanh rau quả thì
rủi ro tiềm tàng của hàng tồn kho là rất lớn do những mặt hàng nguy cơ bị hỏng
là cao và do đó kiểm toán viên phải tăng cường thu thập để đánh giá loại hàng
tồn kho này.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN
TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
2.1. Quá trình phát triển của hoạt động kiểm toán tại Việt Nam
Kiểm toán là thuật ngữ nghề nghiệp và là hoạt động nghiệp vụ đã xuất
hiện từ lâu trên thế giới và được chấp nhận ở Việt Nam từ những năm đầu đổi
mới (1990). Trong cơ chế quản lý mới, Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế không
phải bằng biện pháp hành chính, mà bằng luật pháp, bằng đòn bảy và công cụ
kinh tế. Kinh tế thị trường đòi hỏi hoạt động kinh tế - tài chính phải diễn ra một
cách bình đẳng, minh bạch, công khai. Thông tin kinh tế - tài chính do hạch
toán kế toán xử lý, tổng hợp và cung cấp, phục vụ các quyết định kinh tế phải
đảm bảo yêu cầu đầy đủ, trung thực, có độ tin cậy cao.
Hệ thống kiểm toán ở Việt Nam – một trong những công cụ quản lý kinh
tế – tài chính hữu hiệu, sản phẩm của nền kinh tế thị trường, của hội nhập kinh
tế quốc tế đã được hình thành và có những bước phát triển đáng ghi nhận. Hệ
thống kiểm toán gồm 3 phân hệ cấu thành là kiểm toán Nhà nước (KTNN),
kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ. Các phân hệ có vị trí, vai trò và
phạm vi hoạt động khác nhau, nhưng cùng thực hiện chức năng kiểm tra,
kiểm soát đối với các hoạt động kinh tế – tài chính, có sự tương đồng nhất
định về phương pháp chuyên môn nghiệp vụ.
Hoạt động kiểm toán độc lập được hình thành từ năm 1991, KTNN từ
năm 1994, kiểm toán nội bộ từ năm 1997. Từ đó đến nay, các phân hệ kiểm
toán đã dần khẳng định được vị trí, vai trò và có những đóng góp tích cực đối
với quá trình quản lý, sử dụng tiết kiệm, đúng mục đích, có hiệu quả các nguồn
lực tài chính và tài sản trong xã hội; góp phần làm lành mạnh các quan hệ tài
chính – tiền tệ; thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và hoàn thiện các
yếu tố của nền kinh tế thị trường ở VN.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
Trong tiến trình đổi mới kinh tế của đất nước, cần có nhiều giải pháp để
tiếp tục phát triển nhanh và vững chắc hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam.

Theo chiến lược phát triển kiểm toán độc lập giai đọan 2006-2010 đặt ra mục
tiêu tiếp tục nâng cao chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán, đảm bảo tuân thủ
các chuẩn mực quốc tế, được quốc tế thừa nhận và phù hợp với tiến trình mở
cửa, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Muốn vậy, cần tiếp tục hoàn thiện
hệ thống văn bản pháp luật phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế Việt Nam
và thông lệ quốc tế, đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo, phổ cập đến từng
đơn vị. Tăng cường quản lý Nhà nước về kế toán, kiểm toán đồng thời phát
triển mạnh mẽ các tổ chức nghề nghiệp, mở rộng quan hệ quốc tế, từng bước
thừa nhận lẫn nhau chứng chỉ hành nghề, cung cấp dịch vụ tại chỗ và cung cấp
qua biên giới về dịch vụ kế toán và kiểm toán.
2.2 Thực trạng qui trình đánh giá rủi ro kiểm toán tại Việt Nam hiện nay
Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán là một vấn đề khá phức tạp, mang
tính xét đoán của KTV nhiều hơn. Trong chuẩn mực kiểm toán quốc tế, cũng
như chuẩn mực kiểm toán Việt Nam chỉ đưa ra những hướng dẫn chung về
trọng yếu và rủi ro, việc đánh giá trọng yếu và rủi ro như thế nào thì từng công
ty kiểm toán sẽ có những hướng dẫn cụ thể cho các KTV của mình. Ở Việt Nam
hiện nay, số lượng công ty kiểm toán cũng khá đông, nhưng không phải công ty
nào cũng có hướng dẫn cụ thể về quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro cho
nhân viên. Hơn nữa các công ty có hướng dẫn thì mối công ty sẽ có quy trình
mang những đặc điểm không giống nhau. Trong bài nghiên cứu này, nhóm
chúng em xin đưa ra 2 ví dụ điển hình cho các công ty kiểm toán ở Việt Nam,
đó là: công ty TNHH Deloitte Việt Nam và Công ty TNHH dịch vụ tư vấn tài
chính kế toán và kiểm toán AASC .
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
2.2.1 Đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán.
Trong giai này, KTV có thể tham khảo các thông tin trên các báo cáo
kiểm toán năm trước (nếu có), để có những hình dung ban đầu của mình về hiện
trạng kinh doanh của khách hàng. Từ đó để có nhận định một cách đúng đắn
hơn về rủi ro khi thực hiện kiểm toán. Tuy vậy, cũng cần phải thận trọng về việc

xem xét độ tin cậy các thông tin trên các báo cáo kiểm toán năm trước, và cân
nhắc về sự phù hợp của các thông tin đó với cuộc kiểm toán năm nay. Một mặt
do những thay đổi trong hệ thống tổ chức của khách hàng, mặt khác các yếu tố
bên ngoài cũng là nguyên nhân làm gia tăng, hay hạn chế các rủi ro kiểm toán
có thể xảy ra.
Nhìn chung, trong bước này, KTV cần chú ý đến các vấn đề sau:
+ Đặc điểm tính liêm khiết của đội ngũ lãnh đạo
 Đặc điểm và tính liêm khiết trong các lĩnh vực nói chung
 Cam kết của doanh nghiệp về độ tin cậy của thông tin trong BCTC
 Cam kết của doanh nghiệp về việc thiết kế duy trì quy trình kế toán và
hệ thống thông tin tin cậy.
+ Cơ cấu tổ chức và quản lý
 Cơ cấu tổ chức
 Cơ cấu quản lý và quy trình giám sát, kiểm soát, điều hành
 Phương pháp phân chia quyền hạn và trách nhiệm
 Tác động của hệ thống công nghệ thông tin
+ Bản chất và môi trường kinh doanh
 Môi trường kinh doanh
 Bản chất kinh doanh
 Hoạt động liên tục
Các thông tin trên, cần phải được tìm hiểu kỹ lưỡng với từng khách hàng,
nhằm hạn chế rủi ro kiểm soát xảy ra khi lựa chọn khách hàng.
Đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán là công việc khá phức tạp.
Do đó trong hầu hết các công ty kiểm toán độc lập của Việt Nam hiện nay, công
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
việc này do thành viên ban giám đốc thực hiện, hoặc do KTV cao cấp thực hiện
có sự thông qua của ban giám đốc.
2.2.2 Qui trình đánh giá trọng yếu trong mối quan hệ với rủi ro kiểm toán
2.2.2.1 Ước lượng ban đầu về mức trọng yếu.

Các công ty kiểm toán Việt Nam kế thừa kỹ thuật về đánh giá trọng yếu
và rủi ro kiểm toán từ những hãng kiểm toán lớn, ra đời trước trên thế giới.
Sau khi đã thực hiện tìm hiểu các thông tin về khách hàng và thực hiện
phân tích sơ bộ BCTC của đơn vị, KTV sẽ thực hiện ước lượng ban đầu về mức
trọng yếu.
KTV phải chọn lựa một chỉ tiêu để làm số gốc trong việc xác định mức
trọng yếu. Các chỉ tiêu này sẽ tùy thuộc vào tính chất của từng cuộc kiểm toán
để lựa chon. Thông thường sẽ dựa vào chỉ tiêu mà người đọc BCTC quan tâm
nhiều hơn.
Đối với AASC
Đối với AASC hướng dẫn KTV đánh giá tính trọng yếu trong kiểm toán
BCTC theo “Văn bản hướng dẫn” các chỉ tiêu được sử dụng làm cơ sở cho việc
ước lượng ban đầu về trọng yếu và các tỷ lệ quy định tương ứng (trong bảng
2.1)
Đối với mỗi khách hàng cụ thể , sau khi đã thu thập được các thong tin về
khách hang, thực hiện phân tích sơ bộ BCTC ,các KTV sẽ lập “Bảng ước tính
mức độ trọng yếu”
Sau khi tính được các chỉ tiêu trong bảng, KTV sẽ lựa chon một mức
trọng yếu theo ý chủ quan của mình. Thông thường KTV sẽ lựa chọn mức
trọng yếu theo chỉ tiêu được đánh giá là ổn định qua các kỳ và được nhiều người
sử dụng BCTC quan tâm hoặc chỉ tiêu nhỏ nhất để đảm bảo an toàn KTV sẽ lựa
chỉ tiêu sao cho phù hợp trong mỗi cuộc kiểm toán.
Bảng 2.1 Tính mức trọng yếu của AASC

×